Rồng Tiên lược truyện

89. CHUYỂN HỌA THÀNH PHÚC

Thị Trấn Mỹ Hậu có hai gia đình, gia đình Ông Bà Sồi, gia đình Ông Bà Gạo, hai gia đình nổi tiếng là con cái hư hỏng.

Ông Bà Sồi sanh được hai người con, người con lớn tên là Hành, người con thứ tên là Tiêu.

Tiêu và Hành công chuyện làm ăn thời lười, còn đua đòi thời khỏi chê càng ngày càng lêu lổng thường bỏ nhà đi đánh đàn đánh đúm tụ năm tụ bảy ăn chơi trác táng. Điều làm cho Ông Bà Sồi lo lắng nhất là dính vào xì ke ma tuý.

Một hôm Ông Sồi đến nhà Ông Gạo thấy gia đình Ông Gạo con cái ngoan ngoãn đứa nào đứa nấy cũng siêng năng trông không có gì là hư hỏng cả thời lấy làm kinh ngạc nói xưa kia con anh cũng như con tôi đều là hư hỏng nhưng sao bây giờ tụi nó đứa nào đứa nấy cũng lễ phép, ngoan ngoãn siêng năng trong công việc tháo vát làm ăn, anh có phương pháp gì hay truyền cho tôi với.

Ông Gạo nói tôi chẳng có phương pháp gì hay chỉ nghe theo lời người ta chỉ bày làm lành hướng thiện thời chuyển họa thành phúc vợ chồng tôi ra sức làm nhiều điều phúc thiện con cái tôi cũng bắt chước làm theo, đứa nào cũng đổi tâm sửa tánh mới được như vậy. Ông Sồi nghe xong rồi nói tu là phải đến chùa nhưng hai đứa con tôi nào có thèm đi.

Ông Gạo nói tu chỉ là sửa chữa, sửa đổi tánh nết của mình, nào phải lên chùa mới sửa được. Quan niệm tu là phải lên chùa là quan niệm sai lầm, tu chỉ là sửa đổi tánh nết mà thôi. Không nghe người ta nói sao nhất thời tu ở tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Tôi nghe người ta đồn không có đạo nào hơn được Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời, Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa tối cao vũ trụ Đời Đạo viên dung, trong Đời có Đạo trong Đạo có Đời, nên tu theo Văn Hóa Cội Nguồn, không những dễ tu, mà chuyển đổi số mạng cũng nhanh.

Trước đây gia đình tôi phải nói là lộn xộn, lại làm ăn chẳng được suôn sẻ gì, làm đâu thất bại đó, con cái lại hư hỏng. Nhưng từ khi tôi đi theo Văn Hóa Cội Nguồn mượn kinh thơ về đọc, làm theo sự dạy bảo trong kinh thơ. Không ngờ mọi việc đều như ý, hầu như muốn gì được nấy.

Ông Sồi nghe xong lấy làm mừng lắm học theo lối tu của Gạo tu tại gia. Quả là hiệu nghiệm hai đứa con lần lần hết phá tiền tính tình cũng thay đổi Hành, Tiêu dần dần trở thành một con người khác. Ông Sồi thấy vậy cho là đạt kết quả nên lơ là ít tụng đọc kinh thơ, chỉ lo làm giàu việc hành thiện cũng giảm sút.

Hai đứa con của Ông Sồi trở nên hung dữ thường cãi lại Mẹ Cha tính lêu lổng lại thậm tệ hơn nữa Ông liền mất niềm tin ở Văn Hóa Cội Nguồn, không còn mặn mà gì đến đọc tụng kinh thơ.

Cho đến một hôm Ông Sồi vừa chợp mắt thiêu thiêu liền thấy một vị thần đến mách bảo người tu hành như kéo tre lấy lửa. Thanh tre mới hơi nóng thời dừng lại thời lấy đâu ra lửa. Như người trồng lúa trồng rồi bỏ đó không chăm bón thời lấy đâu kết quả mà gặt. Muốn chuyển họa thành phúc phải nỗ lực cho đến khi biến họa thành như gia đình Ông Gạo. Thế mà Ông Gạo cũng không dừng lại cả gia đình nỗ lực đọc tụng tu theo Văn Hóa Cội Nguồn hơn nữa. Vị Thần liền ngâm mấy dòng thơ.

Người tu hành ví như leo núi

Càng lên cao, càng cố gắng hơn

Lúc leo phải chịu gian nan

Khi mà tới đích thảnh thơi an nhàn

Chốn hồng trần cõi đời dâu bể

Nợ hồng trần, vay trả triền miên

Phải nương Nguồn Cội giải vây

Mới mong thoát khỏi tai ương khốn cùng

Tu phải bền, dần dần thoát khổ

Thiện gieo ra chuyển đổi số căn

Làm lành lánh dữ sớm hôm

Phước năng thắng số xưa nay sự thường

Ông Gạo tấm gương sáng ngời

Con đường Ông đã đi rồi thành công

Ông Sồi dường như tỉnh ngộ, quyết chí tu hành theo Văn Hóa Cội Nguồn, siêng năng tinh tấn, ai nói gì cũng không nghe, dù cho thịt nát xương tan cũng không lùi thường đọc kinh thơ làm lành bố thí tiếng lành đồn xa Hành và Tiêu đi đến đâu cũng nghe người ta ca ngợi Cha mình dần dần tỉnh ngộ, không còn chơi bời lêu lổng trở lại có hiếu với Cha Mẹ.

Gia đình Sồi như trút gánh nặng trong ấm ngoài êm.

Một hôm Ông Sồi mua được củ sâm quí, liền đến nhà Ông Gạo biếu cho củ sâm quí. Kể lại những gì đã trải qua cho Ông Gạo nghe.

Ông Gạo nghe xong rồi nói, nghe Sồi kể về vị Thần mách bảo tôi càng sáng ra người tu như leo núi cố gắng leo càng cao thời càng thành công, càng thấy xa hiểu rộng. Con người hơn nhau là ở cái đầu và sự giác ngộ mà thôi.
 
90. HẠT GẠO TRÊN SÀNG

Ngày xửa ngày xưa phải nói là rất xa xưa có một vị Thầy tên là Giác Hoa tinh thông vạn pháp chuyện gì cũng biết đi khắp mọi miền đất nước Nam Sa thu nhận được 12 môn đồ đệ tử đem về Sơn Cốc truyền dạy văn, võ.

Sau bao năm khó nhọc truyền dạy văn võ người nào người nấy đều tài giỏi lại khéo ăn nói thường tranh nhau phụng dưỡng thầy, không ai chịu kém ai về lòng trung thành cũng như lòng nhân hiếu.

Một hôm Giác Hoa nói với môn đồ để tử rằng Ta đã tu luyện đến cảnh giới không còn bệnh tật gì nữa bách bệnh bất xâm. Quyền năng cái thế quyền lực vô biên các con có tin như thế không?

12 môn đồ đệ tử đều thưa rằng chúng con tin tuyệt đối lời Thầy nói.

Thầy Giác Hoa hỏi lại: Các môn đồ đệ tử nói có thật không? không ai chịu cho mình là không tin tuyệt đối lời Thầy nói bằng thề thốt nầy thề thốt kia, Giác Hoa nói Thầy thật có phúc không nhìn lầm người.

Nói về Thầy Giác Hoa đi đâu không biết hơn ba ngày khi trở về liền lâm trọng bệnh, bước đầu 12 người đệ tử thi nhau chăm sóc, nhưng bệnh tình của Giác Hoa không thiên giảm mỗi ngày một nặng, không bao lâu thời sinh ra lở lói, mùi hôi thúi mỗi ngày một thêm nhiều. Văn, Hậu, Duyệt, Lê bàn tán với nhau Thầy nói Thầy tu luyện đến cảnh giới không còn bệnh tật gì nữa bách bệnh bất xâm, chẳng qua là Thầy đề cao Thầy mà thôi, bằng chứng là Thầy đang mang bệnh. Đã đau bệnh lại còn sinh ra lở lói, hôi thúi vô cùng.

Văn nói người bình thường cũng chưa đến nổi như thế. Thật ra Thầy đâu có gì đặc biệt cũng mang lấy nghiệp vào thân. Nên mới sinh ra bệnh tình lỡ loái hôi thúi như vậy, nói thiệt với các huynh có lúc đệ chịu không nổi. Hậu nói theo tôi nghĩ Thầy cũng chỉ là người Thầy bình thường mà thôi không như Thầy nói đâu, hơn nữa Thầy cũng đã truyền hết những gì Thầy biết cho chúng ta rồi. Nên sáu tháng nay Thầy đâu có truyền gì nữa lúc nào Thầy cũng dặn chúng ta chú tâm vào văn ôn võ luyện đâu còn gì nữa để mà học. Duyệt, Lê, nói Đạo làm đệ tử không lẽ thầy đang đau mà bỏ đi.

Một hôm Thầy Giác Hoa nói với 12 người đệ tử rằng, tí nữa Thầy quên mất Cha Mẹ các con nhắn với Thầy là gia đình đang có chuyện, nhưng không rõ là chuyện gì các con nếu thấy cần thiết thời về, Cha Mẹ các con đang chờ các con đó. Văn, Hậu, Duyệt, Lê nghĩ đây là cơ hội thoát thân, tránh đi cái cảnh ngày nào cũng phải ngửi mùi hôi thúi. Bằng nói với Giác Hoa. Thầy đã nói như vậy mai con sẽ lên đường trở về, nói là mai nhưng thật ra về đến thiền phòng Văn, Hậu, Duyệt, Lê, thu dọn lên đường rời xa Sơn Cốc xuống núi.

Qua mười ngày sau Minh, Quân, Dần, Mẹo cũng nghĩ như Văn, Hậu, Duyệt, Lê không còn tin tưởng vào Thầy nữa, Thầy cũng chỉ là người bình thường, bằng nói với Giác Hoa chúng con muốn trở về nhà văn ôn võ luyện chờ ngày ứng thí. Giác Hoa nói các con sớm lên đường.

Minh, Quân, Dần, Mẹo xuống núi được mấy ngày thời Thầy Giác Hoa qua đời, trước khi qua đời Thầy Giác Hoa nói các con đem xác thân thầy chôn ở Nhai Sơn Lãnh cách đây hơn 50 dặm để chôn. Thầy Giác Hoa đã chết giờ chỉ còn Tý, Sửu, Hào, Thịnh.

Tý, Sửu, Hào, Thịnh, bàn tán với nhau tìm ra giải pháp gọn nhẹ tốt nhất. Tý nói Thầy giờ đây chỉ là cái xác thúi chôn chỗ nào mà chẳng được, cần gì phải chôn trên Nhai Sơn Lãnh xa xôi, chôn Thầy ở đây rồi về. Vì đây tới Nhai Sơn Lãnh quá xa đường đi toàn là rừng núi, lại thân xác Thầy hôi thúi. Không khéo lây nhiễm bệnh cho chúng ta, bỏ mạng không chừng.

Hào, Thịnh, không bằng lòng nói Thầy đã dặn như thế sao chúng ta không làm theo. Sửu nói thầy giờ đây chỉ là cái xác vô tri Đệ tán đồng ý kiến của Huynh Tý, hai bên cải qua cải lại, Tý, Sửu, nói lòng trung thành của hai huynh chẳng ích chi không nói là ngu nữa là khác. Nói xong thời bỏ đi không một lời từ giả. Giờ còn lại chỉ hai người Hào và Thịnh, hai người quấn Thầy lại rồi bốc thăm ai trúng chữ “cõng”, thời cõng thầy đi, qua ngày sau thời thay thế Thịnh bốc trúng chữ cõng, cõng Thầy đi được hơn một ngày Nhai Sơn Lãnh thời còn quá xa hơn nữa trời sắp tối, xác thầy lại hôi thúi tiếng hổ gầm vang dội núi rừng. Ánh hoàng hôn lịm tắc bóng đêm phủ xuống, sương lạnh mịt mù núi rừng chìm trong u tối. Thịnh vì cõng thầy cả ngày mệt quá ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Đến khi tỉnh dậy thời trời đã sáng thời hỡi ôi không còn thấy Hào đâu nữa chắc có lẽ Hào đã bỏ đi rồi. Thịnh buồn rầu mới đi được hai phần đường giờ chỉ còn lại một mình, đường rừng quanh co rậm rạp chẳng có bóng người, hổ, beo, cáo, sói rình mò, xé xác.

Thịnh nhìn xác của Thầy hầu như quên cả hôi thúi nổi lên bao niềm xúc động, không quên ơn công dạy bảo. Thịnh quyết định dù cho cọp sói ăn thịt cũng phải làm tròn bổn phận học trò ra thân đền đáp chút công ơn. Dù có bị lây nhiễm bệnh tật Thịnh quyết không làm trái lời thầy dạy. Bằng cỏng thầy lên lưng mùi hôi thối nồng nặc. Nhưng Thịnh không lấy đó mà bỏ Thầy chỉ biết chú tâm làm theo lời dạy của Thầy mà thôi.

Cuối cùng Thịnh cũng đến được Nhai Sơn Lãnh chỉ còn vượt qua hố sâu thung lũng là đến nơi. Thịnh ngồi khóc làm sao cõng thầy qua hố sâu thung lũng cho được. Bỗng nghe sau lưng có tiếng ngâm thơ một giọng ngân nga nổi lên.

Hạt gạo trên sàng chính là đây

Tâm như nhật nguyệt sáng lắm thay

12 đệ tử còn được một

Đệ tử chân truyền chính là đây

Giác Hoa ngâm thơ xong rồi nói con để Thầy xuống Thịnh lấy làm kinh hãi nói thầy sống lại sao? Giác Hoa nói Thầy chưa tới số làm sao mà chết được. Đó là phép thử lòng đệ tử mà thôi. Thịnh như chợt hiểu thì ra là thế.

Giác Hoa nắm lấy tay Thịnh bay lên Nhai Sơn Lãnh Thịnh vô cùng kinh hãi, đến lúc nầy Thịnh mới biết sự phụ thần thông quảng đại như những gì sư phụ nói.

Nhìn Nhai Sơn Lãnh cảnh quang đẹp như bồng lai tiên cảnh Thịnh đã nhận ra nơi đây mới chính là nơi sư phụ ở. Thảo nào lâu lâu sư phụ ra đi năm mười ngày rồi trở về Sơn Cốc. Sơn Cốc chỉ là nơi sư phụ dùng để đào tạo môn đồ đệ tử mà thôi.

Thịnh được Giác Hoa sư phụ truyền thụ võ công tuyệt học, cũng như pháp thuật thần thông. Thịnh tu luyện được ba năm có thể nói là Văn, Võ xuất chúng.

Một hôm Giác Hoa nói triều đình đang mở khoa thi tuyển chọn hiền tài con mau xuống núi đến trường an dự thi. Đất nước cũng đang lâm nguy vì giặc Hung Nô đang xâm lấn.

Quốc Thịnh từ biệt sư phụ đằng vân giá vũ bay đến trường an, ghi tên vào danh sách dự thi. Thấy có tên Dần, Mẹo, Tý, Sửu, Hào, Văn, Hậu, Duyệt, Lê, Minh, Quân. Đến ngày dự thi anh em gặp lại nhau tay bắt mặt mừng. Hào nói với Thịnh mấy năm nay lúc nào Đệ cũng thấy hổ thẹn, lương tâm luôn kén rức vì sao mình lại làm như thế bỏ huynh ở lại một mình giữa rừng hoang với xác thân sư phụ, đệ nghĩ mình không còn xứng đáng là học trò của Thầy nữa, nên đệ không xưng mình là đệ tử Giác Hoa.

