Đáp án tư tưởng hồ chí minh phần 7 điểm

huyhanhmta

Thành viên
Tham gia
1/12/2011
Bài viết
9
Câu 11: phan tich co so tu tuong,ly luan hinh thanh va pt tt HCM
Tư tưởng và văn hoá truyền thống Việt NamChủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần bất khuất trong lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam luôn là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam yêu nước. Từ những truyền thuyết trong văn học dân gian như truyền thuyết về thiếu niên anh hùng Phù Đổng Thiên Vương đến các nhân vật anh hùng thời sơ sử như Thục An Dương Vương, Hai Bà Trưng, đến các vị anh hùng dân tộc thời phong kiến như Ngô Quyền, , Quang Trung – Nguyễn Huệ… luôn hun đúc một ý chí kiên cường, bất khuất trước các thế lực ngoại xâm hung bạo. Chủ nghĩa yêu nước là một dòng chảy xuyên suốt mọi thời kỳ lịch sử, là bản sắc văn hoá, là thước đo phẩm giá con người Việt Nam. Đây là hành trang tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất Thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Tổng kết truyền thống ấy, tại Đại hội II của Đảng (1951), Hồ Chí Minh đã khái quát: "Dân ta có một lòng nầng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước."
Đoàn kết, tương thân tương ái, sống nhân nghĩa là truyền thống văn hoá quý báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống này được hình thành và phát triển từ nhu cầu người dân Việt Nam phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt, với các thế lực ngoại xâm hung bạo. Là người Việt Nam, ai cũng thuộc, cũng nhớ những câu tục ngữ như "lá lành đùm lá rách" …..
Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải thực hiện bốn chữ "đồng": đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Cần cù, dũng cảm, thông minh và sáng tạo trong lao động sản xuất và chống giặc ngoại xâm cũng là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Với truyền thống hiếu học, cầu tiến, người dân nước Việt luôn sẵn sàng đón nhận những tinh hoa văn hoá của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Với vị trí địa lí tương đối thuận lợi, Việt Nam là một trong những đầu mối giao lưu quốc tế, mọi tư tưởng cực đoan, bài ngoại, thủ cựu, hẹp hòi đều xa lạ với truyền thống dân tộc. Nét độc đáo của dân tộc Việt Nam là ở chỗ luôn giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và cải biến những cái hay, nét đẹp của bên ngoài. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh động của truyền thống tốt đẹp này.
1.2.2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
Tinh hoa văn hoá phương Đông là một trong những cội nguồn quan trọng, là cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sinh trưởng trong một gia đình trí thức phong kiến, thưở thiếu thời, Người đã có vốn tri thức khá vững về Quốc học và Hán học. Điều dễ nhận thấy là trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh đã sử dụng khá nhiều mệnh đề Nho giáo. Người đề cao mặt tích cực của Nho giáo như triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị - thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh, tu thân tích đức… để giáo dục cán bộ đảng viên và quần chúng.
Gạt bỏ những mặt tiêu cực của Phật giáo, Hồ Chí Minh nhận rõ giáo lý đạo Phật cũng biểu hiện những mặt tích cực và đã để lại nhiều dấu ấn trong cách ứng xử, trong tư duy của người Việt Nam, như tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thương người như thể thương thân; là tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác; là lối sống đạo đức; là sự giản dị, trong sạch, luôn biết làm việc thiện cho đời, cho người; là sự cần cù lao động, ghét thói lười biếng, tham lam…
Hồ Chí Minh còn tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Tam dân của bác sĩ Tôn Dật Tiên – nhà dân tộc cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Người đã khai thác và kế thừa những mặt tích cực trong học thuyết của Tôn Dật Tiên vì thấy trong đó "những điều thích hợp với Việt Nam".
