Đông Cung-Phỉ Ngã Tư Tồn

Chương 39-40Tôi không ăn cơm, cũng không uống thuốc, Vĩnh Nương bưng thuốc lên, tôi gồng sức hất văng bát thuốc trên tay bà ấy đi, tôi chỉ cần A Độ thôi, tôi không thể ở lại Đông Cung này thêm một ngày nào nữa, tôi cần A Độ, tôi cần về Tây Lương.
Tôi ngủ suốt một ngày trời, giấc ngủ nặng nề mê man, những cơn ác mộng tìm về triền miên. Tôi mơ thấy mẹ, tôi mơ thấy mình khóc nhiều biết mấy, tôi mơ thấy cha, cảm nhận bàn tay thô ráp của người xoa đầu mình, cha bảo: “Con gái ơi, khổ cho con rồi.”
Con không khổ, con chỉ thấy kiệt quệ vì mỏi mệt, không sao vùng vẫy được nữa. Con như một con cá đang bên bờ hấp hối; lại giống một bông hoa đã đến độ héo tàn.
Lí Thừa Ngân và Đông Cung là thứ gông cùm nặng nề nhất trên đời này, con không cõng nỗi nó nữa.
Sau đó Vĩnh Nương nhẹ nhàng lay tôi dậy, bà ấy bảo: “A Độ về rồi.”
Quả thực họ đã đưa A Độ về, chỉ có điều vẫn hôn mê, nằm bất tỉnh trên gi.ường, cũng chẳng rõ vì sao Lí Thừa Ngân lại đổi ý.
Tôi xoa tay A Độ, cảm giác nóng ran hơn cả tay mình, A Độ vẫn đương cơn sốt, thế nhưng chỉ cần A Độ ở đây, để tôi được chăm sóc nàng ấy, thế là đủ.
Vĩnh Nương không nói gì thêm, chỉ bảo: “A Độ về rồi, Thái Tử Phi uống thuốc đi.”
Tôi tu một hơi hết sạch bát thuốc to đùng mà đắng ngắt, đắng kinh khủng, thậm chí bã quả hạnh ngâm tôi cũng bỏ qua không ăn. Tôi ngoảnh mặt cười với Vĩnh Nương, rồi bỗng dưng chẳng hiểu vì sao mà bà ấy lại rỏ giọt nước mắt.
Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Vĩnh Nương này, bà sao thế?”
Vĩnh Nương không nói, chỉ thẽ thọt: “Tóc Thái Tử Phi bị rối rồi, để nô tì hầu người chải tóc.”
Chiếc lược sừng lướt trên tóc mang cảm giác dễ chịu lạ. Đôi bàn tay Vĩnh Nương dịu hiền mà ấm áp, như đôi bàn tay mẹ. Bà chải đầu cho tôi, giọng đều đều kể: “Nhớ hồi Thái Tử Phi mới vào Đông Cung đã đổ bệnh nặng, mấy đêm liền người nóng hầm hập. Thái Y lại không dám tùy tiện cắt thuốc, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nô tì túc trực bên người, lúc ấy người vẫn chưa thạo tiếng Trung Nguyên, trong mơ người cứ khóc gọi ‘thiện tử, thiện tử’, sau này nô tì mới biết, thì ra thiện tử trong tiếng Tây Lương có nghĩa là mẹ.”
Tôi quên cả rồi, chỉ nhớ dạo chân ướt chân ráo bước vào Đông Cung, tôi đã lăn ra ốm, bấy giờ nhờ Vĩnh Nương và A Độ chăm mãi mới khỏi được.
“Năm đó người mới có 15 tuổi.” Vĩnh Nương nhẹ nhàng giúp tôi vấn tóc lên, “Thế là loáng cái đã ba năm trôi qua.”
Tôi ngoái đầu nhìn thì bà ấy cười: “Ngày sinh của Nương Nương, trong cung quên, mà điện hạ cũng quên, hôm nay Nương Nương tròn 18 tuổi rồi.”
Quả là tôi quên khuấy mất, A Độ còn đương sống dở chết dở, hồn vía nào mà đi nhớ tới sinh nhật. Dịch đình lệnh đáng lẽ phải nhớ những chuyện này, có điều, nghe nói tình hình trong cung hiện nay đang rất lộn xộn, từ lúc Cao Quý Phi xảy ra chuyện, những kẻ còn lại chắc chẳng ai chú ý đến những việc cỏn con.
Duy nhất có Vĩnh Nương là còn nhớ.
Bà ấy lấy lược bí chăm chút chải cho tôi hai bên tóc mai: “Từ giờ về sau, Thái Tử Phi đã là người lớn thật rồi, không nên buông thả làm liều nữa.”
Buông thả làm liều?
Tôi thấy bốn chữ ấy xa xôi lắm…Tôi của ngày xưa buông thả làm liều dường như đã khuất mặt từ lâu rồi. Ba năm trước, tôi đã chết ngay giữa dòng sông Quên, mà tôi của ngày nay, chỉ ăn nhờ ở đậu trong cái xác của nàng ta, rồi sống quãng đời 3 năm đầy ngây ngô và dại dột. Tôi rũ quên tất thảy, tôi quên sạch thù sâu oán nặng, tôi chung sống với kẻ thù suốt 3 năm nay. Cho đến khi, tôi lại yêu chàng lần nữa.
Có điều chàng mãi mãi sẽ chẳng nhớ ra tôi đâu.
Cũng may, thà rằng chàng mãi mãi đừng nhớ.
Sức khỏe của A Độ dần hồi phục cũng là lúc mùa hè sắp tàn.
Trong thời kỳ dưỡng thương, nàng ấy dùng tay ra hiệu, kể cho tôi nghe 1 số việc, ví dụ như, Cố Kiếm đã cứu nàng ấy thế nào. Thì ra từ cái lần lâu lắm rôi, vì giúp A Độ trị thương mà Cố Kiếm hao tổn mất một nửa nội lực. Nếu không phải vậy, có lẽ thầy đã chẳng chết vùi giữa mưa tên.
A Độ cũng ngốc y như tôi vậy.
Rồi tôi chậm rãi ra dấu tay hỏi nàng ấy: “Ngươi thích thầy đúng không?”
A Độ không trả lời, nhưng một màn sương mỏng như dâng đầy lên trong mắt, đoạn ngoảnh mặt trông ra hoa sen ngoài cửa sổ, một lúc mới quay vào, nhoẻn cười với tôi.
Tôi biết rõ nàng ấy vừa mới khóc xong.
Cô bé này hệt như tôi, đến lúc khóc mà cũng cười được.
A Độ nói tôi mới biết khá nhiều việc, thí dụ như lần đầu tiên Lí Thừa Ngân bị đâm, lúc A Độ đuổi theo thích khách, bị gã đánh trọng thương, tôi cứ tưởng đó là người do Hoàng Hậu phái đến, hóa ra sau cùng A Độ lại phát hiện sự thật không phải thế.
“Người của Điện hạ.” A Độ viết trên giấy rằng, “Tôn Nhị cầm đầu.”
Cái tên ấy khiến tôi kinh ngạc quá đỗi. Tôn Nhị? Nếu Tôn Nhị là người của Lí Thừa Ngân, thế thì Hoàng Hậu bị vu oan ư? Vậy ra không phải bà ấy sai người hành thích Lí Thừa Ngân, mà chỉ là khổ nhục kế của bản thân Lí Thừa Ngân thôi sao? Lúc ở phường Ngọc Minh, cũng chính Tôn Nhị kéo đồng bọn đến bày chuyện vảy mực, hòng tách tôi và Lí Thừa Ngân xa khỏi Bệ Hạ, thì ra thảy những mưu toan ngấm ngầm này, cốt là để Lí Thừa Ngân trốn tránh được trách nhiệm ư?
Rốt cuộc chàng đã làm gì? Rốt cuộc Lí Thừa Ngân đã làm những gì…
A Độ viết từng nét trên giấy, thuật lại từng hồi cho tôi nghe: Bữa đó, nàng ấy đứng bên ngoài phường Ngọc Minh, chợt cảm thấy tình hình bất thường, liền theo đuôi Tôn Nhị, cốt dò xét chân tướng sự việc, không ngờ lại bị Tôn Nhị phát hiện, bọn tay chân dưới quyền Tôn Nhị toàn những kẻ võ công cao cường, một mình A Độ địch không lại, về sau lũ người đó không giết A Độ, mà chỉ nhốt nàng ấy ở 1 nơi vô cùng bí mật. May thay, vài hôm sau thì Cố Kiếm đến cứu A Độ, đồng thời cũng dẫn nàng ấy đến ngôi miếu hoang gặp tôi. A Độ chất vấn Cố Kiếm chuyện vì sao lại đưa tôi đến náu ở miếu hoang, bấy giờ mới hay thì ra cả Cố Kiếm và Tôn Nhị đều do Lí Thừa Ngân giật dây. Mà cũng chính Lí Thừa Ngân sai Cố Kiếm đến uy hiếp Bệ Hạ, hòng khiến Bệ Hạ tưởng nhầm có kẻ muốn ngăn cản người điều tra án cũ nhà họ Trần. Không ngờ tôi lại xông ra tình nguyện làm con tin, thế nên Cố Kiếm mới tương kế tựu kế toan dẫn tôi bỏ trốn.
Tôi không còn dám nghĩ mà cũng không muốn nghĩ gì thêm nữa, cứ chớm nghĩ là cả người lại như rơi vào tiết đông rét buốt, lòng lạnh toát run rẩy từng hồi. Giờ đây, đối với tôi, Lí Thừa Ngân hoàn toàn là 1 kẻ xa lạ, một kẻ xa lạ đáng sợ, tôi chẳng bao giờ đoán ra chàng còn toan tính những gì. Ba năm trước chàng từng làm những chuyện khủng khiếp, ba năm sau chàng càng thêm phần đáng sợ. Chàng giăng bẫy Cố Kiếm, phải chăng muốn giết người diệt khẩu? Rõ ràng Cố Kiếm còn là bà con họ hàng với chàng, thầy từng giúp chàng làm bao nhiêu việc xấu xa thậm thụt sau lưng. Thậm chí ngay cả A Độ mà Lí Thừa Ngân cũng không tiếc rẻ, phải chăng chàng muốn tôi vĩnh viễn không bao giờ biết được sự thật.
Tôi cảm giác tim mình đã hóa băng, rốt cuộc, chàng đang làm gì? Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi thấy lòng dạ con người trên thế gian này thật nham hiểm, cõi Đông Cung này thật hiểm ác, và cả Lí Thừa Ngân cũng vô cùng đáng sợ.
Đáng sợ đến độ tôi phải run khiếp.
Tôi và A Độ vẫn trong tình trạng bị giam lỏng cầm chừng, giờ thì tôi mặc kệ. Chốn Đông Cung cô quạnh này chỉ có tôi và A Độ là nương tựa lẫn nhau.
Nguyệt Nương đến thăm tôi mấy lần, tôi bảo tỷ ấy: “Tỷ một thân một mình ở trong cung, nhớ phải cẩn thận.”
Tình yêu của bậc đế vương, sao có thể bền lâu cho được. Hoàng thượng đưa tỷ ấy vào cung, cốt mượn cái danh nghĩa hòng lật lại án cũ nhà họ Trần, chứ mỹ nhân trong cùng thì la liệt, chỉ e còn nhiều hơn cả Đông Cung kìa. Cao Quý Phi ngã bệnh qua đời đột ngột, nghe người ta xì xào thì bà ấy mất chỗ dựa, đâm túng quẫn nuốt vàng tự vẫn. Chuyện hậu cung truyền đến Đông Cung lúc nào chẳng tức thì.
Tôi biết tình cảnh của Nguyệt Nương cũng khá tế nhị, đành rằng nhìn bề ngoài thì Hoàng thượng có vẻ hết mực ưu ái tỷ ấy, nhưng nói cho cùng, Nguyệt Nương là gái xuất thân từ chốn thanh lâu, giờ những thế lực mới trong triều đang dần hình thành, Bệ Hạ lại nạp thêm phi tử. Quần thần khuyên người nên sắc lập tân Hoàng Hậu, có điều dường như Bệ Hạ còn đương do dự.
Nếu như có Hoàng Hậu rồi, chẳng rõ liệu Nguyệt Nương có bị Hoàng Hậu mới sinh lòng đố kị hay không nữa. Vĩnh Nương từng kể tôi nghe chuyện Lan Phi đời triều trước, cũng chỉ bởi xuất thân hèn kém, mà bị Hoàng Hậu hại chết. Thực tâm tôi không muốn Nguyệt Nương rơi vào kết cục ấy.
