Sử Khối quân sự nato

xam2507

không gì là mãi mãi.........
Thành viên thân thiết
Tham gia
15/11/2011
Bài viết
30
MỤC LỤC
I, LỜI MỞ ĐẦU.. 2
II, Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai 3
III, Mâu thuẫn Đông-Tây và sự khởi đầu chiến tranh lạnh dẫn tới hình thành hai khối quân sự đối đầu 9
1. Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc. 9
2. Sự kiện khởi đầu của chiến tranh lạnh. 12
2.1 Sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản. 12
2.2 Chủ nghĩa Tơruman và âm mưu của Mĩ 12
2.3 Chính sách ngăn chặn của Mĩ 13
3. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu. 14
3.1 Mưu đồ của các nước trong việc thiết lập các khối quân sự: 14
3.2 Sự ra đời của khối Bắc Đại Tây Dương (NATO). 15
3.3 Sự ra đời của khối Vacxava. 17
3.4 NATO ra đời có vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc không?. 19
3.5 Lịch sử NATO từ khi thành lập đến nay. 23
3.6 Vì sao Pháp lại rút khỏi tổ chức quân sự hợp nhất NATO năm 1966?. 26
3.7 Iceland – nước thành viên duy nhất của NATO không có quân đội. 29
3.8 Tác động của việc hình thành hai khối quân sự trong mâu thuẫn Xô- Mĩ 32
3.9 Vì sao NATO có nhiều biến động vào những năm 70 của thế kỉ XX?. 33
IV, Sự kình địch và chạy đua vũ trang giữa hai khối quân sự trong chiến tranh lạnh. 34
1. Biểu hiện của mâu thuẫn Đông-Tây và cuộc chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối trọng trong chiến tranh lạnh. 34
2. Chiến lược Quốc phòng của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. 41
3. Vấn đề hạn chế vũ khí chiến lược. 42
V, Xu hướng hòa hoãn Đông-Tây và sự chấm dứt Chiến tranh lạnh. 48
1.1 Những nguyên nhân chấm dứt Chiến tranh lạnh. 48
1.2 Ảnh hưởng của việc giải thể tổ chức hiệp ước Vacxava. 52
VI, KẾT LUẬN.. 58
VII, TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 61



I, LỜI MỞ ĐẦU Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chiến tranh lan rộng khắp toàn cầu và diễn ra trên nhiều mặt trận. Năm 1945, Thế chiến thứ hai kết thúc với sự thất bại của phe phát xít, đến đây đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng thẳng, phức tạp trong quan hệ quốc tế và cái giá phải trả là cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Thời kì 1918-1945 đã chứng kiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa các cường quốc tư bản phương Tây nhằm tranh giành thế lực, phạm vi ảnh hưởng và thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình. Nhưng bao trùm lên tất cả là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là Liên Xô xã hội chủ nghĩa, các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước và toàn thể loài người tiến bộ với một bên là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thế lực phản động nhằm thiết lập một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, hòa bình và dân chủ. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử quan hệ quốc tế, thế giới lại lâm vào tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. Nó đã trở thành nhân tố chi phối chủ yếu quan hệ quốc tế trong thời kỳ này, sự mâu thuẫn giữa hai siêu cường Xô-Mỹ càng trở nên quyết liệt với việc thành lập hai khối quân sự NATO – VÁCXAVA. Đây là hai khối quân sự lớn nhất toàn cầu do Mĩ và Liên Xô đứng đầu, đối địch nhau, đều chạy đua vũ trang, trang bị những vũ khí hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của “Chiến tranh Lạnh” trong nửa cuối thế kỷ 20, đã làm cho tình hình thế giới ngày càng căng thẳng. Sau khi chiến tranh kết thúc, những rạn nứt chính trị trong quan hệ Xô - Mĩ ngày càng lớn. Sự ra đời của tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Tổ chức Hiệp ước Vácxava đã đánh dấu cục diện hai phe, hai cực, và sự đối đầu Đông-Tây trong quan hệ quốc tế. Từ đây, chiến tranh lạnh đã bao trùm thế giới. Cuộc đối đầu này đã dẫn tới cuộc đối đầu giữa hai khối Đông-Tây và cuốn hút từng quốc gia, từng khu vực chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc đối đầu này. Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động của mình, hai tổ chức này đã ráo riết chạy đua vũ trang và tiến hành những hành động quân sự có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và hòa bình thế giới. Chiến tranh lạnh do Mĩ phát động là “cuộc chiến tranh không nổ súng, không đổ máu” nhưng luôn luôn ở tình trạng đối đầu căng thẳng, quyết liệt, nhằm mục tiêu “ngăn chặn” rồi đi đến tiêu diệt Liên Xô. Tuy nhiên, chiến tranh lạnh không chỉ dừng lại ở chỗ “không nổ súng, không đổ máu” mà đã phát triển thành những cuộc chạy đua vũ trang ráo riết, những cuộc xung đột quân sự mang tính khu vực giữa hai cực Xô - Mĩ và hai khối Đông - Tây. Mà trong các xung đột vũ trang này, hai tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương và Tổ chức Hiệp ước Vácxava đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cho đến nay, chiến tranh lạnh đã kết thúc được hơn 20 năm. Sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ không còn. Bàn cờ chính trị thế giới từ hai cực chuyển thành đa cực. Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ quốc tế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, nhưng hệ quả của nó vẫn còn tồn tại ở nhiều khu vực, nhiều quốc gia. II, Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng nước, từng khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thiết lập. Thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng các nước châu Âu, Nhật Bản và Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về người và của. Chỉ có Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ đô la lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế trong khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm trong tay một lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: độc quyền về bom nguyên tử. Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ chỉ có 30 vạn người chết (trong khi Liên Xô là hơn 26,5 triệu người, và toàn thế giới là 56 triệu người), đất nước Mĩ lại không bị chiến tranh tàn phá (vì mặt trận chính là chiến trường châu Âu bị tàn phá lên tới 260 tỉ đô la, trong đó Liên Xô chiếm 49,3%). Có thể thấy rằng, Mĩ đã làm giàu trên sự đổ nát của châu Âu và thế giới. Sau chiến tranh, nước Mĩ đã trở thành nước giàu mạnh nhất, chiếm ưu thế về mọi mặt trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính trị…Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây cũng là cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối cảnh quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai phía quan hệ: Mỹ với các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị giảm sút tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những năm 70 khi các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây Âu và Nhật Bản. Bị thiệt hại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chẳng những mất hết thuộc địa mà nền kinh tế cũng lâm vào tình trạng bị phá hủy hoàn toàn. Đất nước tiêu điều, các thành phố lớn bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản bị kiệt quệ về kinh tế, bị đè bẹp về quân sự, bị suy sụp về tinh thần, bị thiệt hại lớn về người và của. Nhờ vào kế hoạch đầu tư của Mĩ mà bước sang những năm 60 của thế kỷ XX, kinh tế Nhật Bản đã có bước phát triển nhanh chóng, đuổi kịp và vượt các nước Tây Âu, vươn lên đứng thứ hai (sau Mĩ) trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Từ một địa vị chưa đáng kể trước chiến tranh và rất nguy kịch trong những năm đầu sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản đã đạt được những bước phát triển nhanh chóng vượt bậc mà dư luận phương Tây thường suy tôn là “thần kỳ Nhật Bản”. Thực ra sự phát triển nhanh chóng vượt bậc này của kinh tế Nhật Bản có những nguyên nhân khách quan, chủ quan của nó, và sự “thần kỳ” này đã chứa đựng những mặt trái của nó mà từ đầu những năm 70 trở đi đã ngày càng bộc lộ rõ ràng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng Nhật Bản đã có những bước tiến hết sức kỳ diệu trong tất cả các lĩnh vực, khiến cả thế giới phải kinh ngạc. Thứ hai, hai cường quốc Xô – Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu. Từ quan hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe – phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô –Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hòa bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó. Giữa “hai cực” Liên Xô và Mĩ có những mâu thuẫn rõ ràng. Trong khi “cực” Liên Xô luôn luôn làm hậu thuẫn cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghệp đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; ngược lại, “cực” Mĩ luôn ra sức cấu kết, giúp đỡ các thế lực phản động chống phá cách mạng thế giới với mưu đồ vươn lên vị trí thống trị thế giới. Đúng như Thomas L. Friedman trong tác phẩm của mình có nhan đề “Chiếc Lexus và cây ô liu” đã nhận xét khá chính xác về mối quan hệ giữa hai cường quốc vốn là bạn bè và liên minh với nhau trong chiến tranh, giờ lại là những đối thủ cạnh tranh của nhau: “Khi Mỹ trỗi lên từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, cưỡi trên lưng thế giới như một siêu cường vô địch, có trọng trách toàn cầu và tham gia tranh giành quyền lực với Liên Xô…Bỗng nhiên, cả thế giới trở thành sân chơi của Hoa Kỳ, và cả thế giới chỗ nào cũng quan trọng, vì mọi ngõ ngách trên thế giới đều có sự tranh giành với Liên Xô”.. Có thể nói, trong hơn nửa thế kỷ tồn tại của trật tự hai cực Ianta, một đặc điểm lớn của tình hình thế giới là giữa Liên Xô và Mỹ, giữa hai phe vừa đấu tranh gay gắt với nhau lại vừa chung sống hòa bình và hợp tác với nhau thông qua diễn đàn của tổ chức quốc tế Liên Hợp Quốc. Việc Giáo sư Michael Mandelbau, môn Quan hệ đối ngoại, Đại học Hopkins ví Chiến tranh Lạnh giống như môn vật Sumo của Nhật Bản đã khắc họa chính xác mối quan hệ giữa hai siêu cường Xô – Mỹ: “Sẽ có hai anh béo đứng trên đài, múa