Có thể nói, Hồ Chí Minh là người biết khai thác và kế thừa những yếu tố tích cực của các học thuyết tư tưởng và văn hoá phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng và văn hoá phương Tây là một trong những cơ sở, nguồn gốc quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phần lớn thời gian hoạt động của Người ở nước ngoài là ở các nước châu Âu. Nền văn hoá, chế độ dân chủ tư sản và tư tưởng cách mạng của các nước châu Âu đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh. Những tư tưởng dân chủ và cách mạng của Cách mạng tư sản Pháp 1789, của Cách mạng Mỹ 1776; những tư tưởng của Vônte, Rutxô, Môngtexkiơ… trong Thế kỷ Ánh sáng, cùng những hoạt động thực tiễn của Người trong giới trí thức, những cuộc tiếp xúc với các chính khách; những hoạt động trong không khí dân chủ tư sản… đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận thức rằng: thể chế dân chủ - dù là dân chủ tư sản cũng tiến bộ vượt bậc so với các chế độ quân chủ phong kiến và chế độ thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc còn học được lối làm việc dân chủ khi Người tham gia các hoạt động chính trị trong các tổ chức ở trong Đảng Xã hội Pháp. Được sự giúp đỡ, dìu dắt của các chiến sĩ cách mạng, các trí thức tiến bộ ,Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều tiến bộ và trưởng thành trong nhận thức, tư tưởng. Người đã thâu lượm, chắt lọc, rèn luyện để kế thừa, đổi mới, phát triển, nâng tư tưởng, nhận thức lên tầm cao của tri thức nhân loại.
1.2.2.3. Chủ nghĩa Mác-Lênin: cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người Hồ Chí Minh. Nhờ phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã hấp thụ những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hoá và tạo nên hệ tư tưởng của mình. Vì vậy, có thể nói: "Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin; những phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong phạm trù cơ bản của lý luận Mác – Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới". Chúng ta có thể thấy rõ điều này ở một số điểm dưới đây:
Ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi 20, Nguyễn Tất Thành đã có một năng lực trí tuệ sắc sảo đủ để đúc r‎út những bài học về thế hệ cha anh đã để lại trong các hoạt động yêu nước, chống ngoại xâm. Những bài học ấy chỉ cho Anh thấy rõ tôn chỉ, mục đích và đường lối của các thế hệ đi trước đã thể hiện sự lạc hậu, bất cập với thời đại. Thời gian 10 năm (từ 1911 đến 1920) bôn ba ở nước ngoài đã giúp Nguyễn Tất Thành phát triển và hoàn thiện một nguồn vốn về chính trị, văn hoá và đời sống thực tiễn xã hội. Nguồn vốn này đã tạo nên một bản lĩnh chính trị, một trí tuệ mà không một nhà cách mạng cùng thời nào có được. Chính bản lĩnh ấy đã giúp Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh thần dân chủ, độc lập, sáng tạo, không sao chép hoặc giáo điều khi vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Với tư duy hành động, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin là do yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đó là con đường cứu nước, giành độc lập dân tộc, dần tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người đến với chủ nghĩa Lênin qua cửa ngõ của chủ nghĩa yêu nước, rồi từ đó trở lại tìm hiểu, nghiên cứu chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khoa học, nắm chắc cái tinh thần, bản chất chứ không tuân thủ ngôn từ, công thức. Người đã vận dụng quan điểm, lập trường và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để xác định chủ trương, đường lối và giải pháp cách mạng phù hợp với từng thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Câu 12: nêu các quan điểm hcm về GPDT thuộc địa? phân tích luan điểm “muốn cưu nc và GPDT ko có con đường nào khác con đường CM vô sản” ?
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản, mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
NAQ đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công "trước hết phải có đảng cách mệnh", "đảng có vững cách mệnh mới thành công" "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" đó là chủ nghĩa Lênin.
- Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông.
- Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô sản ở chính quốc.
Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của HCM. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người đã sớm cho rằng cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào CM vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của CM VN chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
-Năm là, CM giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân.
* Tóm lại, HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống quan điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Phân tích:
Trong hệ thống các luận điểm trên thì luận điểm quan trọng và được người chú ý hơn cả là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản.
Sở dĩ các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đều thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn. Khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới, một mặt chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn nhau, mặt khác chúng lại thống nhất với nhau để đàn áp thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân thuộc địa có chung một kẻ thù. Chủ nghĩa tư bản như con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi. Vì vậy, cách mạng vô sản ở chính quốc phải kết hợp với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù khác hẳn với chúng ta về nên văn minh và văn hóa. Kẻ thù là chủ nghĩa tư bản mạnh hơn ta nhiều lần với các phương tiện chiến tranh hiện đại hơn ta rất nhiều. Vì vậy các đường lối cách mạng cũ đều không thể giành thắng lợi. Chủ nghĩa tư bản không những có nền văn minh hơn hẳn chúng ta mà còn trở thành một hệ thống thế giới. Tuy chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn nhau nhưng chúng luôn luôn thống nhất với nhau để đàn áp lại các cuộc cách mạng của nhân dân lao động ở chính quốc cũng như thuộc địa. Ví dụ như việc Nguyễn Ái Quốc đã bị thực dân Anh bắt sau đó giao lại cho Pháp, còn phong trào Đông du của Phan Bội Châu bị Nhật tiêu diệt.

