Dân tộc được chúa chọn

sách hay

Thành viên
Tham gia
15/4/2014
Bài viết
8
Nông dân theo tà giáo ở Tây Âu dười thời La Mã, nông dân Cơ đốc giáo ở Judea, nông dân theo đạo song thần Zoroastrianism ở Mesopotamia, nông dân Do Thái ở Galilee, Mesopotamia và Ai Cập có chung một đặc điểm: tất cả đều mù chữ. Đối với hầu hết những người nông dân này, đầu tư cho việc học chữ của con trai là một sự hy sinh: cả chi phí trực tiếp (tiền mua sách, tiền lương giáo viên) lẫn chi phí cơ hội (thu nhập bị mất đi do gửi con tới trường tiểu học thay vì giữ chúng làm việc ở trang trại nhà) rất cao so với thu nhập trung bình (bảng 5.1).

Biết chữ không làm cho nông dân năng suất hơn hay giúp anh ta kiếm được nhiều tiền hơn. Hơn nữa, ở các nền kinh tế nông thôn nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất, có rất ít cơ hội cho người biết chữ làm nghề thủ công hay buôn bán. Do đó, với hầu hết các hộ gia đình kiếm sống bằng nghề nông thì “đầu tư” cho việc học hành của con cái chỉ là gánh nặng, không mang lại lợi ích kinh tế gì. Không có gì ngạc nhiên khi đại đa số nông dân—Do Thái lẫn không phải Do Thái—đều mù chữ giống như nông dân ở hầu hết các nước đang phát triển ngày nay những nước có nền kinh tế chủ yếu là kinh tế nông thôn, nông nghiệp.

Cam kết giáo dục

Học giả Tana ở các học viện ở vùng đất Israel trong hai thế kỷ đầu sau Công nguyên khuyến khích thành lập trường tiểu học. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh Do Thái-La Mã không tạo ra môi trường lý tưởng cho quá trình này phát triển, mù chữ vẫn phổ biến cho tới tận cuối thế kỷ thứ hai. Đầu thế kỷ thứ ba, giáo sỹ Judah haNasi, các học giả cộng sự và các thế hế giáo sỹ sau này ở các học viện ở vùng đất Israel và Mesopotamia chuyển trọng tâm sang xây dựng hệ thống giáo dục tiểu học phổ cập có tổ chức (xem chương 3).

Chúng tôi tập trung vào bằng chứng từ thế kỷ 3 đến đầu thế kỷ 7. Ba nguồn tư liệu độc lập—Talmud, thư từ phúc đáp giai đoạn đầu Gaon, ghi chép khảo cổ học—chỉ rõ rằng một tỷ lệ lớn người Do Thái đầu tư cho việc học của con trai mình. Bằng cách này, giáo dục tôn giáo phổ biến trong các cộng đồng Do Thái ở vùng đất Israel và những nơi có người Israel di cư sinh sống khác trên thế giới thời Talmud.
Bằng chứng Talmud

Talmud gồm Mishna và Gemara (Gemara có các chú giải chủ yếu về Mishna, do các thế hệ học giả, giáo sỹ học viện ở vùng đất Israel và Mesopotamia viết). Talmud của vùng đất Israel (Talmud Yerushalmi) được thể chế hóa khoảng năm 350-400; Talmud của Babylon (Talmud Bavli) được thể chế hóa khoảng năm 450-550. Talmud của Babylon vốn rộng hơn Talmud của vùng đất Israel cuối cùng trở thành trụ cột Do Thái giáo dòng giáo sỹ đối với người Do Thái trên thế giới.

Ngày nay, mỗi bộ Talmud gồm nhiều tập viết bằng tiếng Hebrew và tiếng Aram. Tranh luận trong Talmud bắt đầu bằng một đoạn Mishna (tiếng Hebrew) tiếp đến là một đoạn Gemara (thường viết bằng tiếng Aram). Hai bên lề có chú giải của hầu hết các học giả ưu tú nhất của châu Âu Trung Cổ như Rashi, các giáo sỹ Tosafist, cũng như trong một số bài viết, có chú giải của R. Hananel, người viết chú giải Bắc Phi của giai đoạn Hồi giáo.

