Giáo dục Việt Nam 'mở' như thế nào?

heokool

Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Thành viên thân thiết
Tham gia
22/9/2011
Bài viết
14.934
Nếu GD "mở" hướng tới việc dỡ bỏ các rào cản trên con đường đến với GD thì chính việc xây dựng hệ thống GD "mở" cũng đòi hỏi phải vượt qua rất nhiều rào cản.
Xung quanh các thảo luận về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta, đã hình thành quan điểm cần chuyển mô hình GD hiện nay sang mô hình GD "mở".

Thế nào là GD "mở"?

Có điều, cho đến nay, chúng ta chưa có bất kỳ định nghĩa chính thức nào về GD "mở". Khái niệm này vẫn được hiểu một cách ít nhiều cảm tính và do đó có những quan niệm khác nhau. Một cách hiểu, theo quan điểm hệ thống mở, thì GD "mở" là hệ thống được thiết kế sao cho tổ chức và hoạt động của nó có khả năng thích ứng với những đổi thay và yêu cầu mới của môi trường kinh tế- xã hội.

Cách hiểu khác cho rằng hệ thống GD truyền thống là hệ thống đóng, tập trung vào người dạy, với những quy định cứng nhắc về trường lớp, chương trình GD, cách dạy, cách học, cách đánh giá. Do đó, hệ thống GD "mở" là hệ thống tập trung vào người học, với những quy định thông thoáng về trường lớp mở, chương trình mở, nội dung mở, cách dạy mở, cách học mở v.v...

Dĩ nhiên, các cách hiểu trên đều có hạt nhân hợp lý của nó. Chỉ có điều trên phạm vi quốc tế hiện nay, cách hiểu chung về GD "mở" (open education) là GD trong đó các rào cản không cần thiết trên con đường đến với GD được dỡ bỏ. Người học có cơ hội hợp lý để thành công trong một hệ thống GD đa dạng về phạm vi học tập và đáp ứng các nhu cầu khác biệt của người học.
Có thể coi việc ra đời của ĐH "mở" năm 1969 ở Anh và tiếp đó hàng loạt các ĐH "mở" khác trên thế giới là bước đi đầu tiên của GD "mở" với việc dỡ bỏ các rào cản trong chính sách và chỉ tiêu tuyển sinh ĐH. Tuy nhiên, GD "mở" chỉ thực sự có bước đột phá trong vòng 10 năm gần đây, kể từ khi Học viện MIT (Mỹ) đưa lên mạng các học liệu mở.

Tiếp đó là sự bùng nổ của các tài nguyên GD "mở" (Open Educational Resources, OER). OER là thuật ngữ dùng để chỉ những tài liệu GD số hóa, được cung cấp mở và miễn phí trên mạng, để nhà giáo và người học sử dụng, tái sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu và học tập. Nhờ vậy tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận GD miễn phí, mọi lúc, mọi nơi.

Bước phát triển quan trọng nhất của OER trong năm 2011 là sáng kiến của ĐH Standford, với sự ra đời Khóa học trực tuyến "mở" đại chúng (Massive Open Online Courses, MOOC). Đó là khóa học thực và miễn phí trên mạng, với sự dẫn dắt trực tiếp của giảng viên, cùng sự tham dự và tương tác của hàng trăm nghìn người học ở khắp nơi trên thế giới.
Điều đặc biệt quan trọng là giảng viên MOOC là các nhà khoa học danh tiếng của các ĐH hàng đầu. Người học chỉ cần có máy tính nối mạng và sau khi hòan tất khóa học, được cấp chứng chỉ với chữ ký của giảng viên.

Mới đây, hai tổ chức GD cung ứng MOOC, cụ thể là Udacity và EdX (gồm các ĐH Harvard, MIT và Berkeley), còn tiến một bước quan trọng trong việc phối hợp với Công ty khảo thí Pearson (gồm 4000 trung tâm tại 170 quốc gia) để tổ chức các kỳ thi có giám sát, làm cơ sở cấp tín chỉ cho học viên MOOC, tiến tới cấp văn bằng như sinh viên chính khóa.
Vì thế, MOOC được coi là một giai đoạn phát triển mới của GD ĐH, thu hút sự tham gia của nhiều ĐH lớn trên thế giới. Thậm chí, theo GS Marginson, chuyên gia về GDĐH, thì MOOC sẽ là tác nhân thay đổi cuộc chơi trong GDĐH toàn cầu.