Chỉ có Huynh là xứng đáng là đệ tử Giác Hoa mà thôi.

Hào nói Thịnh Huynh đi đâu ba năm nay biệt tăm biệt tích. Trong mười hai huynh đệ anh em. Đệ kính trọng nhất chính là Thịnh Huynh. Huynh đã chôn thầy ở Nhai Sơn Lãnh chớ. Quốc Thịnh nói Thầy có chết đâu mà chôn.

Văn, Hậu, Duyệt, Lê, Minh, Quân, Dần, Mẹo, Tý, Sửu, Hào, nghe Thịnh nói Thầy không chết thời vô cùng kinh ngạc trố mắt ra mà nhìn Quốc Thịnh tưởng mình nghe lầm bằng hỏi lại Thầy không chết thiệt sao? Thịnh nói đúng thế nơi ở chính thức của Thầy chính là Nhai Sơn Lãnh, còn chỗ Sơn Cốc anh em huynh đệ chúng ta học chỉ là nơi phụ không phải nơi chính của thầy ở.

Quốc Thịnh bằng kể lại tất cả những gì đã trải qua, Quốc Thịnh nói ba năm nay đệ không xuống núi là vì Đệ ở lại Nhai Sơn Lãnh tiếp tục tu học. Dần, Mẹo, Tý, Sửu, Hào. Văn, Hậu, Duyệt, Lê, Minh, Quân, vô cùng hổ thẹn cho tấm lòng không trung chính của mình đã bỏ Thầy ra đi khi Thầy đang đau ốm bệnh nặng. Nhất là Hào vô cùng hối tiếc vì bỏ qua một cơ may mà mình đã đi gần đến đích.

Trống trường đã vang cuộc thi cũng đã bắt đầu thí sinh có đến hàng chục môn Văn thi trước, môn võ thi sau kết thúc cuộc thi Quốc Thịnh cả văn lẫn võ dẫn đầu vào ngôi vị Trạng Nguyên, cùng với hai người nữa một người là Phong, ngôi vị Bảng Nhãn, một người là Hào ở vị Thám Hoa. Còn Dần, Mẹo, Tý, Sửu, Văn, Hậu, Duyệt, Lê, Minh, Quân, phải chờ đến kỳ thi sau lấy làm tiếc cho sự thiếu hiểu biết của mình, đã gặp được minh sư là chuyện hi hữu trong đời, vì cái tâm không được chân chính lại tưởng mình là hay, nhưng thật ra rất ngu si.

Quốc Thịnh thống lãnh đại quân thảo trừ giặc Hung Nô, vốn tài trí hơn người lại có pháp thuật thần thông chưa đầy một tháng quân Hung Nô bị đại quân Quốc Thịnh xóa sổ.

Nhà Vua Nam Sa gả Công Chúa Mỹ Tiên cho Quốc Thịnh, Quốc Thịnh trở thành phò mã sống trong giàu sang an vui hạnh phúc. Lữ Hào được bổ nhiệm về làm quan tri huyện Gia Trung. Lấy được người vợ xinh đẹp sống an vui hạnh phúc. Vậy mới biết lòng Trung Chính, Nhân Hiếu bao giờ cũng gặt hái những kết quả tốt đẹp. Lòng bất chính Bất Nhân, Bất Nghĩa,thường chẳng gặt hái được gì mà lại để tiếng đời nhân thế cười chê.
 
91. TIÊN DUNG VÀ CHỬ ĐỒNG TỬ

Thần Tiên giáng hạ lâm phàm

Tấm gương để lại cho đời soi chung

Công chúa ưng người nghèo xơ

Nên duyên chồng vợ tóc tơ sống đời

Tình yêu đâu kể giàu nghèo

Tơ duyên là bởi do trời mà nên

Nào ai có muốn được đâu

Điều do số mệnh thành đôi ý Trời

Mở màn câu chuyện lạ đời

Tiên Dung, Đồng Tử, ở thời Hùng Vương

Vào thuở xa xưa vào thời Hùng Duệ Vương đất nước đến thời loạn lạc. Bắc Văn Lang không còn, hơn hai phần Trung Văn Lang đã mất. Chỉ còn Nam Văn Lang và một phần Trung Văn Lang.

– Khi ấy trên cõi Trời Đao Lợi Thiên có cặp Thần Tiên Nam Tiên Long, Nữ Ngọc Nữ thường qua lại hẹn hò cùng nhau, nguyện sanh xuống chấn nhân gian kết duyên thành vợ thành chồng.

– Ngọc Nữ đầu thai làm con Hùng Duệ Vương đời thứ 18 hạ Hùng Vương, cũng là đời cuối của niên đại Hùng Vương kéo dài nối tiếp 2701 năm. Hùng Duệ Vương lên ngôi Hoàng Đế trị vì thiên hạ thay Cha là Hùng Nghị Vương 306 đến 258 trước công nguyên. Hùng Duệ Vương có hai người con gái đẹp tuyệt trần. Một người là Tiên Dung, một người là Mị Nương. Tiên Dung công chúa là chị. Mị Nương công chúa là em.

Khi ấy ở Làng Chữ Xá, có vợ chồng Cù Vân ăn ở hiền lành sanh ra một cậu con trai khôi ngô tuấn tú, chính là Tiên Long Kim Đồng lâm phàm.

– Chữ Cù Vân đặt tên cho con là Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử lên 10 tuổi thời bà Cù Vân qua đời, hai cha con nương tựa nhau mà sống, nghèo đến nổi không có áo để mà mặc, hai cha con chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thời mặc.

– Một hôm cha Chử Đồng Tử là Ông Cù Vân bị ốm biết mình sắp chết, liền dặn Chữ Đồng Tử rằng, khi cha chết con cứ táng trần cho cha còn cái khố con giữ lấy mà dùng.

– Ông Cù Vân chết, Chử Đồng Tử là người con có hiếu không nở để cha trần truồng, lấy khố mặc cho cha rồi mới đem chôn.

– Cuộc sống quá nghèo chỉ một túp lều nhỏ ở ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử như con rái lặn hụp dưới nước bắt cá, đổi lấy gạo cho các thuyền qua lại sống qua ngày. Trên đời không ai nghèo như Chử Đồng Tử cái khố còn không có để mà mặc.

– Nói về Tiên Dung tuy sanh ra trong thế thời loạn lạc nhưng lòng kiên định vững vàng vô cùng. Trong triều đình thường tranh chấp xảy ra. Tiên Dung quá chán cảnh ấy nên sống trong giàu sang Tiên không lấy đó làm tự hào, lúc nào cũng hạ mình phong cách sống như dân thường cả triều đình ai cũng mến yêu.

– Tiên Dung không những đức hạnh nết na hơn người mà còn nhan sắc thời tuyệt trần ai nhìn thấy cũng phải đắm say. Có khối người dạm hỏi toàn là những con nhà danh giá, nhưng Tiên Dung vẫn làm lơ, không nghĩ gì đến chuyện trăm năm. Tuổi tuy đã lớn 19 xuân xanh nhưng không chịu lấy chồng, điều nầy làm cho Hùng Duệ Vương bực mình. Nhưng vì thương con nên chiều theo ý con. Tiên Dung chỉ thích cho người chèo thuyền đi xem sông núi. Vua Hùng chìu ý con cấp cho chiếc thuyền lớn cũng như đầy đủ tiện nghi có cung nữ theo hầu hạ, quân binh bảo hộ Tiên Dung cho người chèo thuyền đi hết nơi nầy đến nơi khác.

Dòng sông nước chảy lờ đờ

Thuyền đi lặng lẽ tháng ngày trên sông

Bốn bề phong cảnh đẹp xinh

Xa xa đồng ruộng lũy tre đàn cò

Lòng riêng ta lại với mình

Chu du sông nước bạn cùng nước non

Bao la trời đất mênh mông

Hòa cùng mây gió núi sông đất trời

Thả hồn chẳng vướng tục trần

Màng chi danh lợi chịu nhiều đắng cay

Chi bằng sông nước đó đây

Trăng soi khắp chốn chim bay đại ngàn

Dòng sông nước chảy lờ đờ

Thuyền đi lặng lẽ tháng ngày trên sông

Tiên Dung lòng say sưa chu du sông nước nay đây mai đó ngắm cảnh quên đời.

Trời mây nắng gió đưa đường

Thuyền đi nhè nhẹ trên dòng sông lô

Khúc sông tiền định nên duyên

Tiên Dung, Đồng Tử vang danh để đời

Một hôm Tiên Dung đi thuyền chơi trên sông Lô, thuyền của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thuyền thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chữ Xá tiếng mái chèo làm dậy cả mặt nước, thuyền trước thuyền sau khuấy động cả một vùng Chữ Đồng Tử trông thấy hoảng hồn, vội vứt dụng cụ bắt cá vào bụi. Còn mình thời chạy nhanh lên bãi cát, nhanh tay bới cát vùi lấp thân mình không cho ai nhìn thấy, tưởng thế là yên.

Nào ngờ duyên định tiền duyên

Đất trời vầy cuộc nên đôi vợ chồng

– Tiên Dung ngồi trên thuyền nhìn ngắm cảnh sông nước hai bên bờ bãi cát trông thật đáng yêu, nàng ra lệnh cho thuyền chậm lại, trước mặt nàng là bãi cát có nhiều cây xanh bóng cây tỏa mát. Một cơn gió thoảng qua cành lá đong đưa trông đẹp mắt vô cùng, cảm thấy lòng mình như muốn dừng chân nghỉ nơi đây, liền ra lệnh cho quân binh tấp ghe vào bãi cát.

– Tiên Dung từ trên thuyền bước xuống ngắm nghía một hồi chọn chỗ nghỉ chân, dưới một tàn cây xanh mướt, mắt nàng nhìn thấy nơi đây thật đáng yêu, liền ra lệnh cho thị nữ giăng màng tứ vi để tắm.

Trên bầu trời gió mây che mát

Dưới dòng sông sóng nước êm êm

Lòng Tiên Dung quả tim thôi thúc

Tắm gội mình, sạch bớt bụi dơ

Tòa thiên nhiên, vóc hình trắng nuốt

Tuy xác phàm, chẳng khác gì tiên

Nào hay duyên định tiền duyên

Mối tình thượng giới tái sinh chốn trần

Tiên Dung thỏa thích trong lòng

Xối lia xối lịa chừng nhìn hổi ôi.

– Nói về Chử Đồng Tử lấp mình trốn dưới cát, bị Tiên Dung xối nước tắm trôi cát ló mặt ra, không thể tránh được nữa liền ngồi dậy trần truồng như nhộng. Tiên Dung trông thấy giật mình, không la lên mà vô cùng trầm tỉnh, không gọi thị nữ mà còn ra lịnh cho thị nữ lùi ra xa.

– Tiên Dung hỏi chàng từ đâu tới sao lại chôn mình dưới cát. Chử Đồng Tử nói thưa công nương vì quá nghèo cái khố còn mua không nổi, nói chi quần áo. Thường ngâm mình dưới nước bắt cá đổi lấy bát cơm sống qua ngày. Thấy thuyền quân binh thời sợ nên phải vùi mình lấp cát để trốn ẩn. Nào hay đâu sự việc ra thế nầy.

– Tiên Dung nói Ta đã nguyện là không lấy chồng chu du sông nước qua ngày. Bầu bạn với đất trời mây gió, Phải chăng Tạo Hóa đã an bày, xui khiến Ta đến chốn nầy để rồi gặp chàng trong cảnh ngộ hôm nay tác hợp nên duyên chồng vợ.

– Chàng hãy tắm gội sạch sẽ để thiếp xem nào, Chử Đồng Tử tắm gội xong trở thành chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú. Tiên Dung nhìn thấy rung động quả tim như đã quen nhau từ bao đời. Tiên Dung lấy quần áo đưa cho mặc. Chử Đồng Tử trong nháy mắt đã lột xác trở thành một con người khác, chẳng khác gì Tiên Long ở trên trời.

– Tiên Dung đưa Chử Đồng Tử xuống thuyền, sai thị nữ chuẩn bị tiệc hoa, bái Thiên bái Địa nên duyên vợ chồng. Chử Đồng Tử nói nàng là Công Chúa đài các, còn Ta là chàng trai nghèo xác nghèo xơ. Hơn nữa hôn sự là do Cha Mẹ quyết định.

Tiên Dung nói em là dòng dõi Hùng Vương, cũng chính là con cái Nhà Trời con Rồng cháu Tiên. Tiên Đế Quốc Tổ thời dựng nước đâu cấm trai nghèo gái giàu không được yêu nhau. Cũng đâu có buộc con cái có chồng gả vợ theo ý Cha Mẹ, mà là tự nguyện đến với nhau. Cha Mẹ thuận theo duyên nợ mà tác hợp cho đôi lứa.

Thiếp với Chàng là do Trời xe duyên không thể làm trái ý Trời việc gì mà Chàng từ chối.

– Chử Đồng Tử nghe Tiên Dung phân tích có lý liền nghe theo. Từ hôm ấy hai người thành vợ thành chồng.

– Hùng Duệ Vương vô cùng tức giận, cho người lấy lại hết thuyền bè cũng như gọi hết binh lính cùng thị nữ người hầu trở về. Tiên Dung chỉ còn lại một mình đi theo Chữ Đồng Tử, chung sống với nhau tìm kế sinh nhai. Tiên Dung bán sạch những châu báu nàng có cùng Chữ Đồng Tử ra sức làm ăn. Tiên Dung lèo lái vượt qua bao cảnh khó khăn làm ăn mỗi ngày mỗi thịnh vượng, dần dần lập thành làng thành xóm, cũng như sắm được thuyền bè.

Chữ Đồng Tử là người rất thông minh nên mọi việc làm ăn thường trôi chảy. Một hôm có người khuyên bảo mở rộng làm ăn tiếp cận dân làm nghề biển, cũng như tìm kiếm những vật lạ đem về trao đổi những thứ khác. Vì thời đó cũng có nhiều thương gia làm giàu bằng con đường nầy. Tiên Dung nghe theo, để Chữ Đồng Tử ra đi bước vào hành trình thương gia.

Bao chuyến đi Chử Đồng Tử đem về bao lợi phẩm sự trao đổi mua bán càng thêm tấp nập, làng Xá Chữ từ đó giàu lên.

– Cho đến một hôm Chử Đồng Tử muốn làm ăn lớn bằng du thuyền ra miền Trung Hải, Trung Văn Lang đã bị quân Triệu chiếm đóng, nhưng sự giao thương giữa Trung Văn Lang, Nam Văn Lang vẫn thường qua lại nhất là trên địa phận về biển.

– Chử Đồng Tử đi qua một nơi phải nói là phong cảnh tuyệt đẹp, trên núi lại có một cái am nhỏ. Trong lòng như ai mách bảo con phải lên cái am kia. Chử Đồng Tử liền ghé thuyền leo lên sườn núi thời gặp một nhà sư, vì khi đó Phật Giáo đã ra đời trên hai trăm năm. Chử Đồng Tử nhìn nhà sư thần thái khác thường hình như trông có vẻ đắc đạo. Nhà Sư ấy tên là Phật Quang.