Việc biên soạn Mishna không ngăn được các hoạt động tôn giáo, học thuật, pháp lý của các học viện. Vì Mishna trở thành Luật Nói chính thống nên hoạt động của nhóm Amora (các học giả kế nghiệp nhóm Tanna) dành chủ yếu cho việc diễn giải bộ luật này. Nhóm Amora làm công việc diễn giải bộ luật ở các học viện (yeshivot) Caesarea, Sepphoris, Tiberias ở vùng đất Israel, Nehardea, Sura, Pumbedita và các trung tâm học vấn ở Mesopotamia.

Lúc này, các học viện không chỉ là nơi học cao dành cho sinh viên xuất sắc mà còn là cơ quan lập pháp, tòa án tôn giáo để người dân thường có vấn đề liên quan đến bất cứ khía cạnh nào trong đời sống thường nhật đến để xin ý kiến hay phán quyết từ các học giả, chức sắc tôn giáo. Các vấn đề hay câu hỏi họ đặt ra rất đa dạng, từ nông nghiệp, phân chia đất cát, phân chia thiệt hại, cho đến các vấn đề về gia đình (kết hôn, con cái, ly hôn, góa bụa, di chúc), ăn uống, vệ sinh, từ thiện, lễ nghi tôn giáo. Các câu hỏi về giáo dục con cái, thực tế giáo dục nằm trong số những vấn đề quan trọng thu hút sự chú ý của các học giả, được thảo luận ở các học viện.

Hai chức năng của học viện liên quan chặt chẽ đến nhau. Mục đích chính của các bài giảng, thảo luận của học giả là tìm ra phán quyết thích hợp trong Mishna để giải quyết vấn đề của dân, diễn giải câu chữ, phán quyết thường ngắn gọn, súc tích trong Mishna, tìm ra nguyên nhân, ngọn nguồn vấn đề, dung hòa mâu thuẫn bề ngoài, so sánh luật của học viện với luật của các bậc hiền nhân không có trong Mishna, áp dụng quyết định, nguyên tắc lâu đời cho các trường hợp mới vẫn chưa có chế tài.

Phần lớn Gemara bao gồm các phân tích pháp lý. Điểm xuất phát phân tích thường là một tuyên bố pháp lý có trong Mishna. Tuyên bố này sau đó được phân tích, so sánh với các tuyên bố khác thường dưới dạng một cuộc tranh luận giữa hai người (thường ẩn danh, đôi khi ẩn dụ) gọi là makshan (người hỏi) và tartzan (người trả lời). Gemara cũng xác định cơ sở Kinh Thánh cho các luật trong Mishna, xác định quy trình lôgic kết nối hai bộ luật với nhau.

Ví dụ, Mishna (Baba Batra 20b-21a) tiết lộ thông tin liên quan đến việc giáo dục trẻ em như sau:

Nếu một người muốn mở xưởng ở sân trong, hàng xóm có thể phản đối với lý do không thể ngủ được vì người ra vào ồn ào. Tuy nhiên, anh ta có thể làm hàng trong sân để mang ra chợ bán, khi đó hàng xóm không thể ngăn anh ta với lý do không ngủ được do tiếng quai búa, tiếng cối đá, tiếng trẻ em.