Nguyệt Nương nở nụ cười rạng rỡ bảo tôi: “Yên tâm đi, tỷ biết đường ứng phó mà.”
Rồi tỷ ấy gảy cho tôi nghe khúc nhạc.
“Thu về hái sen hồ Nam
Sen cao quá đầu
Cúi đầu bứt sen
Sen lặng như nước”
Tiếng hát Nguyệt Nương nghe tha thiết êm đềm, gợi hơi bụi nước mịn mềm, lại tựa giọt sương lăn tròn giữa lá sen, càng có nét hao hao một cơn gió vút qua tường cao vời vợi chốn thâm cung, gió đưa dây đu, gió đưa trời xanh biếc xao động, gió đưa mây trong ngần lững lờ trôi… Trời xanh có chú chim đang sải cánh bay về vùng trời phía tây, nó bay về Tây Lương, dẫu Tây Lương không có hồ sen đẹp tựa nhường này, dẫu Tây Lương không có người đẹp hái hoa sen, nhưng Tây Lương vẫn là quê hương của tôi.
Tôi nhờ những tháng ngày ở phường Ngọc Minh, dạo ấy tôi sống vui vẻ, vô tư lự mà tràn trề niềm vui biết là mấy.
Tôi thở dài: “Chẳng biết lúc nào tỷ mới lại cho hát muội nghe nữa nhỉ.”
Nguyệt Nương bảo: “Lần sau tỷ lại đến thăm muội chứ sao nữa.”
Tôi không lên tiếng, bởi tôi đã quyết tâm phải về bằng được Tây Lương.
Thương tích của A Độ đã lành lặn, chúng tôi có thể khởi hành được rồi.
Lí Thừa Ngân sai Bùi Chiếu chọn ra mấy người đến theo sát tôi, trên danh nghĩa thì là bảo vệ, thực ra chủ yếu để liếc chừng, đám ấy canh tôi sít sao riết róng, nếu tôi và A Độ cứ liều mình bỏ trốn, tôi nghĩ khó lòng mà được. Vậy nên chỉ còn nước tùy cơ ứng biến.
Ngày Thất Tịch mùng 7 tháng 7, đối với hoàng cung mà nói quả là ngày vui. Sở dĩ ngày mừng thọ Bệ Hạ trùng với đêm Thất Tịch, nên từ hơn nửa tháng trước, trong cung đã đăng đèn kết hoa, sắm sửa bình mới bày biện ngự hoa viên. Bữa đó, yến được thết ở đảo Quỳnh Sơn giữa hồ Nam Uyển, lầu Đế Hoa và đình Thiên Lục trên đảo có không gian thoáng mát là nơi thích hợp để nghỉ ngơi vào dịp hè.
Từ sáng sớm Lí Thừa Ngân đã nhập cung, muộn hơi tôi mới vào. Theo lệ, cứ vào dịp mừng thọ, Bệ Hạ lại ban thưởng cho quần thần, nên trong điện Thừa Đức cũng thết yến. Mà tiệc ở hậu cung thì do Hiền Phi người mới được Bệ Hạ sắc phong phụ trách, mọi việc bố trí hết sức ổn thỏa. Tôi lên thuyền từ phía sau điện Cam Lộ, trên thuyền còn vẳng nghe có tiếng nhạc từ đôi bờ đưa về, thì ra Hiền Phi đã bố trí đội văn công hòa tấu sáo trúc đứng dưới bóng râm bờ hồ. Nước gợn sóng nhạc, phiêu bồng tựa cõi tiên.
Mặt trời ngả núi cũng là lúc yến tiệc chính thức khai màn, hồ Nam Uyển rộ màu sen trắng chen màu lá xanh, lớp lớp bông sen tinh khôi gối đầu lên nhau, chỉ ngặt sen không vưởng mùi hương. Hiền Phi sai người thả đèn hoa sen có kèm bánh thơm xuống hồ, bánh thơm cách ánh nến qua đĩa đồng, hơi nóng dậy hương nồng nàn, hương bay theo gió đưa xa, ngay cả cung tần mỹ nữ hậu cung cũng thơm kém phần. Trên lán ven hồ, bộ Nhạc dàn dựng khúc Lăng Ba(*), cung nữ xòe váy màu xanh biếc nom như những nàng tiên lá sen đang dập dìu điệu Lăng Ba. Ánh nến trên chiếc lán lung linh chảy tràn xuống những ngọn sóng dập dềnh, hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh tựa ngàn sao.
(*Lăng ba khúc vốn là một vũ khúc nổi tiếng ở thời Đường)
Bệ Hạ rất hài lòng với cách bài trí nơi đây, người khen Hiền Phi khéo léo linh hoạt. Nhất là việc đặt bánh thơm dưới đèn hoa sen, Hiền Phi mỉm cười thưa rằng: “Đây nào có phải ý của thần thiếp, có điều ngày thường thần thiếp vẫn cảm khái, hoa sen đẹp đấy, chỉ tiếc không hương. Cung nữ A Mãn theo hầu thần thiếp xưa nay vốn khéo léo, liền nghĩ cách, sai người chế loại đèn hoa sen này, được Bệ Hạ khen ngợi, âu cũng là phúc của A Mãn, thần thiếp xin được gọi A Mãn đến tạ ơn người.”
Nàng cung nữ tên A Mãn kia chỉ chừng 16, 17 tuổi, lúc ấy lững thững bước ra, uyển chuyển thi lễ với Bệ Hạ, đoạn ngước nhìn lên, vẻ đẹp của nàng ta quả thực khiến nhiều người phải hít một hơi thật sâu, nom có phần xinh đẹp hơn cả Nguyệt Nương. Ai ai cũng chung cảm nhận rằng nàng ta có nét thanh tú tựa một đóa sen trắng, xinh xắn không gì bì được. Bấy giờ có lẽ Bệ Hạ cũng bị dung nhan mỹ miều kia làm cho ngơ ngẩn một hồi, sau đó người thưởng cho A Mãn một đôi bình ngọc, một tráp trầm hương. Tôi còn tưởng Bệ Hạ sẽ nạp nàng ta làm phi tử, ai ngờ bỗng nhiên Bệ Hạ nói với Lí Thừa Ngân rằng: “Ngân Nhi, con cảm thấy cung nữ này thế nào?”
Lí Thừa Ngân ngồi đối diện tôi, nom chàng có vẻ mệt mỏi, từ bấy đến nay chưa lên tiếng câu nào. Giờ nghe Bệ Hạ đột nhiên hỏi mình, chàng mới đảo mắt qua A Mãn một lượt đoạn lạnh nhạt thưa: “Quả là mỹ nhân ạ.”
Bệ Hạ nói: “Bên con thiếu người hầu hạ, chi bằng gọi A Mãn đến Đông Cung, ta sẽ sai Dịch đình lệnh chọn người khác giữ chức nữ quan bên chỗ Hiền Phi.”
Lí Thừa Ngân thưa: “Nhi thần đội ơn thiện chí của phụ hoàng, có điều bên cạnh nhi thần không thiếu người hầu hạ.”
Tôi bất giác cũng khẽ động đậy, Bệ Hạ hỏi: “Thái Tử Phi có gì muốn nói?”
Tôi bẩm: “Bẩm phụ hoàng, điện hạ tính hay e thẹn, người ngượng không dám nói có. A Mãn xinh đẹp nhường này, điện hạ không cần, vậy kính xin Bệ Hạ ban A Mãn cho con.”
Bệ Hạ cười khà khà, rồi chuẩn y.
Tôi biết tỏng Lí Thừa Ngân đang trừng trộ với mình, tôi cũng kệ. Hiền Phi dường như rất vui, ngay tắp lự đã sai A Mãn đến hầu bên bàn tôi. Tiệc tàn tầm nửa đêm, lúc xuất cung, bà ta còn có lòng chuẩn bị sẵn xe ngựa đưa tiễn A Mãn, theo sau xe tôi.
Tiệc tùng trong cung rặt hành con nhà người ta mệt lử cả người, đặc biệt là đội trên đầu cả 1 bộ trâm cài nặng trình trịch. Xe chạy chòng chành lắc lư, dễ sắp gãy cổ đến nơi, tôi bèn gỡ đống trâm cài đầu phiền hà xuống, đoạn buông tiếng thở dài, bụng ước ao cuộc sống kiểu này, từ nay về sau sẽ chấm dứt.
Sau cùng, xe dừng, rèm vén mở, thái giám đứng bên ngoài nhấc đèn lồng, kê ghế cho tôi xuống xe. Tôi vừa cúi người, Lí Thừa Ngân đã xuống ngựa, hằm hằm lao về đằng này, vung chân đá ghế chiếc lăn kềnh. Dọa đám thái giám thót mình giật lùi cả phía sau, quỳ từ tít xa.
“Chàng làm gì thế?” Tôi không nén được hỏi.
Thế mà chàng vươn tay, rồi như một con diều hâu quắp gà con, lôi tôi từ trong xe ra ngoài.
A Độ dợm xông lên cứu tôi, nhưng Bùi Chiếu chẳng nói chẳng giờ giơ tay chặn nàng ấy lại. Lí Thừa Ngân vác tôi trên vai, tôi chửi lấy chửi để, lúc bấy giờ A Độ đã đụng tay đụng chân với Bùi Chiếu, thân thủ của Bùi Chiếu trác việt vô cùng, nhất thời A Độ chưa thể bứt ra ngay được. Tôi vùng vằng mắng chửi cắn cấu Lí Thừa Ngân, ra sức véo vào lưng, ngọc trắng khảm trên thắt lưng thảy đều rơi rụng, song chàng vẫn chẳng nề hà dông tuốt về phía trước, vác tôi lao thẳng vào điện Lệ Chính.
“Phịch!”
Đầu tôi đập vào chiếc gối sứ, đau điếng người! Quả thực Lí Thừa Ngân quẳng tôi lên gi.ường như quẳng một bị gạo. Tôi lập tức chồm dậy, chàng vươn tay đẩy tôi ngã ngửa xuống. Mấy tháng chưa đánh nhau, quả nhiên chân tay lừ đừ đi ít nhiều. Hai chúng tôi chỉ thiếu điều chưa đập cả tòa điện này thôi, nội thị từng đứng ngoài cửa thụt thò ngó ra ngó vào, thành thừ bị Lí Thừa Ngân ném một bình hoa, đánh choang một tiếng suýt thì trúng hắn, gã nội thị kia sợ quýnh người, vội rụt lại, không quên cả cài then cửa. Vật lộn một trận làm tôi thở hồng hộc không ra hơi. Sau cùng mệt lử, nằm liệt luôn một chỗ, chẳng buồn nhúc nhích. Tôi không còn vùng vằng nữa, nên Lí Thừa Ngân liền ôn tôn hơn rất nhiều.
Lí Thừa Ngân ôm tôi từ đằng sau, như thể chàng thích kiểu ôm này, tôi lại đang gối đầu lên cánh tay chàng, lúc nào cũng có cảm giác cồm cộm.
Thực ra có lẽ chàng cũng mệt lắm rồi, hơi thở từ mũi phả vào gáy tôi tê tê. Chàng thì thầm nói gì đó, đại để thì là dỗ ngon dỗ ngọt hòng lừa tôi.
Tôi không hé môi lấy nửa lời.
Bẵng một lúc không nghe giọng chàng, tôi mới từ từ ngoái lại xem, thì ra chàng đã ngả đầu ngủ rồi.
Tôi giơ tay ấn mi mắt chàng, xem chừng ngủ rất sâu, không nhúc nhích.
Tôi cẩn thận nhổm dậy, trước tiên mặc áo váy tử tế, sau đó mở cửa sổ. A Độ lẳng lặng tiến vào, đưa tôi một cái kéo.
Tôi ngồi dưới đèn, bắt đầu cắt tỉa móng tay cho kỹ càng.
Thận trọng tránh để hơi thở của mình thổi bạt đống bột trắng dưới phao tay.
Loại thuốc mê của Đại Thực này quả nhiên lợi hại, tôi chỉ cào xước cánh tay Lí Thừa Ngân có tẹo thôi mà giờ chàng đã thở khò ra ngủ rồi.
Cắt xong xuôi thì rửa tay sạch sẽ, kiểm tra thuốc mê không bị sót lại rồi mới thay bộ quần áo màu đen.
A Độ đưa đao cho tôi, tôi trông Lí Thừa Ngâm đang say ngủ, chỉ muốn kề đao vào cổ chàng, cứa nhẹ một cái, thế là thảy những thù hận đều tan vào mây khói.