Nhà Sư đã biết trước Chữ Đồng Tử sẽ đến đây nên ra tiếp đón mời Chử Đồng Tử vào am. Chử Đồng Tử là người mộ đạo nên cầu pháp để nghe. Phật Quang thuyết giảng nói trần gian chỉ là nơi cõi tạm Thiên Đàng mới thật là chánh quê. Không ai có thể sống mãi nơi trần gian, dù cho đó là người giàu có nhất thiên hạ, cũng như quyền lực nhất trần gian, đều phải chết đi và bỏ lại tất cả. Linh Hồn ra đi với hai bàn tay trắng. Khổ nhọc một đời rốt lại chỉ là trống không. Chi bằng tu hành chứng quả trường sanh trở lại Thiên Đàng Cực Lạc. Chử Đồng Tử liền tỉnh ngộ bái sư.

Chử Đồng Tử không nghĩ đến việc du thuyền ra biển hành nghề thương buôn nữa, liền ở luôn đó. Nhà Sư liền truyền pháp thuật cho Chữ Đồng Tử. Chử Đồng Tử Tu Luyện được một năm thời Nhà Sư cho Chữ Đồng Tử xuống núi trao cho một cái Gậy và một cái Nón, nói đây là hai bảo bối khi cần thời dùng đến.

Nói về Tiên Dung, nhớ nhung Chử Đồng Tử sau chuyến nầy chàng đi lâu quá chưa về ngày đêm lo lắng trong lòng, ngồi trong nhà nhìn theo dòng sông nào thấy thuyền chàng trở lại.

Chàng ở nơi nào chàng ở đâu

Để em đơn lẻ, những u sầu

Mùa đông sắp đến, tim lạnh giá

Giọt mưa lộp độp, những đêm thâu

Hỡi chàng, chàng hỡi, bao thương nhớ

Tháng đợi năm chờ, mắt lõm sâu

Lòng em lo lắng, trông biết mấy

Trông bóng hình chàng nào thấy đâu

Qua rồi những giọt mưa ngâu

Bóng chàng biền biệt biết đâu mà tìm

Tiên Dung đang âu sầu, thời nghe dân làng vào báo là Chữ Đồng Tử đã trở về. Tiên Dung mừng rơi nước mắt chạy ra đón. Trên chiếc thuyền ngoài Chử Đồng Tử ra thời trống không chẳng có hàng hóa gì cả. Tiên Dung nào quan tâm đến có hàng hóa hay không chỉ cần Chử Đồng Tử bình yên trở về là được.

Tiên Dung hỏi Chàng đi đâu mà lâu thế. Chử Đồng Tử nói anh đã gặp được Sư Thầy truyền cho pháp thuật, nên anh ở nơi am cốc tu luyện nên không mua bán trao đổi hàng hóa gì cả, trở về với chiếc thuyền không. Tiên Dung nghe Chử Đồng Tử được Sư Thầy truyền cho pháp thuật bằng nói. Chàng đã học được những gì.

– Chử Đồng Tử liền đem phép mầu truyền cho Tiên Dung cũng như giảng đạo cho Tiên Dung nghe, Chử Đồng Tử nói chúng ta là người ở cõi thượng thiên sanh xuống chốn nhân gian. Chốn trần gian chỉ là cõi tạm Thiên Đàng mới thật chính quê. Chúng ta mau tu luyện trở về thiên giới. Tiên Dung vốn là người mộ đạo nghe Chử Đồng Tử truyền dạy chân lý liền tiếp thu được liền. Từ đó Tiên Dung vừa luyện pháp thuật vừa nghe Chử Đồng Tử thuyết giảng huệ tâm khai mở không bao lâu liền ngộ đạo, biết rõ Niên Đại Hùng Vương sắp kết thúc, Ý Trời đã thế nào ai chống lại được đâu.

– Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử đang luận bàn về chuyện tu hành thời có người đến báo là Hùng Vương sẽ đem quân đến bắt vợ chồng mình, chia cắt vợ chồng đưa Tiên Dung về cung. Chử Đồng Tử nói hai Ta giờ đã có pháp thuật thần thông quân triều đình cũng chẳng làm gì được. Nhưng nếu chống lại quân triều đình thời gây ra tội bất hiếu, thôi thời chúng ta bỏ đi ra khỏi địa phận Vua Cha cai quản. Chúng Ta sẽ chung sống nơi đó Tiên Dung nghe cũng phải liền bỏ xóm làng ra đi. Ra khỏi địa phận phạm vi Vua Cha cai quản, tìm một nơi thanh vắng để ở.

Hai vợ Chồng Chử Đồng Tử đi đến Nam Hải cách xa làng xóm không có người ở thời trời cũng vừa tối, hai vợ chồng chống gậy xuống đất, và lấy cái nón úp lên đầu gậy mục đích là che sương. Hai người tựa vào nhau mà ngủ.

Thương Nhau mấy núi cũng trèo

Mấy sông cũng lội vạn đèo cũng qua

Gặp thời kiếp nạn phong ba

Phải đành bỏ xứ tìm nơi an lành

Đôi tim nhịp đập chung lòng

Miễn sao có vợ có chồng là vui

Tựa lưng nằm ngủ qua đêm

Đến khi thức dậy đổi thay cuộc đời

Lầu đài cung điện sáng ngời

Tiểu đồng, thị nữ cả thời quân binh

Phép mầu kỳ lạ vô biên

Gậy Thần chiếc Nón làm nên diệu kỳ

Nói về hai vợ chồng Chử Đồng Tử tựa lưng vào nhau mà ngủ, đến quá nửa đêm. Hai vợ chồng thức tỉnh, thời thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy, có đủ thứ gi.ường, sạp, màn tướng không thua gì cung điện nhà vua. Lại có cả Tiểu Đồng, Thị Nữ, và Binh Lính rộn rịp ngoài hành lang.

Sáng hôm sau hai vợ chồng ra ngoài cung điện để xem thời thấy có thành cao bao bọc, có Tướng Sĩ canh gác chẳng khác nào một tòa thành lớn. Từ đó Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử sống bên nhau vô cùng hạnh phúc. Có thể nói Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử đã dựng lên một triều đại mới còn hơn cả Hùng Duệ Vương. Tiếng đồn lan xa đến tai Hùng Duệ Vương.

Hùng Duệ Vương cho là làm phản liền sai quân đến đánh. Quân Văn Lang rầm rầm rộ rộ, khi kéo đến gần cung thành vợ chồng Chữ Đồng Tử ở thời trời cũng vừa tối lại nữa sông nước chảy xiết qua không được. Bằng đóng quân tại đó sáng sẽ qua. Đến nửa đêm trời nổi cơn dông sấm sét đầy trời cát bay đá chạy cây cối ngã đổ ầm ầm. Tòa lâu đài bỗng dưng biến mất chỉ còn lại bãi đất trống không, ở giữa đầm. Quân binh triều đình sáng ngày không nhìn thấy cung thành đâu nữa vô cùng kinh ngạc. Cho rằng vợ chồng Chử Đồng Tử đã dời đi nơi khác lấy làm kinh sợ. Nhưng quân Văn Lang nào có biết vợ chồng Chử Đồng Tử thâu lại bảo bối đồng bay về trời.

Nhân dân xa gần thấy điềm lạ cho rằng vợ chồng Chử Đồng Tử là tiên trời xuống thế, đã bay trở lại về trời lập miếu thờ to lớn ngay trên bãi đất trống.

– Đời sau con cháu Triệu Thuẫn là Triệu Việt Vương đóng quân ở Nam Hải thấy đầm đẹp liền cho quân ở đó, chống lại quân Tây Thục. Tiến đánh tướng lĩnh Tây Thục là Dương Lương. Nhưng chưa kịp đánh thời bị quân Tây Thục là Dương Lương vây đánh vô cùng nguy cấp. Triệu Việt Vương thiết đàn cầu Thần giúp. Bỗng thấy một vị Thần cưỡi Rồng hạ xuống đưa cho Triệu Việt Vương một cái móng vuốt Rồng và dặn: Ngươi cắm cái móng vuốt nầy lên chóp mũ, đi đến đâu thời quân Tây Lương tan đến đó.

Nói xong Vị Thần cưỡi Rồng bay lên trời, người cưỡi Rồng bay lên trời không ai khác hơn chính là Tiên Long ở trên Tiên Giới, cũng chính là Chử Đồng Tử khi còn ở chốn nhân gian.

Triệu Việt Vương nhờ có móng vuốt Rồng cắm lên chớp mũ, sức lực tăng lên bội phần, thanh thế mỗi ngày một lớn, mở rộng miền Nam Hải. Đánh bại tướng Dương Lương Tây Thục. Chém được nhiều tướng nữa, quân Dương Lương tan vỡ.

– Tây Thục Vương chính là Thục Phán mất cánh quân Dương Lương lâm vào thế yếu rút về Tây Nam Văn Lang

– Triệu Việt Vương thống nhất Trung Văn Lang. Trung Văn Lang từ đó về tay Triệu Việt Vương cũng chính là Triệu Đà, chỉ còn Nam Văn Lang. Hùng Duệ Vương cai quản Nam Văn Lang không được bao lâu, thời nhường cho An Dương Vương Thục Phán. Niên Đại Hùng Vương kết thúc 258 trước công nguyên.
 
92. ĐỨC VUA SA LA

Ngày xửa ngày xưa có một đất nước Sa La luôn bị các nước xâm lược, dẫn đến đói nghèo lạc hậu, khốn khổ triền miên.

Vua Sa La không biết làm cách nào chống trả quân xâm lược, cũng như giải thoát sự nghèo đói. Các quan cận thần liền tâu rằng tâu Quốc Vương Bệ Hạ, Quốc Vương Bệ Hạ nên lập đàn cầu nhân tài may ra mới cứu được đất nước chúng ta.

Vua Sa La liền làm theo bằng lập đàn cầu nhân tài, kể cả Thần, Thánh, tháng nào cũng cầu khẩn.

Cho đến một hôm từ trên không hạ xuống một người nói Ta là Đức Chúa. Vua Sa La mừng quá liền thỉnh mời vào cung điện tiếp đãi thật trọng hậu. Tiếp đãi xong rồi Đức Vua hỏi Đức Chúa có những tài gì. Đức Chúa nói Ta có thể chữa cho người câm biết nói, người mù sáng mắt, người điếc nghe lại, bệnh trong lục phủ, ngũ tạng ta đều chữa khỏi, với biệt tài trừ ma diệt quỉ, đằng vân giá vũ đi mây về gió thời ít ai sánh kịp Ta.

Vua Sa La nói Đức Chúa quả thật có nhiều phép lạ không ai có thể hơn được. Xin Đức Chúa chữa bệnh ngu căn bệnh chạy theo ngoại bang Quan, Quân, Dân của Trẫm để cho Quan, Quân, Dân của Trẫm hết ngu trở lại thông minh, tự đứng vững trên đôi chân truyền thống nước nhà, cùng nhau phát huy nội lực sẵn có của Dân Tộc mình, thời may ra đất nước mới bình yên được, cũng như đẩy lùi quân xâm lược, sánh vai với các nước láng giềng. Đức Chúa nghe xong rồi nói thưa Bệ Hạ. Sự yêu cầu của Bệ Hạ, Đức Chúa Tôi không đủ khả năng để chữa nổi căn bệnh ngu chạy theo ngoại bang xin xỏ nầy, xin xỏ kia, mất tánh tự chủ độc lập, đói nghèo là chuyện nhỏ, nô lệ mới là chuyện lớn căn bệnh ngu nầy khó chữa vô cùng may ra chỉ có Thiên Thần Vũ Trụ, chữa khỏi bệnh ngu nầy mà thôi. Đức Chúa nói xong bay lên không trung biến mất.

Vua Sa La nghe Đức Chúa giới thiệu chỉ có Thiên Thần Vũ Trụ mới chữa được căn bệnh ngu si, nhất là căn bệnh đánh mất lòng tự chủ độc lập chỉ biết hướng ngoại tôn thờ ngoại bang, thời lấy làm mừng ra sức cầu khẩn Thiên Thần Vũ Trụ, nhờ sự cầu khẩn kiên trì động đến Thiên Thần Vũ Trụ. Vua Sa La đang cầu khẩn thời có một người từ trên không đáp xuống nói Ta là Thiên Thần Vũ Trụ.

Vua Sa La lấy làm mừng lắm thỉnh mời Thiên Thần Vũ Trụ vào cung điện tiếp đãi đủ món ngon vật lạ thuộc hàng cao cấp hiếm quý, tiếp đãi xong Vua Sa La nói thưa Thiên Thần Vũ Trụ, Thiên Thần Vũ Trụ có những tài gì? Thiên Thần nói Ta có thể làm cho ban ngày trở thành ban đêm, như lấy tay che khuất mặt trời, dời non lấp biển, làm mưa làm gió, đi xuyên tường, ngồi trên lửa. Vua Sa La nghe Thiên Thần Vũ Trụ nói thế thời kinh hãi vái lạy rồi nói.

Thưa Thiên Thần Vũ Trụ: Quân, Dân, Thần Tướng, của Trẫm mắc chứng bệnh ngu, căn bệnh chạy theo ngoại bang làm cho đất nước không yên, chia bè rẽ phái đấu đá lẫn nhau, sanh ra nghèo đói, bọn ngoại xâm thấy thế coi thường, lấn lần đất đai xâm lấn biên cương. Xin Thiên Thần Vũ Trụ chữa căn bệnh ngu đã ăn sâu vào tủy não, Quân, Dân, Thần Tướng, của Trẫm. Trẫm vô cùng biết ơn.

Thiên Thần Vũ Trụ nghe xong rồi nói căn bệnh ngu nầy mới nghe thời không có gì, nhưng thật ra một thứ bệnh phải nói là vô cùng khó chữa. Thần có thể làm cho nhân loại khiếp sợ vì thần thông pháp thuật của Thần. Nhưng với căn bệnh ngu nầy thời Thần không thể nào chữa khỏi được có thể nói ngoài tầm tay. May ra chỉ có các vị Thiên Tiên mới chữa khỏi nói xong Thiên Thần Vũ Trụ biến mất.

Vua Sa La không nản chí tiếp tục khẩn cầu lên các vị Thiên Tiên, không bao lâu thời thấy một người từ trên không bay xuống nói Ta là Thiên Tiên trên trời thấy Đức Vua thành tâm cầu khẩn nên Ta mới đến đây. Vua Sa La nghe nói Thiên Tiên trên trời thời mừng lắm liền mời vào cung điện tiếp đãi long trọng, nào là đờn ca sáo thổi, nào là cung phi mỹ nữ hát múa, món ngon vật lạ đủ thứ, chẳng thiếu món chi. Tiếp đãi xong Vua Sa La nói Thiên Tiên có những tài gì? Thiên Tiên nói Ta có rất nhiều bảo bối. Vị Thiên Tiên lấy ra một bầu hồ lô nói bầu hồ lô nầy có thể hút sạch nước biển. Cũng có thể làm cho trái đất ngập chìm trong biển nước. Vị Thiên Tiên lấy ra một túi vải nói, với bảo bối đảy càn khôn nầy Ta có thể hút hết nhân loại, chim muôn, vạn thú vào túi mà cũng chưa đầy. Vị Thiên Tiên lại lấy ra một cái quạt nói đây là quạt càn khôn, chỉ cần quạt một cái là sạt núi, quạt hai cái là cây cỏ chẳng còn bị cuồng phong cuốn đi sạch bách, Vị Thiên Tiên liền lấy ra một gậy Thần rồi nói Ta chỉ cần động đầu gậy nầy xuống đất ba cái tức thời lầu đài cung điện hiện ra, có cả quân canh lính giác. Vua Sa La lấy làm kinh khiếp bằng nói, quả là Thiên Tiên có khác thần thông pháp thuật vô biên. Vua Sa La liền thưa rằng thưa Thiên Tiên. Thiên Tiên hãy làm cho Quan, Quân, Dân của Trẫm hết chứng bị ngu. Nhất là bệnh quên Cội quên Nguồn. Cha Ông thời bỏ, ngoại bang thời mơ thời tưởng chạy theo. Kẻ thời chạy theo nước nầy người thời chạy theo nước kia. Ngu đến nỗi chỉ biết tôn thờ ngoại bang mà quên mất Ông Cha có công dựng nước giữ nước Truyền Thống Anh Linh thời ngó lơ không nghĩ tới, chỉ lo chạy theo xu thế tôn thờ tà thuyết ngoại bang, làm cho đất nước tan hoang nghèo đói lạc hậu, thấy giặc ngoại xâm thời sợ cũng do chứng bệnh ngu mà ra, xin Thiên Tiên trị liệu giùm cho đất nước Sa La mang ơn mãi mãi.