may lễ bái đủ đường, giậm chân huỳnh huỵch, nhưng rất ít khi chạm vào nhau… cho tới cuối trận thì có chút ít xô đẩy và có một tay bị thua do bị đẩy ra khỏi đài, nhưng rốt cuộc chẳng có anh nào chết cả”. Thứ ba, một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ Latinh sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới. Tình hình trên đây đã dẫn tới một vấn đề: trong chiến lược của mình, Mĩ và các nước đồng minh không thể không tính đến việc hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu và âm mưu chủ yếu của kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ là tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa. Với chính sách “ngăn chặn”, Mĩ định bao vây quân sự, kinh tế Liên Xô, hi vọng rằng Liên Xô sẽ bị suy yếu, kiệt quệ rồi đi đến chỗ tự tiêu diệt, và ở các nước Đông Âu, giai cấp tư sản sẽ có điều kiện lên nắm chính quyền, thiết lập nền thống trị tư bản chủ nghĩa. Ở Đức cũng như ở Triều Tiên, Mĩ không chỉ muốn ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản động ở hai nước này để tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược, thống trị toàn nước Đức và toàn nước Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mĩ đã bỏ công sức nhiều nhất trong thời kỳ từ 1947-1949, hi vọng rằng sẽ tiêu diệt lực lượng cách mạng và đặt được nền thống trị trên lục địa có dân số khoảng 700 triệu người. Nhưng âm mưu và hi vọng của Mĩ đã hoàn toàn bị phá sản trong giai đoạn này, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới không những không bị ngăn chặn mà còn được hình thành từ châu Âu sang châu Á và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Liên Xô không bị suy yếu và kiệt quệ mà trái lại còn hùng mạnh và vững chắc hơn trước, năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, khiến ưu thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ bị phá sản. Ở Đông Âu, trong những năm 1947-1949, nhân dân các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hoàn thành công cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu bước bào thời kỳ quá đô tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, sự thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Đức(7-10-1949) và Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên (21-9-1948) là đòn đánh mạnh vào hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới, làm thất bại nặng nề âm mưu “ngăn chặn” và thống trị của Mĩ ở hai nước này. Tháng 10 năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, đánh dấu hệ thồng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành và làm cho lực lương so sánh trên thế giới thay đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt trên phạm vi quốc tế cho sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã thắng lợi và “chính sách ngăn chặn”, chống lại sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới của Mĩ đã bị thất bại. Thứ tư, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các lục địa của Á, Phi, Mỹ La Tinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ bản. Hơn 100 quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới. Bộ mặt hành tinh thay đổi to lớn. Trong chiến lược của hai cường quốc Xô – Mĩ và hai hệ thống không thể không tính đến lực lượng này. Thứ năm, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật bùng nổ vào những năm 40 của thế kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại những tiến bộ nhảy vọt, những thành tự kì diệu, những tác động tích cực và những hậu quả của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa học - kỹ thuật, tận dụng những thành tựu của nói thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong quan hệ quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận dụng thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của các nước ấy trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt. Cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, hay còn gọi là cách mạng kỹ thuật lần thứ hai có những điểm khác biệt so với cuộc Cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, vì có nội dung phong phú hơn và phạm vi rộng lớn hơn nhiều, nó diễn ra trong lĩnh vực khoa học cơ bản gồm toán học, vật lí học, hóa học, sinh vật học. Trải qua nửa thế kỷ, nhất là giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đã thu được những thành tựu to lớn và kỳ diệu trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, sự kiện đáng chú ý, có ảnh hưởng trực tiếp đến hai khối quân sự được hình thành sau này là năm 1945, bom nguyên tử đã ra đời ở Mĩ, có thể dẫn tới những sự tàn phá không lường hết được của đất nước này đối với hòa bình thế giới. Sau khi phá vỡ thế độc quyền về bom nguyên tử của Mĩ năm 1949 thì năm 1954, Liên Xô xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới, mở đầu thời đại sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình. Tóm lại, Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình đối đầu, căng thẳng giữa hai phe thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuộc Chiến tranh lạnh (hình thành năm 1947 và kéo dài đến 1989) đã có tác động mạnh mẽ tới chính sách đối nội, quan hệ đối ngoại và mậu dịch của hầu hết mọi nước trên thế giới. Chiến tranh lạnh “không tạo lập tất cả nhưng lại định hình rất nhiều thứ”.Nhà nghiên cứu Mỹ,Thomas L.Friedman, đã chỉ ra rằng: “Với vai trò là một hệ thống quốc tế, Chiến tranh lạnh có cấu trúc quyền lực riêng: cán cân lực lượng giữa Hoa Kỳ và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết. Chiến tranh lạnh có những luật lệ riêng: trong quan hệ đối ngoại, không một siêu cường nào muốn xâm nhập vào vùng ảnh hưởng của một siêu cường khác; trong kinh tế, những nước kém phát triển chú tâm vào việc phát triển những ngành công nghiệp quốc gia của riêng họ, các nước đang phát triển chú tâm tăng trưởng trên cơ sở xuất khẩu, các nước xã hội chủ nghĩa tập trung thắt lưng buộc bụng và phương Tây thì chăm chăm vào việc buôn bán có điều tiết. Chiến tranh lạnh có hệ tư tưởng riêng của nó: cuộc chạm chán giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giai đoạn hòa hoãn, không liên kết hay cải tổ (perestroika). Chiến tranh lạnh có khuynh hướng về dân số riêng: di cư từ Đông sang Tây bị bức màn sắt ngăn trở, nhưng di cư từ miền Nam lên phía Bắc thì đều đặn hơn. Chiến tranh lạnh có cái nhìn toàn cầu riêng: thế giới được chia thành phe XHCN, phe TBCN và phe trung lập; nước nào cũng thuộc về một trong những phe này. Chiến tranh lạnh sinh ra những công nghệ định hình riêng: chủ đạo là vũ khí hạt nhân và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ hai, nhưng đối với dân chúng ở các nước đang phát triển thì búa liềm vẫn là công cụ gần gũi. Chiến tranh lạnh có thước đo riêng: số lượng tên lửa hạt nhân của mỗi bên. Và sau cùng, Chiến tranh lạnh tạo ra mối lo riêng: sự hủy diệt hạt nhân”. Không chỉ có vậy, Thomas L. Friedman đã đúng khi khẳng định: “Trước hết, nói về Chiến tranh lạnh là nói đến sự chia cắt. Thế giới bị chia cắt ngang dọc thành nhiều cánh đồng vụn vặt manh mún”. III, Mâu thuẫn Đông-Tây và sự khởi đầu chiến tranh lạnh dẫn tới hình thành hai khối quân sự đối đầu 1. Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc. Từ sau chiến tranh , Mỹ trở thành nước tư bản giàu mạnh nhất độc quyền về vũ khí nguyên tử, tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, địa vị của Liên Xô được nâng cao. Liên Xô là nước Chủ nghĩa xã hội hùng mạnh nhất thế giới (trở thành một trong hai cực của trật tự Ianta) là thành tựu của hoà bình và là chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng thế giới. Trong khi đó, Các nước phương Tây (do Mỹ cầm đầu) đã thực hiện chính sách thù địch với Liên Xô bao vây kinh tế, phát động “chiến tranh lạnh” chạy đua vũ trang, chuẩn bị cuộc chiến tranh tổng lực nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước Chủ nghĩa xã hội. Về đối ngoại, Đảng và nhà nước Xô Viết đã thực hiện chính sách nhằm mục tiêu và phương hướng cơ bản là: D Đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, loại trừ nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và an ninh thế giới, mở rộng việc hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa. D Góp phần củng cố và thúc đẩy sự tiến bộ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các nước mới giải phóng. D Duy trì và phát triển quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa trên cơ sở chung sống hòa bình, hợp tác thiết thực, cùng có lợi. D Đoàn kết quốc tế với các Đảng Cộng sản và các đảng dân chủ cách mạng với phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc. Những mục tiêu phương hướng trên được thực hiện thông qua những hành động thực tiễn, những biện pháp cụ thể. Với các hiệp ước đoàn kết, hữu nghị và hợp tác, Liên Xô đã giúp đỡ tích cực và to lớn về vật chất và tinh thần cho các nước xã hội chủ nghĩa