Chàng ngủ không yên, tuy thuốc mê phát tác hiệu quả, song chân mày vẫn hơi chau lại, mí mắt giật giật, dường như đang dở một giấc mộng nào đó. Tôi kề nhẹ lưỡi đao sắc bén mà lạnh ngắt vào cổ chàng, chàng không hề hay biết, chỉ cần tay tôi dùng sức một tẹo nữa thôi, là cổ họng chàng sẽ bị cứa làm đôi.
Khóe môi chàng khẽ giật, có vẻ đó là một giấc mơ đau khổ khôn cùng, tôi xích thanh đao từng chút từng chút một, lưỡi đao cứa trên d.a thịt mỏng như tờ, rướm một tia máu mảnh ngang sợi chỉ, chỉ cần ấn sâu thêm một chút nữa thôi… Dường như trong mơ chàng cũng cảm nhận được cơn đau này, cơ mặt bắt đầu co thắt, ngón tay hơi rung lên, tựa muốn chụp nắm thứ gì. Có lẽ chàng đang kêu la gào thét, thế nhưng những tiếng phát ra chỉ se sẽ, đến độ tôi hầu như chẳng nghe rõ.
Tay tôi run lên, thanh đao “cạnh” một tiếng đáp trên sàn, A Độ tưởng Lí Thừa Ngân đã tỉnh, liền hớt hải xông lên, trong khi hai tay tôi bưng lấy mặt.
Cuối cùng tôi đã nhớ ra, nhớ ra ba năm trước rơi xuống sông Quên, chàng nối gót nhảy xuống theo tôi, chàng kéo tôi, gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một mau…. Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy….nhiều lần toan chụp mỏm đá vách núi, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả chung rơi cùng tôi và chàng, chẳng khác nào một chùm sao đáp xuống như mưa sa…. chẳng khác nào buổi tối hôm ấy ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt chàng và tôi… giữa đất trời này riêng có chàng đắm đuối nhìn tôi…
Biết bao lần cảnh ấy lặp lại trong mơ, tôi mơ hết giấc này đến giấc khác, song chẳng thể nào ngờ, người đó là chàng.
Cho đến khi nhớ lại chuyện 3 năm xưa kia, tôi vẫn không tài nào nhớ ra, tiếng gió vờn bên tai cùng lời chàng nói.
Thì ra chỉ một câu này: “Ta và nàng cùng quên.”
Nước sông Quên xanh biếc mà lạnh buốt ùa đến bủa giăng chúng tôi, tôi thoi thóp thở giữa dòng chảy, xộc vào miệng là làn nước giá lạnh. Chàng nhảy xuống túm lấy tôi, sau cùng lại chỉ để nói với tôi một câu như thế.
“Ta và nàng cùng quên.”
Thảy những khó khăn gian nguy, toàn bộ sự việc, thì ra chàng cũng biết, chàng cũng thấy mình có lỗi với tôi.
Trên đỉnh núi con sông Quên, bấy giờ chàng không mảy do dự nhảy xuống theo tôi, thực chất chàng cũng như tôi, muốn quên đi tất cả.
Chàng cũng hiểu rõ rằng, Cố Tiểu Ngũ đã chết rồi, đôi ta đã chết chìm dưới đáy sông Quên.
Chúng tôi như cô hồn dã quỷ, chúng tôi chưa từng sống dậy. Tôi bám víu lấy 3 năm lãng quên, sống tạm bợ qua ngày, còn chàng, 3 năm lãng quên vừa qua, chàng đã gạt phăng tất thảy quá khứ.
Trên thế gian này, ai sống khổ hơn ai?
Trên thế gian này, lãng quên so với ghi nhớ xem chừng luôn là một điều hạnh phúc.
A Độ nhặt thanh đao lên, lại chuyển đến tay tôi.
Vậy mà tôi không có dũng khí để giết chàng.
Tôi ngắm nhìn khuôn mặt ấy, dù chỉ là trong mơ, mà chàng cũng lộ rõ vẻ khốn khổ. Hoàng tử bé mà chàng từng kể trước kia đã sống đáng thương nhường nào, cho đến ngày hôm nay, chàng ta vẫn vẻ đáng thương ấy, giữa chốn Đông Cung, chẳng hề có lấy một người thân, chung quy chàng vẫn cứ cô đơn lẻ loi tồn tại giữa cõi đời này, cô đơn lẻ loi tiến đến ngôi vị Hoàng đế, thảy những yêu thương, những tình nồng, những cảm thông và trân trọng trên con đường cần đi, chàng đều bỏ lại tất cả. Biết đâu sự quên lãng đối chàng mà nói lại là sự trừng phạt nghiêm khắc hữu ích hơn cả, chàng vĩnh viễn không bao giờ hay, tôi từng yêu chàng đến mấy.
Tôi kéo A Độ quay đầu bỏ đi.
Thoạt đầu Lí Thừa Ngân để Bùi Chiếu bố trí mười mấy tay cao thủ theo sát tôi, nhưng tối nay tôi và Lí Thừa Ngân gây gổ, tình hình có vẻ căng, nên đám người đó sớm đã biết điều lánh đi đằng xa, tôi cùng A Độ ra khỏi điện điện Lệ Chính trong suông sẻ.
Trốn khỏi Đông Cung này đối với tôi mà nói, lúc nào cũng chỉ là chuyện cơm bữa. Huống hồ lần này, chúng tôi đã vạch kế hoạch từ rất lâu, không chỉ nắm chắc trong tay lịch tuần tra của Vũ Lâm quân, mà còn nhân lúc tháng 6 là tháng nóng nhất, nội thị trong Đông Cung đổi ca, lúc ấy sẽ mở một cánh cửa phụ để lách ra ngoài. Tôi và A Độ nhớn nhác lẩn tránh suốt dọc đường, men theo bờ tường, luồn lách mấy lối rẽ, mới trông cánh cửa nhỏ kia gần kề ngay trước mắt, lúc bấy giờ bỗng nhiên A Độ kéo giật tôi lại.
Tôi thấy Vĩnh Nương đứng một mình gần đó, trên tay cầm đèn lồng, gió quạt qua lung lay chực tắt, thỉnh thoảng bà ấy lại đảo mắt ngóng xung quanh, như thể đang chờ ai đó.
Tôi và A Độ núp sau một bụi trúc xanh, qua hồi lâu mà Vĩnh Nương vẫn còn đứng đó.
Tôi kéo tay áo A Độ, A Độ hiểu ý, liền từ từ tuốt đao, lặng lẽ tiến gần Vĩnh Nương.
Bất thình lình, lúc này Vĩnh Nương chợt thở dài một tiếng, đỡ đầu gối ngồi xuống đất.
A Độ quay sống đao, điểm vào huyệt vị trên người Vĩnh Nương, cả cơ thể bà ấy ngay tức khắc trở nên cứng đờ, không còn động đậy được nữa.
Tôi vươn tay, ôm cơ thể đã cứng ngắc của Vĩnh Nương, khẽ giọng bảo: “Vĩnh Nương ơi, ta đi đây, nhưng mà ta sẽ nhớ bà lắm đấy.”
Ở Đông Cung này, chỉ có mình Vĩnh Nương với A Độ là hết mực quan tâm tôi chu đáo.
Khóe môi Vĩnh Nương hơi nhích lên, huyệt câm cũng bị điểm rồi, bà ấy không tài nào thốt ra tiếng. Tôi lại ôm chặt hơn, mới nhận ra trước ngực bà ấy phồng lên, cồm cộm chọc vào người hơi đau, không biết là thứ gì, tôi liền rút ra xem, hóa ra là một bọc vàng lá. Con ngươi của Vĩnh Nương vẫn chăm chú nhìn tôi, trong đôi mắt chớp chớp dần trào nước, tôi thấy mũi mình cay xè, chợt hiểu, thì ra bà ấy đang đợi mình.
Bọc vàng này, bà ấy cũng chuẩn bị cả cho tôi.
Tôi không biết nên nói gì mới phải, trước kia bà ấy luôn ngày ép tôi đọc sách, ép tôi học phép tắc, ép tôi làm cái này làm cái nọ, ép tôi lấy lòng Lí Thừa Ngân…
Thế nên lúc vạch kế hoạch chạy trốn, tôi từng đề cao cảnh giác với bà ấy.
Chẳng ngờ bà ấy đã sớm nhận ra, vậy mà cũng không hề đi bẩm báo với Lí Thừa Ngân. Nếu như bà ấy kể với Lí Thừa Ngân thật, thì chúng tôi mãi mãi chẳng bao giờ thoát nổi.
Ở Đông Cung này, thì ra cũng có người thật lòng tử tế với tôi.
A Độ kéo tay áo tôi, tôi biết càng nấn ná càng có nguy cơ dễ bị người ta phát hiện. Tôi nén nước mắt, ôm Vĩnh Nương thật chặt, rồi kéo A Độ, lẳng lặng lỉnh qua cánh cửa phụ.
Cánh cửa này dành cho người hầu qua lại, phía bên kia cánh cửa có một con hẻm nhỏ, chúng tôi trèo qua hẻm, luồn qua nhiều nhà dân, đi ngang qua các con phố chợ Đông, đi một mạch đến khi trời tờ mờ sáng, mới chui tọt vào quán rượu củaMễ La.
Mễ La đang đợi chúng tôi. Tỷ ấy khẽ bảo: “Cổng thành phía Tây thế nào cũng kiểm tra gắt gao, chỉ e không dễ chuồn khỏi thành. Hôm nay có một đội buôn nhân sâm người Cao Ly đang chuẩn bị lên đường rời thành, đáng nhẽ bọn họ đi về hướng đông bắc, nhưng tỷ mua chuộc tay dẫn đoàn rồi, mấy đứa sẽ theo họ rời thành. Thân hình đám người Cao Ly ấy thấp bé còi cọc, hai đứa lách ở giữa cũng không khiến người khác sinh nghi đâu.” Tỷ ấy sớm đã chuẩn bị cho chúng tôi y phục của người Cao Ly, thậm chí cả mũ và râu giả, tôi cùng A Độ rục rịch hóa trang, thay quần áo, dán râu, sau cùng đội mũ kiểu dân Cao Ly, lúc soi gương đồng, quả nhiên giống hệt hai gã dân buôn Cao Ly nhỏ thó.
Lúc ấy trời đã hửng sáng, trên phố dần đông người qua, quán trọ cũng dậy tiếng ồn ào, cửa hàng cách vách đã gỡ ván lát, bà chủ bên đó cầm nhánh liễu đánh răng, ông chủ phốp pháp làm một cái ngáp dài, nói đãi bôi với Mễ La. Đám người Cao Ly vừa xuống lấu, họ nói chất giọng Cao Ly vừa nhanh vừa xoắn xít. Từ lúc vị đại tướng quân Bùi Huống dũng mãnh bình định Cao Ly xong, vấn đề thông thương giữa Trung Nguyên và Cao Ly hóa lại càng trở nên nhộn nhịp, chung quy bọn dân buôn thường hám lợi, bao nhiêu đồ ngon vật lạ ở Trung Nguyên, đã trở thành thứ thường ngày không thể thiếu đối với người Cao Ly.
Chúng tôi cùng những thương nhân người Cao Ly lấy bánh ăn sáng, sau đó thu vén hành trang chuẩn bị lên đường. Đội buôn này có tầm trăm con ngựa thồ nhân sâm và dược liệu từ Cao Ly đến, sau đó lại mua tơ tằm cùng lá chè ở Trung Nguyên để trở về Cao Ly. Ngựa đứng trong sân chờ chất hàng, hòm xiểng lần lượt được bốc lên lưng ngựa. Cổ đàn ngựa ấy thắt chuông đồng rung leng keng leng keng… chen giữa thứ tiếng Cao Ly nói như cãi nhau, vừa ồn ào vừa om sòm.
Tôi và A Độ mỗi người một con ngựa, trà trộn vào giữa đoàn người, theo bọn họ rời thành. Đầu cổng thành quả nhiên truy hỏi rất riết róng, có người kể với chúng tôi rằng thiên lao trong thành sổng mất tội phạm, nên chín cổng thành giờ đây tăng cường kiểm soát, gắt gao nhất đương nhiên là cổng thành hướng Tây, nghe nói hôm nay những ai ra khỏi thành Tây tất phải bị soát người, chỉ cần có kẻ hơi khả nghi thôi, lập tức sẽ bị giữ lại, đưa đến nha môn Kinh Triệu Doãn. Tôi và A Độ nơm nớp lo sợ, những tội phạm bỏ trốn mà họ gọi kia, rất có thể là chỉ tôi và A Độ.