20130122170107-9-730488-5681.jpg
Đã hình thành quan điểm cần chuyển mô hình GD hiện nay sang mô hình GD "mở". Ảnh minh họa: Minh Tiến/Baochi.edu.vn

Bước chập chững của GD "mở" ở Việt Nam

Năm 2005, Bộ GD& ĐT cùng Quỹ GD Việt Nam-Hoa Kỳ (VEF) phối hợp với Công ty phần mềm và truyền thông VASC triển khai dự án Học liệu mở Việt Nam (Vietnam OpenCourseWare, VOCW). Dự án này đã thành công trong việc đặt nền móng ban đầu cho hoạt động học liệu mở ở nước ta. Ngoài ra, với mạng GD Edunet (Cục Công nghệ thông tin, Bộ GD&ĐT), Việt Nam cũng là một trong 44 nước thành viên của Hiệp hội OCW.

Nhìn chung, GD "mở" ở Việt Nam mới đang ở bước đi ban đầu với một số hoạt động về OCW và OER. Các hoạt động này còn nhỏ lẻ, tập trung ở một số trường ĐH và cá nhân yêu thích đưa ICT vào dạy và học. Cộng đồng OCW của Edunet cũng mới chỉ có 10 trường ĐH tham gia. Dự án VOCW, sau khi được bàn giao lại cho Bộ GD&ĐT, có biểu hiện không bền vững, websitehttps://www.vocw.edu.vn chẳng còn đưa đến học liệu mở nào.

Cái hay của toàn cầu hóa là giúp các hệ thống GD lại gần nhau, chia sẻ kinh nghiệm và học tập lẫn nhau. Việt Nam đã nhanh chóng tiếp thu cái hay đó với rất nhiều đổi mới. Từ đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học, đến đổi mới cơ chế tài chính, công tác quản lý, đều mang dấu ấn của toàn cầu hóa. Cái dở trong tiếp thu của chúng ta là thiếu nghiên cứu thấu đáo để vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể của đất nước. Vì vậy kết quả thường nửa vời, không bền vững và không như ý.

Những vấn đề đặt ra

Hội nghị GD "mở" tổ chức mới đây tháng 10/2012 tại Vancouver (Canada) nhận định rằng GD "mở" trong thập kỷ qua đã phát triển thành phong trào, tập trung chủ yếu vào các OER, tạo dựng được một cấu trúc hạ tầng nội dung phong phú và chất lượng. Nhưng đã đến lúc phải vượt khỏi phạm vi nội dung để đề cập đến các vấn đề mới như chính sách mở, đánh giá mở, hỗ trợ mở, văn hóa mở v.v...

Ở nước ta, khó mà nói đã hình thành phong trào OER. Cộng đồng OER còn rất nhỏ lẻ. Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng, cơ hội và thách thức của OER còn mơ hồ, ngay cả trong ngành GD. Vì thế, để có thể xây dựng mô hình/hệ thống GD "mở" đúng hướng và thành công, vấn đề quan trọng đầu tiên là cần có giải pháp kịp thời và hữu hiệu nhằm nâng cao nhận thức về OER trong và ngoài ngành GD, tạo cơ sở đồng thuận cho việc đề xuất chính sách.

Chừng nào còn đóng khung trong một thứ văn hóa đèn nhà ai nhà nấy rạng thì con đường đến với GD "mở" còn rất chông chênh.
Về chính sách GD "mở", kết quả khảo sát từ 19 nước Châu Á-Thái Bình Dương cho thấy mới có chính phủ năm nước (Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Inđônêxia, Thái Lan) chính thức có chính sách về OER.

Việt Nam, trong phiếu trả lời của mình, cho biết các nhà hoạch định chính sách đang có kế hoạch phát triển OER, bao gồm:
Xây dựng hạ tầng cơ sở, công cụ và hỗ trợ kỹ thuật; phát triển học liệu chất lượng cao từ nguồn OER của các ĐH hàng đầu thế giới. Cung cấp cho cộng đồng OER các học liệu phù hợp với văn hóa Việt và yêu cầu của đất nước. Xây dựng phương pháp mới để phát triển các học liệu mở. Thành lập cộng đồng những người Việt Nam sử dụng OER đồng thời khuyến khích sự đóng góp và chia sẻ tri thức; thúc đẩy liên kết mạng với các cộng đồng OER quốc tế.