Tất cả các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau đều thất bại do không có đường lối đấu tranh đúng đắn. Các cuộc nổi dậy do các sỹ phu yêu nước lãnh đạo nổ ra rầm rộ và lan rộng khắp cả nước như khởi nghĩa Trương Đinh (1859- 1864), Nguyễn Trung Trực ( 1861-1868) ở miền Nam, khởi nghĩa Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng ( 1886- 1887) ở miền Trung, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887), Bãi Sậy ( 1885-1889) ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy này đều mạng nặng ý thức hệ phong kiến, phụng chiếu Cần Vương, đường lối kháng chiến không rõ ràng, chủ yếu là muốn khôi phục độc lập dưới chế độ phong kiến, tất cả đều có chung một kết cục là bị thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man và thất bại. Các phong trào theo hệ tư tưởng tư sản như Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy tân ở thập niên đầu của thế kỷ XX cũng đều thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến trở nên lỗi thời do sự xuất hiện hệ tư tưởng của giai cấp vô sản tiên tiến hơn.
Cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản ở chính quốc để chống lại chủ nghĩa tư bản. Vì họ cũng là những nạn nhân bị giai cấp tư bản bóc lột. Giai cấp vô sản ở chính quốc có cùng chung một kẻ thù với nhân dân thuộc địa, đó chính là chủ nghĩa tư bản. Sự đoàn kết này là hết sức quan trọng để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm cắt đứt cả hai vòi của con đỉa là chủ nghĩa tư bản.

Chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản mới có thể vừa giải phóng dân tộc vừa giải phóng con người và giải phóng giai cấp. Các con đường khác có thể đem đến độc lập cho đất nước nhưng không thể đạt được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sau một quả trình nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế trên bình diện rộng lớn trong cũng như ngoài nước Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Thực chất của con đường cách mạng vô sản là gắn liền độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội.Cho đến nay hệ tư tưởng của cách mang vô sản vẫn là hệ tư tưởng tiên tiến nhất của nhân loại.
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc nói chung và luận điểm “ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phỉ đi theo con đường của cách mạng vô sản” đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó đã chỉ ra cho dân tộc Việt Nam con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, đưa dân tộc thoát khỏi đêm đen khủng hoảng con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã dân đường cho cả dân tộc đi theo, con đường đi đúng đắn để giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Cho đến nay tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị. Nó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Cau 14 phan tích:




Câu 15:Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn chỉ đạo công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh đã từng bước hình thành quan niệm của Người về những đặc trưng bản chất của CNXH. Người có nhữngphát biểu
- Nói một cách tổng quát, Người xem CNXH như một chế độ xã hội hoàn chỉnh, đó là con đường giải phóng cho nhân loại cần lao, bị áp bức: Chỉ có CNCS mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người niềm vui hoà bình, hạnh phúc.”
- Phát biểu về CNXH bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó “CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng... làm của chung”
CNXH là “một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội công bằng và bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm khônghưởng.”
+ CNXH “gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân.” “...Chỉ ở trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình.”
+ “Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ.” --_Phát biểu bằng việc xác định mục tiêu của CNXH và chỉ ra phương hướng, phương tiện để đạt mục tiêu đó
Trả lời câu hỏi CNXH là gì? Người nêu: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.”
- Trả lời câu hỏi: muốn có CNXH phải làm gì? Người nói: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Muốn có CNXH thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất.”
+ Phát biểu bằng việc xác định động lực xây dựng CNXH: “CNXH là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy.”
- Từ những phát biểu trên đây có thể khái quát thành những đặc trưng bản chất của CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
+ Về chính trị: CNXH là một chế độ chính trị dân chủ thật sự. Một xã hội trong đó dân là chủ và dân làm chủ.
Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước dựa trên khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức do Đảng lãnh đạo.
+ Về kinh tế: CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hoá, dân giàu, nước mạnh.