Về phán quyết này, Gemara (Talmud Babylon, Baba Batra 20b-21a) nhận xét:

Tại sao quy định trong trường hợp thứ hai không giống trường hợp thứ nhất? Abaye [học giả Amora ở Babylon, thế kỷ 3-4) trả lời: Vế thứ hai hẳn phải nói đến người ở cái sân khác. Raba [học giả Amora ở Babylon, thế kỷ 3-4) nói với Abaye: Nếu thế thì Mishna phải nói là: “Ở sân khác có được phép không?”—Không, Raba nói: mấy chữ cuối nói đến trẻ em trường học, từ thời quy định của Joshua ben Gamla…. Từ lâuJoshua ben Gamla tới, ra lệnh giáo viên trẻ nhỏ phải được chỉ định ở mọi huyện, mọi thị trấn, trẻ em phải tới trường năm 6-7 tuổi.

Rab [học giả Amora ở Babylon, thế kỷ 2-3) nói với giáo sỹ Samuel ben Shilath [học giả Amora ở Babylon, nửa đầu thế kỷ 3): Không nhận học sinh trước 6 tuổi; từ 6 tuổi giáo sỹ có thể nhận bọn trẻ, nhồi kinh Torah cho chúng như nhồi vịt ấy….

Raba nói tiếp: Số lượng học sinh giao cho một giáo viên là 25. Nếu có 50 học sinh, chúng ta chỉ định 2 giáo viên. Nếu có 40 học sinh, chúng ta chỉ định một trợ lý, chi phí thị trấn trả…. Raba nói tiếp: Người dạy bọn trẻ, người trồng nho, người mổ thịt tế lễ, nhà luật học của thị trấn tất cả đều bị cho nghỉ ngay lập tức nếu làm việc không hiệu quả. Nguyên tắc chung là bất cứ ai phạm phải lỗi không thể sửa được sẽ bị cho nghỉ ngay lập tức.

Talmud không thảo luận hay tranh luận các vấn đề nặng tính lý thuyết, thần học trừu tượng mà tập trung vào các vấn đề liên quan đến cuộc sống thường nhật, biến cuộc sống thường nhật thành một nguồn thông tin quan trọng về đời sống người Do Thái ở vùng đất Israel và Mesopotamia nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Talmud cung cấp bằng chứng rõ ràng về sự gia tăng số lượng sinh viên trong các học viện, về số lượng lớn các phán quyết chi tiết đối với việc cung cấp giáo dục, về việc lên lịch cho một sự kiện quan trọng trong đời sống tôn giáo Do Thái, kallah (được thảo luận dưới đây). Việc phát triển các học viện ở Mesopotamia được ghi lại trong nhiều đoạn Talmud gián tiếp gợi ý hẳn có nhiều trẻ em Do Thái được đi học tiểu học hơn—một điều kiện tiên quyết để vào trường trung học rồi học viện.

Cả Talmud của vùng đất Israel lẫn Talmud của Babylon chứa đầy những thảo luận, phán quyết liên quan tới trường học, giáo đường, học sinh, sách vở, nghĩa vụ và lương bổng người dạy, nghĩa vụ cha mẹ chu cấp cho việc học kinh Torah của con cái, nghĩa vụ học sinh đối với người dạy họ. Những vấn đề này không thấy nói đến trong các nền văn minh nông thôn khác cùng thời kỳ.

Bức tranh hiện ra từ số lượng thảo luận, phán quyết khổng lồ này là bức tranh của một xã hội nông nghiệp đang tổ chức các công cụ kinh tế, pháp lý, xã hội để thi hành sắc lệnh tôn giáo của Joshua ben Gamla, để phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em trai Do Thái. Ví dụ,Talmud của vùng đất Israel ghi rằng Hillel, con trai của Hillel đệ tam và cháu trai của giáo sỹ Judah haNasi, tìm cách thiết lập một hệ thống giáo dục bất chấp những khó khăn tài chính thời đó. Để đạt được mục tiêu này, ông yêu cầu ba học giả lỗi lạc đi nhiều nơi, yêu cầu họ chỉ định người dạy trẻ em ở nhiều thi trấn, làng mạc. Một số tranh luận, quyết định trong Talmud điều chỉnh việc tổ chức thực tế giáo dục tiểu học. Ví dụ, có một quyết định đề ra một loại thuế cộng đồng để giải quyết chuyện tiền lương cho người dạy kinh Torah và Mishna. Một quyết định khác yêu cầu người chưa kết hôn chưa có con sống ở thị trấn phải trả lương cho người dạy. Một quyết định khác cho phép cộng đồng sa thải người dạy nếu người này không làm theo yêu cầu cha mẹ học sinh.