Ai ai cũng bị vặn hỏi, nên những người đợi đến lượt mình trước cổng thành càng xếp càng dài, tôi sốt ruột chờ đợi. Bao lâu sau mới đến lượt chúng tôi, tay hiệu úy giữ thành chăm chú kiểm tra giấy tờ thông hành, đếm số người một lượt, gã vội chau mày: “Sao lại dôi ra hai người?”
Gã Cao Ly dẫn đoàn khoa tay múa chân một hồi, cộng với thứ tiếng Trung Nguyên bập bõm, mới giải thích để lính canh cổng hiểu được, chuyện là bọn họ ở Thượng Kinh gặp hai người đồng hương, trước lúc đánh nhau đã cư ngụ ở Thượng Kinh, giờ nghe nói chiến sự ổn định rồi, nên định rủ nhau quay về.
Kẻ đó bảo: “Không được, trên giấy thông hành ghi mười bốn người là mười bốn người, không được phép dôi ra dù chỉ một người.”
Đột nhiên tôi tinh ý, trỏ vào tôi và A Độ, bắt chước chất giọng Trung Nguyên gượng gạo của dân Cao Ly, bảo: “Hai chúng tôi, ở lại. Các cậu, đi.”
Gã hiệu úy nhìn chúng tôi dò xét một lúc, ngẫm ngợi, đoạn trả giầy thông hành cho trưởng đoàn, sau đó trỏ vào hai người Cao Ly đứng sau tôi, bảo: “Hai người này ở lại. Những kẻ còn lại có thể đi.”
 
Chương 41-42Gã trưởng đoàn người Cao Ly khua tay múa chân, rối rít vai nài lính gác thành, nói muốn đi thì cả đoàn phải cùng đi, tôi cũng xin hộ mấy câu, chúng tôi nhao nhao nói thứ tiếng phổ thông Trung Nguyên méo xẹo bập bẹ, khiến gã gác cổng đâm bực bảo: “Không đi nữa thì bắt cả lũ ở lại hết bây giờ!”
Nhưng chúng tôi nào đã chịu buông xuôi, cả nhóm vây quanh quan giữ cổng đua nhau mà nói, bấy giờ hàng người xếp đợi phía sau càng lúc càng dài, nhiều người sốt ruột đâm nhao nhao la ó. Trước đây triều đình và Cao Ly từng xung đột trong nhiều năm, dân Trung Nguyên vốn đã có thành kiến với Cao Ly, nay càng thêm phần khinh miệt, họ chê bọn Cao Ly bát nháo chi khươn không biết phép tắc.
Đám dân buôn Cao Ly tức tím tái, chực xắn tay táo đánh nhau.Tayhiệu úy thấy tình hình căng thẳng, sợ lớn chuyện, lại thêm phần lo đám người đứng chắn cổng càng lúc càng đông, gã vội khoát tay: “Hai đứa Cao Ly ta vừa điểm mặt không được phép rời thành, những kẻ khác mau đuổi ra ngoài!”
Cả đám người lẫn đàn ngựa thồ bị hẩy khỏi cổng, hai gã thương nhân người Cao Ly kia đành chịu nán lại trong thành. Trong lòng tôi thấy áy náy vô cùng, gã trưởng đoàn len lén giật tay áo đoạn chìa tay với tôi
Tôi chưa kịp hiểu ý, gã đã vân vê râu, cười nói thứ tiếng Trung Nguyên bập bõm: “Đưa tiền!”
Tôi sửng sốt cả người: “Mễ La đã chẳng đưa tiền cho ông rồi còn gì?”
Gã trưởng đoàn người Cao Ly cười giảo hoạt: “Hai người, trong thành, thêm tiền.”
Tôi nhớ ra hai gã cùng đoàn bị giữ lại trong thành, liền sai A Độ đưa cho gã một miếng vàng lá.
Kể từ lúc đó tôi thấy hối hận vì sự hào phóng của bản thân.
Gã Cao Ly vừa thấy vàng, mắt đã thiếu điều phát sáng. Suốt dọc đường đi, gã bạ đâu liền kiếm cớ vòi vĩnh đấy, nào là ăn cơm thì bọn tôi phải trả tiền, ở nhà trọ cũng cần bọn tôi trả tiền, suốt cả ngày, hễ cứ mở mồm ra là lại thét giá. Tuy tôi khôn ngoan cũng chỉ loại xoàng thôi, nhưng 3 năm ở Thượng Kinh, gần như ngày nào chẳng rong ruổi trên đường với A Độ, tôi biết tỏng thứ gì cần mua bao nhiêu tiền. Bình thường chỉ cần 2 lá vàng là đã đủ mua 1 căn nhà rồi, bọn Cao Ly kia ăn có một bữa cơm thôi mà cũng đòi tôi một lá vàng, chúng vòi vĩnh chẳng khác nào coi tôi là kẻ tiêu tiền như nước. Tôi tự nhủ đằng nào thì cũng là tiền của Lí Thừa Ngân, nên tôi tiêu chẳng xót ruột tẹo nào, vả lại quả thực chúng còn có bạn bị giữ trong thành, thôi thì để chúng ăn chặn một tý cũng chẳng đáng bao nhiêu, thế là tôi chỉ có nước giả đò coi như mình không biết giá cả. Đánh rằng lũ Cao Ly ấy tham lam vô độ, nhưng sống cũng cơ cực lắm, hàng ngày trời chưa tỏ đã phải dậy, rồi đến tối sẩm mới được nghỉ chân. Ngày nào cũng rong ruổi suốt 8, 9 khắc, 3 năm rồi giờ tôi mới có dịp ngồi lâu trên lưng ngựa đến thế, ngựa lắc lư khiến xương cốt đau rừ, tối đến vừa dừng chân trong quán trọ, đầu chạm gối là ngủ ngay tức thì.
Đêm nay đương lúc ngủ ngon thì A Độ chợt lay tôi dậy. Trên tay đã cầm đao, trong bóng tối, thấy đôi mắt nàng ấy ánh lên, tôi cuồng cuồng bật dậy, se sẽ hỏi: “Người của Lí Thừa Ngân mò đến à?”
A Độ lắc đầu. Cũng chẳng rõ nàng ấy không biết, hay không đoán ra.
Chúng tôi nín lặng mọp người đợi trong bóng tối, bỗng một tiếng “xẹt” vang lên, nếu như không để ý, chắc cũng chẳng nghe thấy. Rồi một đoạn ống trúc nhỏ xíu chọc qua giấy dán cửa sổ, thòi vào. A Độ và tôi đưa mắt nhìn nhau, đầu ống trúc chợt phun khói trắng, tôi vừa hít hà đã cảm giác chân tay nhũn nhão, không trụ vững nữa, thì ra thứ khói trắng chúng thổi vào lại là thuốc mê. A Độ xông lên, dùng ngón cái bịt đầu ống trúc, giữ chặt một đằng rồi bất ngờ đẩy thật mạnh.
Ngoài kia chỉ nghe thấy một tiếng rên khẽ, sau đó đổ cái rầm, dường như có thứ gì đó nặng lắm lăn kềnh ra đất. Đầu óc tôi choáng váng, A Độ mở cửa sổ, gió mát lạnh ùa vào khiến tôi có phần tỉnh táo, A Độ lại đưa nước cho tôi uống, lúc bấy giờ mới cảm giác hiệu lực của thuốc mê nhạt dần đi. A Độ mở cửa phòng, ngoài hành lang có một kẽ đang nằm sóng soài, hóa ra là gã trưởng đoàn người Cao Ly, gã bị ống trúc chứa thuốc mê chọc đúng huyệt, giờ mồm vểnh lên, cứng còng ngồi yên vị. A Độ cầm đao xích ngay gáy hắn, đoạn nhìn tôi.
Tôi chỉ sợ bên trong có ẩn tình, liền bảo A Độ: ‘Kéo hắn vào đây, rồi tra hỏi trước đã.”
A Độ lôi hắn vào, rồi đóng cửa như cũ. Tôi đạp cho hắn một cái, hỏi: “Rút cuộc ngươi là ai?”
Gã đó vẫn bướng bỉnh: “Muốn giết thì giết đi, đại trượng phu hành tẩu khắp giang hồ, đã sẩy tay, hà tất phải hỏi.”
“Vậy ra cái loại dùng thủ đoạn hạ cấp đánh thuốc mê người khác cũng được gọi là đại trượng phu cơ đấy?”
Guơng mặt gã trâng tráo, không biết thẹn là gì, gã hắng giọng bảo: “Vì lợi ích quyết không từ mọi thủ đoạn!”
Tôi bảo: “Giờ thì ngươi lỗ chắc rồi nhé!”
Gã còn định già mồm, nhưng A Độ đã rạch nhẹ một nhát lên đùi gã, máu ngay lập tức ồ ồ tuôn. Gã rống lên như lợn bị cắt tiết, hỏi gì cũng phun bằng hết. Thì ra gã Cao Ly này thấy tôi ra tay hào phóng, gã thèm đỏ con mắt nên nảy sinh ý đồ giết người cướp của, đáng nhẽ định đánh thuốc mê tôi và A Độ, chẳng ngờ vừa thổi được ít khói, đã bị A Độ chọc ngược lại, điểm trúng huyệt đạo.
“Thì ra là phường đạo tặc giả dạng thương nhân!” Tôi đạp gã thêm một phát, “Nói mau! Rốt cuộc ngươi hại bao nhiêu người rồi?”
Nước mắt nước mũi gã bắt đầu đầm đìa, lia lia xin tha mạng, gã bảo gã đích thực là dân buôn bán chân chính, chẳng qua nhất thời nổi lòng tham, nên mới làm bừa như thế. Chứ xưa nay chưa từng hại ai bao giờ, nhà còn có mẹ già 70 tuổi và đứa con nhỏ mới lên 3.
Phải chăng lòng tham của con người luôn vô độ vậy? Gã Cao Ly này hám tiền tài, quan viên hám chức tước, mà Hoàng đế lúc nào cũng muốn mở rộng lãnh thổ, thế nên chinh triến triền miên, không hề ngơi nghỉ.
Xưa nay chưa từng có lúc thỏa mãn.
Tôi sực nhớ Lí Thừa Ngân, khi chàng còn là hoàng tử bé con, chung quy cũng phải dấn từng bước mới tới được ngày hôm nay. Phụ hoàng lấy ngôi vua ra để cám dỗ chàng, thế là chàng cứ bước dần cho đến ngày hôm nay.
Mà tôi, thực ra tôi chỉ cần có một người, chúng tôi ở Tây Lương, cùng nhau chăn cừu, thả ngựa. h.am m.uốn chỉ đơn sơ giản dị vậy thôi, song lại không cách nào đạt được.
A Độ gõ nhẹ chuôi đao vào đầu gã Cao Ly, đầu gã xiêu vẹo rồi ngất xỉu. Tôi và A Độ trói gã dưới gầm bàn, bịt kín cái miệng gã lại. A Độ ra hiệu hỏi tôi có nên trừ khử không, tôi lắc đầu: “Taynày lúc tỉnh dậy cũng không dám báo quan đâu, nói cho cùng thì lúc đầu hắn có âm mưu giết người cướp của. Cứ trói hắn ở đây đã, chúng ta không thể tiếp tục chung đường hắn được nữa, vừa hay đến lúc phải rẽ về phía Tây.”
Chúng tôi sợ lộ dấu vết, nên trời chưa tỏ đã rời quán trọ ngay. Ngựa đi được một đoạn, mặt trời mới nhô, cho đến buổi chiều thì ghé qua chợ bán ngựa, đổi sang một cỗ xe bò, tôi và A Độ cải trang thành nông dân và phụ nữ thôn quê, thong thả đi về hướng tây.
Hiển nhiên vẫn có binh mã đuổi theo, nhiều lúc bị cả đội quân từ đằng sau bắt kịp, nhưng chúng nom bộ dạng chiếc xe bò tồi tàn của chúng tôi, chúng hộc tốc phóng qua, chứ hoàn toàn không thèm liếc lấy một cái. Cứ qua một thành là tình hình kiểm soát lại càng thêm sít sao, nhưng có lúc tôi và A Độ tuyệt nhiên không vào thành, mà đi lách qua con đường quê nho nhỏ. Hành trình đương nhiên có nhiều cơ cực, cũng chẳng rõ đã đi được bao lâu, mãi mới đến được Ngọc Môn Quan.