Vị Thiên Tiên nghe xong rồi nói với chứng bệnh ngu nầy thời Thiên Tiên tôi đành phải bó tay không cách gì cứu chữa được. May ra chỉ có hàng Đại Thánh mới chữa khỏi được, nói xong vị Thiên Tiên biến mất.

Vua Sa La không nản chí tiếp tục lập đàn tế lễ khẩn cầu lên các vị Đại Thánh không bao lâu thời thấy một người từ trên trời hiện xuống nói Ta là Đà La Đại Thánh. Đức Vua Sa La nghe nói Đà La Đại Thánh thời lấy làm mừng rỡ liền mời Đa La Đại Thánh vào cung điện tiếp đãi tận tâm nào là món ngon vật lạ, nào là đàn sáo, ca múa tán dương Đại Thánh. Tiếp đãi xong Đức Vua Sa La liền nói Đà La Đại Thánh có tài gì? Đà La Đại Thánh nói Ta có thể làm cho muôn dân sống trong trật tự, làm cho quỉ, ma khiếp sợ, làm cho thiên hạ hướng về một mối lập nên đất nước như không, dân yếu Ta có thể làm cho dân mạnh. Đức Vua nghe xong lấy làm mừng cái tài của Đà La Đại Thánh không ai hơn được. Căn bệnh ngu của Quan, Quân, Dân Chúng có thể chữa được rồi thật là may mắn cho đất nước Sa La. Đà La Đại Thánh nghe đến bệnh ngu thời lắc đầu. Thứ bệnh nầy khó chữa lắm may ra Phật mới chữa được. Còn Đà La Đại Thánh Ta thời chịu thua nói xong thời biến mất.

Đức Vua Sa La bằng lập đàn cầu Phật, cầu ngày cầu đêm, đang cầu thời Đức Phật hiện ra nói Ta là Phật Hà Sa. Đức Vua Sa La lấy làm mừng lắm, liền thỉnh Đức Phật vào cung điện tiếp đãi vô cùng trọng hậu Đồ ăn thức uống đủ món chế biến cầu kỳ, trái cây đủ màu trăm loại, ngũ cốc quý hiếm trăm thứ, hoa tươi trăm bó thơm ngát. Tiếp đãi xong Đức Vua Sa La liền nói Đức Phật có những tài gì. Đức Phật nói tài gì Ta cũng có, biết quá khứ, hiện tại, vi lai, như ở trước mắt, thấy rõ tam thiên đại thiên thế giới như trong lòng bàn tay, tai nghe khắp vũ trụ, biết tất cả các thứ tiếng dù cho đó là tiếng của cầm, thú, bò sát, sâu bọ. Ta có thể chỉ cho con người đi đến giải thoát sanh tử đi đến trường sanh an vui tự tại. Đức Sa La nghe phật Hà Sa nói thế lấy làm mừng lắm. Bằng nói xin Đức Phật chữa trị bệnh ngu. Quan, Quân, Dân của Trẫm khai mở tâm trí huệ, tự mình đứng vững trên đôi chân của mình không còn chạy theo ngoại bang. Phát huy nội lực, tiến đến dân giàu nước mạnh, theo kịp các nước văn minh, không còn lệ thuộc ngoại bang, cũng như đánh đuổi ngoại xâm, giữ vững độc lập muôn năm trường tồn bất diệt, rạng danh dân tộc Sa La.

Đức Phật nghe xong rồi nói. Cái Tánh Ngu Si đã là khó chữa, huống chi nó đã ăn sâu nhiều đời nhiều kiếp Phật Ta đành chịu thua. Nhưng Ta có thể chỉ cho Vua một người, người ấy đã sanh xuống nhân gian chỉ là người nông dân bình thường. Chính là Đức Chí Tôn đầu thai làm theo Thiên Ý Cha Trời. Đức Vua hãy đến thôn Bất Tử, núi Cô Độc, Xã Minh Sáng mà cầu người ấy. Nói xong Đức Phật biến mất.

Nói về thôn Bất Tử, núi Cô Độc, Xã Minh Sáng có một người nông dân sống giản dị bình thường. Thiên Hạ mơ sống giàu sang, còn ông ấy thời sống nghèo nàn cũng được. Người ta thích đua đòi ăn mặc sung sướng, còn ông thời suốt ngày năm tháng với bộ quần áo rẻ tiền. Người ta thời thích những đặc sản cao lương mỹ vị nem rồng chả phụng. Còn ông ấy chỉ thích tương rau qua ngày. Vua Sa La tìm đến nhìn thấy rồi định bỏ đi vì sự giản dị của ông ấy. Nhưng không lẽ Phật lại chỉ sai bằng quay trở lại vào gặp người nông dân rồi hỏi, người có phải là Đức Chí Tôn đầu thai xuống chốn nhân gian không? Người nông dân không trả lời ngâm bài thơ nông dân.

Người, nón, cuốc, thường kết bộ ba

Thi nhau lo chuyện, nước non nhà

Đất rộng sông dài, ngang dọc bước

Mưa gào nắng gắt, vẫn xông pha

Đạp sóng trùng dương, dời biển cả

Chuyển cao lấp trũng, đất bằng ra

Nước có nước không, thường như ý

Vung tay rừng mọc phủ hà sa

Dưới bùn sen nở, nào ai biết

Ngu hèn tài trí, khéo nhìn ra

Kỳ nhân thế sự, thường là thế

Nông dân đâu thể, chẳng tài ba

Đức Vua Sa La nghe xong bài thơ liền quỳ xuống nói xin Đức Chí Tôn cứu nước Sa La.

Người nông dân liền mời Đức Vua đứng dậy rồi nói Đức Vua không nên quỳ như thế Tạo Hóa sinh ra đều bình đẳng, và cũng đã ban cho con người những Quyền về Quyền con người không ai khác ai, ai cũng như ai biết tôn trọng nhau là đúng luật. Đã là Đức Vua người nắm giữ Công Lý ban hành Công Lý không nên hạ mình như thế. Chân mệnh Thiên Tử chính là con Trời thừa hành di chí của Trời làm theo Thiên Ý của Trời cứu dân độ thế. Con người sinh ra ai cũng có phần hồn, phần xác. Phần thể xác dưỡng nuôi bằng vật chất, phần Linh Hồn thời dưỡng nuôi bằng Văn Hóa.

Một Dân Tộc dù giàu có cho mấy mà thiếu đi Văn Hóa Chính Nghĩa thời tai hại vô cùng. Không nói là dẫn đến ngu si. Một đất nước nghèo đến đâu mà có Văn Hóa Cội Nguồn Chính Nghĩa, thời đất nước ấy trở nên dân giàu nước mạnh, không có đất nước nào địch nổi.

Ta có bảy bộ kinh thơ chữa trị căn bệnh ngu đã ăn sâu trong linh hồn vô lượng kiếp. Nhà Vua đem về truyền dạy cho hàng Vương, Quan, Quân, Dân, cùng nhau ra sức tu học thời căn bệnh ngu si biến mất không còn, ai nấy cũng trở nên thông minh, trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Bất Chiến Tự Nhiên Thành, quân thù không cần đánh tự lui.

Việc truyền bá nầy không những trị hết căn bệnh ngu si Vương, Quan, Tướng Tá, Dân Chúng mà còn tiến tới dân giàu nước mạnh độc lập lâu dài. Nhờ truyền Thiên Ý Đức Vua thêm phước phần to lớn. Khi mãn kiếp trần trở về trời làm vua cõi trời cai quản Thiên Chúng an vui tự tại. Đức Vua Sa La bừng tỉnh ngộ không phải có thần thông quảng đại, phép tắc vô biên mà chữa được căn bệnh ngu si của nhân loại. Mà phải có Văn Hóa Cội Nguồn Văn Hóa Thiên Ý mới chữa khỏi căn bệnh ngu si mà thôi, trong ba căn bệnh Tham Lam, Sân Hận, Ngu Si, thời bệnh Ngu Si là anh cả hai căn bệnh kia. Căn Bệnh Ngu Si mà chữa khỏi, thời hai căn bệnh kia cũng tự biến mất.

Đức Vua trở về cung ra lệnh cho các Vương, Quan, Tướng Tá, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn khắp cả nước. Dân Sa La đọc tới đâu thời bệnh ngu tiêu tan đến đó càng đọc càng sáng càng thông minh, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh trở thành dân tộc Thần Thánh vang lừng thế giới, quân thù không cần đánh tự lui. Thái bình thịnh trị độc lập âu ca.
 
93. CÔNG CHÚA TIÊN NGA

Ngày xửa ngày xưa có một ông Vua Ô Kê nhân từ hiền đức thương dân hết mực, nhìn Hoàng Hậu Ê Ly mang thai luôn mơ ước nếu sinh được con trai thời uy nghi như Thần Tiên giáng thế, nếu sinh là gái thời đẹp như Tiên Nga.

– Sự mơ ước ấy đã trở thành sự thật Hoàng Hậu Ê Ly sinh ra một vì Công Chúa xinh đẹp như ước mơ của Đức Vua. Vua Ô Kê đặt tên cho con là Tiên Nga. Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, không những xinh đẹp tuyệt trần lại còn thông minh khác thường văn hay chữ tốt, cầm, kỳ, thi, họa, không ai sánh bằng, công, dung, ngôn, hạnh, không ai sánh kịp. Tấm lòng thương người vang dội nước Ô Kê, Vua và Hoàng Hậu yêu quý Công Chúa Tiên Nga còn hơn cả mạng sống của mình.

– Sắc đẹp, tài, đức, vẹn toàn vang danh khắp chốn vang dội núi rừng đến tai Ác Lai phù thủy, mụ liền tìm đến cung vua hóa thành một người tướng số, vai mang xách châu báu, xin gặp Đức Vua Ô Kê và Hoàng Hậu Ê Ly. Đức Vua và Hoàng Hậu liền cho người mời vào hỏi chuyện quá khứ, hiện tại, vi lai. Mụ phù thủy Ác Lai trổ tài nói đâu trúng phóc đó Vua và Hoàng Hậu tin rấm rót, khen không hết lời.

Hoàng Hậu nói Ta có cô Công Chúa tuổi cập kê tương lai không biết ra làm sao, Ác Lai phù thủy nói chuyện đó thời quá dễ chỉ cần dẫn Công Chúa đến đây xem qua thời biết tương lai. Hoàng Hậu liền cho người mời Công Chúa đến.

Thầy tướng số Ác Lai phù thủy vừa nhìn thấy Công Chúa thời không khỏi giật mình người gì mà đẹp quá vậy quả là lời đồn không sai, bằng muốn cướp lấp xác thân Công Chúa Mụ Phù Thủy Ác Lai tính mưu tính kế bằng nói tôi đã xem rồi, những gì tôi nói ra Công Chúa không được nghe, vì Công Chúa nghe sẽ xảy ra nhiều tai họa. Vua và Hoàng Hậu cho Công Chúa lui, khi Công Chúa đi rồi thầy tướng số Ác Lai phù thủy nói Công Chúa không phải là người đâu trên đầu có yêu khí có thể là yêu tinh đầu thai nhờ thần thông biến hóa mới xinh đẹp như vậy.

Không tin Hoàng Hậu đeo chiếc vòng nầy vào tay Công Chúa, nếu Công Chúa không hiện lại nguyên hình, thời không phải là yêu tinh. Nói xong thầy tướng số Ác Lai phù thủy lấy ra một chiếc vòng ngọc xinh đẹp tỏa ánh sáng lung linh trao cho Hoàng Hậu. Với nụ cười bí hiểm nói. Nếu Công Chúa hiện nguyên hình là yêu tinh đừng làm hại Công Chúa mà làm cho Công Chúa một ngôi nhà trên rừng sâu nơi không có người đến để cho Công Chúa ở đó.

Một hôm Công Chúa đang ngồi vẽ tranh, thời Hoàng Hậu Ê Ly vào phòng nói với Tiên Nga con hãy đeo chiếc vòng nầy vào tay. Tiên Nga nói con xưa nay không thích đeo vòng tay. Hoàng Hậu càng sinh nghi không lẽ nó là yêu tinh thật nên sợ đeo vòng vào tay. Hoàng Hậu liền cầm tay con gái đeo chiếc vòng vào tay Tiên Nga. Tức thời Tiên Nga rú lên một tiếng hiện thành một cô gái xấu xí nhìn thấy là ghê tởm. Hoàng Hậu khiếp kinh hãi hùng ngất xỉu hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại nhìn cô gái xấu xí hỏi chiếc vòng trên tay của cô đâu. Cô gái xấu xí nhìn Hoàng Hậu khóc nức nở con không biết. Hoàng Hậu ra khỏi phòng Công Chúa nói với Đức Vua nhất định là yêu quái đầu thai rồi, Đức Vua cũng lấy làm kinh sợ, nhưng vì quá thương con nên không nở giết đi. Nhớ lại lời người xem tướng bằng đưa Công Chúa đến một nơi thật xa trên rừng làm nhà trên ấy cho Công Chúa ở.

– Công Chúa trước khi bị quân lính đưa đi nhìn Cha Mẹ nước mắt chảy ròng ròng. Đức Vua Hoàng Hậu bỏ đi. Công Chúa liền ngâm mấy dòng thơ.

Con biết nói sao, do bởi chiếc vòng

Biến con gớm ghiếc, đau lòng mẹ cha

Con nào có phải yêu tinh

Mà con của mẹ cưu mang sinh thành

Nay rời xa, cung vàng điện ngọc

Vào rừng sâu, đày đọa thân hình

Sống đời cô độc một mình

Heo mây gió núi gập ghềnh gian nan

Cầu cho cha mẹ bình an

Sống lâu hạnh phúc ngập tràn niềm vui

Đức Vua, Hoàng Hậu nghe Công Chúa đọc thơ lòng đau như cắt, tiếng quân binh xa lần mất hút, Đức Vua nhìn Hoàng Hậu chỉ biết thở dài.

Nói về Tiên Nga giờ đây chỉ còn lại một nơi núi rừng không một bóng người, ngồi trong ngôi nhà được quân binh dựng lên cách xa cung thành hàng mấy mươi dặm. Tiên Nga lủi thủi một mình trong cô quạnh sống cùng cây rừng gió núi, ngày nghe khỉ hú tối nghe cọp gầm. Lương thực ăn hết cạn lần cuối cùng rồi cũng hết.