Rõ ràng đó là một kế hoạch rất đáng hoan nghênh. Chỉ e rằng kế hoạch này mang dáng dấp cố hữu của bệnh... hình thức hoặc bệnh thành tích. Bởi lẽ ngay trong Chiến lược phát triển GD 2011-2020 không có một từ nào liên quan đến OER.
Vì vậy, vấn đề xây dựng chính sách GD "mở" nói chung, chính sách OER nói riêng, thực sự phải được đặt ra một cách thiết thực trong việc hoạch định chính sách phát triển GD Việt Nam. Về vấn đề này, Tuyên bố mới đây của Đại hội OER thế giới (World OER Congress 2012) có giá trị tham khảo về một loạt chính sách quan trọng, mà Chính phủ cần quan tâm.
Từ nâng cao nhận thức, tạo dựng môi trường thuận lợi đến chinh sách và chiến lược, nâng cao năng lực, thúc đẩy NCKH, triển khai sử dụng giấy phép mở, nâng cao hiệu quả chi phí công.

Trước mắt, trong việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015, chúng ta có thể khai thác và học tập bước đi hiện nay trên thế giới trong việc xây dựng các chương trình GD nguồn mở (open source curriculum) và sách giáo khoa mở.
Chương trình GD nguồn mở là chương trình GD mà nhà giáo, nhà khoa học, cán bộ quản lý, phụ huynh, học sinh có thể truy nhập, sử dụng, trao đổi, góp ý, bổ sung, hoàn thiện ngày một tốt hơn. Hiện có một số kho chứa các chương trình này.

Wikiversity là một kho như vậy, với mục đích tạo dựng và chứa đựng các chương trình/ tài liệu GD đa ngôn ngữ (hiện có 14 ngôn ngữ), phục vụ mọi lứa tuổi, mọi bậc học. Một kho chứa nữa là Curriki, là nơi xây dựng, phát triển, hoàn thiện, phân phát miễn phí các chương trình/ tài liệu GD phổ thông chất lượng hàng đầu. Với mục đích dỡ bỏ các rào cản về kinh tế và địa lý, sao cho học sinh mọi nơi trên thế giới có thể tiếp cận GD có chất lượng.

Cùng với ý tưởng dỡ bỏ các rào cản kinh tế trong GD, sáng kiến SGK mở được thực hiện vào năm 2010. Đó là loại SGK trong đó các quy định về bản quyền được nới lỏng đến mức tác giả cho phép sách được sử dụng miễn phí, được nhân bản, thậm chí được sao chép hoặc ghép nối với các tài liệu khác, miễn là phải dẫn tên tác giả SGK.

Mặc dù bị các nhà xuất bản phản đối nhưng SGK mở hiện được hưởng ứng mạnh mẽ: Bangladesh và Ấn Độ đã cung ứng SGK điện tử miễn phí từ lớp 1 đến lớp 12. Hàn Quốc đang có kế hoạch cung ứng cho mọi học sinh máy tính và SGK điện tử miễn phí.
Vấn đề đặt ra đối với nước ta trên hành trình xây dựng và triển khai GD "mở" là áp dụng kinh nghiệm thế giới như thế nào vào việc xây dựng chương trình GD và SGK để nâng cao hiệu quả, tiết kiêm chi phí. SGK, cũng như các kết quả NCKH, nếu sử dụng kinh phí Nhà nước, tức là tiền đóng thuế của dân, thì phải được coi như một lợi ích công.

Tuyên bố của Đại hội OER thế giới 2012 cũng khuyến nghị chính phủ các nước bảo đảm rằng các tài liệu GD dựa vào ngân sách công phải được cung ứng tới người dân theo các giấy phép mở. Như vậy vừa đem lại lợi ích thực sự cho người dân, vừa nâng cao hiệu quả của đầu tư công.
Xét đến cùng, nếu GD "mở" hướng tới việc dỡ bỏ các rào cản trên con đường đến với GD thì chính việc xây dựng hệ thống GD "mở" cũng đòi hỏi phải vượt qua rất nhiều rào cản.

Đó là các rào cản về nhận thức, chính sách, tài chính, kỹ thuật, ngôn ngữ... Có lẽ quan trọng hơn cả là rào cản về văn hóa. Giáo dục "mở" đòi hỏi một văn hóa mở, tức là văn hóa cộng tác và chia sẻ trong sản sinh, truyền bá và sử dụng các tài liệu GD, các kết quả nghiên cứu, với tinh thần truy nhập mở, giấy phép mở.
Chừng nào còn đóng khung trong một thứ văn hóa đèn nhà ai nhà nấy rạng thì con đường đến với GD "mở" còn rất chông chênh.

Theo VietNamNet
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top