Trước mắt là cửa ải hiểm yếu trấn giữ giữa núi, lúc ấy tôi thấy phấn chấn hẳn.
Chỉ cần qua được cửa ải là đặt chân lên lãnh thổ Tây Vực, dù Lí Thừa Ngân có là đương kim Hoàng đế, nếu như chàng cố tình lùa quân truy đuổi qua bên kia biên giới, chỉ e sẽ khiến cả Tây Vực xôn xao, rồi cho rằng chàng muốn tuyên chiến, đến lúc đó xảy ra đánh nhau thật thì chẳng phải chuyện đùa. Chính bởi vậy mà trong Ngọc Môn Quan, hình dáng tôi và A Độ lúc hóa trang thành đàn ông bất ngờ bị vẽ trên cáo thị truy nã khâm phạm, tuy nhiên, tên trên cáo thị thì lại không là chúng tôi.
Nói thực lòng, bức tranh ấy vẽ rõ giống, Lí Thừa Ngân chỉ nhìn thấy tôi mặc đồ nam có mỗi một lần, thế mà chàng cũng sai người vẽ ra được.
Song giờ đây cả tôi và A Độ đều vận đồ nữ, mà tội phạm khét tiếng trên cáo thị lại là đàn ông, nên chúng tôi vẫn hòa mình vào dòng người xếp hàng chờ qua cửa khẩu. Có điều cả 2 không có giấy thông hành, vấn đề hóc búa là giờ phải làm sao để qua.
Tôi cũng chẳng căng thẳng lắm, trong tay nải có không ít vàng bạc, cộng với võ công cao cường của A Độ, nếu thật sự gặp chuyện, cứ đánh nhau một trận cái đã, không thắng được thì lại bỏ tiền mua chuộc thế là xong.
Chẳng ngờ phen này chúng tôi đã không thắng nổi thì chớ, lại còn hết cả đường mua chuộc.
Tôi liếc vị tướng quân trấn ải.
Là Bùi Chiếu
Tôi thấy Lí Thừa Ngân xảo quyệt thật, tôi vòng vèo khắp thiên hạ hòng tránh chàng, song vẫn phải vượt Ngọc Môn Quan mới về được Tây Lương. Giờ chàng lại sai Bùi Chiếu đứng giữa cửa Ngọc Môn Quan, kiểm tra từng người một thế này, cứ cho như võ công của A Độ tài giỏi hơn người đến mấy, lúc đánh nhau thật, thế nào cũng kinh động đến vạn quân đang đồn trú quanh năm ở đây, lúc ấy, chỉ sợ tôi và A Độ có mọc cánh cũng khó thoát nổi.
Tôi cười giả lả với Bùi Chiếu, Bùi Chiếu cười với tôi.
Tôi bảo: “Ô, sao Bùi tướng quân cũng ở đây à?”
Bùi Chiếu nói: “Mạc tướng được điện hạ phái đến để lùng bắt phạm nhân bỏ trốn.”
Vậy mà tôi còn cười bảo: “Bùi tướng quân là Kim ngô tướng quân, thống lĩnh 3 ngàn Vũ Lâm của Đông Cung, không rõ loại tội phạm vượt ngục nào lại kinh động đến cả tướng quân, mà phải đuổi đến tận Ngọc Môn Quan thế này.”
Bùi Chiếu tỉnh bơ, lạnh nhạt bảo: ‘Đương nhiên là tội phạm quan trọng của triều đình rồi.”
Tôi lại cười mấy tiếng: “Tội phạm quan trọng của triều đình…”
A Độ khẽ động đậy, phía sau công sự trên mặt thành đã xuất hiện vô số binh sĩ, bọn họ giương sẵn cung tên, lạnh lùng nhắm mục tiêu vào chúng tôi.
Tôi thở dài, đoạn bảo Bùi Chiếu: “Dù thế nào đi chăng nữa hôm nay ta quyết phải qua cửa khẩu, nếu ngươi cản ta, thì cứ để ta chết dưới muôn tên đi, đằng nào thì chuyện này ta đâu phải chỉ làm có 1 lần.”
Bùi Chiếu lại thưa: “Thái Tử Phi hiểu lầm Điện hạ rồi, thực ra Điện hạ một lòng một dạ si mê Thái Tử Phi.”
Tôi bảo: “Si mê cái gì mà si mê, ta và Lí Thừa Ngân không còn tình nghĩa gì cả, ngươi chớ có nhắc đến Lí Thừa Ngân trước mặt ta nữa.”
Bùi Chiếu nói: “Vụ cháy Thừa Thiên Môn, thực chất không phải do nến.”
Tôi hơi hoảng hốt.
“Tết Nguyên tiêu cho muôn dân vào thành trẩy hội, lúc đó thực sự không được phép đóng cổng thành, Điện hạ nôn nóng trong lòng, chỉ sợ thích khách ép Thái Tử Phi xuất thành, sẽ khó bề truy bắt, nên Điện hạ vẫn bất chấp, sai người ngầm phóng hỏa, đốt Thừa Thiên Môn.” Giọng Bùi Chiếu vẫn đều đều, “Vì Thái Tử Phi mà Điện hạ làm chuyện đó, trong khi Thái Tử Phi lại không thể tha thứ cho Điện Hạ.”
Tin này khiến tôi quá đỗi kinh ngạc, bao lâu không thốt nên lời. Thừa Thiên Môn tượng trưng cho quyền lực đế vương, từ khi Thừa Thiên Môn xảy ra hỏa hoạn, trong triều xôn xao bàn tán, Bệ Hạ cũng vì chuyện này mà phải viết Tội kỉ chiếu(*), vơ tội thất đức vào thân. Có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ, thì ra Lí Thừa Ngân sai người phóng hỏa, chứ không phải tình cờ mà cháy.
(*Tội kỉ chiếu: Các vua ngày xưa ban chiếu tự nhận là có lỗi với dân gọi là tội kỷ chiếu)
Bùi Chiếu nói “Điện hạ thân làm Thái Tử, có nhiều việc buộc phải vậy. Hôm đó phục kích thích khách, lại ngộ thương A Độ, thảy là do mạc tướng cố chấp làm theo ý mình, Thái Tử Phi nếu có bắt tội, đương nhiên mạc tướng sẽ gánh chịu, Thái Tử Phi đừng vì thế mà trách oan Điện Hạ nữa.”
Mặc dù tôi chẳng suy nghĩ trù tính gì, song cũng không phải đứa ngốc, tôi bảo: “Ngươi đừng hòng lừa ta.”
Bùi Chiếu nói: “Mạc tướng không dám.”
Tôi lạnh lùng mà rằng: “Có gì mà ngươi không dám, chẳng phải lệnh vua khó cưỡng đó thôi? Không có lệnh của Lí Thừa Ngân, ngươi dám điều động Vũ Lâm quân bao vây diệt thích khách chắc? Không có lệnh của Lí Thừa Ngân, ngươi dám sai chúng phóng tên đấy à? Ngươi gom hết mọi chuyện về mình, chẳng qua cốt khuyên ta quay về, ta không mắc lừa các người nữa đâu. Này Bùi Chiếu, ba năm trước lúc ta nhảy xuống sông Quên, lúc đó ta tưởng sẽ không phải gặp lại các người nữa. Ba năm này ta quên sạch tất cả, nhưng dễ chừng ngươi chẳng tính đến chuyện, ta sẽ nhớ lại từ đầu. Những gì Lí Thừa Ngân từng làm, ta mãi mãi không bao giờ tha thứ cho chàng, hôm nay ngươi ngăn ta qua cửa khẩu, ta sẽ liều xông qua, muốn chém muốn giết gì thì cứ việc.”
Bùi Chiếu trầm mặc một lúc, chợt bảo: “Không.”
Tôi cảm giác chẳng hiểu hắn nói gì: “Cái gì không?”
Hắn ngước mắt nhìn tôi: “Bữa đó Thái Tử Phi hỏi, nếu như thích khách giữ người trong tay, liệu mạc tướng vẫn sẽ ra lệnh giết người cùng thích khách, phải không? Bây giờ mạc tướng đang trả lời người, mạc tướng sẽ không làm vậy.”
Tôi chợt hiểu, liền ra dấu với A Độ, A Độ rút đao, kề cổ tôi.
Tôi nói: “Mở cổng mau!”
Bùi Chiếu xẵng giọng: “Thích khách uy hiếp Thái Tử Phi, chớ làm Thái Tử Phi bị thương, mau mở cổng.”
Cổng thành được mở, cánh cửa nặng trịch phải đến mười mấy người hò nhau đẩy dịch từng chút một, phía bên kia, mặt trời chói gắt đổ nắng chang chang, sáng loáng, phủ xuống người lại hơi ran rát.
Ánh mặt trời ngoài Ngọc Môn Quan luôn nhức nhối là thế, tôi kìm nén sự hả hê, liền thúc ngựa vọt về phía cửa quan ngoại.
Bất ngờ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa cất lên, một đoàn kỵ binh đang lao về đằng này. Cờ quạt đi trước phấp phới, tôi thấy hoa văn hình rồng thêu long trọng trên lá cờ, không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, khi khoảng cách xích lại gần, vó ngựa cất bụi mù tung bay ập đầu, tôi nheo mắt nhìn đạo quân kia lao đến mỗi lúc một cập kề, rồi mới nhận ra, kẻ dẫn đần hóa lại là Lí Thừa Ngân.
(*)Ngạc nhiên chưa ╮( ̄▽ ̄”)╭ không phải 1 đêm xong từng này chap đâu =)) dịch thô lâu rồi giờ đang bấn Lôi Nhị, nên tung ra luôn, chap cuối & phiên ngoại đòi hỏi tâm trạng thoải mái mới xem được, nên hẹn cả nhà mai nhé. Cơ mà cả nhà thích đau một lần cho chóng, hay đau từ từ mới khoái để tớ còn liệu đường =3=
Trái tim tôi bất chợt chùng xuống
Tôi và A Độ thúc ngựa lao về phía cổng thành.
Xa xa vẳng lại tiếng hét: “Đóng cổng thành! Điện hạ có lệnh! Đóng cổng thành!”
Đám sĩ tốt luống cuống bắt đầu đẩy cánh cửa về đằng trước, toan đóng cổng thành.
Cánh cổng nặng trịch đã gần kề ngay trước mắt, ánh sáng lọt qua càng lúc càng vợi, họ ra sức đẩy cửa toan đóng thành, mỗi lúc một hẹp, mỗi lúc một gần, kẽ hở chỉ vừa đủ lọt một con ngựa, xem ra không còn kịp nữa rồi. A Độ lao lên trước, nàng ấy ngoảnh đầu toan kéo tôi sang ngồi cùng ngựa, tôi dang tay, giật mạnh yên, con ngựa đau, nó hí một tràng dài, đoạn nhảy vọt qua cổng thành.
Cổng thành từ từ khép lại, tôi thấy A Độ hốt hoảng ngoái đầu nhìn mình, A Độ ghìm cương quay ngựa dợm vòng lại, nhưng cánh cửa nặng nề kia đã đóng mất rồi, thoạt đầu A Độ chọc đao vào cánh cửa, nhưng cũng chẳng thay đổi được gì nữa. Cổng thành đã đóng, chốt sắt đã cài, tôi nghe đao nàng ấy đang ra sức chặt đứt chốt sắt, song những vết chém vô ích chỉ tổ tóe ra một vài tia lửa, nàng ấy không biết nói, mà cũng không thốt được tiếng nào, tôi thấy mũi đao chém điên cuồng giữa khe cửa, nhưng nhát nào nhát nấy đều phí hoài công sức.
Toán Vũ Lâm lang đã xộc lên, tôi xoay lưng chạy về phía quan ải, chạy thẳng lên thành lầu, nhoài mình trên tường trổ, khom người ngó xuống A Độ vẫn đang bơ vơ nện vào cánh cổng, cửa ải hiểm yếu phòng thủ kiên cố như thế, có mình nàng ấy, sao đủ sức lay động được nó dù chỉ mảy may? Tôi thấy A Độ mếu máo khóc trong nín lặng, chợt lại nhớ đến Hách Thất, huynh ấy phó thác tôi cho A Độ, cũng bằng như đã gửi gắm A Độ cho tôi. Nếu không có tôi, có lẽ A Độ cũng chẳng thiết sống nữa, và tôi cũng vậy, nếu mất đi A Độ, tôi đã bỏ mạng lâu rồi.