Nền kinh tế thực hiện chế độ sở hữu xã hội về TLSX và nguyên tắc phân phối theo lao động
+ Về văn hoá: CNXH là  một xã hội phát triển cao về văn hoá, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh.
Về xã hội: CNXH là một xã hội công bằng và bình đẳng, không còn áp bưc,
bóc lột, bất công, con người có điều kiện phát triển toàn diện.
+ Chủ thể xây dựng CNXH (lực lượng): CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để đạt tới một xã hội xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng bản chất như thế, theo Người, phải là một quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ và
lâu dài, phải làm dần dần, không thể nôn nóng.
=>Hcm đề cập đến mô hình cnxh với bản chất ưu việt dễ nhớ. Đặc trưng b/c đó nó phản anhs1 xh của con người do con người và vi con người. đó là sự vận dụng sang tạo những dự báo kh của các nhà sang lập cnxhkh vào thực tiễn vn.là cơ sở nền tảng để đảng ta đề ra những đặc trưng b/c của cnxh mà chúng ta xd.
Câu 16: 4 quan điểm cua hcm về DĐKDT
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu , nhiệm vụ hàng đầu để tập hợp lực lượng cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Xd mặt trân dân tộc thong nhát vững mạnh
DĐKDT phải gắn liền với ĐK quốc tế
Phân tích luận điểm: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân?
Trả Lời:Trong TTHCM từ Dân, Nhân Dân vừa là một từ tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người VN cụ thể, và cả hai đều là chủ thể của đạiđoàn kết dân tộc. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung của dân tộc.Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kếtcác giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo... trong cộng đồng dân tôc trong suốt tiến trình CMVN.Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người. Người tin rằng:ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong. Vì vậy,mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của Tổ Quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho mãi mãi mai sau.Muốn xây dựng khối đại đoàn kết rộng lớn, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Theo Người thì lấy liên minh công- nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân. nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Câu 17: Hãy phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Quan diem cua hcm ve xd nha nuoc kieu moi:
-nhà nước của dân, do dân, vì dân
-sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước.
-nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
-xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả.
Phan tich
.5.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã chỉ rõ: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người, thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Sau khi nước ta giành được độc lập, Người đã khẳng định:
"NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
5.2.1.1. Thế nào là nhà nước của dân?
Nói nhà nước là của dân, như Điều 1 Hiến pháp năm 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định rõ: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo".
Điều 32 của Hiến pháp 1946 cũng qui định: "Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phán quyết". Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân uỷ quyền cho các đại diện do mình bầu ra. Đồng thời: "Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân".
Trong nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luât không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ quyền của dân, chỉ là "công bộc" của dân theo ý nghĩa đúng đắn của từ này.
Nhưng có những "vị đại diện" đã lầm lẫn sự uỷ quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh ra lộng quyền, cửa quyền… Chính cơn khát quyền lực ấy đã sinh ra biết bao chuyện đau lòng mà Bác Hồ từng phê phán: "Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân".
5.2.1.2. Thế nào là nhà nước do dân?
Đó là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình: Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động. Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người yêu cầu: "Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân". "Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đập đổ chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác". Nghĩa là khi các cơ quan đó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó.
5.2.1.3. Thế nào là nhà nước vì dân?
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân được. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ Chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. Vì vậy:
"Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh"…
Nhiều nhà nước của giai cấp thống trị khi còn ở giai đoạn tích cực và tiến bộ cũng chủ trương thân dân, thậm chí cũng tuyên bố là nhà nước "vì dân", nhưng đó chỉ là một thiện chí hay một chiêu bài, bởi vì cái cơ bản là nếu chính quyền đó không của nhân dân và không do nhân dân làm chủ mà do các ông quan làm chủ thì không bao giờ nó có thể vì dân được. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân".
Hai chữ "đầy tớ" Người dùng gốc từ hai chữ "công bộc" vốn có nghĩa là người phục vụ chung của xã hội , cũng là một cách dùng để chỉ hàng ngũ quan lại, dưới chính thể phong kiến hay tư sản đều có dùng, chứ không hề có ý miệt thị các chức vụ này.
Nhưng đối với cán bộ nhà nước, Bác Hồ không bao giờ chỉ nhấn mạnh một vế. Là người phục vụ, cán bộ nhà nước, đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Người nói: "Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường". Trong Di chúc, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa "là người lãnh đạo", vừa "là người đầy tớ trung thành của nhân dân". Là người đầy tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm kiêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… Là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài… Như vậy, để làm người thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức tài, phải vừa hiền lại vừa minh.