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên Xô đã đấu tranh không mệt mỏi cho nền hòa bình và an ninh thế giới, kiên quyết chống lại chính sách gây chiến xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Liên Xô cũng đi đầu trong việc ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân tộc, dân chủ và tiến bộ xả hội của nhân dân các dân tộc. Với tư cách là một trong những nước sáng lập, tại Liên Hợp Quốc – tổ chức quốc tế rộng lớn nhất – Liên Xô đề ra nhiều sáng kiến quan trọng nhằm giữ vững và đề cao vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc củng cố hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các dân tộc và phát triển sự hợp tác quốc tế. Từ diễn đàn quốc tế rộng lớn này, Liên Xô không ngừng lên án các hành động chiến tranh xâm lược, phản đối chạy đua vũ trang gây căng thẳng của các nước đế quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, kiên quyết bảo vệ hòa bình, an ninh thế giới. Liên Xô đã đưa ra nhiều sáng kiến, sau trở thành những văn kiện, nghị quyết quan trọng của Liên Hợp Quốc như: Tuyên ngôn về việc thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân và trao trả độc lập cho các quốc gia và dân tộc thuộc địa năm 1960; Tuyên ngôn về việc cấm sử dụng vũ khí hạt nhân (1961); Tuyên ngôn về việc thủ tiêu tất cả các hình thức của chế độ phân biệt chủng tộc (1963)…… Như thế, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, địa vị quốc tế của Liên Xô được đề cao hơn bao giờ hết. Là nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, hùng mạnh nhất, Liên Xô lúc này trở thành chỗ dựa cho hòa bình thế giới và của phong trào cách mạng thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, nhân dân Liên Xô đã khẩn trương tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, giúp đỡ các nước XHCN và phong trào cách mạng thế giới. Đầu những năm 70, đạt thế cân bằng chiến lượt quân sự và sức mạnh quân sự nói chung và tiềm năng hạt nhân nói riêng so với các nước đế quốc. Năm 1972, chế tạo thành công tên lửa hạt nhân. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín chính trị và vị trí quốc tế của Liên Xô được nâng cao. Điều này làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ; thể hiện tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội trong xây dựng và phát triển kinh tế, quốc phòng vững mạnh, nâng cao đời sống của của nhân dân; củng cố hoà bình, tăng thêm sức mạnh của lực lượng cách mạng thế giới. Những thành tựu mà Liên Xô đạt được là vô cùng to lớn và không thể phủ định được. Mặc dù Liên Xô không còn tồn tại nữa, nhưng những thành tựu nói trên vẫn có ý nghĩa rất lớn đối với lịch sử phát triển của Liên Xô nói riêng và nhân loại nói chung. Chính những thành tựu đó là điều kiện để Liên Xô trở thành nước đứng đầu hệ thống Chủ nghĩa xã hội và là thành trì vững chắc của cách mạng. Đảm bảo điều kiện kinh tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, sau chiến tranh thế giới thứ hai, giới thống trị Mĩ đã đề ra chiến lược toàn cầu, âm mưu thống trị toàn thế giới. Có hai yếu tố đưa đến chiến lược này: Yếu tố thứ nhất là việc Mĩ đã trở thành một nước mạnh nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong phe tư bản chủ nghĩa. Dựa trên ưu thế đó, giới thống trị Mĩ chủ quan cho rằng sau chiến tranh sẽ là “thời đại của Mĩ”, thời đại Mĩ có thể dùng sức mạnh để buộc các dân tộc khác phải phục tùng. Yếu tố thứ hai là sự suy yếu của hệ thống tư bản chủ nghĩa, sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc, khiến Mĩ và các nước tư bản lo sợ. Mĩ tự gán cho mình trách nhiệm cầm đầu các nước tư bản chủ yếu để bảo vệ “ thế giới tự do”, chống lại sự bành trướng cuả chủ nghĩa cộng sản. Mĩ đề ra ba muc tiêu cho “chiến lược toàn cầu”: một là, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới; hai là, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ thế giới; ba là, nô dịch các nước tư bản đồng minh, tập hợp các lực lượng phản động quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Mĩ. Để đạt được ba mục tiêu trên, chính sách cơ bản của Mĩ là chính sách chiến tranh, chính sách thực lực, âm mưu dựa vào thế mạnh để khuất phục các dân tộc khác. Mĩ đã ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển lực lượng hạt nhân, lập các khối quân sự xâm lược và ký kết với nhiều nước những hiệp ước quân sự tay đôi, cho phép Mĩ đóng quân và xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ các nước đó. Các hạm đội Mĩ mang tên lửa có đầu đạn hạt nhân tuần tiễu trên khắp các biển và đại dương. Mĩ đã can thiệp thô bạo vào công cuộc nội bộ của các nước, tổ chức những cuộc đảo chính ở khắp nơi, dựng lên những chính quyền bù nhìn tay sai của chúng. Qua đó chúng ta thấy, cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô- Mĩ và mâu thuẫn Đông- Tây được biểu lộ rõ nét qua sự đối đầu giữa hai cường quốc Liên Xô và Mĩ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự. 2. Sự kiện khởi đầu của chiến tranh lạnh. 2.1 Sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, nhất là từ sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa về kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật, v.v., hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động quốc tế. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau. Việc tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít và thực hiện những cải cách dân chủ ở các nước phát xít chiến bại đã thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1947, ở các nước Anbani, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức, chính quyền dần dần thật sự chuyển vào tay nhân dân lao động. 2.2 Chủ nghĩa Tơruman và âm mưu của Mĩ Tháng 3-1947, tổng thống Mĩ Tơruman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mĩ, chính thức đưa ra “chủ nghĩa Tơruman”. Theo Tơruman thì các nước Đông Âu “ vừa mới bị cộng sản thôn tính” và những đe dọa tương tự như vậy đang diễn ra trên nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy Mĩ phải đứng ra “đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do”, phải “giúp đỡ” cho các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự “bành trướng” của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mĩ Tơruman đã phát động cuộc “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Với sự ra đời của “chủ nghĩa Tơ ruman”, mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô với Mĩ và các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít đã tan vỡ và thay vào đó là cuộc “Chiến tranh lạnh”. Để phát động “Chiến tranh lạnh”, Mĩ đã tìm cách lôi kéo các nước Đồng minh vào những tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự để qua đó khống chế, thao túng các nước khác. 2.3 Chính sách ngăn chặn của Mĩ “Chính sách ngăn chặn”(Contaimetn policy) được đề ra dựa trên quan điểm của các nhà chiến lược Mỹ, tiêu biểu là G.Kennan, một chuyên gia về Liên Xô của Mỹ, đại diện lâm thời của Mỹ ở Mácxítcơva. Trong bức điện tín số 51 gửi chính phủ Mỹ (ngày 22-12-1946), dài 8000 chữ và trong một bài báo khác có tiêu đề “Nguồn gốc hành động của Liên Xô” đăng trên tạp chí “Các vấn đề đối ngoại” (7-1947) G.Kennan cho rằng sau chiến tranh, Liên Xô đã bị suy yếu, chỉ cần đặt Liên Xô trước một lực lượng mạnh thì trong thời gian dài Liên Xô sẽ tự tan rã và sẽ “ngăn chặn” được sự “bành trướng” của chủ nghĩa cộng sản. Chính sách của Mỹ là phải cứng rắn và cảnh giác trước khuynh hướng xâm lược của nước Nga. Ông ta nói: “... Phải có một chính sách dài hạn, kiên nhẫn nhưng cương quyết ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô”. Trên thực tế, ngay từ những năm cuối thập kỷ 40 - đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, các chính quyền Mỹ đã bước đầu triển khai chiến lược toàn cầu “ngăn chặn”. Về kinh tế, ngày 5-6-1947, Ngoại trưởng Mỹ Mácsan đã đưa ra “Phương án phục hưng châu Âu” (còn gọi là “Kế hoạch Mácsan”). Theo kế hoạch này, từ năm 1948 đến năm 1951, Mỹ đã viện trợ cho các nước Tây Âu tổng số tiền khoảng 17 tỉ USD nhằm vực dậy các nước này, giành lại và biến địa bàn Tây Âu thành tấm lá chắn, tiền đồn “ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản”. Về quân sự, Mỹ tiến hành thiết lập các liên minh quân sự lâu dài, tiêu biểu là tổ chức khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO, tháng 4 - 1949), khối quân sự Đông Nam Á (SEATO, tháng 9 - 1954). Ngoài ra, Mỹ còn tổ chức liên minh quân sự tay đôi với các nước khác như: liên minh Mỹ - Nhật, Mỹ - Hàn Quốc, Mỹ - Đài Loan, trong đó quan trọng nhất là liên minh Mỹ - Nhật. Thông qua liên minh này, Mỹ xác lập sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, chĩa mũi nhọn tấn công uy hiếp vào Liên Xô, Trung Quốc; biến Nhật Bản thành tiền đồn thứ hai (sau Tây Âu) để ngăn chặn sự lan tràn của “làn sóng đỏ” xuống khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, với bộ ba chiến lược (vũ khí nguyên tử, máy bay ném bom chiến lược B52, hệ thống căn cứ quân sự, cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại khác) Mỹ tăng cường chạy đua vũ trang, gây ảnh hưởng với Liên Xô, lôi kéo đồng minh gây chiến tranh ở bán đảo Triều Tiên, ở Trung Đông (Ixraen - Arập), ở Đức... đặc biệt là “cuộc chiến 10000 ngày” ở Việt Nam. Với những chiến lược quân sự toàn cầu liên tục được các chính quyền Mỹ đề ra như : chiến lược “Trả đũa ồ ạt” của chính quyền Ai-xen-hao (1953-1960) chiến lược “phản ứng linh hoạt” của chính quyền Kennơđi (1961 - 1963) và Giônxơn (1964 - 1968), chiến lược “Ngăn đe thực tế” của chính quyền Níchxơn (1969 - 1974), đã làm cho tình hình thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, thậm chí có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Nói chung, kế hoạch Macsan