Công Chúa vốn tay yếu chân mềm ngồi cô đơn một mình chờ trông có người đem lương thực đến, như chờ mãi chờ mãi mà không thấy bụng đói như cồn mà chẳng lấy gì ăn. Bỗng đâu đàn chim bay đến nơi những quả chín thả trước mặt Công Chúa. Công Chúa lượm lên ăn, ngày lại ngày qua đã hơn một tháng bỗng trước mặt Công Chúa một người hiện đến chính là mụ Ác Lai phù thủy. Công Chúa liền nhận ra nói té ra là ngươi. Mụ phù thủy Ác Lai nói ngươi quả có con mắt hơn người nên mới nhận ra Ta là thầy tướng số đã vào cung.

Công Chúa lặng thinh không nói gì. Mụ phù thủy Ác Lai nói với Tiên Nga, cũng tại ngươi quá xinh đẹp, đẹp đến nổi ai cũng muốn có được ngươi. Đẹp quá cũng là một cái họa. Nếu trong vòng ba năm không có người đến cứu, thời sắc đẹp của ngươi sẽ thuộc về Ta. Còn linh hồn ngươi sẽ bị ta nhốt vào lồng phép vĩnh viễn.

Người cứu được ngươi phải là chàng trai anh dũng vượt qua bao thử thách gian nan lại hết lòng yêu ngươi. Thời chiếc vòng kia sẽ nổ tung pháp thuật của ta bị lòng chân thật của chàng trai hóa giải Ta sẽ chết ngươi trở lại xinh đẹp như xưa. Nhưng điều nầy không bao giờ xảy ra không ai dại gì vượt qua bao gian nan thử thách để đến với người con gái xấu xí đến phát kinh, ngươi sẽ cô đơn sầu khổ những tháng ngày trong khu rừng nầy đến khi sắc đẹp của ngươi bị Ta chiếm lấy, nói xong thời mụ phù thủy biến mất. Công Chúa bây giờ đã rõ tất cả sự mưu mô Ác độc của mụ phù thủy.

Công Chúa thầm nguyện cầu Trời, cầu Mẹ Đất che chở cho qua tai kiếp, từ đó Tiên Nga Công Chúa lủi thủi một mình sống trong rừng sâu, làm bạn với đàn chim lạ.

– Lại nói về một vùng quê hẻo lánh có cặp vợ chồng Ông Bà Nhân chỉ sống bằng nghề đốn củi đổi lấy gạo ăn, nhưng vô cùng tốt bụng ai cũng mến thương. Sanh được một cậu con trai tên là Kiên Trung. Kiên Trung càng lớn càng khôi ngô tuấn tú khỏe mạnh hơn người, nhưng vì nhà quá nghèo khó mà kiếm được vợ.

Có một hôm Kiên Trung cùng Cha lên rừng đốn củi liền nghe tiếng kêu cứu Kiên Trung liền chạy tới thời thấy một con chim đang dính bẫy không thể nào thoát được, Kiên Trung nhìn xung quanh không có ai bằng hỏi con chim ngươi biết nói tiếng người. Con chim gật đầu, Kiên Trung liền giải cứu. gở cái bẫy cho con chim thoát ra. Nào hay con chim không bay đi nói với Kiên Trung rằng, ta không có gì để đền ơn, thôi thì ta kể một mẫu chuyện rất hay cho ân nhân nghe. Kiên Trung lấy làm kinh ngạc hỏi lại, con chim như ngươi mà cũng biết kể chuyện hay sao đúng là chuyện lạ trên đời. Thôi chim kể đi Ta sẽ ngồi lắng nghe.

Con chim kể rằng Vua Ô Kê có một người Công Chúa vô cùng xinh đẹp tên là Tiên Nga, vì quá đẹp nên mụ phù thủy Ác Lai muốn chiếm đoạt sắc đẹp ấy. Biến Công Chúa thành một người xấu xí ai nhìn thấy cũng ghê tởm Vua Ô Kê và Hoàng Hậu Ê Ly tưởng Công Chúa là yêu tinh đầu thai.

Bằng đày vào rừng sâu sống một mình đêm thời nghe tiếng cọp gầm, ngày thời nghe vượn hú, tháng ngày làm bạn với gió núi cây rừng, thật tội nghiệp cho Công Chúa Tiên Nga tháng ngày sống trong cô đơn, không một bóng người lai vãng, may nhờ đàn chim chu cấp trái cây nên Công Chúa mới sống được tới ngày hôm nay.

Công Chúa nghĩ mình quá xấu xí dù cho ra khỏi khu rừng xuống đồng bằng thời ai ai cũng xa lánh, nói gì đến có chồng ai mà ưng. Thôi thì ở mãi trong rừng sâu cho đến ngày ra đi từ giả cõi trần, Công Chúa ở trong khu rừng đến nay gần được ba năm rồi theo lời nguyền của mụ phù thủy nếu trong vòng ba năm không có người đến cứu thời coi như Công Chúa không còn trên đời vì thân xác Công Chúa trở thành thân xác của Mụ Phù Thuỷ Ác Lai. Lại nữa đàn chim sẽ không đến vì sắp đi xa tìm nguồn thức ăn, Công Chúa tay yếu chân mền làm sao kiếm được thức ăn. Không may bị cọp sói xơi mất, thật là tội nghiệp.

Kiên Trung càng nghe càng ứa nước mắt, liền hỏi con chim Công Chúa hiện giờ ở đâu. Con chim nói từ đây đến đó rất xa, đường đi toàn là rừng núi. Kiên Trung cương quyết nói tôi quyết đi tìm Công Chúa. Con Chim nghe Kiên Trung nói thế liền chỉ đường cho Kiên Trung.

Kiên Trung trở về nhà kể lại câu chuyện Công Chúa lâm nạn rồi nói, Thưa Cha Mẹ gia đình mình nghèo làm gì có tiền cưới vợ, chi bằng con đi vào rừng sâu dẫn Công Chúa về đây chung sống với gia đình mình. Theo con nghĩ xấu tốt cũng là con người, biết bao nhiêu người xinh đẹp nhưng lòng lại rất xấu.

Cha Mẹ Kiên Trung nghe con nói thế thời lấy làm xót xa vì nhà quá nghèo khó mà cưới được vợ cho nó. Nên nó đành phải đi tìm người con gái xấu xí kia.

Kiên Trung khăn gói lên đường đi được một ngày thời gặp một người đi ngược chiều từ xa đi đến hỏi ra mới biết người ấy tên Lúa, Đức Trung hỏi ông bạn có biết khu rừng âm u không? Người ấy nói tôi từ khu rừng ấy trở về thật ra chẳng có gì như người ta đồn chỉ có một người con gái phải nói là quá xấu, xấu còn hơn quỉ dạ xoa tôi thà lấy ma còn hơn lấy người con gái ấy. Người tên Lúa nói về đi ông bạn không đem lại kết quả gì đâu.

Kiên Trung nói cảm ơn ông bạn đã cho tôi biết thêm những gì tôi cần biết. Kiên Trung không trở về mà còn đi tiếp, đi một đổi đường khá xa liền gặp một người thanh niên đang ngồi nghĩ hỏi ra mới biết người thanh niên ấy tên Ngô. Kiên Trung liền hỏi thưa anh Ngô khu rừng âm u còn xa không? Người thanh niên tên Ngô nói còn rất xa tôi từ chỗ ấy đến đây thật không sao tưởng tượng được tôi đã mất công tìm đến khu rừng âm u nghe nói người con gái ấy rất xấu tôi tưởng rằng có thể ưng được nào hay đâu vừa nhìn thấy tôi đã bỏ đi không nhìn lại, nói xong người ấy bỏ đi.

Kiên Trung nhìn theo có chiều suy nghĩ. Nhưng nhớ lại câu chuyện con chim kể thời vô cùng xúc động liền tiếp tục lên đường tìm đến khu rừng âm u. Đi được một đổi khá xa thời thấy một người đi ngược chiều từ xa đi tới, hỏi ra mới biết người thanh niên ấy tên Khoai. Kiên Trung hỏi thưa anh Khoai khu rừng âm u còn xa không? người ấy nói không còn xa nữa đâu đi hơn nữa ngày nữa là tới. Tôi đã đến nơi ấy rồi vừa nhìn thấy cô ta là tôi chạy té khói. Xấu ơi là xấu làm sao mà lấy làm vợ được, trông chẳng khác nào quỉ sứ yêu tinh, người ấy nói xong thời bỏ đi.

Kiên Trung gặp ba người, người nào người nấy đều khuyên mình trở lại phí sức bỏ công vô ích cho chuyện không đâu đôi khi còn mất mạng, đôi lúc Kiên Trung muốn bỏ cuộc. Nhưng nhớ đến lời con chim kể Kiên Trung quyết lòng không bỏ cuộc chịu đói chịu khác vượt qua không biết bao nhiêu là đồi rừng may thay trước mặt nhìn thấy một cái quán nhỏ bên đường bằng ghé vào nghỉ mệt.

Tiền đâu mà ăn mà uống chỉ lấy nắm xôi cất trong mình ra ăn cho đỡ đói. Vô tình nghe người ta bàn tán người bận áo đen nói thật tội nghiệp cho ba chàng trai tìm chưa thấy Công Chúa xấu xí thời bị cọp xơi mất một mạng. Hai chàng trai còn lại chạy té khói quên sống quên chết thế mà quỷ chẳng tha, ma lại bắt vẹn cổ chết thê chết thảm bỏ xác nơi rừng hoang, cha mẹ ở nhà chờ trông không thấy con trở về buồn rầu thương nhớ lắm. Công Chúa chỉ là cái hư danh vì Vua Ô Kê đã bỏ cô từ lâu, đâu còn là Công Chúa nữa, thật ra mà nói người con gái kia giờ đây chỉ là một người con gái xấu xí gần ba năm ăn đói ăn khác nghèo xơ nghèo xác chẳng có một đồng trong túi ngon lành gì mà ba chàng trai kia đánh đổi sanh mạng ngu ơi là ngu, ngu hết chỗ nói.

Chết bỏ mạng không đáng cha mẹ ở nhà trông đợi đau xót biết bao. Kiên Trung nghe những lời ấy không khỏi thối chí muốn quay trở về. Nhưng nghĩ đến lời kể của con chim Công Chúa sẽ chết lần chết mòn trong rừng nếu không có người đến cứu. Thân là Công Chúa mà phải chịu nhiều đau thương như vậy. Kiên Trung như hồi sanh nghị lực quyết cứu Công Chúa cho bằng được vụt đứng lên nhắm hướng rừng âm u đi tới, hoàng hôn buông xuống mặt trời sắp lặn, bóng ma quỉ chập chờn thấy mà phát khiếp Kiên Trung là người can đảm nhưng cũng phải nổi da gà.

Bóng đêm bao trùm tiếng hổ gầm rung chuyển, tiếng thở phì phèo của loài rắn dữ. Kiên Trung trèo lên cây một đêm không ngủ th.ân thể vô cùng mệt mỏi. Mặt trời đã lên cao Kiên Trung tiếp tục lên đường bỗng nghe tiếng la ré kêu cứu Kiên Trung liền chạy đến nhìn thấy một con rắn rượt theo một người con gái Kiên Trung liền dùng gậy đập chết.

Cô gái với làng da trắng nuốt trông thật là xinh đẹp ôm mặt khóc, kể rằng tôi là con Phú Hộ đang đi chơi bị cơn lốc cuốn bay đến đây tôi đang tìm đường trở về nhà thời bị con rắn nầy rượt theo để nuốt. May nhờ chàng cứu mạng thiếp mới còn. Thiếp đã nguyện ai cứu thiếp, thiếp sẽ ưng người đó, cha Thiếp giàu có chỉ có một mình Thiếp là con một. Kiên Trung nghĩ được làm chồng cô gái nầy thời còn gì bằng chuột sa hủ nếp một sức mà hưởng thụ. Cô gái tưởng Kiên Trung sẽ lấy mình làm vợ bằng chạy tới nắm lấy tay hai ta đi thôi. Kiên Trung hỏi đi đâu người con gái nói đi về nhà Thiếp chớ còn đi đâu nữa. Kiên Trung nhìn cô gái xinh đẹp thời nghĩ rằng khối chàng trai quỳ lạy dưới chân, còn người con gái xấu xí kia thời không ai nhìn ngó tới, làm gì có sự may mắn như người con gái xinh đẹp nầy.

Bằng nói Cô đi về nhà đi để cha mẹ Cô trông đợi. Người con gái xinh đẹp bực mình nói xinh đẹp như ta mà không ưng lại đi tìm người con gái xấu xí quả là tâm thần nói xong người con gái xinh đẹp bỏ đi. Kiên Trung vô cùng kinh ngạc không hiểu vì sao cô gái ấy biết mình đi tìm người con gái xấu xí. Kiên Trung một mình lủi thủi nhắm hướng rừng xanh âm u đi đến, trên đường đi Kiên Trung phớt lờ tất cả tai như không nghe, mắt như không thấy, ý chuyên nhất là tìm gặp người con gái xấu xí. Bỗng trời nổi cơn dông sấm sét ầm ầm mây đen cuồn cuộn, mưa như trút Kiên Trung ước như con chuột lột tả tơi như đàn chim gãy cánh. Nhưng chân vẫn cứ bước sức mạnh tình thương đã hóa giải bao phép thuật của mụ phù thủy.

Kiên Trung nhìn thấy căn nhà cũ kĩ một người con gái tựa cửa, như chờ đợi một bóng hình xa xa. Và Công Chúa Tiên Nga đã nhìn thấy một chàng trai từ xa đi tới, tim Công Chúa rộn lên, như cây khô lâu ngày đâm chồi ra lá. Công Chúa liền chạy ra đón chàng trai như đón người thân từ xa đến. Nhưng Công Chúa liền khựng lại vô cùng xấu hổ. Công Chúa cúi mặt xuống đất, định quay trở lại vào nhà. Bỗng Công Chúa nghe tiếng nói ngọt ngào từ chàng trai xa lạ. Công Chúa đừng vội trở vào nhà. Tôi vượt đường xa đến đây không phải là đến để xem mặt Công Chúa. Mà là đến đây để cầu hôn, tôi không chê sự xấu xí, càng xấu xí tôi lại càng yêu thương. Công Chúa nghe chàng trai nói thế nước mắt ràn rụa. Chàng Trai không quan tâm đến khuôn mặt xấu xí của Công Chúa liền bước tới lau nước mắt cho Công Chúa, nắm lấy tay Công Chúa, thấy tay Công Chúa mềm mại vô cùng bàn tay tuyệt đẹp, da trắng mịn như trứng gà bóc, da Công Chúa trắng như tuyết, thân hình mảnh mai đẹp lạ lùng, cầm lòng không được chàng trai hôn lên bộ mặt xấu xí. Tức thời một tiếng nổ vang lên, Công Chúa hiện lại nguyên hình. Chiếc vòng gảy ra từng khúc, mụ phù thủy hiện ra gào thét, cuối cùng trào máu họng ngã lăn ra chết tươi. Bầy chim sa xuống mổ vào mắt mụ phù thủy, rồi bay đi mất dạng. Cọp, sói kéo đến chúng tranh nhau xé xác Mụ Phù Thủy nuốt sạch vào bụng không còn cái xương.