Cau 18:Phan tich Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.
5.2.3.1. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp pháp , hợp hiến.
Sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới về sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới, qua đó biểu dương lực lượng và ý chí của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giũ vững nền tự do, độc lập của mình.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sáu vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề thứ ba là: "Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu" để sớm có một nhà nước hợp hiến do dân bầu ra. Ngày 20-9-1945, Người ký sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuẩn bị đệ trình Quốc hội. Uỷ ban gồm 7 vị, do Người là Trưởng ban.
Mặc dù những khó khăn dồn dập do thù trong, giặc ngoài gây ra, cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành chỉ bốn tháng sau ngày độc lập. Đây là một cuộc phổ thông đầu phiếu được tổ chức nhanh nhất, diễn ra sớm nhất, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được kể từ sau khi lật đổ ách thống trị thực dân, đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên cầm quyền.
5.2.3.2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm được cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật, vì pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Ngay từ năm 1919, khi đưa ra bản Yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định vai trò của pháp luật bằng câu:
"Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Ở cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký Lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác…
Một mặt, chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác, Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong nhân dân.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: lúc dân biết và dám phê bình người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hoá khá cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, viên chức có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.

Câu 19:Nêu những quan điểm của HCM về ĐCSVN
Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi
ĐCSVN là “Đảng của giai cấp công nhân,của nhân dân lao động đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”
DCSVN la sp cua su ket hop giua CN M-L cua PTCN va PTYN
ĐCSVN phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”
ĐCSVN phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
ĐCSVN là đảng cầm quyền, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng và tự chỉnh đốn, tự đổi mới ngang tầm với nhiệm vụ CM

-quy luật ra đời của các ĐCS trên thế giới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lenin: Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác - Lenin và phong trào công nhân.
- Nêu lên quy luật ra đời của Đảng cộng sản VN theo quan điểm của HCM:
ĐCSVN = Chủ nghĩa Mác - Lenin + Phong trào công nhân + Phong trào yêu nước VN
Phân tích các yếu tố đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
1.Chủ nghĩa Mác-Lênin :
Những tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh những người Việt Nam hướng theo con đường cách mạng đúng đắn đó là con đường cách mạng vô sản. Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng chủ nghĩa xã hội xác định đúng vấn đề động lực cách mạng liên minh giai cấp vị trí of cách mạng thuộc
địa Đó là cơ sở lí luận cho cương lĩnh cách mạng của Đảng sau này. Nhờ có chủ nghĩa Mác-Lênin mà phong trào công nhân đã chuyển từ "tự phát" sang "tự giác".
2. Phong trào công nhân
Từ đầu thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức, bóc lột của tư sản, thực dân cũng diễn ra từ rất sớm.
- Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào công nhân chưa trở thành lực lượng riêng biệt còn hoà lẫn với phong trào yêu nước.Sự phát triển của phong trào công nhân trong nước đã khẳng định sự lớn lên trong nhận thức tư tưởng của GCCN về cách mạng giải phóng dân tộc VN.
Như vậy phong trào công nhân ngày 1 trưởng thành là 1 trong những điều kiện tất yếu dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản VN. .
3 Phong trào yêu nước
- Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành từ rất sớm, có nền văn hiến lâu đời, trong đó yêu nước là truyền thống quý báu và đặc sắc, là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc VN.
- Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta (năm 1858), nhân dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự nối tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử (Ví dụ một số phong trào)
Phân tích yếu tố riêng biệt trong quy luật ra đời của ĐCSVN
- Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc
+ Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của nước ta.
+ Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân
- Phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối liên hệ chặt chẽ:
+ Hầu hết công nhân đều xuất thân từ nông dân
+ Cóchung kẻ thù: Bọn thực dân Pháp và phong kiến tay sai
- Phong trào yêu nước có tác động đến việc truyền bá Chủ nghĩa Mac-lenin và sự phát triển của phong trào công nhân:Bản thân Nguyễn Ái Quốc cũng xuất phát từ tinh thần yêu nước đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc, Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin .Năm 1930 ở VN có 3 yếu tố : chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đó đã đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách mạng.