Đột Quyết đã diệt vong, A Đô còn bơ vơ hơn tôi gấp một ngàn lần một vạn lần, hai mươi vạn dân Đột Quyết đã chết trong vòng vây của Nguyệt Thị và Trung Nguyên, mối thù không đội trời chung còn đó, vậy mà vì tôi, nàng ấy vẫn ở Trung Nguyên suốt 3 năm.
Chuyện đến ngày hôm nay, người duy nhất tôi thấy mình có lỗi là A Độ.
Vũ Lâm quân đã áp sát chân thành, nhiều kẻ xúm quanh Lí Thừa Ngân vừa xuống ngựa, tôi nghe sau lưng có tiếng bước chân nhốn nháo, chúng đã lên đến thành lầu.
Trái lại, tôi hoàn toàn không hề sợ sệt, chẳng qua chỉ đứng lặng ở đó mà thôi.
Cổ Lí Thừa Ngân vẫn quấn sa trắng, thực ra nhát đao ấy của tôi chỉ cần cứa sâu hơn một chút nữa thôi, có lẽ giờ đây chàng đã chẳng đứng nổi nơi này.
Mình chàng bước lại phía tôi, mà mỗi bước chàng tiến là mỗi bước tôi lùi. Tôi cứ thụt lùi dần, cho đến khi chạm bờ tường trổ thấp tịt, là không thể lùi thêm nữa. Gió tây bỡn ống tay áo tung bay phần phật, cũng giống như bên bờ sông Quên ngày đó. Tôi đứng bên mé vực, mà ngay dưới chân là hố sâu thăm thẳm, mây mù vấn vít ngang lưng.
Lí Thừa Ngân nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, cuối cùng, chàng cất lời: “Lẽ nào nàng không cam lòng làm vợ ta thế này ư?”
Tôi cười, song không đáp.
Chàng hỏi: “Rút cuộc gã Cố Tiểu Ngũ kia có gì tốt đẹp?”
Bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, chỉ có mũi chân vẫn bám trên tường trổ, đong đưa như thể sẽ buông mình rơi xuống bất cứ lúc nào. Mà ánh mắt Lí Thừa Ngân chồng chất những khổ sở phức tạp, như đang kiềm nén, lại chực như sầu thảm.
Tôi bảo: “Cố Tiểu Ngũ có gì tốt đẹp, ta không bao giờ nói cho chàng biết.”
Lí Thừa Ngân chợt bật cười: “Tiếc thay hắn đã chết rồi.”
Phải, tiếc thay chàng đã chết rồi.
Chàng bảo với tôi rằng: “Nàng theo ta về, ta sẽ không nhắc đến chuyện cũ nữa, mà sẽ đối với nàng tốt hơn. Bất kể nàng có còn nhớ nhung gã Cố Tiểu Ngũ kia hay không, chỉ cần nàng theo ta quay về, ta sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện này nữa.”
Tôi cười với chàng, đoạn bảo: “Chỉ cần chàng hứa với ta một việc, ta sẽ cam tâm theo chàng về.”
Dường như gương mặt chàng không mảy may biểu lộ một cảm xúc nào, chỉ hỏi: “Chuyện gì?”
Tôi nói: “Chàng bắt cho ta 100 con đom đóm.”
Chàng hơi thảng thốt, rồi hình như trong ánh mắt nhìn tôi đầy sự khó hiểu. Tôi thấy trước mắt dần nhạt nhòa, vậy mà vẫn cười bảo: “Nước sông quên, đặng quên tình… sông Quên thần kì cho ta 3 năm quên lãng, thế mà không để cho ta một đời được quên.”
Nước mắt lăn dài trên gò má, tôi cười nói: “Cứ quên được như chàng, thì tốt biết mấy.”
Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi, như thể từ đầu đến cuối, chàng không hề hiểu những gì tôi nói, mà tôi cũng chẳng rõ sắc mặt mình thế nào, rõ ràng đang cười, mà nước mắt vẫn mặc sức rơi. Tôi bảo: “Lần này thì ta sẽ quên được chàng thật sự.”
Tôi quay người, như một chú chim tung mình giữa trời, như một cánh bướm sà đậu bên khóm hoa, tôi không mảy may do dự vươn người lao xuống. Tôi biết rằng, nơi đây không phải sông Quên, dưới kia vô số những đá dăm lởm chởm, một khi đã ngã xuống, người chỉ có nát bấy.
Tôi nghe thấy nhiều tiếng kêu thất thanh, lúc cấp bách, Lí Thừa Ngân lao lên, chàng vươn dài dải dây lưng giữ lấy tôi. Mọi sự, dường như tái diễn lại cái cảnh của 3 năm về trước. Cả cơ thể bị chàng níu giữ, treo lơ lửng giữa không trung, mà chàng lao theo tôi nên cả người đã mấp mé bên bờ tường. Một tay bám vào gạch tường, tay kia kéo tôi, bàn tay chàng hằn những dấu gân xanh, cơ chừng vết thương ở cỗ đã rỉ máu vì rách, song chàng quyết không buông tay, thậm chí còn hét: “Người đâu!”
Tôi biết một khi Vũ lâm quân xông lên giúp chàng, tôi sẽ không còn bất kì cơ hội nào nữa, tôi với tay, ngọt bén lách qua trước mắt chàng, chàng thét to: “Không!”
Tôi cắt dây lưng, giữa không trung, dải lụa mỏng manh đứt lìa đôi đoạn, tôi cười thật tươi, một nụ cười cuối cùng dành cho cho chàng: “Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ.”
Tôi thấy trong đôi mắt ấy có nét bàng hoàng, máu vẫn ứa ra từ cổ, dường như cả cơ thể chàng vừa chịu đựng một nỗi tổn thương nặng nề mà đường đột nào đó, chàng hơi ngửa ra sau. Tôi thấy máu rỉ từ vết thương, đáp xuống mặt mình. Tôi cười nhìn chàng, có lẽ chàng muốn kéo tôi lại nhưng vô ích, cách có mảy may, thứ duy nhất níu được chỉ là gió, tiếng chàng thảm thiết vang bên tai: “Là ta… Tiểu Phong ơi… ta là Cố Tiểu Ngũ…”
Tôi biết cuối cùng thì chàng đã nhớ lại rồi, đây có lẽ là sự trả thù đau đớn nhất mà tôi dành cho chàng. Ba năm trước, chính chàng bày ra cuộc thảm sát ấy, giết chết tình cảm giữa đôi ta; ba năm sau, cơ sự đã đến nước này, tôi đành cắt lìa những gì từng tồn tại giữa đôi ta.
Tôi thấy chàng dợm lao xuống, có lẽ chàng định nối bước theo tôi giống như ba năm trước, thế nhưng nơi này nào có phải sông Quên, nhảy xuống chỉ có nước nát xương. Thế rồi Bùi Chiếu ngăn chàng, tôi thấy chàng vung tay thụi vào ngực Bùi Chiếu, hẳn chàng đã rất mạnh tay, cú đấm ấy làm Bùi Chiếu chảy máu miệng, nhưng vẫn quyết không buông tay, càng có nhiều người xông lên, giữ chàng lại kì được.
Bầu trời xanh thật… tiếng gió rót ào ào bên tai, tất cả dần trở nên nhạt nhoà trước mắt.
Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm ông mặt trời khuất lẩn dần, thấy trái tim mình từ từ rũ héo, mãi đến khi khi ánh tà dương vuột khỏi tầm mắt, nắng tắt ở phía đồi cát đằng xa. Màn đêm chụp phủ lên trời đất trăm mối ngổn ngang, tia sáng cuối cùng lụi tàn, không còn thấy đâu nữa.
Dường như tôi đã thấy đám người vây quanh ồ cười, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, thế nên bọn họ vẫn có nét khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc cung tên, dùng ngón tay gảy dây cung như thể đang gảy đàn. Dây cung phát tiếng boong boong, người dân đứng quanh đấy phá lên tràng cười còn to hơn lúc nãy. Giữa nhưng tiếng cười ồ, chàng bắn một loạt tên liên tiếp, rụng 100 con dơi.
Dường như tôi đã thấy đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.
Dường như tôi thấy mình đang đứng bên bờ sông Quên, bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, gió vách núi lay tôi chực đứng không yên, đong đưa như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng quẹt trên cánh tay. Chàng không dám dồn ép nữa, tôi bảo chàng rằng: “Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ đây mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi này.” Tôi nhấn từng chữ: “Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!”
Dường như tôi thấy mình ngồi trong đêm tân hôn ngày đó, chàng nhấc khăn voan trùm đầu của tôi, khăn voan vừa được nhấc lên, tôi chỉ thấy trước mắt sáng lóa, nến lung linh khắp phía ánh trên khuôn mặt, trên thân người chàng. Chàng mặc bào đen, trước ngực thêu rất nhiều những hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu làu như cháo chảy quyển “Lễ Điển”, giờ đã hiểu đấy là áo huyền, huân xiêm, thêu 9 chương. 5 chương trên áo có rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; 4 chương trên xiêm có rau tảo, gạo trắng, búa, phất. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng, viền xanh đen, có tự và tà áo. Dây lưng to bản da tê, móc vàng sáng chói, đai trắng thuần trong không màu son, cũng vải lông lấy màu đỏ thắm và xanh lục, khuy đan bện. Hoa văn tùy theo màu áo, 2 chương gồm lửa và núi cũng vậy.
Chàng mặc áo cổn mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng chín chuỗi kết thành dải, màu xanh khoáng như băng lụa phủ qua tai, cài trâm bằng sừng tê, tôn lên vẻ khôi ngô tuấn tú, dung mạo đường đường.
Lúc đó, tôi tưởng đấy là đầu tiên đôi ta gặp gỡ. Vậy mà chẳng hay, đôi ta đã từng gặp nhau nơi đất Tây Lương dưới ánh trăng ngập tràn.
Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình vừa cắt lìa dải dây lưng, lệ đã tràn trong đôi mắt chàng.
Nhưng muộn rồi, chúng ta cãi vã đã 3 năm, vậy mà vẫn phải lòng nhau. Đây là sự trừng phạt của thánh thần dành cho những kẻ đã từng uống nước con sông Quên, đáng lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia xa, mãi mãi không được phép nhớ về nhau.
Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống chóng vánh, chờ đợi thân mình vỡ vụn.
Thế rồi cơ thể bị hẫng giữa chừng, cơn đau buốt trong tưởng tượng chưa kịp đến, tôi đã mở mắt nhìn, cánh tay mát rượi của A Độ đang bao bọc tôi, tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song trên đời này không một ai có thể chịu được lực tổn thương lớn đến thế, hình như tôi còn nghe rõ từng tiếng xương vỡ vụn của A Độ, nàng ấy lấy thân mình làm tấm đệm thịt cho tôi đáp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào to: “A Độ!” Hai đùi đau nhói, không tài nào đứng lên được, tôi vật lộn bò dậy, luống cuống muốn ôm lấy A Độ, nhưng hơi chạm vào lại càng đau buốt, vẻ mặt A Độ trông khổ sở, song đôi mắt đen láy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, không một mảy may trách móc. Như thể trông tôi đang dở trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như lúc trước kia, tôi từng dắt nàng ấy chuồn xuống phố. Tôi ôm A Độ, thì thào gọi tên.
Tôi thừa hiểu, đã từ lâu, Tây Lương không còn để về. Tôi chỉ muốn nàng ấy cứ bỏ chạy trước đi, nhưng tôi có lỗi với A Độ, tôi hiểu, A Độ sẽ không bỏ lại mình tôi lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng hiểu, tôi không thể để A Độ một mình bơ vơ trên thế gian này. A Độ nhắm mắt, mặc kệ tôi có gọi thế đi chăng nữa, A Độ cũng không hay.
Tôi nghe tiếng cổng thành đẩy mở kèn kẹt, binh lính đổ về phía chúng tôi, tôi biết bọn chúng vẫn muốn lôi tôi về với kiếp sống khốn khổ, chúng muốn lôi tôi về chốn Đông Cung cô quạnh. Nhưng tôi không muốn chịu đựng những khổ sở ấy thêm nữa.
Tôi bảo A Độ: “Chúng ta cùng về Tây Lương thôi.”
Thế rồi tôi nhặt thanh đao của A Độ lên, lưỡi đao đã sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ ra sức chém vào then sắt, tôi cắm ngập thanh đao trong lồng ngực mình, vậy mà chẳng hề đau. Có lẽ toàn bộ đớn đau khổ sở ở đời này, tôi đều đã trải qua, chết có đáng gì nữa đâu.