Chàng trai chính là Kiên Trung, quá bất ngờ trước sự việc xảy ra nhìn sửng Công Chúa Tiên Nga. Miệng lẩm bẩm ta đang nằm mơ đây chăng. Công Chúa Tiên Nga mỉm cười nói không nằm mơ đâu hai ta đang nắm lấy tay nhau đây mà. Thế là hai người trở thành vợ chồng chung sống với nhau trong túp lều cũ kĩ.

Công Chúa ở nhà, còn Kiên Trung thời đi săn bắn hái lượm hai người chung sống với nhau thật là hạnh phúc, được ba tháng Kiên Trung nhớ đến cha mẹ ở nhà, liền nói với Tiên Nga anh đưa em về quê anh để sống Tiên Nga nói chàng đâu thời thiếp đó cuộc đời em gian khổ đã quen.

Hai người chửng bị lên đường thời nghe tiếng quân binh rầm rộ kéo đến. Đức Vua Ô Kê cùng Hoàng Hậu Ê Ly nhìn thấy Tiên Nga vẫn còn sống xinh đẹp như xưa thời mừng lắm. Chạy tới nói Cha, Mẹ đã hiểu lầm về con tất cả là tại cái vòng, Cha đã thông suốt mẫu Hậu cũng vậy, hãy tha thứ cho Cha và Mẹ.

Công Chúa bật khóc nói con biết Phụ Vương và Mẫu Hậu hiểu lầm, là do tên mụ phù thủy giả làm thầy tướng số kia. Mụ đã bị Trời xử tử. Công Chúa kể lại tất cả những âm mưu của mụ phù thủy cũng như cái chết của mụ cọp sói xé xác đàn chim mổ mắt.

– Công Chúa Tiên Nga nắm lấy tay Kiên Trung đến trước mặt Cha và Mẹ nói người nầy đã cứu con thoát khỏi bàn tay của mụ phù thủy.

– Đức Vua Ô Kê cùng Hoàng Hậu Ê Ly nhìn thấy Kiên Trung tướng mạo khôi ngô tuấn tú thời lấy làm vừa lòng. Đức Vua Ô Kê đưa vợ chồng Kiên Trung về cung được mấy hôm thời phong làm Phò Mã, chính thức làm con rễ Vua Ô Kê.

– Nói về Ông Bà Nhân Cha Mẹ Kiên Trung vô cùng lo lắng Kiên Trung ra đi đến nay gần hai năm mà chưa thấy trở về không biết chuyện gì đã xảy ra, ngày đêm cầu khẩn đất trời phù hộ cho Kiên Trung.

– Cho đến một hôm Ông Bà Nhân Cha, Mẹ Kiên Trung thấy nhiều binh lính cũng như xe kiệu vô cùng sang trọng, chạy thẳng vào nhà mình thời khiếp hãi không biết chuyện gì xảy ra.

– Binh lính xe kiệu đã vào đến sân, từ trên chiếc kiệu bước xuống một người con gái vô cùng xinh đẹp như Tiên Nga giáng trần tay bồng em bé. Người con gái xinh đẹp trao em bé cho thị nữ, rồi quỳ lạy nói con là con dâu của Cha, Mẹ, vợ của anh Kiên Trung, con đến trễ để cho Cha, Mẹ khổ. Ông Bà Nhân Cha Mẹ Kiên Trung nói tiểu thơ đã nhầm nhà rồi. Con tôi tên là Kiên Trung làm gì có người vợ xinh đẹp như vậy. Như nhớ lại chuyện xưa ồ lên một tiếng thì ra đây là Công Chúa Tiên Nga. Công Chúa nói chính là con. Ông Bà Nhân Cha Mẹ Kiên Trung nhìn đứa bé nói nó giống Kiên Trung quá liền hỏi, Kiên Trung đâu sao không đi với con để con đi một mình. Công Chúa Tiên Nga nói thưa Cha, Mẹ, anh Kiên Trung hiện giờ đang ở biên cương thống lãnh quân binh dẹp loạn, con thay mặt chồng con đến đây đón rước Cha, Mẹ về cung.

– Xóm làng hay tin kéo đến rất đông chật trong chật ngoài Công Chúa đem vàng bạc phân phát cho dân ai nấy cũng vui mừng nhất là trằm trồ mãi sự xinh đẹp của Công Chúa. Ông Bà Nhân lên xe phất tay chào bà con lối xóm theo Công Chúa trở về cung, dân làng nhìn theo cho đến khi mất hút có người nói ăn ở có đức không sức mà hưởng.
 

94. ĐỈNH CAO CỦA SỰ TU HÀNH

Vào thuở xa xưa có một người giàu có đến nổi có cả kho vàng, ông chủ giàu có ấy tên là Thể Công. Thể Công có người đầy tớ tên là Hạnh Ngộ hết mực trung thành tài giỏi hơn người làm đủ trăm công nghìn việc gian khổ nhọc nhằn, nhưng không hề than vãn. Ông Chủ Thể Công có một thói quen là thích nghe giáo lý nên ông thường đến nơi đền chùa để nghe kinh.

- Cho đến một hôm ông chủ Thể Công rước một vị Tôn Sư về giảng pháp, cho tôi tớ cũng như người nhà nghe, vị Tôn sư thuyết giảng rất hay nhất là giảng về sự tu tập đỉnh cao chỉ cần tu pháp bố thí, pháp thí, ở cảnh giới đỉnh cao Thời thành tựu năm pháp đỉnh cao kia một là ít Hành Ác, hai là thường Nhẫn Nhịn, ba là luôn Cố Gắng, bốn là tâm An Định, năm là phát sanh Trí Tuệ. Nói chung là sáu pháp đỉnh cao tu hành. Chỉ cần tu pháp Bố Thí, Pháp Thí thời năm pháp kia cũng thành tựu theo.

- Vị Tôn Sư giảng rằng trong các công hạnh tu hành làm lành bố thí là đứng hàng đầu. Bố thí gì cũng được miễn là những gì mình có đem cho người ta. Như bố thí tiền của, vàng, bạc, châu báu, đồ ăn, thức uống, vật dụng thường ngày, chỉ bày nghề nghiệp, nói chung là những thứ nhu cầu trong cuộc sống. Gieo trồng nhân hạnh bố thí không những để đức lại cho con cháu, còn bản thân không sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Tái kiếp sanh ra nơi đâu cũng được giàu có, sống trong nhung lụa giàu sang.

Có người còn giàu hơn cả nhà vua. Một kiếp tu nhân hạnh bố thí muôn kiếp tới sống trong sung sướng giàu sang. Một đồng cho đi thời còn, trăm đồng tiêu xài coi như là mất. Giúp đỡ cho người tăng thêm phúc đức, ăn xài phung phí phước đức giảm hao. Phước đức dù to lớn đến đâu tiêu xài mãi cũng hết. Như người nông dân gặt lúa vào, không chịu gieo ra thời lấy đâu ra lúa mà gặt. Đành phải vay mượn để mà sống, vay thời phải trả, nên nghèo khổ hết kiếp nầy đến kiếp khác. Người tu hành như người trồng lúa gặt sự may mắn phước đức vào, thời phải bố thí làm lành gieo ra, để tiếp tục ở tương lai gặt hái những phúc lành.

- Tôn Sư nói đó là nói về bố thí vật chất, còn pháp thí như in ấn kinh thơ, giảng kinh cho người khác nghe. Nhất là truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời một câu kinh pháp còn hơn đem cả kho vàng bố thí.

Vì sao lại nói như thế bố thí vật chất là để dưỡng nuôi xác thân, không thể dưỡng nuôi được huệ mạng Linh Hồn. Huệ Mạng Linh Hồn chính là căn thân Huệ Mạng Ý Thức Nhận Thức nói chung là căn thân Huệ Mạng hiểu biết của Linh Hồn. Linh Hồn nhờ nghe kinh giáo dẫn đến sự giác ngộ nhận thức được lời dạy của Cha Trời, căn thân Huệ Mạng trở nên sáng suốt tức là phát Huệ, thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nên có câu vật chất dưỡng nuôi thể xác, đạo lý dưỡng nuôi Linh Hồn. Linh Hồn mới thật là của mình, còn thể xác không thuộc về mình chỉ là vay mượn tạm thời mà thôi. Dưỡng nuôi thể xác cũng quý, nhưng sao bằng dưỡng nuôi Linh Hồn. Khi mãn kiếp trần dù giàu cho mấy cũng không mang theo được, quyền lực cho mấy khi Linh Hồn rời khỏi thể xác thời mất hết không còn. Chỉ có nghiệp dữ, nghiệp lành, cũng như Văn Kinh lời dạy của Trời là mang theo mà thôi. Thứ Văn Kinh Văn Hóa Cam Lộ quý hiếm hơn châu báu ngọc ngà. Nên mới nói truyền một câu kinh pháp cho đời còn hơn đem cả kho vàng bố thí.

Nói về Hạnh Ngộ từ lâu ra sức làm ăn tích góp không những được nhiều tiền bạc gia đình cũng khấm khá, lại học thuộc được nhiều kinh giáo. Nhất là Văn Kinh Văn Hóa Cội Nguồn thứ kinh văn còn quý hơn ngọc ngà châu báu chỉ cần đem ra bố thí Pháp gieo trồng Thiên Ý thời phước báo không thể nghĩ bàn. Bằng xin nghỉ việc về bàn với vợ, nhà mình không đến đổi nghèo tuy không giàu bằng ông chủ, nhưng lại có cả kho báu Văn Kinh. Nếu biết kinh doanh gieo trồng Thiên Ý bố thí pháp. Không những trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, mà còn làm Vua làm Chúa trên các cõi trời.

Vợ Hạnh Ngộ như không tin nói bố thí pháp làm gì mà trở thành Vua Chúa trên các cõi trời được. Hạnh Ngộ nói bố thí pháp là sự bố thí tu hành cao nhất khai sáng trí huệ tận độ nhân loại về trời. Theo Luật Nhân Quả mình cứu họ độ họ về trời, họ sẽ đến với mình, theo Luật Nhân Duyên họ được siêu sanh về thiên đàng cực lạc. Người nào độ họ lên thiên đàng thời họ theo người ấy. Vì vậy người bố thí pháp nhất định trở thành Vua trời, Chúa trời, cai quản cõi nước trời, vĩnh hằng an vui hạnh phúc.

Vợ Hạnh Ngộ nghe chồng nói thế liền giác ngộ cùng chồng in ấn kinh thơ, truyền bá kinh thơ không biết mệt mỏi, không bao lâu nổi tiếng khắp miền vùng.

- Nói về Ông Chủ Thể Công vì thấm nhuần đạo lý biết rõ trần gian chỉ là cõi tạm bằng đem kho báu lần lượt bố thí giúp đời để kiếp sau được sung sướng ví như người nông dân gặt thu hoạch lúa vào. Muốn có lúa gặt nữa thời gieo trở ra. Ông Chủ Thể Công biết rõ mình gặp nhiều may mắn hơn họ là nhờ kiếp trước gieo trồng cội phúc, nên kiếp nầy mới gặt hái phước đức lớn như vậy giàu có vô cùng vàng bạc đầy kho.

Ông Chủ Thể Công bằng để lại một ít đủ sanh sống thong thả tới già, còn lại bao nhiêu đêm ra bố thí gieo trồng công đức trở lại. Cho đến một hôm Ông Chủ Thể Công lâm bệnh lên cơn sốt thiếp đi hai ba ngày. Ông thấy mình sống trong cung vàng điện ngọc, giàu sang không khác gì Vua, Chúa, người ăn kẻ ở đông đến hàng vạn Ông lấy đó làm thỏa mãn. Một hôm có một vị Thần đến nói sự giàu sang của Ông là nhờ kiếp trước Ông gieo trồng bố thí. Chỉ là sự giàu sang nơi cõi trần giả tạm, những kẻ ăn người ở của Ông là những người mang nợ Ông từ kiếp trước khi họ trả xong thời họ bỏ Ông mà ra đi. Khi Ông mãn kiếp trần thời Ông chẳng còn gì cả Linh Hồn ra đi với hai bàn tay trắng. Tôi có quen biết một người nay đã là Vua cõi trời, dân chúng chư thiên đông vô số đếm không xể, người nào người nấy còn hơn Vua Chúa trần gian.

- Ông Chủ Thể Công nói Thần có thể dẫn tôi đến cõi nước đó được không? Vị Thần gật đầu dẫn Ông Chủ Thể Công bay lên thiên giới. Ông choáng ngợp trước mắt Ông là cõi nước trời đất đai bằng châu báu, Vàng, Bạc, Trân Châu, Kim Cương, Pha Lê, xà cừ, mã não, lâu đài cung điện nguy nga, tráng lệ, kiến trúc cổ kính cầu kỳ, hoa văn tuyệt tác sống động như hình thật, vật liệu xây dựng toàn bằng bảy báu hào quang tỏa sáng trăm sắc nghìn màu, kỳ quan bảo tháp xa gần khắp cùng cao chọc trời xinh đẹp lạ lùng, trần gian không bao giờ có, đường sá cũng toàn bằng châu báu. Cây báu trồng khắp nơi nhất là hai bên đường. Ao sen báu xa gần nhiều vô số đủ loại chim ca hát vui tai. Hoa sen báu to như bánh xe đẹp lạ đẹp lùng, hương thơm ngào ngạt. Cây báu khắp nơi quả vàng, trái bạc, thân lá kim cương, hào quang tỏa sáng lung linh. Ông Chủ Thể Công càng xem càng choáng ngợp cho sự giàu sang ở cõi nước trời. Thiên Chúng người nào người nấy cũng an vui tự tại muốn gì được nấy, con hơn Vua, Chúa ở trần gian. Ông Chủ Thể Công hỏi vị Vua trời ấy là ai? Vị Thần nói vị vua trời ấy không ai khác hơn chính là Hạnh Ngộ xưa kia là đầy tớ của Ông Chủ. Ông Chủ Thể Công nghe vị Thần nói thế vô cùng kinh ngạc Hạnh Ngộ tu hạnh gì mà được như thế. Vị Thần ấy nói Hạnh Ngộ thường in kinh bố thí, lại thường hay giảng kinh cho người khác nghe, nên mới được Phước báo như vậy.

- Ông Chủ Thể Công liền nhớ lại vị Tôn Sư nói, giảng truyền một câu kinh Văn Hóa Cội Nguồn, phước đức lớn hơn bố thí cả kho vàng. Ông chợt hiểu ra truyền bá kinh thơ mới là số một, đứng đầu trong con đường tu hành gieo trồng cội phúc. Ông Chủ Thể Công định hỏi nữa thời vị Thần biến đi đâu mất. Ông giật mình tỉnh giấc thời thấy người nhà đứng xung quanh mình rất đông. Người nhà thấy Ông tỉnh dậy vui mừng khôn xiết nói Ông Chủ ngủ mê ba ngày ba đêm rồi.