Cau 20: Đảng Cộng sản Việt Nam – “Đảng của giai cấp công nhân,của nhân dân lao động đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam”
Bo sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã có một luận điểm quan trọng là: Đảng của giai cấp công nhân,của nhân dân lao động đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951), Người khẳng định: "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam". Khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, năm 1961, Người nhắc lại luận điểm này: "Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị".
Luận điểm nêu trên đã chỉ đạo cách thức tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất giai cấp công nhân, mà còn gắn bó máu thịt với dân tộc. Mọi hoạt động của Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự giai cấp, phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân thừa nhận và gọi trìu mến, gần gũi là "Đảng ta". Đó là một cội nguồn sức mạnh của Đảng.
Nói Đảng của giai cấp, đồng thời là của dân tộc, song không có nghĩa là "Đảng toàn dân", không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Sở dĩ có đặc trưng đó là vì, khác hẳn các chính đảng của giai cấp bóc lột, giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của các tầng lớp cần lao và lợi ích của toàn dân tộc. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin; mục tiêu, đường lối của Đảng là thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề Đảng nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng không chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trong đội ngũ trí thức và các thành phần khác đã được giác ngộ, tự giác đứng trên lập trường giai cấp công nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: "Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó, nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản, thiết thân của mình". Đó cũng là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với tình hình hiện nay trong công tác xây dựng Đảng, tránh bệnh "tả" khuynh (cô độc, biệt phái) hoặc hữu khuynh (xoá nhoà bản chất giai cấp công nhân của Đảng).
Câu 21:phân tích: ĐCSVN phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”
Ngay trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng, trong Đường Kách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam". Dẫn đường cho mọi hoạt động của các giai cấp đều cần thiết phải có một học thuyết cách mạng. Song, theo Hồ Chí Minh, "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là học thuyết "chân chính nhất", "cách mệnh nhất" vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xoá bỏ áp bức, bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "làm cốt" không có nghĩa là giáo điều, máy móc theo từng câu, từng chữ của Mác, của Lênin mà chính là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Hay theo cách nói của Hồ Chí Minh là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, phải thâu hái những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, thao khảo kinh nghiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương mẫu mực về vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, mặt khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ hội, xét lại, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đính thực. Ngược lại, không phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới sẽ làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cẩu. Dĩ nhiên, phải luôn xác định được ranh giới giữa kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin với các biểu hiện bảo thủ, giáo điều; giữa sáng tạo lý luận với cơ hội chính trị.
Câu 22:phân tích: ĐCSVN phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới
Thứ nhất, tập trung dân chủ.
Đây là nguyên tắc rường cột để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sự nghiệp của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau thành một tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Dân chủ và tập trung có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau, là hai mặt của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tự do tuỳ tiện, vô tổ chức. Dân chủ là để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung. Tập trung chỉ có thể đạt được trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong Đảng.
Để bảo đảm tập trung, Người nhấn mạnh phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức ,hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Từ đó làm cho "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người".
Để đảm bảo dân chủ, Người yêu cầu tư tưởng phải được tự do. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng chính là nghĩa vụ của mọi người. "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý".
Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh cho rằng, đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Sở dĩ phải đảm bảo tập thể lãnh đạo là vì một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Sở dĩ phải cá nhân phụ trách là vì nếu không sẽ dẫn tới tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, rồi hỏng việc. Không xác định rõ cá nhân phụ trách thì giống như "nhiều sãi không ai đóng chùa", người này ỷ vào người kia. Vì thế, bất kỳ công việc gì sau khi đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch rõ ràng, thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có một người phụ trách chính, như thế công việc mới chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm. Do đó, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau.
Thứ ba, tự phê bình và phê bình.
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Có khi Người nói phê bình và tự phê bình, có khi Người nói tự phê bình và phê bình, nhưng thường đặt tự phê bình lên trước phê bình. Bởi vì, Người cho rằng, mỗi đảng viên trước hết phải thấy rõ mình để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, giống như phải tự soi gương rửa mặt hàng ngày. Hơn nữa, nếu tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Hồ Chí Minh xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Người chỉ rõ: "một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính". Cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Người phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, không dám phê bình, nể nang né tránh, dĩ hoà vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bôi nhọ, vùi dập, đả kích người khác…
Thứ tư, kỷ luật nghiêm và tự giác.
Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn. Yêu cầu cao nhất của kỷ luật Đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Có như vậy, Đảng mới là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Nếu không có kỷ luật, không thống nhất về tư tưởng và hành động, "Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bế tắc". Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào, mỗi cấp uỷ đảng dù ở cấp nào, cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng, biến kỷ luật thành ý thức và hành động tự giác.
Thứ năm, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Hồ Chí Minh xem đoàn kết, thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình. Cơ sở để xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là đường lối, quan điểm của Đảng và Điều lệ Đảng. Nó tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng, nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào thực tiễn, biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng. Để xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và có tình thương yêu đồng chí, phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân.
Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản mà Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Thực tế những năm đổi mới đã chỉ rõ, ở đâu có quan liêu, tham nhũng, ở đó xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thật sự bảo đảm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiếu tinh thần tự phê bình và phê bình, kỷ luật lỏng lẻo, thiếu gắn bó mật thiết với nhân dân. Vì vậy, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản là những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay. Chính vì vậy chúng ta phải không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, cụ thể hoá những nguyên tắc đó một cách phù hợp với từng tổ chức Đảng trong từng cơ quan thuộc hệ thống chính trị và tổ chức kinh tế, xây dựng một cơ chế tương hỗ để các nguyên tắc đó phát huy đầy đủ, đúng đắn, tránh vận dụng lệch lạc, tuỳ tiện. Trong đó những vấn đề cấp bách cần thực hiện tốt là tiến hành bất cứ công việc gì cũng đều phải thật sự dân chủ thảo luận, tập thể quyết nghị. Sau khi đã có quyết nghị của tập thể, việc giao nhiệm vụ phải có địa chỉ rõ ràng, có người cụ thể chịu trách nhiệm, có lộ trình cam kết thực hiện, có kiểm tra theo đúng lộ trình đã cam kế.
Câu hỏi23: Nêu các quan điểm cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự? Phân tích quan điểm: Chính trị quyết định quân sự, quân sự phục tùng chính trị?
3 quan điểm suyên suốt của HCM về QS:
- Quan điểm ctri quyết định QS, QS phải phục tùng ctri.
- Quan điêm nân dân ,toàn dân trong linh vực QS toàn dân
- Quan điếm của HCM về nhân tố con người trong QS
Phan tich:
-Căn cứ để Hồ Chí Minh xác định
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nguồn gốc và bản chất của chiến tranh, mối quan hệ gữa chiến tranh và chính trị.
+ Khi đánh giá, rút ra nguyên nhân thất bại từ các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
- Nội dung chính trị quyết định quân sự
+ Mục tiêu phương hướng chính trị quyết định sự ra đời và hoạt động của lực lượng vũ trang, của đường lối quân sự.
+ Phương hướng chính trị và bản chất giai cấp của tổ chức lãnh đạo quyết định bản chất của Quân đội, của lực lượng vũ trang .
- Quân đội muốn vững mạnh đòi hỏi tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
- Ý nghĩa đối với quá trình xây dựng Quân đội ta trong giai đoạn hiện nay?
Câu hỏi24: Nêu các quan điểm cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự? Phân tích quan điểm: Con người trong hoạt động quân sự?
3 quan điểm suyên suốt của HCM về QS:
- Quan điểm ctri quyết định QS, QS phải phục tùng ctri.
- Quan điêm nân dân ,toàn dân trong linh vực QS toàn dân
- Quan điếm của HCM về nhân tố con người trong QS
Phan tich:
- Con người trong hoạt động quân sự phải giác ngộ mục tiêu, lí tưởng, có trình độ hiểu biết đầy đủ, đồng thời phải là những người hăng hái nhất.
- Mối quan hệ giữa nhân tố con người với các yếu tố khác.
- Đồng thời với việc phát huy nhân tố con người trong quân đội cách mạng, phải biết tiến công, đánh vào lòng người quân địch.
- Để phát huy nhân tố con người theo Hồ Chính Minh phải làm gì?
- Ý nghĩa đối với quá trình xây dựng Quân đội ta trong giai đoạn hiện nay?
Câu 25: Nêu các quan điểm cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự? Phân tích quan điểm: Nhân dân, toàn dân trong hoạt động quân sự?
- Quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong hoạt động quân sự nói riêng.
- Để phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân trong hoạt động quân sự, theo Người phải làm gì?
+ Có đường lối chính trị đúng đắn hợp với lòng dân, có tổ chức lãnh đạo kiên cường biết tập hợp quần chúng.