Máu tuôn rơi, đôi bàn tay vấy máu nắm chặt tay A Độ, từ từ nhoài người nằm bên nàng ấy. Tôi biết, thế là cuối cùng chúng tôi đã có thể về nhà.
Những cảm giác những ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi đang trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng phi ngựa chạy về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ đi bắt 100 con đóm đóm cho tôi mà thôi.
Giờ thì tôi muốn chính tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và đôi ta mãi không chia lìa.
Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.
Trên mảnh đất hoang vu, dường như có ai đang hát bài ca nọ:
“Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về… Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng. Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…”
Thì ra con cáo nhỏ ấy đã không đợi được người con gái nó mong hoài bấy lâu.
 
Chương Ngoại truyệnHồ Thái Dịch phù dung vẫn nở“A Mục!” Tôi kéo tay áo cậu ấy, nhưng sửa lại cách xưng hô, khẽ gọi thành: “Điện hạ…”
A Mục ngước nhìn tôi với vẻ ngỡ ngàng. Cậu ta vận bào màu trắng rộng thùng thình, càng tôn lên đôi con ngươi đen lay láy, vẻ mặt dường như còn vương nét ngây thơ.
Đáng lẽ, theo quy định của cung cấm, tôi không thể gọi thẳng tên mụ của Thái Tử, song từ năm 7 tuổi tôi tiến cung, lúc đó A Mục chỉ chừng 5 tuổi, nhỏ hơi cả tôi. Hai chúng tôi thân nhau như anh em, tôi lớn hơn, nên lúc nào cũng che chở cho cậu ấy. Lúc cậu ấy không thuộc bài, ngay trước mắt Thái Phó mà tôi cũng lén giúp, lúc cậu ấy bị phạt, thậm chí tôi còn bắt chước y hệt nét chữ của cậu ấy, rồi chép hộ một chồng sách dầy mà không bị bại lộ. Chúng tôi cùng nhau bắn ná trong ngự hoa viên, cùng nhau chọi dế, trèo cây, trêu ghẹo một vài cung nữ nom vẻ khó tính…
Và chúng tôi dần trưởng thành, nhưng tôi biết, tình bạn giữa chúng tôi không hề thay đổi, hễ có chuyện gì buồn phiền, A Mục đều kể cả với tôi. Mà tôi thì, lúc nào cũng giúp cậu ấy nghĩ cách.
Chuyện buồn phiền của A Mục nhiều lắm, Bệ Hạ chỉ có mình cậu ấy là con trai, hiển nhiên cũng đặt nhiều kì vọng. Song, đứng trước một vị Hoàng đế anh minh, con người ta bất kể là ai cũng thấy mình thật tầm thường nhỏ bé
A Mục từng hỏi tôi rằng: “Đệ phải làm gì mới được như Phụ Hoàng đây.”
Tôi không biết nên trả lời thế nào.
Bệ Hạ là vị quân vương có tài thao lược về quân sự, người từng chinh phạt Tây Vực, bình định Nam Di, đánh bại vô số thành trì lớn nhỏ, xây dựng cơ nghiệp bền vững với muôn đời. Đứng trước địa đồ núi sông của bản triều, người ta khó mà kìm được bầu nhiệt huyết sục sôi. Hơn trăm năm dựng nước đến nay, lãnh thổ triều đình ta chưa bao giờ lại rộng lớn đến thế. Hằng năm cứ đến kỳ tuế cống, chư hầu các nước lại đổ về chầu dâng cống phẩm tỏ lòng quy phục. Tôi từng được theo cha, hầu Bệ Hạ lên Thừa Thiên Môn, nghe muôn dân xưng tụng vạn tuế, âm thanh dao động khắp cửu thành, ngay cả những đứa trẻ con mít đặc như chúng tôi cũng cảm giác trời đất rung chuyển, khí huyết sục sôi. Vậy mà Bệ Hạ chẳng màng nhích mép cười lấy một nụ, người thường chỉ đứng đảo qua, chẳng được bao lâu, liền sai hầu buông rèm, đoạn xa giá về thằng Tây Cung. Dường như thảy những phồn hoa không gì sánh được ở đời này, trong mắt vị đế vương kiêu hãnh lạnh lùng ấy, chẳng qua chỉ như mây như khói.
Có một người cha như thế, tôi thấy A Mục cũng khó tránh khỏi cảm giác đáng thương.
Bệ Hạ thông thạo cả cung lẫn ngựa, thiên triều ta giành được thiên hạ từ trên lưng ngựa, trong quá trình dạy dỗ các thế hệ con em quý tộc thì cưỡi ngựa bắn tên là môn học vỡ lòng, văn võ hóa lại đứng thứ 2. Tôi được đích thân cha mình chỉ bảo, trong số anh em cùng trang lứa, võ công của tôi được đánh giá ở mức khá khẩm, vậy mà khi đọ sức với Bệ Hạ, quả nhiên vẫn kém xa.
Tôi từng chứng kiến bản lĩnh của Bệ Hạ, bữa đó tôi và A Mục hầu người bách bộ trong ngự hoa viên, có đôi chim non líu lo hót trên cành, Bệ Hạ cầm bộ ná trên tay A Mục, nhón một viên đạn vàng, đoạn bắn hạ đôi chim kia. Cái gọi là một mũi tên trúng hai con nhạn có lẽ chính là đây, chỉ một viên đạn mà đầu đôi chim nọ bị bắn cho tan tác, xương thịt nát bấy gần bằng bột mịn, có thể thấy lực bắn mạnh kinh người.
Bệ Hạ vốn không thích những thứ thành đôi thành cặp, các triều đại trước, khi hồ Thái Dịch trong cung nở sen Tịnh đế, thì người ta đoán bảo hẳn đây là điềm lành, không thiếu những vị học sĩ Hàn Lâm đã tức cảnh sinh tình nảy ý thơ. Vậy mà năm Khâm Hòa thứ 2, hồ Thái Dịch nở sen Tịnh đế, lại không một ai dám tâu lên Bệ Hạ, sau cùng nội thị họ Vương đánh bạo, sai người lén cắt phăng cành sen ấy đi mới yên chuyện.
Cũng bởi tính khí cổ quái ấy của Bệ Hạ, mà lúc xây Tây Uyển, thậm chí đến cả số điện thờ phụ cũng là số lẻ, Công bộ lang có Trương Liễm vốn là người tỉ mỉ cẩn thận, nhưng trong chuyện này lại vô cùng mạnh dạn. Mặc dù bộ Lễ cũng biết làm thế là phạm phải quy chế của liệt tổ liệt tông dòng dõi hoàng tộc, song nói cho cùng thì Tây Uyển cũng chỉ là rừng uyển của hoàng thất, không thể xem như cung điện chính thống được, nên đành mắt nhắm mắt mở cho qua.
Sở dĩ bộ Lễ biết điều như thế, cũng bởi tính khí ngang ngược này của bệ tăng dần theo năm tháng, song không một ai dám thẳng thừng khuyên can.
Mà Bệ Hạ cũng chẳng phải mê muội lẩm cẩm, người vẫn vô cùng anh minh khi chọn hiền tài, chuyện triều chính giải quyết đâu ra đấy.
Còn trong Hậu Cung lại chẳng có lấy một vị phi tử nào đắc sủng, Bệ Hạ lại không mấy mặn mà với thanh sắc, thỉnh thoảng thì mở hội đi săn, song cũng chưa hẳn là thú vui. Đối với một vị vua không tửu sắc không ham thích gì thế này, quần thần đành chịu bó tay.
Nghe nói các bậc bề tôi rất đỗi lo lắng việc Bệ Hạ chỉ có duy nhất một vị hoàng tử, đối với Hoàng thất mà nói, chuyện này quá mức họa hoằn, đương nhiên tránh sao khỏi buồn lo.
Vô số tấu chương nhắc nhở bay về tới tấp, như thể nếu Bệ Hạ không đẻ đến 8, 9, 10 đứa con trai, e thật có lỗi với toàn thiên hạ.
Vậy mà Bệ Hạ vẫn bàng quan mặc kệ.
Năm Khâm Hòa thứ 4, Hiền phi Lí Thị cuối cùng đã hoài thai. Triều đình và muôn dân đều mong ngóng Hiền phi sẽ hạ sinh cho Bệ Hạ thêm một người con, ai ngờ Lí Thị sinh khó, vật lộn sinh được một vị công chúa thì ngọc nát hương tan.
Công chúa có hiệu là Triêu Dương.
Bệ Hạ lấy tên chính điện Triêu Dương để phong thụy hiệu cho công chúa, đủ thấy người cưng chiều con gái thế nào.
Triêu Dương công chúa quả thực sinh ra đã trắng nõn trắng nà, đáng yêu vô cùng. Có lẽ vì thương công chúa vừa chào đời đã mồ côi mẹ, nên ngày ngày Bệ Hạ đích thân dìu dắt, thậm chí còn đưa theo lên triều, đặt công chúa ngồi trên đùi mình, dường như chơi đùa với đứa con gái nhỏ này còn quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự ở đời.
Thoạt đầu quần thần cũng bất bình, dần dà lại nhận ra điểm lợi hại của Triêu Dương công chúa
Giả dụ Bệ Hạ có nổi giận, không kẻ nào dám làm trái với sắc diện thiên tử, chỉ cần sai bảo mẫu ẵm công chúa đến, thì có khi tội tày trời cũng thành vô tội.
Triêu Dương công chúa lúc nào cũng cười khanh khách, vươn tay rồi sà vào lòng người.
Mà lúc Bệ Hạ ẵm cô bé, thế nào mặt cũng nở cười rạng rỡ.
Năm Triêu Dương lên 4, đã được vua ban thực ấp(*) vạn hộ cùng vô kể nô bộc. Thậm chí vì thương con gái mà Bệ Hạ không tiếc công xây một ngự hoa viên trên Li Sơn, chỉ bởi công chúa Triêu Dương mắc chứng hen suyễn, Thái Y khuyên nên đưa công chúa đến vùng suối nước nóng nhiều hơn.
(*thực ấp là vùng đất được ban cho quan lại gồm một số lượng hộ dân cùng ruộng đất chịu sự quản lý của họ)
Người trong thiên hạ đều hay biết, báu vật Bệ Hạ coi trọng nhất trần đời chỉ có mình Triêu Dương.
A Mục thường bảo với tôi rằng, Trọng An này, không biết mai sau ai có phúc lấy được Triêu Dương nhỉ.
Tôi hiểu ý cậu ấy, ai lấy được Triêu Dương, người ấy sẽ có trong tay cả thiên hạ.
Triêu Dương ngày một trưởng thành, thêm phần xinh xắn, mà cũng nghịch ngợm hơn hẳn ngày bé.
Giữa chốn hoàng cung này, duy chỉ có cô bé là sống vô tư lự.
Tôi thường nghe tiếng em cười, như tiếng chuông ngân vang lảnh lót, lại như một loài chim biết hát, không phải chính em là một chú chim non lém lỉnh đấy chứ?
Từ lúc trưởng thành, Triêu Dương rất thích bám A Mục, cũng bởi Bệ Hạ chỉ có một trai một gái, bọn họ là anh em ruột thịt duy nhất của nhau. Em thường vận đồ nam, cùng chúng tôi lén xuất cung ra ngoài chơi, đằng nào thì trong cung cũng chẳng có ai dám cản em. Ba chúng tôi thường xuyên xuống phố, vào quán uống trà, xem ca hát tạp kỹ, nghe nghệ nhân kể chuyện đọc sách.
Những ngày ấy đầy vui vẻ, trong sáng và thuần khiết.
Giờ nhớ lại, cả cuộc đời tôi, quãng thời gian hạnh phúc nhất là khi có A Mục bên mình, với cả Triêu Dương.
Khi Triêu Dương qua đời, trái tim chúng tôi vụn vỡ.
Nhưng chính xác ra, người đau khổ tột cùng phải kể đến Bệ Hạ, chỉ qua một đêm, mà tóc người bạc trắng.
Người ngồi một mình trong điện Triêu Dương, lặng lẽ không hề quan tâm đến bất kì ai.
A Mục quỳ rất lâu ngoài điện, song cũng chẳng được người triệu kiến.
Bệ Hạ xuống chiếu mai táng cho Triêu Dương ở Du Lăng.