(6/1947) không chỉ nhằm phục hồi kinh tế ở các nước Tây Âu mà còn nhằm tập hợp các nước này vào liên minh quân sự chống Liên Xô và các nước Đông Âu. Kế hoạch Macsan đã tạo nên sự phân chia đối lập về kinh tế và chính trị giữa các nước Đông Âu và Tây Âu. Bắt đầu từ đây, trật tự hai cực và mâu thuẫn Đông-Tây diễn ra gay gắt dưới sự đối đầu không ngừng của Mĩ và Liên Xô trong “chiến tranh lạnh” thông qua hai khối quân sự đối đầu NATO và Vácxava. 3. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu 3.1 Mưu đồ của các nước trong việc thiết lập các khối quân sự: Để tiến thêm một bước nữa trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới và chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc, Mĩ tiến hành lập các khối quân sự xâm lược nhằm tập hợp các lực lượng phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mĩ để bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc. Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là “Hiệp định phòng thủ Tây bán cầu” kí giữa Mĩ và các nước chư hầu Mĩ ở hội nghị Riô đơ Gianêrô (Rio de Janeiro) tháng 9-1947. Tiếp theo hiệp định trên, Anh, Pháp và các nước phương Tây bắt đầu thương lượng xây dựng liên minh quân sự-chính trị giữa các nước phương Tây (vì Anh, Pháp sau khi bị lệ thuộc vào Mĩ bằng kế hoạch Mácsan muốn tập hợp “một lực lượng thứ ba” mà trung tâm là Anh, Pháp – vừa để chống được cộng sản, vừa hạn chế được sự chèn ép của Mĩ). Ngày 17-3-1948, hiệp ước “Liên hiệp Tây Âu” ( Pacte de L’Union de L’Europe Occidentale), đã được kí kết giữa 5 nước (Anh, Pháp,Hà Lan, Bỉ, Lucxembua) ở Brucxen. Mĩ hoan nghênh việc thành lập liên minh quân sự phương Tây, nhưng không thỏa mãn vì liên minh này không có tác dụng lớn về mặt quân sự và Anh lại chiếm địa vị lãnh đạo trong khối này. Hơn nữa, Mĩ không thể tham gia vào khối liên hiệp Tây Âu được cho nên Mĩ cố gắng nắm lấy khối này và dựa vào đó làm nòng cốt cho việc xây dựng “Khối Bắc Đại Tây Dương” rộng lớn hơn, trong đó Mĩ sẽ giữ vai trò lãnh đạo. Để xúc tiến việc thành lập, Mĩ đã tiến hành những cuộc vận động trong Quốc hội Mĩ và thương lượng giữa Mĩ và khối liên hiệp Tây Âu. Kết quả ngày 11-6-1948, Quốc hội Mĩ đã thông qua quyết định Vanđenbơ cho phép chính phủ Mĩ, lần đầu tiên trong lịch sử, có quyền được ký kết những liên minh quân sự với các nước ngoài châu Mĩ trong thời bình. Trên đây là những tiền đề làm cơ sở cho việc thành lập khối quân sự đầu tiên (NATO) do Mĩ đứng đầu, dẫn đến việc hình thành hai khối quân sự đối đầu về sau . 3.2 Sự ra đời của khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) Kể từ năm 1949, tình hình thế giới ngày càng trở nên căng thẳng với việc Mĩ và các nước đồng minh của Mĩ đẩy mạnh chính sách “Chiến tranh lạnh”, ráo riết chạy đua vũ trang và thành lập các liên minh quân sự nhằm chuẩn bị một cuộc chiến tranh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay sau đó, ở Oasinhtơn, cuộc đàm phán giữa các chính phủ Mĩ, Canada với các nước tham gia Hiệp ước Brucxen về việc thành lập khối Bắc Đại Tây Dương được tiến hành. Cuối cùng, hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã được 12 nước kí kết ở Oasinhtơn ngày 4-4-1949 và có hiệu lực từ ngày 4-8-1949, thời hạn hiệu lực 20 năm (có thể gia hạn thêm). Tháng 9-1949, khóa họp đầu tiên của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã họp ở Oasinhtơn, lập ra ủy ban phòng thủ và ủy ban quân sự. Như vậy tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, gọi là NATO (North Atlantic Treaty Organisation) đã ra đời với sự tham gia của 12 nước tư bản phương Tây, bao gồm: Mĩ, Anh, Pháp, Italia, Canada, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Lucxembua, Bồ Đào Nha, Aixơlen. Điều này làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng, bởi đây là liên minh quân sự lớn nhất, quan trọng nhất của Mĩ và các đồng minh. Mục đích thành lập NATO là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên. Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của chiến tranh lạnh trong nửa cuối thế kỷ XX. Hiệp ước quy định: Trong trường hợp “có cuộc tiến công vũ trang” vào một hoặc một số nước thành viên thì các nước khác phải nhanh chóng giúp đỡ, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng NATO, bên cạnh có Uỷ ban Kế hoạch phòng thủ gồm các bộ trưởng quốc phòng phụ trách vạch kế hoạch và chính sách quân sự thống nhất. Về quân sự, cơ quan quyền lực cao nhất là Uỷ ban Quân sự gồm Tổng tham mưu trưởng các nước thành viên do Tổng Thư kí NATO đứng đầu. Ngoài lực lượng vũ trang riêng của từng nước, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương có lực lượng thống nhất dưới sự chỉ huy của Bộ Tổng chỉ huy Liên minh khu vực. Trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Mỹ và các lực lượng vũ trang Mỹ đóng vai trò chủ đạo. Những chức vụ quan trọng trong Bộ Tổng chỉ huy và trong các lực lượng vũ trang thống nhất đều do các tướng và đô đốc Mỹ nắm giữ. Tư lệnh tối cao lực lượng đồng minh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là người Mỹ. Từ ngày thành lập, NATO luôn thực hiện chính sách đẩy mạnh chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh, đặc biệt là việc tăng cường sức mạnh hạt nhân, tạo nên tình hình căng thẳng thường xuyên ở châu Âu và trên thế giới. 3.3 Sự ra đời của khối Vacxava Sau khi NATO được thành lập, liên tiếp ra đời các liên minh quân sự khác: ANZUS (1951), Khối quân sự Đông Nam Á SEATO (1954), Khối quân sự trung tâm CENTO (1959). Năm 1955, các nước thành viên NATO lại quyết định cho Tây Đức gia nhập liên minh quân sự này nhằm biến Tây Đức thành lực lượng xung kích chống Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khác. Tình hình châu Âu càng trở nên căng thẳng, nền hòa bình và an ninh khu vực bị đe dọa nghiêm trọng. Trước tình hình đó, các nước Anbani, Ba Lan, Bungari, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Liên Xô, Rumani và Tiệp Khắc họp tại Vacxava ngày 14-5-1955 đã thỏa thuận cùng nhau kí kết hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ. Bản hiệp ước có hiệu lực từ 5-6-1955 với thời hạn 20 năm (sau này có thể tiếp tục gia hạn) đánh dấu sự ra đời của Tổ chức hiệp ước phòng thủ Vacxava nhằm duy trì hòa bình, an ninh châu Âu, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa anh em… Tổ chức hiệp ước Vacxava mang tính chất là một liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu. Theo hiệp ước, trong trường hợp một hay nhiều nước thành viên của tổ chức này bị tấn công hoặc bị đe dọa an ninh, các nước thành viên khác có nhiệm vụ giúp đỡ nước bị tấn công hoặc bị đe dọa bằng mọi phương tiện có thể, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang. Các nước tham gia hiệp ước đã quyết định thành lập Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang chung, cử nguyên soái Liên Xô Kônhép làm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang chung của tổ chức hiệp ước Vacxava. Năm 1961, do bất đồng giữa Liên Xô và các quốc gia Đông Âu khác, Anbania rút khỏi hiệp ước này. Ở Đông Âu, từ đầu những năm 60 trở đi, mối quan hệ giữa Liên XôAnbani cũng trở nên căng thẳng, đối đầu: hai bên đã cắt đứt quan hệ ngoại giao, Anbani rút ra khỏi khối hiệp ước Vacxava và Hội đồng tương trợ kinh tế. Sau 30 năm gián đoạn, đầu 1991, Liên XôAnbani đã bình thường hoá trở lại mối quan hệ giữa hai nước. Tổ chức Hiệp ước Vacxava mang tính chất một liên minh phòng thủ về quân sự - chính trị của Liên Xôcác nước Đông Âu nhằm chống lại những âm mưu nhằm gây chiến, xâm lược của khối quân sự NATO do đế quốc cầm đầu. Sau khi ra đời, tổ chức hiệp ước Vacxava đã trở thành một đối trọng với khối quân sự NATO, gìn giữ hoà bình ở châu Âu và giữ vững nền độc lập, an ninh của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước mọi sóng gió (như ở Hunggari năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968 và Ba Lan đầu những năm 80…). Tổ chức này cũng đã góp phần thúc đẩy việc thống nhất trang bị, hiện đại hoá và tăng cường sức mạnh lực lượng vũ trang của các nước thành viên, dẫn đến hình thành thế chiến lược cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa với các nước đế quốc chủ nghĩa vào đầu những năm 70.
Sau những biến động chính trị lớn ở các nước Đông Âu và sau khi những người đứng đầu hai Nhà nước Xô, đã thoả thuận với nhau về việc chấm dứt cuộc "chiến tranh lạnh" (tại cuộc gặp không chính thức giữa Tổng thống Busơ và Tổng thống Liên Xô Goocbachốp ở đảo Manta cuối năm 1989), việc tiếp tục tồn tại của Tổ chức hiệp ước Vacxava không còn thích hợp với tình hình mới nữa. Đầu năm 1991, hội nghị đại biểu các nước thành viên đã quyết định chấm dứt mọi hoạt động của tổ chức này.
Về cơ cấu tổ chức, Tổ chức hiệp ước Vacxava gồm Uỷ ban tư vấn chính trị để trao đổi ý kiến về các vấn đề mà các nước thành viên cùng quan tâm; Bộ chỉ huy liên hợp lực lượng vũ trang, gồm những lực lượng vũ trang được tách ra theo sự thỏa thuận của các nước thành viên .. Sau này lập thêm Uỷ ban các bộ trưởng quốc phòng các nước thành viên (1969), Uỷ ban các bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên tổ chức hiệp ước Vacxava (19760 và Ban thư kí liên hợp. Sau khi ra đời với những hoạt động của mình, Tổ chức hiệp ước Vacxava đã có những ảnh hưởng tích cực và to lớn đối với sự phát triển tình hình ở châu Âu và thế giới. Như một đối trọng với NATO, Tổ chức hiệp ước Vacxava đa đóng vai trò quan trọng trong giữ gìn hòa bình, an ninh châu Âu và thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước thành viên đã đưa tới sự hình thành thế chiến lược cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đế quốc chủ nghĩa vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, với mục đích cao cả là giữ gìn hòa bình, an ninh châu Âu và thế giới, các nước thành viên Tổ chức hiệp ước Vacxava đã nhiều lần bày tỏ ý đồ sẵn sàng giải thể trong điều kiện khối NATO cũng đồng tình làm như thế. Khối Vacxava đã góp phần vào việc xây dựng lên bức tường Berlin (bức tường tượng trưng cho sự chia cắt giữa Đông Đức và Tây Đức). Ngoài ra, khối cũng can thiệp vào các sự kiện đàn áp nổi dậy tại Hungary năm 1956 và tại Tiệp Khắc năm 1968.
Vào tháng 12 năm 1970, Khối Warszawa tổ chức một hội nghị họp tại Berlin để thảo luận phương hướng và nhiệm vụ của tổ chức. Đến năm 1985, lãnh đạo các nước thành viên của khối ký nghị định thư về việc gia hạn hiệp ước. Năm 1989, Khối Vacxava ủng hộ việc Liên Xô rút quân khỏi các nước thành viên (đầu tiên là Tiệp Khắc). Đến tháng 5 năm 1989, Khối Vacxava kêu gọi NATO cùng giải tán, ngoài ra khối cũng mong muốn cùng NATO đàm phán về vũ khí hạt nhân chiến thuật và các vấn đề liên quan tới hải quân. Tháng 12 năm 1989, Khối Vacxava đã đánh giá lại sự kiện năm 1968 ở Tiệp Khắc, lên án các đơn vị quân đội của mình can thiệp vào sự kiện này. Tháng 12 năm 1990, NATO và khối Vacxava cùng bàn về vấn đề thống nhất nước Đức; đây cũng là đóng góp cuối cùng của khối trước khi ngừng tồn tại vào năm 1991.