+ Tiến hành công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân để khơi dậy tinh thần yêu nước. Phải làm cho nhân ta có tín tâm và quyết tâm.
+ Phải vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt ho toàn dân đánh giặc.
+ Thường xuyên củng cố, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất để tập hợp đoàn kết toàn dân.
- Ý nghĩa đối với quá trình xây dựng Quân đội ta trong giai đoạn hiện nay?
Câu 26: Nêu các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự? Phân tích nội dung về khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh nhân dân?
-khởi nghĩa vũ trang
-chiến tranh nhân dân
-nghệ thuật QS
- xd lực lượng vũ trang nhân dân
Phân tích:
- Khởi nghĩa vũ trang toàn dân:
+ Tính tất yếu của khởi nghĩa vũ trang.
+ Lực lượng khởi nghĩa vũ trang.
+ Phải nắm vững và tạo thời cơ để để phát động khởi nghĩa: chính quyền đế quốc, tinh thần của quần chúng, vai trò của đảng...
+ Hình thái khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước khi thời cơ thuận lợi.
- Chiến tranh nhân dân
+ Mục đích của chiến tranh cách mạng: ĐLDT, thống nhất Tổ quốc đi lên CNXH; khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh.
+ Thế nào là kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến và dựa vào sức mình là chính?
- Ý nghĩa đối với quá trình kháng chiến Mỹ, Pháp xây dựng và phát triển nền Quốc phòng toàn dân trong giai đoạn hiện nay?

Câu 27: pt quan niệm cua HCM về vai trò vị trí cua đạo đức CM.
Xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Cuốn Đường cách mệnh không phải là một chuyên luận về đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách, Người đã nêu lên hai mươi ba điều thuộc tư cách một người cách mạng, trong ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Những năm bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: "Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân… Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Hồ Chí Minh coi đạo đức như nguồn của sông, như gốc của cây: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì làn nổi việc gì?". "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi xa được. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang". "Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không". "Tuy năng lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng".
Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức "có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần phong". "Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận lợi và thành công cũng giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá".

Cau 28
Phẩm chất dđức cm theo quan điêm hcm:
Trung với nước, hiếu với dân
Yêu thương quý trọng con người,sống có tình nghĩa
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Tinh thần quốc tế trong sáng
Phân tích Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó nội dung mới. Trước kia là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước, vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề:
"Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
So với trước, Đảng và Chính phủ là "đầy tớ nhân dân" chứ không phải "quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân", thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nói, "điều chủ chốt nhất" của đạo đức cách mạng là "quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng", là "tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân", là "trung với nước, hiếu với dân", hơn nữa là "tận trung, tận hiếu" thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tư tưởng hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, chăn dắt, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng.
Cau 29: phân tích Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mọi người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ Đường Kách mệnh cho đến bản Di chúc cuối cùng.
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới, do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra.
Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu, đối với mọi người.
Theo Hồ Chí Minh thì:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân. Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá". "Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ".
Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như:
"… cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư…".
"Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lao.
Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử".
Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn".
Đối với mình - không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người - không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc - để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết tâm làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc". "Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau"; "phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Đối lập với "chí công vô tư" là "dĩ công vi tư", đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Chí công vô tư, về thực chất là nối tiếp cần kiệm liêm chính. Người giải thích:
"Trước mắt là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư"".
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi Hồ Chí Minh coi cần kiệm như hai chân của con người, phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào "gió vào nhà trống", "nước đổ vào chiếc thùng không đáy", "làm chừng nào xào chừng ấy", rốt cuộc "không lại hoàn không". Còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức của con người, thiếu một đức thì không thành người, cũng như:
"Trời có bốn mùa…
Đất có bốn phương…
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất"
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh, mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm.

Câu 30: phân tíchYêu thương quý trọng con người,sống có tình nghĩa

Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương đó là tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện rõ ở Hồ Chí Minh bằng câu nói: "Tôi chỉ có một h.am m.uốn, h.am m.uốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong quan hệ hằng ngày. Nó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết cách nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh, còn được thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ khuyết điểm sai lầm và cố gắng sửa chữa; kể cả đối với những người lầm đường lạc lối đã hối cải; kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có, tuy nhiều ít có khác nhau.
 
×
Quay lại
Top