Cả hai phiên bản Talmud đều chỉ ra cam kết thực thi cải cách giáo dục của các cộng đồng Do Thái. Tuy nhiên, các bậc hiền nhân của vùng đất Israel có quan điểm khác với các bậc hiền nhân ở Mesopotamia. Talmud của vùng đất Israel mô tả tổ chức cộng đồng của giáo dục tiểu học (bao gồm cả một loại thuế cộng đồng để trả lương cho người dạy) trong khi đó Talmud của Babylon chú trọng hơn đến trách nhiệm của cha mẹ trong việc chi trả cho việc học của con như được chỉ rõ trong sắc lệnh yêu cầu các ông bố phải trả tiền cho việc học của con, phải dạynghề cho con mình hoặc thuê ai đó dạy nghề cho con mình.

Tương tự như vậy, Talmud của vùng đất Israel quy định “lương thực cho một người được quy định cho năm tới trừ chi phí mua đồ ăn cho lễ Sabbath, lễ hội…trừ những thứ tinokot [trẻ dưới 7-8 tuổi] mang tới nhà thầy làm học phí”. Cũng về vấn đề này, Talmud của Babylon có cách trình bày khác: “Toàn bộ phần chia cho một người năm đó được xác định từ ngày đầu năm mới tới ngày Chuộc tội trừ chi phí lễ Sabbath, tổ chức lễ hội, tiền dạy kinh Torah cho con”.

Sự khác biệt giữa việc cung cấp giáo dục ở vùng đất Israel và Mesopotamia phù hợp với điều kiện kinh tế khác nhau ở hai khu vực này. Ởvùng đất Israel, việc cung cấp giáo dục được cộng đồng tổ chức công khai, thuế giáo dục đánh lên tất cả mọi người, việc giáo dục trẻ em nghèo, trẻ mồ côi được trợ cấp. Ngược lại, giáo dục cho trẻ em ở Mesopotamia chủ yếu do người dạy tư nhân cung cấp cho cá nhân, nhóm hộ gia đình nên hầu như mọi gia đình phải chịu toàn bộ chi phí học hành.

Tập quán kallah cũng chỉ ra rằng ngày càng có nhiều người Do Thái biết đọc biết viết. Kallah, có lẽ bắt nguồn từ Babylon thế kỷ 3, là một trong những hoạt động trung tâm ở học viện. Vào tháng 3, tháng 4 (Elul, Adar), mọi người tập trung đông, nam giới nghiên cứu kinh Torah trong các học viện ở Mesopotamia, nghe các vị học giả, các bậc hiền nhân đọc, thảo luận một đoạn trong Talmud. Trong lễ kallahmùa xuân, ngoài một đoạn Talmud, các vị học giả còn thảo luận, trả lời câu hỏi do các cộng đồng Do Thái từ khắp nơi gửi tới. Các câu hỏi liên quan đến mọi vấn đề từ các vấn đề kinh tế, chính trị cho tới các vấn đề tôn giáo, lễ nghi. Phúc đáp viết (tiếng Hebrew là teshuvot, tiếng La-tinh là responsa) cho những câu hỏi này được gửi về cộng đồng Do Thái thông qua các lái buôn Do Thái. Phúc đáp viết này là một đặc điểm độc đáo của Do Thái giáo, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình lịch sử kinh tế, xã hội của người Do Thái theo thời gian.

1050044486_%C6%B0.JPG
 
×
Quay lại
Top