Khối này đã ngừng hoạt động và không tồn tại sau khi các chính thể cộng sản tại các nước ở Đông Âu tan rã. 3.4 NATO ra đời có vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc không? Câu hỏi đặt ra cho các nhà nghiên cứu lịch sử nói riêng và của toàn nhân loại nói chung là: sự thành lập của NATO có vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc hay không? Ngày 4 tháng 4 năm 1949, trên thảm cỏ phía trước sảnh Hội nghị Quốc vụ viện Mĩ là 12 lá cờ đủ sắc màu của 12 nước đang bay phấp phới. Đúng 2 giờ chiều, bộ trưởng ngoại giao 12 nước gồm Mĩ, Canada, Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, lucxembua, Đan Mạch, Na Uy, Iceland, Bồ Đào Nha và Italia lần lượt tiến vào hội nghị, buổi lễ ký kết Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương thai nghén bấy lâu đã bắt đầu. Toàn thể các nước tham gia Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, hôm nay một lần nữa nhấn mạnh sự tin tưởng của hiệp ước đối với mục tiêu và nguyên tắc Hiến chương Liên Hợp Quốc, cũng như nguyện vọng chung sống hòa bình của toàn thể dân tộc và chính phủ các nước. Các nước tham gia hiệp ước quết tâm bảo đảm nguyên tắc dân chủ cơ bản, quyền tự do cá nhân cũng như quyền tự do, truyền thống và văn hóa chung của nhân dân các nước trong khuôn khổ pháp luật. Các nước tham gia hiệp ước đồng ý thúc đẩy sự ổn định và lợi ích tại khu vực Bắc Đại Tây Dương. Các nước tham gia hiệp ước quyết tâm thống nhất toàn bộ lực lượng, tiến hành phòng thủ tập thể, duy trì hòa bình và an ninh khu vực. Chính vì vậy, các nước tham gia hiệp ước đều đồng ý với hiệp ước này. Điều 1: các nước tham gia hiệp ước phải tuân thủ quy định Hiến chương Liên Hợp Quốc, cam kết giải quyết mọi tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình, không làm tổn hại đến nền hòa bình, an ninh và công lý quốc tế, đồng thời tránh sử dụng vũ lực và biện pháp đe dọa không phù hợp với mục tiêu Liên Hợp Quốc trong quan hệ quốc tế… Trên đây là phần đầu của toàn văn “hiệp ước Bắc Đại Tây Dương” do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mĩ tuyên đọc tại đại hội Toàn văn “Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương” bao gồm phần mở đầu ngắn gọn và 14 điều khoản chủ yếu. Phần trích dẫn trên là phần mở đầu và điều khoản 1 của hiệp ước. Từ phần trích dẫn trên, không khó để thấy, NATO ngay từ ngày đầu thành lập đã tập trung lý giải sự thành lập của mình không hề cản trở hay mâu thuẫn với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Ngay phần mở đầu NATO đã “ nhấn mạnh sự tin tưởng của hiệp ước đối với mục tiêu và nguyên tắc Hiến chương Liên Hợp Quốc. vậy NATO thành lập rốt cục là có vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc hay không còn phải căn cứ bối cảnh lịch sử thành lập của NATO. Cùng với cuộc đối đầu giữa Đông-Tây ngày càng gay gắt, các nước thành viên tổ chức “Điều ước Brussels” càng hy vọng có thể kéo Mĩ tham gia vào hệ thống bảo vệ thống nhất Tây Âu, nhằm để Mĩ gánh vác nhiều hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ Tây Âu. Khi đó mục đích thành lập NATO không đơn giản là ngăn chặn sự trỗi dậy của Đức nữa mà hoàn toàn nhằm vào Liên Xô. Cựu Tổng thống Mĩ Truman chỉ rõ: “Anh, Mĩ cùng các nước phương Tây khác bắt buộc phải có lực lượng quân sự lớn mạnh, đủ để kiềm chế Liên Xô, làm cho phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực mà Liên Xô nắm quyền kiểm soát hiện nay”. Tổ chức chính trị quân sự mang tính chất khu vực tự gắn cho mình cái mác “sứ giả hòa bình”, như vậy thức tế là đã vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Thứ nhất, NATO ngay từ khi thành lập đã không mang tính chất công khai mà một tổ chức công ước quốc tế mang tính chất khu vực: tổ chức này coi Liên Xô và nhiều nước Đông Âu là đối thủ, tiến hành bài xích các nước này, đây hoàn toàn là một tổ chức khép kín. Thứ hai, mặc dù dựa trên những quy định liên quan tại Hiến chương Liên Hợp Quốc, sự tồn tại của hiệp ước mang tính khu vực phù hợp với mục tiêu, nguyên tắc Liên Hợp Quốc cũng mang tính hợp pháp của nó, song NATO có đúng là một tổ chức mang tính chất khu vực hay không thì còn là vấn đề gây tranh luận quốc tế. Không ít người cho rằng: lãnh thổ các nước tham gia tổ chức NATO vắt ngang hai châu lục lớn, về địa lí không phủ hợp với quy định liên quan về hiệp định mang tính khu vực của Liên Hợp Quốc; mục đích thành lập NATO không phải là giải quyết các vấn đề khu vực, mà là “kiềm chế Liên Xô” và”chống chủ nghĩa cộng sản”. Ngoài ra, Hiến chương Liên Hợp Quốc còn quy định văn bản rõ ràng: các nước tham gia hiệp định mang tính khu vực chỉ có thể là các nước thành viên Liên Hợp Quốc, nhưng các nước thành viên NATO bao gồm cả các nước khi đó chưa phải là thành viên Liên Hợp Quốc như Italia, Bồ Đào Nha, điều này rõ ràng trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Thứ ba, Điều 53 trong Hiến chương Liên Hợp Quốc về “việc hành động căn cứ vào hiệp định mang tính khu vực” quy định: Trừ biện pháp đặc biệt đã quy định đối với kẻ thù trước đây, còn lại nếu không được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc chấp thuận thì không được phép sử dụng các hành động dựa trên hiệp định khu vực hoặc do các tổ chức mang tính khu vực áp dụng. Thế nhưng NATO lại không hề để tâm đến những quy định liên quan trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, tổ chức này đã tự ý sử dụng hành động mà không cần Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc chấp thuận. Tóm lại, xét trên góc độ pháp luật quốc tế, từ trên văn bản, NATO đã vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc. Bốn là, các điều khoản liên quan của NATO càng vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc. Điều 4 của hiệp ước quy định: “bất cứ nước nào tham gia hiệp ước cho rằng toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính trị và an ninh quốc gia của một nước nào đó trong hiệp ước bị đe dọa thì các nước khác sẽ cùng nhau bàn bạc đối sách”. Điều khoản này yêu cầu các nước tham gia hiệp ước phải có nghĩa vụ “cùng nhau bàn bạc” nhiều hơn, chỉ cần một nước tham gia hiệp ước cho rằng “an ninh của mình bị đe dọa” có thể yêu cầu triệu tập cuộc họp các nước NATO để bàn bạc, yêu cầu áp dụng hành động chung nhằm đối phó “nguy cơ”, mang ý tăng cường sức triệu tập “hành động chung” của Mĩ. Điều 5 quy định: “các nước tham gia hiệp ước cho rằng mọi hành động tấn công vũ trang đối với một hay một vài nước tham gia hiệp ước tại khu vực châu Âu hoặc Bắc Mỹ đều coi là hành động tấn công đối với toàn thể các nước tham gia hiệp ước”. Bởi vậy các nước tham gia hiệp ước đồng ý khi xảy ra hành động tấn công vũ trang kiểu này, mỗi nước sẽ tăng cường vào quyền tự vệ tập thể hoặc riêng lẻ thừa nhận tại điều 51, có thể tự mình hoặc liên kết các nước khác áp dụng hành động bắt buộc, phối hợp cùng nước bị tấn công, trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng vũ lực nhằm khôi phục và duy trì an ninh khu vực Bắc Đại Tây Dương. Mọi hành động tấn công kiểu này và các biện pháp sử dụng đối phó đều phải trình báo với Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, và các biện pháp trên phải chấm dứt ngay sau khi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đưa ra biện pháp khôi phục và duy trì hòa bình, an ninh quốc tế. Trên thực tế, việc NATO do Mĩ đứng đầu bỏ qua vai trò của Liên Hợp Quốc, tự ý áp dụng các hành động quân sự, chính là vi phạm các điều khoản hiến chương và tôn chỉ của Liên Hợp Quốc, trở thành cái cớ hiện nay tự ý sử dụng hành động quân sự trong hàng loạt các cuộc chiến sau đó. Tóm lại, từ khi thành lập, NATO đã đi chệch với tinh thần Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong hoàn cảnh “đa cường nhất siêu” như hiện nay thì việc NATO không tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc rất có thể sẽ tiếp diễn, điều này thực sự khiến dư luận thế giới phải quan tâm. 3.5 Lịch sử NATO từ khi thành lập đến nay Ngày 4-4-1949: Mỹ, Ca-na-đa và mười nước Tây Âu ký Hiệp ước Oa-sinh-tơn thành lập NATO (gồm: Bỉ, Ca-na-đa, Ðan Mạch, Pháp, Ai-xơ-len, I-ta-li-a, Luých-xăm-bua, Hà Lan, Na Uy, Bồ Ðào Nha, Anh và Mỹ). Ðiều 5 của Hiệp ước này nêu rõ các nước thành viên “đồng ý rằng một cuộc tiến công quân sự chống một hoặc nhiều nước của NATO ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tiến công chống tất cả các nước thành viên”. Ngày 6-5-1955: Tây Ðức gia nhập NATO (sau khi nước Đức thống nhất tư cách thành viên mở rộng cả các vùng Cộng hòa dân chủ Đức cũ, năm 1990) Tám ngày sau, ngày 14-5-1955, Liên Xô cùng với tám nước Ðông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va. Ngày 10-3-1966: Tổng thống Sác Ðờ Gôn (Charles de Gaulle) rút Pháp ra khỏi cơ cấu chỉ huy hợp nhất của NATO. Năm sau, NATO chuyển trụ sở từ Pa-ri sang Brúc-xen (Bỉ). Từ ngày 9 đến 10-12-1976: NATO bác bỏ những đề nghị của Tổ chức Hiệp ước Vácsava về việc từ bỏ sử dụng đầu tiên vũ khí hạt nhân và hạn chế thành viên. Trong 20 năm đầu, NATO đã chi hơn 3 tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng cho lực lượng của tổ chức này, gồm các căn cứ quân sự, sân bay, đường ống dẫn dầu, mạng lưới thông tin và kho tàng. Mỹ đóng góp khoảng một phần ba số tiền này. Ngày 19-12-1990: Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, NATO và Tổ chức Hiệp ước Vácsava ra một tuyên bố chung không xâm lược lẫn nhau. Tám tháng sau, Tổ chức Hiệp ước Vácsava chính thức giải thể. Ngày 16-12-1995, NATO phát động chiến dịch quân sự lớn nhất cho đến nay nhằm ủng hộ hiệp định hòa bình Bô-xni-a. Ngày 24-3-1999: NATO bắt đầu các cuộc không kích chống Nam Tư ở Cô-xô-vô, lần đầu liên minh quân sự này dùng lực lượng tiến công một nước có chủ quyền mà không được Liên hợp quốc thông qua. Ngày 12-9-2001: Lần đầu NATO viện dẫn Ðiều 5, sau cuộc tiến công khủng bố nhằm vào Mỹ ngày 9-11-2001, triển khai Hệ thống kiểm soát