Nơi ấy là lăng tẩm của ngươi, tất cả được xây dựng theo lễ chế của Hoàng đế, cũng bởi công trình đồ sộ, nên mãi mà chưa hoàn thành, giờ đây chỉ dùng làm nơi mai táng cho đứa con gái nhỏ người hằng yêu thương. Triều thần và muôn dân cùng xôn xao, tranh chấp không ngừng, sau cùng Bệ Hạ buộc phải bỏ bớt tượng trước lăng tẩm đi, thu hẹp chiều dài mộ đạo lại, chỉ cốt làm lắng đi sự bàn tán xì xào.
Mười ngày không thiết triều, trăm ngày quốc tang, Bệ Hạ vận dụng tất cả các lễ chế với những cách thức được phép lẫn không được phép để truy điệu Triêu Dương, nhưng trên thực tế chuyện triều chính không chỉ ngưng có mười ngày, bởi từ đó trở về sau, Bệ Hạ không còn ra triều nữa.
Tấu chương từ quan lại các cấp chất thành chồng tại Trung Thư Môn Hạ Tỉnh, Thái Phó không nén được than ngắn thở dài với A Mục, nhiều lần A Mục tiến cung, song vẫn không được Bệ Hạ triệu kiến. Tôi biết A Mục lo lắng vô cùng, nhưng cũng chỉ đành an ủi: “Đợi Bệ Hạ vượt qua nỗi đau này rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.”
Thế nhưng trong cung ai mà chẳng biết, nỗi đau này Bệ Hạ mãi mãi không bao giờ vượt qua. Bệ Hạ hệt như đã trở thành một con người khác, chẳng còn hứng thú với bất kì ai, bất kì việc gì. Nếu như nói trước đây người là vị vua lạnh lùng, có hoài bão lớn, thì giờ đây vị vua ấy chỉ còn là một người cha có trái tim nguội lạnh âu sầu.
Tình hình sức khỏe của người mỗi ngày một suy yếu, có thời gian ngã bệnh rất trầm trọng, vậy mà vẫn một mực sai người đi triệu sứ thần Tây Lương.
Tây Lương là nước thuộc địa lạ lùng nhất dưới quyền thiên triều, đất nước vừa nhỏ, thế lực vừa yếu, lại hứng chịu sa mạc hóa triền miên. Các nước chư hầu khác theo lệ phái hoàng tử đến Thượng Kinh, lấy danh nghĩa là học hỏi lễ nghi của Trung Nguyên, còn trên thực tế là làm con tin. Vậy mà duy nhất một mình Tây Lương là không có con tin, chẳng những vậy, Tây Lương còn tỏ thái độ ngạo mạn xấc xược, thường xuyên không đến triều cống.
Lạ cái là, Bệ Hạ lại rất coi trọng Tây Lương. Người chinh chiến Tây Vực, bình định các nước xung quanh, song chỉ chừa lại có mình Tây Lương.
Tôi từng lờ mờ nghe người già trong cung lẩm bẩm nói một câu, họ nói có lẽ nguồn cơn cớ sự là ở Minh Đức Hoàng Hậu.
A Mục và tôi đều biết, Minh Đức Hoàng Hậu là cái tên cấm kị ở đời, tuyệt đối không được nhắc đến.
Minh Đức Hoàng Hậu xưa kia là chính thê Đông Cung của Bệ Hạ khi còn ở ngôi vị Thái Tử, tiếc thay phúc mỏng phận bạc, năm Nguyên Khánh thứ 20, trước khi Bệ Hạ nối ngôi đã qua đời vì bạo bệnh. Dường như Bệ Hạ chẳng mấy tình nghĩa với vị Thái Tử Phi mệnh yểu này, mãi cho đến năm Khâm Hòa thứ 9, Lễ bộ lôi ra nói một lần, lúc ấy người mới miễn cưỡng hạ chiếu thư, truy phong cho người đó làm Minh Đức Hoàng Hậu. Chuyện đã hai mươi năm, lễ truy phong cũng chỉ làm quấy quá, cũng bởi Minh Đức Hoàng Hậu được an táng tại Định Lăng, Bệ Hạ cũng không hề ban chiếu xây tẩm lăng theo lễ chế của Hoàng Hậu, thậm chí người không hề hạ chiếu nói sau khi mình tạ thế, sẽ để vị Hoàng hậu được truy phong này tuẫn táng tại Du Lăng.
Trước và sau khi truy phong Hoàng hậu, Bệ Hạ không hề đến lễ truy điệu của vị chính thê đã khuất kia.
Trong cung đồn rằng Bệ Hạ không ưa vị chính thê này, đại khái thì là năm đó vì mối bang giao giữa hai nước, Bệ Hạ bị ép phải sắc lập người con gái ngoại tộc lên ngôi vị Thái Tử Phi, người luôn cho rằng đó là mối nhục của Hoàng Thất. Thế nên trong sử sách ghi chép vỏn vẹn chỉ có 1 dòng hơn 10 chữ giới thiệu về cuộc đời của vị Minh Đức Hoàng Hậu này.
A Mục nhớ mãi chuyện cấm kị ấy, bởi lẽ có lần công chúa Triêu Dương không biết tìm đâu ra một bộ quần áo người Hồ, cô bé hả hê vận rồi đi tiếp kiến Bệ Hạ. Rút cuộc Bệ Hạ lại nổi cơn lôi đình xưa nay chưa từng có. Người hạ lệnh đánh chết toàn bộ người hầu bên cạnh Triêu Dương, Triêu Dương khóc lịm cả người, lúc đó sợ hãi quá độ rồi ngã bệnh suốt 10 ngày liền. Mà hiển nhiên Bệ Hạ cũng hối hận mãi không nguôi, người túc trực bên gi.ường công chúa, cho đến khi lành hẳn mới thôi.
Vì chuyện này mà Trần quý phi bị phế truất, nghe nói chính bà ấy xúi bẩy công chúa mặc xiêm áo người Hồ.
Lúc tôi đưa A Mục đến thăm Triêu Dương, người bảo mẫu già nua thì thầm kể cho chúng tôi nghe, Bệ Hạ kỵ nhất việc có người nom giống Minh Đức Hoàng Hậu, Trần quý phi xui công chúa mặc quần áo người Hồ, tội thật đáng chết.
A Mục quả là to gan, cậu ta dợm hỏi bảo mẫu: “Vậy, A Hoàng có giống Minh Đức Hoàng Hậu không?
Phụng Hoàng vốn là tên mụ của Triêu Dương, A Mục quen gọi là A Hoàng.
Người bảo mẫu đờ mặt, lắc đầu nguầy nguậy, bảo: “Chẳng giống chút nào, vẻ ngoài của Minh Đức Hoàng Hậu đâu như công chúa.”
Tôi cũng có cảm giác khó mà giống nhau được, con gái ngoại tộc, liệu tướng mạo sẽ thế nào nhỉ?
Bảo mẫu lại nói: “Minh Đức Hoàng Hậu có nước da trắng sáng, thân hình gầy nhỏ, tuy là có phần hiếu động, nhưng không hề có nét mặt hoa da phấn như con gái Trung Nguyên.” Nói đến đó, chợt bà ấy thở dài: “Nhoáng cái mà đã sắp 30 năm, chẳng ngờ…”
Bà ấy không nói tiếp xem có gì chẳng ngờ, tôi nom A Mục, dường như đang trầm ngâm chi đó.
Đấy là lần đầu tiên Bệ Hạ nổi giận với Triêu Dương, và cũng là lần cuối cùng.
A Mục từng nói rằng, trên đời này, người duy nhất Bệ Hạ thực sự yêu thương, chỉ có mình Triêu Dương.
Thật sâu trong thâm tâm mình, tôi ngầm cho là vậy.
Nhưng Triêu Dương đã qua đời sau đó. .
Từ lúc Triêu Dương ra đi, ngày qua ngày Bệ Hạ càng thêm chán ngán chuyện triều chính, mà sức khỏe của người ngày qua ngày càng thêm phần sa sút, dường như người mất hứng thú với triều chính như thể đang mất hứng thú với chính sinh mệnh của mình, người không còn đi săn nữa, cũng không yến tiệc vui vẻ, người thường xuyên nhốt mình trong điện, không uống rượu mà cũng chẳng sa vào thanh sắc, có điều sức khỏe của người lại yếu dần đi theo thời gian.
Dường như sự ra đi của Triêu Dương đã mang theo toàn bộ sinh lực sống của người, mái tóc người chẳng những bạc hẳn, thậm chí ngay cả trái tim cũng đã chết. Xưa nay tôi chưa từng chứng kiến thấy ai buồn lòng thành ra nông nỗi này, A Mục và tôi cũng buồn vì sự ra đi của Triêu Dương nhiều lắm, song có vẻ không bằng được một phần vạn của Bệ Hạ.
Cha đích thân vào cung khuyên giải Bệ Hạ, sức khỏe của cha bấy lâu nay rất tệ, bao năm chinh chiến đã để lại trong cơ thể vô vàn vết nội thương, người còn đương nằm liệt gi.ường không gượng dậy nổi, song vẫn cố chấp đòi vào cung.
Người nhà không can ngăn được, đành lấy xe đưa cha vào cung, kẻ hầu người hạ trong điện đều lui ra, duy có tôi hầu cha quỳ trước mặt Bệ Hạ, cảm giác th.ân thể người đang run rẩy, tôi không dám buông lỏng đôi tay đang đỡ cha, tôi biết một khi mình lỏng tay, hẳn cha sẽ sụp xuống bất cứ lúc nào. Tôi biết mình cũng nên lánh đi, nhưng cha suy nhược ngần này, tôi không cách nào lui xuống được. Bệ Hạ đối đãi với cha tôi chung quy khác hẳn, người đích thân vươn tay toan dìu cha dậy.
Giọng cha hơi hổn hển, cha nắm chặt tay Bệ Hạ, như thường ngày tôi vẫn nắm tay A Mục. Cha nói: ‘Ngũ Lang à, nàng ấy đã chết rồi.”
Giọng cha run lên, những câu chữ thốt ra nhẹ bẫng, gần như tôi chẳng nghe thấy gì, có điều cả cơ thể Bệ Hạ lại như ngây dại, tóc mai đã điểm hoa râm, cặp mắt người đục ngầu, đang cầm tay cha tôi mà cũng khẽ run rẩy, tự lúc nào, mà Bệ Hạ đã trở thành một ông già tinh thần suy sụp thế này?
Giọng cha thở dốc, đoạn nói: “Ba mươi năm về trước, nàng ấy đã chết rồi.”
Dường như trong mắt cha đã đong đầy nước, cha bảo: “Ngũ Lang à, người tỉnh lại đi, nàng ấy đã chết lâu rồi.”
Xưa nay tôi chưa từng thấy sắc diện Bệ Hạ như thế, người luôn ôn tồn với cha, duy chỉ lúc này là gần như trở nên dữ tợn, thậm chí cơ mặt co thắt theo chiều hướng méo xẹo, người níu chặt vạt áo cha, mu bàn tay đã nổi vằn vện những gân xanh, tiếng gầm gừ dữ tợn trở nên khàn đục: “Ngươi nói láo!”
Cha tôi run rẩy thở hắt không ra hơi, thậm chí tôi còn không dám thở mạnh. Trong điện chỉ vọng lại tiếng thở dồn dập từng hồi của cha, tựa như ống bễ tan hoang. Giọng Bệ Hạ dịu xuống, thậm chí người đã cười: “Bùi Chiếu ơi, ngươi thừa biết nàng ấy về Tây Lương. Nàng ấy lừa chúng ta, ngay cả người thông minh như ngươi mà cũng bị lừa.”
Cha vừa ho vừa thở hổn hễn, cha khẽ gọi: “Bệ Hạ…” ánh mắt người bi thương mà vô vọng, tiếng người cũng vậy: “Công chúa Triêu Dương không phải con gái của nàng ấy đâu, công chúa không có nét nào giống với nàng ấy cả, trong lòng người hiểu rõ hơn ai hết. Công chúa do Hiền phi Lí Thị hạ sinh, Thái Tử Phi qua đời đã 30 năm nay rồi… mười mấy năm trước thần có đi viếng, cỏ đã xanh um phủ màu trên mộ rồi…”
Đó là lần đầu tiên tôi thấy Bệ Hạ khóc, giọt nước mắt to dần rồi trào ra, nhỏ xuống ngực áo bào trong câm lặng. Ngực áo bào thêu họa tiết tinh xảo, giọt nước mắt loang loáng trên đầu rồng, chực rơi mà lại không rơi. Cha tôi ôm gối người, dường như xoa dịu, dường như an ủi, mà lại như có nỗi cảm thông. Lúc bấy giờ, tiếng khóc của Bệ Hạ bật nấc lên như một đứa trẻ.
 
×
Quay lại
Top