- Ông ngồi dậy thấy trong mình khỏe mạnh, không còn bị ốm như mấy ngày trước đây. Ông Chủ Thể Công liền cho người mời Tôn Sư đến. Ông kể lại câu chuyện cho Tôn Sư nghe. Vị Tôn Sư ấy nói đó là cảnh giới tương lai của Ông. Khi Ông qua đời tái sanh kiếp khác thời đúng như những gì Ông đã thấy. Tôn Sư nói bố thí vật chất, không bằng bố thí pháp. Truyền một câu kinh giáo trong Văn Hóa Cội Nguồn, phước đức lớn hơn bố thí cả một kho vàng. Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Thiên Ý Cha Trời. Văn Hóa tối cao vũ trụ. Chỉ cần nghe thoáng qua lỗ tai cũng đặng phước báo vô cùng, huống chi là truyền giảng cho người nghe, thời phước đức hà sa không thể nghĩ bàn. Bố thí Pháp là bố thí Vô Vi, bố thí vật chất là bố thí hữu vi. Bố thí hữu vi vật chất chỉ nuôi thể xác con người. Còn bố thí Vô Vi là truyền bá kinh thơ cho người tận độ Linh Hồn nhân loại. Nên bố thí Vô Vi cao hơn bố thí hữu vi.

Bố thí Vô Vi truyền Kinh Giáo tận độ Linh Hồn nhân loại thường tái kiếp làm Vua, làm Chúa, không làm Vua làm Chúa trên trời cũng làm Vua làm Chúa chốn nhân gian. Những người truyền kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời thường là làm Vua làm Chúa trên các tầng trời cõi trời.

Nói tóm lại:

Chỉ cần tu pháp bố thí, pháp thí, ở cảnh giới đỉnh cao Thời thành tựu năm pháp đỉnh cao kia một là ít Hành Ác, hai là thường Nhẫn Nhịn, ba là luôn Cố Gắng, bốn là tâm An Định, năm là phát sanh Trí Tuệ. Nói chung là sáu pháp đỉnh cao tu hành. Chỉ cần tu pháp Bố Thí, Pháp Thí thời năm pháp kia cũng thành tựu theo.

Đã bố thí vật chất lại biết truyền kinh, thơ Văn Hóa Cội Nguồn, thời phước đức không thể nghĩ bàn. Ông Chủ Thể Công liền giác ngộ vừa bố thí Vật Chất hữu vi, vừa Bố Thí Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Chân Lý Vô Vi, sau khi mãn kiếp trần trở thành Chuyển Luân Vương cai quản vô số cõi nước trời an vui tự tại.
 

95. SỰ TRUYỀN NGÔI TRÊN THƯỢNG GIỚI

Ngày xửa ngày xưa, ở trên tầng trời thứ ba Dạ Ma Thiên, có vô lượng cõi nước trời, trong đó có cõi nước Cao Thiên. Chư Thiên rất đông cõi nước giàu sang đất nước toàn bằng bảy báu. Vàng, bạc, kim cương, trân châu, pha lê, hổ phách, xà cừ. Cung vàng điện ngọc khắp chốn, kỳ quan, bảo tháp khắp nơi, đường sá dọc ngang lát toàn châu báu, ao hồ rộng lớn, sen báu tỏa sáng, trên bờ ao sen tàng lọng uy nghi, cõi trời đất báu nơi đâu cũng tỏa hào quang rợp trời rợp đất. Muôn màu muôn sắc xinh đẹp lạ lùng.

- Vua Trời Cao Thiên có đến cả trăm người con, người nào cũng tài cao đức độ thần thông trí tuệ như nhau. Đứa nào cũng muốn làm vua trời có cõi nước riêng, cả trăm người con biết truyền ngôi cho ai. Lại nữa ở trên cõi trời tuổi thọ rất cao sống quá lâu. Vua Trời Cao Thiên vì đáp ứng sự mơ ước làm Vua Trời của các con. Bằng chỉ cách để trở thành Vua Trời.

- Một hôm Vua Trời Cao Thiên kêu hết những người con đến. Cao Thiên nói, Cha còn sống rất lâu lại chỉ có một cõi nước trời. Không thể nhường ngôi cho các con được vì có cả trăm đứa con. Nhưng các con thời muốn có cõi nước trời riêng để cai quản vui chơi tùy ý. Cha có một cách nầy nếu các con làm được các con sẽ trở thành Vua Trời như Cha. Nhiều khi hơn Cha nữa là khác. Một trăm người con nghe Cha nói thế lấy làm mừng nói, chúng con sẽ làm gì để trở thành Vua Trời, xin Cha chỉ dạy cho chúng con.

- Vua Trời Cao Thiên nói muốn làm giàu thời phải lặn hụp nơi biển sâu tìm ngọc. Vào rừng thiêng nước độc để đãi vàng. Muốn làm Vua Trời thời phải tận độ dìu dắt nhân sinh. Xưa Cha cũng từ trên trời sanh xuống chốn nhân gian lặng lội trong bể trần ra sức tận độ nhân loại con người về trời nên Cha mới trở thành Vua Trời. Các con đi theo con đường của Cha đã đi.

Các con muốn trở thành Vua Trời các con phải xuống biển trần, ra sức chống lại gió bát phong, lặng hụp trong cõi vô thường, nơi chốn phàm trần. Nơi phàm trần mỗi Linh Hồn nhân loại con người là mỗi viên ngọc Mâu Ni vô cùng quý hiếm, nhưng không vì thế mà dễ có, phải chịu trăm cay nghìn đắng, mới độ được một người, rồi từ một người nầy sẽ độ Ông Bà Cha Mẹ, nhiều đời nhiều kiếp siêu sanh thiên giới các con đã có một nước trời nhỏ ngỏ, nhưng nếu các con độ được từ năm người trở lên thời các con có cõi nước trời rộng lớn như Cha hiện tại.

Nói thời dễ nhưng đi vào tận độ người trần gian thời rất khó, phải nói là cực kỳ khó không mấy ai làm nổi. Vì chốn trần gian là nơi bể khổ, gió bát phong không ngừng thổi, phải nói là thi nhau thổi.

Gió Bát Phong như con dao hai lưỡi con người nhờ con dao mà làm nên bao đại sự. Nhưng cũng chính con dao ấy làm hại con người.

Gió Bát Phong là gì; Lợi, Suy, Chê, Khen, Ca Tụng, Phỉ Bán, Khổ, Lạc. Ở trên các cõi trời gió bát phong luôn đem lại những gì tốt đẹp cho cuộc sống. Ví Dụ như những gì có Lợi đem lại hữu ích cho con người thời làm không có lợi thời thôi không làm thiệt hại đến ai, làm lợi cho cuộc sống, như vậy chữ Lợi sử dụng đúng mục đích thời đem lại hiệu quả rất cao. Còn nơi trần gian cũng một chữ Lợi mà thi nhau làm hại con người, làm hại cuộc sống. Trăm mưu nghìn kế để có được chữ lợi. Không chừa một thủ đoạn nào gieo ra trăm nghìn tai họa bám lấy không tha. Tai ương chuyển xoay thi nhau ập tới. Đôi khi phải trả giá bằng sanh mạng của mình. Chữ Lợi chính là con dao hai lưỡi sử dụng đúng mục đích thời Lợi, sử dụng sai mục đích chữ Lợi trở thành chữ Hại.

Ở trên các cõi trời sự Suy Vong, là chuyện bình thường luôn đánh thức chư thiên hiểu biết về Suy Vong, nếu không giữ được sự chân thiện của mình sanh tâm hành ác thời nhất định sa đọa xuống chốn nhân gian. Nhờ hiểu rõ sự Suy Vong chính là hành ác làm giảm phước đức nên chư thiên ít khi sa vào con đường ác. Còn nơi trần gian sự Suy Vong là tiêu tan cơ nghiệp thậm chí đi đến diệt vong. Nổi lo sợ Suy Vong luôn ám ảnh mãi con người. nên ráng mà cố giữ dẫn đến làm bao nhiêu điều ác, hầu cứu vãn sự Suy Vong. Nói chung nghĩ đến chữ Suy dù là suy vong hay suy nhược đều lo sợ. Như vậy cũng một chữ Suy làm cho chư thiên thức tỉnh luôn biết giữ mình không sa vào con đường tổn đức tổn phước. Nơi trần gian cũng vì một chữ Suy mà gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi hầu tránh né chúng, nhưng nào có được.

Ở trên các cõi trời cũng có sự Chê Bai nhưng chê bai những người hành động trái ngược lại đạo đức vì có sự Chê Bai như vậy nên chư thiên luôn hướng thiện sống theo đạo đức. Còn nơi trần gian sự chê bai nhiều khi không đúng chỗ ví dụ như người ta tôn thờ Tổ Tiên Ông Bà mà cũng chê bai. Sống vì người không vì mình cũng không ít người cho là ngu chê bai chỉ trích. Nếu người không minh mẫn sáng suốt bị người ta chê bai đi đến bỏ Tổ Tiên Ông Bà cũng như chỉ biết mình không cần biết đến ai nữa. Như vậy sự chê bai như con dao hai lưỡi, nhờ sự Chê Bai mà trở nên con người tốt, như các chư thiên ở trên trời. Còn nơi trần gian Sự Chê Bai không đúng cách, thờ Ông Bà Tổ Tiên mà cũng chê bai. Sống vì nhân loại mà cũng cho là ngu. Ca ngợi anh linh truyền thống mà cho là dại, sự Chê Bai ấy không có giá trị về mặt Chê Bai, Chê Bai không đúng cách thế mà khối người nghe theo.

Ở trên các cõi trời cũng có sự Khen Ngợi. Những người có công làm cho chư thiên an vui. Cõi trời hưng thịnh, Tu hành đạt đến đỉnh cao. Khen Ngợi là sự động viên khích lệ vươn cao hơn nữa.

Còn nơi trần gian Anh Em chém giết nhau mà cũng Khen Ngợi là tài giỏi, làm cho nhân loại con người khốn khổ mà cũng Khen là tài hay. Sự Khen Ngợi nầy động viên nhân loại con người lao vào hành ác hơn nữa. Như vậy cũng một chữ Khen, Khen để cho tốt đời đẹp đạo như trên các cõi trời. Khen động viên đi vào hành ác hơn nữa, Khen cũng chính là con dao hai lưỡi, Khen đi đến cực lạc, Khen đi đến cực khổ.

Ở trên các cõi trời cũng có sự Ca Ngợi Tán Tụng ca ngợi bề trên, tán tụng công đức những vị Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đóng góp nhiều công sức cho Thiên Đàng Cực Lạc.

Còn nơi trần gian Ca Ngợi Tán Tụng những tên trùm gian manh lập bè lập phái để mà tranh bá tranh hùng dẫn đến máu đổ đầu rơi.

Trên các cõi trời cũng có sự Hủy Báng phỉ báng nếu làm hại người khác, vì sợ sự Hủy Bán, Phỉ Báng chỉ trích nên chư Thiên luôn sống hòa thuận trong tình thương yêu. Vì không ai muốn trở thành đối tượng để cho chư thiên Phỉ Báng, Hủy Báng.

Còn nơi trần gian sự Hủy Báng Phỉ Báng là đối lập nhau không cùng chí hướng, không cùng quan điểm. Dẫn đến xung đột lẫn nhau chiến tranh vì đó xảy ra.

Trên các cõi trời cũng có khổ là luôn giữ cho Tâm Thiện Lành, phước đức an trụ lâu dài, cũng như người trần gian phải làm thời mới có ăn. Không làm thời đói nhăn răng chịu nghèo. Nói đến khổ Thiên Đàng Trần Gian đều có, nhưng khổ thiên đàng là mọi người cùng nhau đem lại sự cực lạc.

Còn khổ trần gian là Bể Khổ nghịch cảnh, éo le, buồn khổ, khổ chồng lên khổ, họa chồng lên họa, nên nói đến Khổ là ai nấy cũng sợ hãi. Không như trên các cõi Thiên Đàng càng gian khổ thời càng đi đến Cực Lạc.

Nói đến Vui Sướng thời trần gian thiên đàng đều có Vui Sướng trên thiên đàng là vui sướng trong cảnh giới Cực Lạc. Đồng vui đồng hưởng lạc.

Còn vui sướng nơi trần gian, cái vui đem đến cho mình là để lại bao cái khổ cho người khác. Sự giàu có của Quan trên bao nỗi khổ của người dân.

Nói tóm lại: Bát Phong 1, Lợi. 2, Suy. 3, Chê. 4, Khen. 5, Phỉ Bán. 6, Táng Tụng. 7, Khổ. 8, Vui. Như một Định Luật Tự Nhiên. Trên các cõi trời nhờ Bát Phong đưa xã hội Thiên Đàng đến cảnh giới Cực Lạc. Còn nơi trần gian cũng chỉ là Bát Phong làm cho Tâm đi vào sa đọa. Nên nói người nào nơi trần gian Bát Phong thổi đến Tâm không động ấy là cao nhân trí huệ như hải. Liền ra khỏi thế tục đi vào cảnh giới tự tại.

Vua Trời Cao Thiên nói các con trên cõi trời nhờ Bát Phong nên các con không sa đọa vào con đường Bất Thiện luôn sống trong Chân Thiện. Lại muốn gì được nấy, vui chơi thỏa mái chưa có một lần sống trong nghịch cảnh. Nhưng khi xuống trần gặp không biết bao nhiêu là nghịch cảnh, buộc các con sanh ra nhiều mánh khóe, mưu mô xảo quyệt, dối trá, nếu không làm thế thời các con thua thiệt đủ mọi điều. Càng phấn đấu vì cuộc sống các con liền bị cuốn hút vào sanh tử, tử sanh. Bị Bát Phong xoay chuyển hết mong trở lại thiên giới. Độ người chưa được thời mình cũng mang đọa luôn. Ví như người lặng xuống biển sâu tìm ngọc, ngọc chưa mò được thời bị chết chìm trong lòng đại dương.

Trăm người con nghe thế lấy làm kinh hãi, im hơi lặng tiếng. Vì biết xuống biển trần, lặn hụp trong cõi Vô Thường, nghịch cảnh đối đầu, trăm cái khổ nghìn cái sầu, họa tai thi nhau kéo đến. Chưa kể yêu ma quấy phá, làm gì đủ trí chống chọi nghịch cảnh, đối đầu trăm cái khổ, vượt qua nghìn cái sầu, chịu đựng đầy rẫy bệnh tật, sống trong cảnh giới bạo lực bao trùm, chưa kể bát phong xoay chuyển. Vì sự Khen, Chê, Thành, Bại, Hơn, Thua, đành phải đương đầu sa chân vào ác đạo, sa đọa vào luân hồi, hết mong trở lại thiên giới, nên không muốn làm làm Vua nước trời nữa vì quá khó khăn.

- Vua Trời Cao Thiên nhìn thấy còn ba người con là quyết muốn trở thành Vua Trời bằng nói nếu các con quyết chí trở thành Vua Trời thời các con phải chịu lặng hụp xuống biển trần, nơi có nhiều ngọc Mâu Ni. Tức là Linh Hồn con người, những Linh Hồn vô chủ. Các con độ được những Linh Hồn vô chủ ấy các con sẽ có cõi nước trời. Độ được nhiều nhân thế thời thiên chúng càng đông. Có nhiều cõi nước Phật, nước Thánh, thiên chúng chư thiên đông vô số vô biên, không phải tự nhiên mà được như vậy. Mà phải phát đại nguyện cứu khổ nhân loại không vì mục đích nào khác nữa, cũng như nguyện cầu Cha Trời, Mẹ Trời phù hộ che chở cho.

- Ba người con nghe Cha giảng giải liền giác ngộ nói chúng con nguyện đầu thai xuống biển trần lặn hụp trong vô thường tìm những viên ngọc Mâu Ni vô chủ ra sức cứu khổ cũng như truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn thành lập quốc độ trên thiên giới.

Cao Thiên nói nếu ba con quyết như vậy, thời hãy cầu nguyện lên Cha Trời, Mẹ Trời phù hộ che chở cho các con. Nếu độ được Linh Hồn nhân loại thời càng tốt, bằng không độ được cũng trở về cõi trời. Nơi biển trần chính là biển khổ chốn nhân gian ngoài cảnh giới Vô Thường xoay chuyển, còn phải chịu cảnh giới bát phong vùi dập. Nếu không đủ sức Nhẫn, Nhịn, Nhục thời coi như bị bát phong xoay chuyển vào con đường Ác Đạo. không mong gì trở lại thiên đàng. Hãy trừ khử thập tam ma khi chúng xâm nhập vào tâm.

- Thập tam Ma là: Yêu, Ghét, Giận, Hờn, Sân, Si, Hỉ, Nộ, Ái Ố, Lợi, Suy, Khen, Chê. Mở rộng lòng từ bi, lòng chẳng nhiễm trần, đi ngược lại dòng đời các con mới thành chánh quả. Có nghĩa là độ được người giữ được mình không bị Yêu, Ghét, Giận, Hờn, Sân, Si, Hỉ, Nộ, Ái Ố, Lợi, Suy, Khen, Chê. Tâm như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Ở vào giai đoạn gần cuối thời mạc pháp có Đức Chí Tôn lâm phàm xuống thế chuyển đại pháp luân, nói ra Kinh, Thơ, Thiên Ý Cha Trời. Đây là điều hi hữu hàng triệu năm mới có một lần, các con ra phò Thiên Ý, dùng Thiên Ý mà tận độ nhân loài về trời.

- Ba người con trở về Thiên Cung nơi ở của mình. Người con thứ nhất tên là Thiên Quân nguyện rằng nguyện cầu Cha Trời, Mẹ Trời ban cho con nhiều quyền lực để con độ nhân loại về trời.

Người con thứ hai tên là Thiên Đế nguyện rằng, Nguyện cầu Cha Trời Mẹ Trời ban cho con sự giàu sang muốn chi được nấy, để con giúp cho đời, thoát khỏi sự đói nghèo, để họ có điều kiện tu luyện về trời.

Người con thứ ba tên là Thiên Vương phát nguyện rằng. Nguyện cầu Cha Mẹ Trời ban cho con Trí Huệ thấy rõ Tà, Chánh, Siêu, Đọa, cũng như thâm nhập Thiên Ý để con độ nhân loại về trời.

Ba người con Cao Thiên xuất hồn rời khỏi kim th.ân thể xác bay xuống trần gian đầu thai làm người phàm tục.

Đầu thai vào gia đình Họ Cao. Ông Bà Họ Cao đặt tên cho con đúng cái tên ở trên trời do Thần Linh mách bảo. Thằng lớn tên là Quân, thằng kế tên là Đế, thằng út tên là Vương. Ông Bà Họ Cao ăn ở thiện lành chỉ là gia đình nông dân nghèo khổ. Vì đầu thai mang xác trần nên Cao Thiên Quân, Cao Thiên Đế, Cao Thiên Vương quên hết kiếp trước của mình là con của Vua Trời. Chỉ biết mình sanh ra và lớn lên trong gia đình Họ Cao nghèo khổ hoàn cảnh thiếu thốn, còn nhỏ thời mò cua bắt ốc, khi lớn lên để có cái ăn cái mặc ra sức làm lụng suốt ngày, nhưng được cái là thông minh học đâu nhớ đó, người nông dân Họ Cao thấy con cái đứa nào đứa nấy thông minh khác thường bằng bán đi đất đai nuôi con ăn học.

Có lẽ do nguyện lực cầu nguyện trước khi đầu thai lâm phàm xuống thế. Thiên Quân nguyện cầu Cha Trời, Mẹ Trời ban cho nhiều quyền lực Thiên Quân thi đậu làm quan, càng về sau càng thăng chức làm đến bực Thừa Tướng quyền lực chỉ dưới một người. Thiên Quân ra sức vì dân vì nước làm cho dân giàu nước mạnh danh tiếng vang lừng. Khi mãn kiếp trần liền Hiển Thánh trở về trời nhập vào kim thân hóa thành kim cương hào quang rực rỡ, chư thiên nhìn thấy ai nấy cũng đều chấp tay cung kính ca ngợi không hết lời. Cao Thiên hiện đến khen rằng nơi chốn trần gian con hết lòng vì dân vì nước nên mới đặng phước báo như thế giờ đây con trở thành Đại Thiên Vương thống lãnh chư thiên an vui tự tại.

Nói về Thiên Đế thông minh không thua gì Thiên Quân thi đâu đổ đó. Vì do nguyện lực cầu Cha Mẹ trời ban cho sự sang giàu Thiên Đế nhờ học hành đỗ đạt cao, ưng con nhà đại gia tỉ phú trở thành nhà kinh doanh làm ăn tiền vô như nước giàu có muốn chi được nấy. Thiên Đế trích ra một phần lợi nhuận, làm từ thiện giúp cho những gia đình nghèo khó vượt qua khó khăn chỉ có thế, không độ được người nào. Đến khi mãn kiếp trần Linh Hồn trở về trời, Kim Thân vẫn y nguyên nhưng hào quang rực rỡ hơn trước ai nhìn thấy cũng khen, so với Thiên Quân Không bằng nhưng hơn những anh em khác. Vì Thiên Đế xuống trần đi vào con đường hưởng phúc, sự tiến hóa Linh Hồn qua sự tu luyện không được là bao.

Nói về Thiên Vương không khác gì Thiên Quân. Thiên Đế học giỏi không ai bằng thi đâu đậu đó nhưng không làm quan làm thường dân sớm giác ngộ đi theo con đường đạo đức thấy rõ Tà Chánh, Phước, Họa, Siêu, Đọa, biết rõ trần gian chỉ là nơi giả tạm, ngày đêm tu học Văn Hóa Cội Nguồn, thuyết giáo truyền kinh tận độ nhân loại con người danh vang bốn bể thiên hạ theo về trùng trùng. Khi mãn kiếp trần trở về trời nhập vào kim thân, tức thời hào quang sáng chóa muôn sắc nghìn màu hiện ra vô số cung vàng điện ngọc, kỳ quan bảo tháp.

Thiên Vương bay về phương đông tần trời thứ ba thành lập cõi nước trời Thiên Vương không thua kém gì cõi nước Cao Thiên không nói là rực rỡ hơn. Vua Trời Cao Thiên đến chúc mừng Thiên Vương, con đã thành Vua Trời tất cả là do con tự tạo lấy. Không ai có thể tranh giành với con được. Chỉ cần một kiếp xuống trần mà con đã làm nên kỳ tích không ai làm được. Cái giá mà con phải trả cho sự thành công nầy, phải nói là không thể nghĩ bàn. Cao Thiên chúc mừng xong thời trở về cõi nước của mình.
 
96. CÂU CHUYỆN ĐẠI BÀNG

Ngày xửa ngày xưa vào thời hồng hoang ở vào kiếp tăng, khi tuổi thọ loài người trung bình 100 tuổi thọ 120 tuổi, yểu thọ thọ 80 tuổi. Khi ấy loài Đại Bàng tuổi thọ rất cao còn hơn tuổi thọ con người lại mau lớn trở thành chúa tể bầu trời làm chủ trên không, thậm chí còn xơi cả loài Cầm, Thú, Bò Sát, dưới đất. Loài nào nhìn thấy Đại Bàng cũng phải khiếp sợ.

Còn ở dưới đất loài rắn bò sát độc hại vô cùng tuổi thọ rất cao lại vô cùng mau lớn, loài vật nào cũng bị loài rắn nuốt vào bụng.

Ở vào thời Hồng Hoang tiền sử những con vật to lớn chính là nhất Điểu, nhì Xà, tam Ngư, tứ Tượng. Đại Bàng thời nay tuy nhỏ bé thế mà vô cùng lợi hại, huống chi là to lớn. Loài Rắn cũng thế chúng độc ác vô cùng ăn thịt cả đồng loại.

Muôn loài động vật bị hai loài nầy ăn thịt tàn sát hầu như muốn tuyệt chủng bằng kiện thấu lên trời làm sao hạn chế sự hung hiểm hai loài nầy, huyền cơ Thiên Ý liền chuyển xoay làm cho lớp vỏ xơ cứng, hạn chế sự mau lớn, cũng như rút ngắn tuổi thọ, từ đó Đại Bàng, cũng như loài Rắn lâu lớn tuổi thọ lại ngắn muôn loài cầm, thú, bò sát mới được tồn tại sống yên.

Cho đến một hôm, loài Rắn vô tình nghe được câu chuyện loài Phụng Hoàng nói chuyện với nhau. Loài Rắn muốn sống lâu thời phải thay bỏ lớp da bên ngoài nhiều khi một năm phải thay hai ba lần ít nhất là một lần loài Rắn mới khỏi bị đau đớn lại được sống lâu. Nên về sau có câu Rắn già Rắn thay vỏ, người già người bỏ hòm săng. Rắn lột vỏ bỏ da nào chết sống nhăn, nhưng phải kín đáo thời mới tránh họa tai. Loài Rắn nghe xong vô cùng mừng rỡ tìm nơi kín đáo lột da sống đời, nhưng vì phạm Thiên Ý nên Trời thâu bớt nọc độc của loài Rắn không còn cực độc như trước kia. Còn loài Rắn nào không thay vỏ thời vô cùng lâu lớn còn giữ nguyên cực độc cắn trúng là hết thuốc chữa. Loài Rắn nhờ thay vỏ sống thỏa mái không sợ già chết sống ung dung tự tại.

– Loài Đại Bàng phát hiện loài Rắn có những thay đổi bỗng nhiên sống lâu không như trước đây lăn lộn đau đớn rồi chết, liền tìm kiếm loài Phụng Hoàng để hỏi. Loài Rắn làm gì để được sống lâu như vậy?

– Loài Phụng Hoàng nói Ta làm sao biết được, bí mật Tạo Hóa chỉ cần hở môi thời coi như phạm Luật Thiên. Chi bằng ngươi tìm đến Đức Chí Tôn mà hỏi. May ra Chí Tôn nói cho ngươi biết.

Đại Bàng nghe Phụng Hoàng nói thế liên bay lên trung thiên giới tìm gặp Đức Chí Tôn, nhưng vũ trụ bao la biết tìm gặp Đức Chí Tôn ở đâu. Đại Bàng đang lo lắng thời Đức Chí Tôn hiện ra hỏi Đại Bàng tìm gặp ta để làm gì?

Đại Bàng mừng quá lễ lạy rồi thưa hỏi. Bạch Đức Chí Tôn loài Rắn làm gì để được sống lâu như vậy, còn Đại Bàng tôi bị lớp vỏ xơ cứng bó chặt không những lâu lớn mà còn lên cơn đau rồi chết, tuổi thọ chưa bằng phân nửa ngày xưa.

Chí Tôn nói huyền cơ Thiên Ý đã hạn chế sức lớn cũng như tuổi thọ của loài Đại Bàng ngươi. Nếu không hạn chế như thế thời loài Đại Bàng ngươi không những mau lớn, tuổi thọ rất cao, lại sanh sản thần tốc mỗi lứa vài chục con. Muôn loài cầm, thú, bò sát, thậm chí cả con người sẽ bị loài Đại Bàng ngươi ăn thịt hết dẫn đến tuyệt chủng.

Đại Bàng nghe Chí Tôn nói thế thời theo năn nỉ mãi, nói loài Rắn tuổi thọ trước đây rất ngắn không hiểu vì sao lại trở nên sống lâu như vậy. Loài Rắn phải nói là vô cùng độc hại lại sanh sản mỗi lứa cũng nhiều nào có hạn chế chi đâu Đại Bàng tôi không những tuổi thọ ngắn lại đẻ mỗi lứa chỉ có hai con cùng lắm là ba con, sự công bằng của Trời ở đâu đối với loài Đại Bàng tôi như vậy. Không như loài Rắn kia.

Chí Tôn cười nói. Loài Đại Bàng ngươi tinh khôn hơn loài Rắn nhiều không bao giờ ăn thịt đồng loại, còn loài Rắn thời ăn thịt đồng loại, chúng tự ăn nuốt lẫn nhau nếu đẻ ít thời loài Rắn không còn tồn tại nữa.

Loài Đại Bàng nhà ngươi đã làm chúa tể bầu trời đương nhiên phải có cái giá để mà trả. Nhất là hạn chế sinh đẻ, một lứa chỉ đẻ một hoặc hai con mà thôi, không còn đẻ như gà như vịt, một năm hai ba lứa. Sự ước muốn nào cũng phải có cái giá phải trả. Đại Bàng nói miễn là sống lâu không cần to lớn cũng được dù cho trả giá thế nào loài Đại Bàng cũng bằng lòng hết thảy.

Chí Tôn nói để được sống lâu thời loài Đại Bàng ngươi giống như loài Rắn kia lột bỏ lớp vỏ xơ cứng bên ngoài đi vào trường thọ lâu hơn. Đại Bàng ngươi cũng vậy phải tự mình lột bỏ lớp vỏ xơ cứng bên ngoài như thay lông, lột bỏ móng vuốt, lột bỏ cái mỏ cong sắc nhọn xơ cứng của ngươi, trước khi làm việc đó loài Đại Bàng ngươi phải tìm một nơi kín đáo, nếu đụng chỗ nào cũng thay lớp vỏ không kín đáo sẽ bị các loài khác ăn thịt, nói xong Đức Chí Tôn liền ngâm bài kệ rằng;

Rắn sống lâu, vì Rắn biết thay vỏ

Đại Bàng muốn sống lâu, thời lột bỏ lớp vỏ xơ cứng của mình.

Rắn nghe Phụng Hoàng tâm tình.

Trước khi lột vỏ chịu nhiều sự đau

Ẩn mình trốn kỷ mới xong

Nếu không như thế hết mong sống còn.

Đức Chí Tôn ngâm kệ xong liền biến mất, Đại Bàng bay trở về trần gian rình xem loài Rắn lột da. Loài Rắn phát hiện chửi cha Đại Bàng. Đại Bàng tức giận vô cùng, hể mà gặp Rắn tức thời nuốt xơi. Đại Bàng từ đó trước khi thay lớp vỏ xơ cứng bên ngoài liền tìm nơi ẩn mình, tự mình lột bỏ lớp vỏ xơ cứng đau đớn vô cùng, mọc ra lớp vỏ non trẻ tiếp tục sống, cũng từ đó Đại Bàng đẻ rất ít chỉ một hoặc hai con, quyền lực của loài Đại Bàng mất đi phân nửa, không còn lợi hại như trước kia.

– Khi Đại Bàng lột vỏ xơ cứng bỏ đi, tiếp tục tồn tại, thời loài ve đang sống bám trên cành cây nhìn thấy Đại Bàng chịu đói chịu khác để cho thân hình ốm bớt, rồi lột bỏ lớp vỏ xơ cứng bên ngoài, đi vào cuộc đời mới.

– Loài Ve cũng bắt chước nhịn đói, nhịn khác thịt xương chuyển hóa teo nhỏ, liền thoát ra khỏi lớp vỏ xơ cứng. Ve sầu lột xác sống lâu.

*- Rắn độc thay da, Đại Bàng lột vỏ, Ve Sầu lột xác. Đây là bài học cho các Thể Chế xơ cứng. Chế Độ lỗi thời, muốn tồn tại, phải Thay Da, Lột Vỏ, Lột Xác đi vào tồn tại.
 
×
Quay lại
Top