và cảnh báo phòng không ở Mỹ. Ngày 11-8-2003: NATO đảm nhiệm lực lượng gìn giữ hòa bình ở Áp-ga-ni-xtan đặt tại Ca-bun. Ðây là lần đầu NATO triển khai lực lượng của mình “ngoài khu vực”. Ngày 31-6-2006: Lực lượng NATO đảm nhiệm an ninh từ liên minh do Mỹ đứng đầu ở miền Nam Áp-ga-ni-xtan, bắt đầu một trong những chiến dịch khó khăn nhất trong lịch sử của khối quân sự này. Từ ngày 2 đến 4-4-2008: NATO tuyên bố các nước cộng hòa thuộc Liên Xô (trước đây) như Gru-di-a và U-crai-na một ngày nào đó sẽ gia nhập NATO. Năm 2009: Ngày 5-3, NATO đồng ý nối lại các mối quan hệ cấp cao với Nga, bị cắt đứt vào cuối năm 2008, sau khi Mát-xcơ-va xâm nhập Gru-di-a một thời gian ngắn; Ngày 11-3, Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di cho biết, Pa-ri sẽ tham gia trở lại cơ cấu chỉ huy hợp nhất của NATO; Ngày 3 và 4-4, NATO kỷ niệm 60 năm ngày thành lập do Pháp và Ðức tổ chức. Ngày 1-8, cựu Thủ tướng Ðan Mạch An-đơ-xơ Pho-gơ Ra-xmút-xen nhậm chức Tổng Thư ký NATO thứ 12; Ngày 18-9, NATO đề nghị một thời kỳ hợp tác mới với Mỹ và Nga, kêu gọi cùng triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa, sau khi Oa-sinh-tơn hủy bỏ hệ thống chống tên lửa trong kế hoạch; Ngày 4-12, NATO đề xuất kế hoạch thành viên chính thức đối với Mông-tê-nê-grô nhưng vẫn giữ lời mời Bô-xni-a gia nhập tổ chức này. Năm 2010: Ngày 6-4, Tổng thống U-crai-na V.Y-a-nu-cô-vích hủy bỏ việc xem xét nước này gia nhập NATO; Ngày 23-7, Nga cho biết, nước này sẵn sàng thiết lập lại hợp tác quân sự với NATO, sau gần hai năm, các mối quan hệ này bị ngưng trệ trong thời gian diễn ra cuộc xung đột vũ trang ở Gru-di-a; Ngày 1-10, Tổng Thư ký NATO Ra-xmút-xen tuyên bố cánh cửa thành viên NATO vẫn mở đối với Gru-di-a, bất chấp những nỗ lực của Tbi-li-xi cải thiện các mối quan hệ với Mát-xcơ-va; Ngày 7-10, NATO thông báo kế hoạch chi tiêu 930 triệu ơ-rô (1,3 tỷ USD) trong năm 2011-2012 cho các dự án bao gồm an ninh mạng và công nghệ phòng thủ tên lửa...; Ngày 29-10, NATO cho biết, sẽ giảm quân đội của tổ chức này ở Cô-xô-vô từ mười nghìn xuống còn năm nghìn người trong những tháng tới do an ninh ở đây đã được cải thiện; Ngày 3-11, sau cuộc gặp giữa Tổng thống Nga Ð.Mét-vê-đép và Tổng Thư ký NATO Ra-xmút-xen, Nga cam kết sẽ tăng cường hợp tác với NATO tại Áp-ga-ni-xtan và xem xét hệ thống lá chắn phòng thủ tên lửa chung. Sau khi Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va giải thể (1991), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương vẫn khẳng định sự tiếp tục tồn tại của mình đồng thời tiến hành cải tổ cơ cấu, mở rộng thành viên, kết nạp hầu hết các nước trong Hiệp ước Vác-sa-va, một số nước thuộc Liên Xô, Tiệp Khắc, Nam Tư trước đây đưa tổng số thành viên lên 28 nước nhằm tăng cường vai trò ở khu vực và trên thế giới. Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập tổ chức vào tháng 2 năm 1952. Năm 1955 Cộng hòa Liên bang Đức (lúc đó chỉ có phần Tây Đức) gia nhập, năm 1990 nước Đức thống nhất mở rộng tư cách thành viên cho các vùng lãnh thổ Cộng hoà Dân chủ Đức cũ. Tây Ban Nha gia nhập ngày 30 tháng 5 năm 1982. Năm 1999, 3 nước thành viên khối Vacxava cũ gia nhập NATO là Ba Lan, Cộng hoà Séc và Hungary. Pháp là một thành viên NATO, nhưng năm 1966 đã rút khỏi bộ chỉ huy quân sự. Sau đó tổng hành dinh NATO chuyển từ Paris đến Bruxen(Bỉ). Iceland, thành viên duy nhất của NATO không có quân đội riêng (lực lượng quân đội Hoa Kỳ thường trực tại Iceland đảm nhiệm vai trò Lực lượng Phòng vệ Iceland), gia nhập với điều kiện là họ không bị buộc thành lập quân đội riêng. Ngày 29 tháng 3 năm 2004, Slovenia, Slovakia, các nước khối Vacxava cũ gồm Bungai, Romania, các nước vùng Ban-tích thuộc Liên Xô trước đây là Estonia, Latvia và Litva chính thức gia nhập NATO. Tháng 4 cùng năm, các nước này lần đầu tiên dự họp NATO. Trụ sở Bộ Tư lệnh NATO hiện nay đặt tại Bruxen (Bỉ). Hiện NATO gồm 28 nước thành viên (năm 2008) với lực lượng và ngân sách quốc phòng (năm 2009) như sau (theo Roitơ) và xếp theo thứ tự chữ cái tiếng Anh,
Quốc gia Lực lượng (ngàn quân) Ngân sách quốc phòng (tỷ USD)
An-ba-ni 14.295 0,25
Bỉ 38.425 4,23
Bun-ga-ri 34.975 1,11
Ca-na-đa 65.722 20,19
Crô-a-ti-a 18.600 1,02
CH Séc 17.932 3,19
Ðan Mạch 26.585 4,58
Ê-xtô-ni-a 4.750 0,38
Pháp 352.771 47,89
Ðức 250.613 46,50
Hy Lạp 156.000 6,45
Hung-ga-ri 29.450 1,86
I-ta-li-a (293.202 23
Lát-vi-a 5.745 0,35
Lít-va 8.850 0,50
Lúc-xăm-bua (năm 2008) 900 0,17
Hà Lan 46.882 13
Na Uy 24.025 5,94
Ba Lan 100.000 8,63
Bồ Ðào Nha 43.330 2,72
Ru-ma-ni 73.350 3,39
Xlô-va-ki-a 16.531 1,46
Xlô-vê-ni-a 7.200 0,88
Tây Ban Nha 128.013 11,70
Thổ Nhĩ Kỳ 510.600 9,90
Anh 175.690 62,40
3.6 Vì sao Pháp lại rút khỏi tổ chức quân sự hợp nhất NATO năm 1966? Charles de Gaulle là một nhân vật truyền kỳ lịch sử của Pháp, ông cao tới 1,96 mét, xuất thân trong một gia đính quý tộc Pháp, đã từng hoạt động trong quân đội, và giữ chức tổng thống nước cộng hòa thứ năm của Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông lãnh đạo nước Pháp đứng lên chống lại chủ nghĩa phát xít và trở thành người hùng chiến tranh thế giới thứ hai. Với vai trò lãnh đạo quân đội Pháp trong chiến tranh thế giới thứ hai, De Gaulle chính là người đưa nước Pháp rút khỏi tổ chức quân sự hợp nhất NATO. Chiều ngày 8 tháng 3 năm 1966, các nước thành viên ở trụ sở NATO tại paris đều nhận được một bức thư giống nhau, đó là công hàm được gửi đi từ Chính phủ Pháp: từ ngày 1 tháng 7 năm 1966, Pháp sẽ ngừng phái quân tham gia các hoạt động của Bộ tư lệnh quân đồng minh NATO, đồng thời từ chối gánh vác mọi công việc mà NATO giao phó cho Pháp; trước ngày 1 tháng 4 năm 1967, tất cả mọi lực lượng quân đội và thiết bị của nước ngoài phải rời khỏi nước Pháp. Điều này đồng nghĩa với việc yêu cầu trụ sở BATO và Bộ tư lệnh quân đồng minh châu Âu rời khỏi Pháp. Các nước đồng minh NATO đừng đầu là Mĩ liên tục chỉ trích Pháp về cách làm thiếu trách nhiệm này, hy vọng Pháp cân nhắc lại. Tổng thống Mĩ khi đó là Johnson vô cùng giận dữ. Thủ tướng Anh đích thân đến gặp Charles de Gaulle nói: “Pháp là một thành viên sáng lập quan trọng của NATO, có vị trí địa lí vô cùng quan trọng. Nếu Pháp rút khỏi NATO thì Tây Đức, Hà Lan, Bỉ Lucxembua, Đan Mạch, Nauy, cùng các nước Italia, Thổ Nhĩ Kì không thể liên kết thành một dải, như vậy các hoạt động thông tin, giao thông vận tải giữa các nước thành viên NATO sẽ phát sinh nhiều vấn đề, hy vọng Pháp nghĩ đến lợi ích của tổ chức, rút khỏi quyết định rút khỏi NATO”. Thế nhưng trước vô vàn những áp lực, De Gaulle vẫn không thay đổi quyết định. Với chỉ thị của ông, tháng 10 năm 1966, Pháp chính thức rút khỏi Uỷ ban Quân sự NATO. Trong cuộc đàm phán sau đó với Mĩ, Pháp lại một lần nữa từ chối yêu cầu giữ lại căn cứ quân sự tại Pháp của Mĩ, thậm chí đến cả yêu cầu kéo dài thời hạn cuối cùng để Mĩ rút quân và trang thiết bị quân sự ra khỏi Pháp cũng không được chấp thuận. Không còn cách nào khác, Mĩ buộc phải rút toàn bộ lực lượng khỏi Pháp vào ngày 14 tháng 3 năm 1967. Như vậy, với vai trò là nước sáng lập NATO, vì sao Pháp lại kiên quyết rút khỏi tổ chức quân sự này? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải lật lại vấn đề vì sao Pháp gia nhập NATO. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, châu Âu rơi vào tình trạng: Trong thế giới tư bản chủ nghĩa phương Tây, các cường quốc đế quốc cũ như Anh, Pháp đều bị tàn phá nặng nề, sức mạnh tổng hợp đất nước suy giảm nghiêm trọng, thực lực của Đức cũng suy giảm sút mạnh, duy chỉ có Mĩ nhờ kiếm món lời lớn trong chiến tranh mà giàu lên trông thấy, nhanh chóng vươn lên đứng đầu thế giới; còn phía đông, tuy Liên Xô cũng chịu những tổn thất nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, song sức mạnh của Liên Xô vẫn khiến các nước không thể xem nhẹ, đặc biệt là sức mạnh của khối Vacxava, khiến ảnh hưởng của Liên Xô ngày càng lan rộng. Muốn kiểm soát được ảnh hưởng của Liên Xô không lan đến Tây Âu nói riêng, toàn khu vực châu Âu nói chung, tạm thời sẽ không thể thực hiện được nếu rời khỏi Mĩ. Trước tình hình như vậy, Pháp mới tích cực vận động thành lập khối NATO do Mĩ đứng đầu, hi vọng dựa vào chiếc “ô bảo hộ” của Mĩ, thông qua tiếp nhận khoản đô la lớn do “kế hoạch Macxan” cung cấp, tập trung tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, chờ thời cơ lớn mạnh trở lại. Sở dĩ Pháp có thể chịu đựng sự chỉ huy của Mĩ cũng chỉ vì chờ đợi ngày hoàn thành ước mơ của mình. Đến cuối những năm 50 của thế kỷ XX, nền kinh tế Pháp phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân cơ bản được cải thiện, đặc biệt trải qua 10 năm phát triển, xây dựng quốc phòng Pháp có bước tiến dài, Pháp có nền công nghiệp khoa học kỹ thuật quốc phòng độc lập và hoàn chỉnh cùng lực lượng quân sự lớn mạnh. Đồng thời, Pháp cũng chưa từng từ bỏ kế hoạch phát triển hạt nhân độc lập. Tháng 9 năm 1958, trong biên bản ghi nhớ lần lượt gửi đến Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh, Tổng thống De Gaulle chủ trương thiết lập “cơ chế lãnh đạo ba nước” Anh, Pháp, Mĩ trong NATO, đồng thời yêu cầu cùng chia sẻ kỹ thuật nguyên tử với Mĩ. Đây là bước đầu tiên trong hành trình đòi hỏi cùng Anh, Mĩ chia sẻ quyền lãnh đạo NATO của Pháp. Đòi hỏi này của Pháp thực sự khiến Mĩ bất ngờ. Ngày 6 tháng 3 năm 1959, Chính phủ Pháp tuyên bố hạm đội Địa Trung Hải của Pháp không còn chịu sự chỉ huy của NATO nữa. Tiếp theo tuyên bố: không cho phép Mĩ tích trữ đầu đạn hạt nhân tại các căn cứ của Pháp; rồi máy bay ném bom mà Pháp chuyển cho NATO, NATO chỉ được phép sử dụng khi có sự đồng ý của Pháp; Pháp từ chối giao quyền chỉ huy hai sư đoàn rút từ An-giê-ri cho NATO; Pháp rút lực lượng sĩ quan hải quân của mình khỏi Bộ tư lệnh hải quân đồng minh; Pháp sẽ không tham gia các cuộc diễn tập quân sự của NATO về sau. Ngày 13 tháng 2 năm 1960, Pháp thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên, từ đó trở thành quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân. Sau đó, nước này quyết định áp dụng hành động tiếp theo, đẩy nhanh tiến trình thoát khỏi sự ràng buộc của NATO và Mĩ. Ngày 9 tháng 9 năm 1965, De Gaulle công khai tuyên bố trong buổi họp báo, muộn nhất là vào dịp kỷ niệm 20 năm thành lập NATO, tức năm 1969, Pháp sẽ rút khỏi lực lượng quân sự hợp nhất này, sau đó trụ sở của NATO phải ròi khỏi Pháp. Sở dĩ Pháp kiên quyết rút khỏi NATO, chủ yếu là do một số nguyên nhân sau đây: Đầu tiên là do xuất phát từ yêu cầu duy trì độc lập tự chủ của Pháp. Pháp là một dân tốc có tinh thần độc lập mạnh mẽ, Pháp cảm thấy tổ chức quân sự hợp nhất NATO đã bó buộc họ, gây cản trở cho nền độc lập của họ. Ví như, Pháp từ trước đến nay không bao giờ đồng ý để cuốn vào những trận xung đột mà không có liên quan gì đến lợi ích của mình. Pháp kiên quyết cho rằng, lợi ích các nước châu Âu là không hoàn toàn như nhau. Đối với Pháp mà nói, nếu có xảy ra hành động tấn công đối với một nước châu Âu khác thì Pháp không có nghĩa vụ phải sử dụng hành động chung đầu tiên. Thứ hai là nhu cầu kiếm tìm địa vị nước lớn. De Gaulle cho rằng, chỉ cần Mĩ chưa rút khỏi NATO, thì các nước thành viên khác mãi mãi chỉ nằm dưới sự chỉ huy của Mĩ, mà Pháp lại khó chấp nhận được điều này. Mặt khác là Pháp thấy nghi ngờ về hiệu quả của chiếc “ô bảo hộ” mà Mĩ cung cấp, De Gaulle chưa tin Mĩ chịu chung tay chèo lái con thuyền cùng các nước châu Âu. Vì trong chiến tranh thế giới thứ nhất, sau khi trải qua 3 năm có thể coi là khó khăn nhất thì Mĩ mới cung cấp viện trợ cho Pháp; trong chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ cũng chỉ cung cấp viện trợ cho Pháp sau khi Pháp đã bị đánh chiếm. Hai lần trải nghiệm trên khiến De Gaulle khó có thể tin tưởng rằng: đối với một nước Pháp đã mất đi ưu thế về kỹ thuật hạt nhân như hiện nay, Mĩ khó mà bất chấp nguy hiểm để giúp đỡ người bạn đồng minh này. Việc Pháp rút khỏi tổ chức quân sự hợp nhất NATO khiến tổ chức này gánh chịu những tổn thất nặng nề, khiến mặt trận phòng ngự NATO xuất hiện lỗ hổng lớn. Về chính trị, sự rút lui của Pháp là trường hợp tiên phong về việc “vừa là thành viên NATO, lại không tham gia vào cơ cấu quân sự hợp nhất của NATO” 3.7 Iceland – nước thành viên duy nhất của NATO không có quân đội. Iceland nằm trong nhóm các nước Bắc Âu đầu tiên gia nhập tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO, cũng là một trong số ít nước trên thế giới không có quân đội. Vậy một nước không có quân đội tại sao lại trở thành thành viên chính thức của tổ chức quân sự lớn nhất thế giới? Mà lại thuộc nhóm thành viên chính thức đầu tiên. Iceland tên đầy đủ là nước Cộng hòa Iceland, diện tích 103.000 km2, với khoảng 301.931 dân, dân cư đại đa số là người Iceland, thuộc tộc người Teutonic. Ngôn ngữ chính là tiếng Iceland, nhưng hầu hết người Iceland đều biết nói tiếng Anh. Iceland nằm ở phía Bắc Đại Tây Dương, là hòn đảo rộng thứ nhì ở châu Âu sau đảo Anh, có đường bờ biển dài 4.970 km. Từ trên bản đồ có thể thấy Iceland nằm giáp cực Bắc nên có khí hậu vô cùng lạnh giá và biến đổi bất thường. Do ảnh hưởng dòng hải lưu ấm chảy từ vịnh Mexico, nên có khí hậu ấm hơn nhiều so với những nơi cùng vĩ độ. Đặc biệt, ngày hè ở Iceland mặt trời chiếu sáng lâu, mùa đông thì ngược lại rất ít ánh nắng, đến mùa thu và đầu đông còn thường xuyên có thể nhìn thấy cực quang. Vì Iceland nằm trong vành đai núi lửa và suối nước nòng, người ta gọi nước này là “đất nước băng tuyết trên núi lửa”. Để thấy được vì sao Iceland lại gia nhập NATO sớm như vậy, thì phải bắt đầu ngược lại lịch sử xa xưa của đất nước này. Vào thế kỷ VIII, các tu sỹ Ailen di cư sang Iceland. Nửa cuối thế kỉ IX, Na Uy cũng bắt đầu di dân sang Iceland. Năm 1262, thần phục Na Uy. Năm 1380, cả Na Uy và Iceland đều nằm dưới sự thống trị của Đan Mạch. Năm 1918, Iceland trở thành quốc gia có chủ quyền, nhưng mọi công việc ngoại giao vẫn do Đan Mạch điều khiển. Năm 1940, phát xít Đức chiếm đóng Iceland, cũng trong năm đó, quân đội Anh tiến vào Iceland, lật đổ chính quyền phát xít. Năm 1941, Mĩ thay thế Anh đóng quân tại đây. Ngày 17 tháng 6 năm 1944, nước Cộng hòa Iceland dược thành lập. Căn cứ theo Hiến pháp mới, Iceland không thiết lập quân đội, cả nước chỉ có 610 cảnh sát giữ nhiệm vụ duy trì trật tự trị an trong nước. Ngoài ra còn có đội tuần tra bờ biển với hơn 100 người được trang bị ba tàu tuần tra và một số máy bay cỡ nhỏ, phụ trách bảo vệ khu vực đánh bắt hải sản và công tác cứu hộ trên biển. Không khó nhận thấy, trong lịch sử Iceland đã từng nhiều lần bị bước ngoài xâm lược, phải chịu ách thống trị thực dân Đan Mạch suốt một thời kỳ dài. Đối với một quốc gia nhỏ bé với diện tích chưa đầy 103.000 km2, sau khi thoát khỏi ách thống trị của phát xít Đức, việc tìm kiếm một thế lức quân sự mạnh để bảo vệ và thoát khỏi nỗi ám ảnh của chiến tranh, đảm bảo an toàn cho đất nước là điều không khó lí giải. Vậy các nước Anh, Mĩ vì sao lại kéo Iceland gia nhập đồng minh? Nguyên nhân chủ yếu là do vị trí địa lí của đất nước này có giá trị chiến lược vô cùng quan trọng: Nắm sát vòng cực Bắc, chỉ cách đảo Freenland 288 km. Đặc biệt, khoảng cách từ Iceland đến hai thành phố New York và Moscow là tương đương nhau. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, đứng trước việc Liên Xô ngày càng tăng cường quân sự trên bán đảo Kola, cùng việc hạm đội Biển Bắc của Liên Xô xây dựng căn cứ quan trọng tại Mumrmansk thì Iceland có ý nghĩa chiến lước quan trọng trong việc Tây Âu chống lai Liên Xô, tăng cường hoạt động trinh sát, cảnh giới và bảo vệ an ninh tại khu vực Đại Tây Dương. Do vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Anh mượn cớ giúp Iceland lật đổ sự thống trị của phát xít Đức, khôi phục lại trật tự xã hội đã cho lực lượng quân đội vào đóng tại đất nước này. Năm sau quân đội Mĩ lại lấy cớ Anh không có đủ khả năng tiếp tục bảo vệ Iceland nên đưa quân đội vào thay thế. Đúng dịp chuẩn bị thành lập NATO, lãnh đạo cấp cao ngoại giao Mĩ có cuộc tiếp xúc rộng rãi với lãnh đạo cấp cao Iceland, hai bên vui vẻ tán đồng, và Iceland chính thức gia nhập NATO. Mỗi lần tổ chức hội nghị NATO đều không thể vắng mặt Iceland. Vì không có quân đội, nên tất cả những hội nghị cần sự tham gia của tham mưu trưởng đều được thay thế bởi các quan chức dân sự Iceland. Năm 1951, Mĩ và Iceland ký một hiệp ước song phương, chịu trách nhiệm “bảo vệ an toàn” cho Iceland. Từ đó, Mĩ có quyền đóng quân tại Iceland, đồng thời dựa trên danh nghĩa đó để thiết lập rộng rãi căn cứ hải quân, không quân và các trạm rađa. Mặc dù Iceland không có quân đội, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc nước này không có quân. Hiện nay, lực lượng “bộ đội phòng ngự Iceland” của Mĩ có khoảng 2000 quân, được trang bị 6 máy bay chiến đấu F – 15, máy bay săn ngầm và trạm rađa. Căn cứ quân sự Mĩ tại Iceland gồm căn cứ chung hải quân, không quân Keflavík 45 km. ngoài ra, tại Iceland còn có nhiều trạm trung chuyển hệ thống vô tuyến điện quân sự toàn cầu được phân bố rộng rãi, cộng thêm hai trạm rađa tại Rockville và Hepburn, kết nối liên lạc giữa hai đại lục Bắc Mĩ và Bắc Âu. Như vậy, quốc gia không có quân đội như Iceland trở thành bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống phòng thủ hợp nhất của NATO. 3.8 Tác động của việc hình thành hai khối quân sự trong mâu thuẫn Xô- Mĩ Cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mĩ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không phải chỉ bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mà nó nảy sinh ngay từ sau Cách mạng tháng Mười Nga (1917) với sự ra đời của nước Nga Xô viết. Lúc bấy giờ, các nước tư bản phương Tây đã tập trung lực lượng và tìm mọi cách để “bóp chết” nước Nga Xô viết: 14 nước tư bản đã đưa quân can thiệp chống nước Nga (1918 – 1920), các nước tư bản đã bao vây kinh tế, cô lập chính trị nước Nga trong những năm 20 – 30 của thế kỷ XX, đặc biệt trong cuộc xâm lược Liên Xô của các nước Đức phát xít trong những năm 1941 – 1945. Mặc dù vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên vẫn đứng vững, tồn tại và ngày càng hùng mạnh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và các nước Mĩ, Anh, Pháp đều là nạn nhân của cuộc xâm lược phát xít và họ đã liên minh với nhau để chống phát xít, nhưng mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước tư bản này vẫn luôn luôn tồn tại. Khi chiến tranh kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, thì mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước Mĩ, Anh, Pháp lại nổi lên. Các nước này từ quan hệ đồng minh chuyển sang quan hệ đối đầu. Đó là một trong những nguồn gốc sâu xa của cuộc Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, từ Hội nghị Ianta (2/1945), Liên Xô, Mĩ, Anh đã thỏa thuận với nhau phân chia phạm vi ảnh hưởng đối với các khu vực trên phạm vi thế giới. Cũng vì thế, Chiến tranh lạnh là kết quả tất yếu của các cuộc chiến tranh giành và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên Xô và Mĩ, mà thường được gọi là hai cực trong trật tự thế giới hai cực được xác định từ Hội nghị Ianta. Tuy nhiên, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới chuyển biến mau lẹ ngày càng có lợi cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bất lợi cho Mĩ và các đồng minh của Mĩ. Đầu năm 1947, ở các nước Đông Âu, khu vực ảnh hưởng của Liên Xô, chính quyền lần lượt chuyển vào tay nhân dân lao động, ở Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp phong trào đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo phát triển mạnh mẽ. Ở Pháp, Bỉ và Italia đại diện của Đảng Cộng sản đã tham gia Chính phủ, ở các nước này đã diễn ra một loạt những cải cách kinh tế - xã hội có lợi cho người lao động. Ở châu Á, cách mạng Trung Quốc phát triển mạnh, so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho Đảng Cộng sản. Trong bối cảnh như thế, Mĩ không thể không có những phản ứng lại. Tháng 3–1947, Tổng thống Mĩ Tơruman đã đọc diễn văn tại Quốc hội Mĩ, chính thức đưa ra học thuyết của mình. Theo Tơruman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn tính” và những đe dọa tương tự đang diễn ra nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, Pháp và cả Đức nữa. Vì vậy, Mĩ phải đứng ra “đảm nhận sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do” phải giúp đỡ các dân tộc thế giới chống lại “sự đe dọa” của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự “bành trướng” của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mĩ đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy, học thuyết Truman đã mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh này đã diễn ra theo tư tưởng và mục tiêu của Mĩ mà học thuyết Truman đã vạch ra. “Chiến tranh lạnh” là khái niệm do Baruch, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mĩ ở Liên hợp quốc đưa ra, xuất hiện trên báo chí từ ngày 26 – 07 – 1947. Theo Mĩ, “chiến tranh lạnh” “chiến tranh không nổ súng, không đổ máu” nhưng “luôn luôn ở tình trạng chiến tranh” nhằm “ngăn chặn” rồi “tiêu diệt” Liên Xô. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra định nghĩa của mình về “chiến tranh lạnh”. Tựu trung lại, đó là sự đe dọa sử dụng bạo lực quân sự, bao vây kinh tế, phá hoại chính trị, chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh, làm cho tình hình thế giới luôn luôn căng thẳng. Mục tiêu của chiến tranh lạnh do Mĩ phát động là Mĩ tiến tới lãnh đạo thế giới tự do chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực khác 3.9 Vì sao NATO có nhiều biến động vào những năm 70 của thế kỉ XX? Thời kì cuối những năm 60 đến hết thập niên 70 là thời kì quan hệ Mỹ-Âu hết sức căng thẳng. Lúc này, Mĩ chủ trương hòa oãn quan hệ với Liên Xô, nới lỏng xây dựng về lĩnh vực quân sự. Điều này làm gia tăng sự bất an cho Tây Âu. Điều đặc biệt khiến các nước Tây Âu (Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ) không vừa ý là trong suốt quá trình chiến tranh lạnh , Mĩ không hề quan tâm đến lợi ích và nhu cầu của Tây Âu, trong khi lại luôn yêu cầu Tây Âu phối hợp chặt chẽ với Mĩ, trong các vấn đề quốc tế trọng đại phải phục tùng theo cục diện chiến lược toàn cầu của Mĩ, đây chính là điều mà các nước Tây Âu ngày càng không vừa ý. Trong lúc mâu thuẫn Mĩ-Âu đang dần gia tăng như vậy, lại xảy ra những sự việc khiến mâu thuẫn này càng sâu sắc, càng khiến cho tổ chức NATO trở nên “rệu rã” bất thường vào những năm 70 như: đối chọi trong khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, bất đồng trong nhận thức tại Hội nghị An ninh châu Âu và Hội nghị cắt giảm quân bị tại châu Âu. Tuy Mĩ đã cố gắng giải quyết tốt mối đoàn kết Mĩ-Âu, nhưng mọi cố gắng giải quyết đều không đạt đước kết quả như mong muốn. Nội bộ NATO trong giai đoạn này cũng xuất hiện những bất đồng, Mĩ về cơ bản không có cách nào sử dụng quyền lợi của một “người đứng đầu” NATO, các nước Tây Âu khi thấy bất lợi cho lợi ích của mình, cũng quay sang đối đầu với Mĩ. Do vậy, những năm 70 là thời kì NATO nhiều “biến động nhất”. IV, Sự kình địch và chạy đua vũ trang giữa hai khối quân sự trong chiến tranh lạnh. 1. Biểu hiện của mâu thuẫn Đông-Tây và cuộc chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối trọng trong chiến tranh lạnh Mĩ tìm cách lôi kéo các nước đồng minh về phía mình bằng các biện pháp kinh tế, chính trị và quân sự vừa để thao túng, vừa để tạo ra khối các nước đối lập với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Ngày 05 – 06 – 1947, ngay sau khi học tuyết Truman ra đời, ngoại trưởng Mĩ Macsan liền đưa ra kế hoạch của mình bằng “Phương án phục hưng châu Âu”. Theo Macsan, chỉ cần một bộ phận hoặc toàn bộ các nước các nước châu Âu cùng nhau xây dựng một kế hoạch “phục hưng” thì Mĩ sẽ mở rộng “viện trợ” đến châu Âu. Thực hiện kế hoạch của Macsan, ngày 12 – 07 – 1947, các nước Anh – Pháp triệu tập ở Pari hội nghị bàn về kế hoạch này của Mĩ với 16 nước tư bản châu Âu tham gia (gồm Anh, Pháp, Italia, Bỉ, Bồ Đào Nha, Ailen, Hi lạp, Thổ Nhĩ Kì, Hà Lan, Lucxămbua, Aixơlen, Thụy Sĩ, Áo, Na Uy, Đan Mạch, Thủy Điển). Hội nghị đã yêu cầu Mĩ viện trợ hàng chục tỉ đô la cho châu Âu. Tháng 4 – 1948, Quốc hội Mĩ thông qua “Đạo luật viện trợ nước ngoài” với những quy định: nước nhận viện trợ phải kí với Mĩ hiệp ước tay đôi có lợi cho Mĩ, phải thi hành chính sách kinh tế tài chính do Mĩ yêu cầu, phải cung cấp nguyên liệu cho Mĩ, phải ngừng buôn bán với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, hủy bỏ kế hoạch quốc hữu hóa và gạt bỏ các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính phủ… Kế hoạch Macsan được thực hiện từ ngày 9–4–1948 đến ngày 31–12–1951, thực tế Mĩ đã bỏ ra 12,5 tỉ đô la ( Hiện nay có nhiều loại tài liệu đưa những số liệu khác nhau về tiền viện trợ của Mĩ: có tài liệu nêu 29 tỉ sau giảm xuống còn 22, có tài liệu đưa ra con số 13 tỉ….) Kết quả nền kinh tế của những nước nhận viện trợ được phục hồi, sau đó phát triển mạnh, nhưng phụ thuộc vào Mĩ. Phán ứng lại đối với “Học thuyết Truman” “Kế hoạch Macsan”, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng cộng sản châu Âu đã xúc tiến thành lập Cơ quan thông tin cộng sản (KOMINFORM) vào tháng 10 – 1947. Đại diện của 9 Đảng Cộng sản (Liên Xô, Ba Lan, Nam Tư, Bungari, Rumani, Hungari, Tiệp Khắc, Italia và Pháp) tham dự cuộc họp này tại Vacsava. Hội nghị đã ra bản tuyên bố, trong đó phân tích tình hình thế giới chia làm hai phe, phe đế quốc – tư bản do Mĩ đứng đầu và phe chống đế quốc – tư bản do Liên Xô đứng đầu. Cơ quan thông tin cộng sản có nhiệm vụ tổ chức thực hiện thông tin, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hành động đấu tranh giữa các đảng cộng sản một cách tự nguyện. Để trao đổi thông tin, hội nghị đã quyết định xuất bản tạp chí ở Bêôgrat bằng tiếng Pháp và tiếng Nga mang tên “Vì một nền hòa bình vững chắc, vì nền dân chủ nhân dân”. Hơn một năm sau, vào ngày 8-1-1949, Liên Xô và các nước Anbani Ba Lan, Bungari, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc đã quyết định thành lập tổ chức kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa: Hội đồng tương trợ kinh tế (gọi tắt theo tiếng Nga là SEV). Như vậy, trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa (SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự ra đời của hai khối quân sự lớn nhất toàn cầu do Mĩ và Liên Xô đứng đầu, đối địch nhau, đều chạy đua vũ trang, trang bị những vũ khí hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình, đã làm cho tình hình thế giới càng căng thẳng. Nhằm hỗ trợ cho khối NATO và tăng cường bao vây Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, Mĩ và các đồng minh của mình đã thành lập một loạt các khối quân sự và căn cứ quân sự khác rải rác trên thế giới. Ở Đông Bắc Á, tháng 9 năm 1951, Hiệp ước an ninh Mĩ – Nhật được kí kết; ở Nam Thái Bình Dương, khối ANZUS được thành lập (9 - 1951) gồm Mĩ, Ôxtrâylia, Niu Di lân; ở Đông Nam Á, khối SEATO bao gồm Mĩ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Di lân, Pakixtan, Thái Lan và Philippin được thiết lập vào tháng 9 – 1954; ở Trung Cận Đông khối CENTO (gọi tắt là khối Trung Tâm) gồm Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Irắc được thành lập năm 1955 (lúc đầu gọi là khối Batđa, nó dựa vào trên Hiệp ước Batđa kí ngày 24 – 2 – 1955, giữa Irắc – Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó các nước nói trên tham gia, khi cách mạng Irắc thành công (7 – 1958), Irắc rút khỏi khối Batđa, khối này chuyển trụ sở sang Ancara (năm 1959) và đổi tên thành khối CENTO. Những khối quân sự này cùng với trên 2000 căn cứ quân sự của Mĩ rải rác nhiều nơi trên thế giới hình thành thế bao vây; cô lập Liên Xô và và các nước xã hội chủ nghĩa. Tổ chức Hiệp ước Đông-Nam Á (tên tiếng Anh: Southeast Asia Treaty Organization, viết tắt là SEATO) là một liên minh của các quốc gia nhằm mục đích phòng thủ và hợp tác kinh tế ở Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương. Liên minh này được thành lập ngày 8 tháng 9 năm 1954, ít hơn 2 tháng sau khi các bên liên quan đã ký Hiệp định Genève kết thúc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất với việc tạm thời chia đôi Việt Nam tại Vĩ tuyến 17 và Pháp rút quân khỏi Đông Dương. Các nước thành lập SEATO có: Úc, Pháp, Anh, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan và Hoa Kỳ. Giống như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), liên minh SEATO được lập ra nhằm mục đích ngăn chặn sự lan ra của chủ nghĩa cộng sản, nhưng không giống như NATO hiệp ước của SEATO không ràng buộc các quốc gia thành viên giúp đỡ lẫn nhau chống lại một đe doạ quân sự. Dù SEATO phê chuẩn nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam và nhiều quốc gia thành viên SEATO gửi quân đến Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, bản thân SEATO lại không đóng vai trò trực tiếp trong cuộc chiến này. Pháp đã ngừng tham gia tích cực vào SEATO năm 1967, Pakistan chính thức rút khỏi tổ chức này năm 1972. Với việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam năm 1973 và phe cộng sản thắng lợi khắp Đông Dương năm 1975, SEATO đã trở thành một tổ chức lỗi thời. Với sự đồng thuận chung, liên minh này giải tán ngày 30 tháng 6 năm 1977. Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (viết tắt từ tiếng Anh: CENTO), tổ chức quân sự - chính trị ở vùng Trung Cận Đông. Ngày 25.2.1955, Thổ Nhĩ Kì và Irăc kí tại Batđa Hiệp ước thành lập Liên minh phòng thủ chung (Khối Batđa). Sau đó, một số nước khác lần lượt gia nhập: Anh (4.4.1955), Pakixtan (1.7.1955), Iran (12.10.1955). Hoa Kì lúc đầu chỉ là quan sát viên, sau là thành viên của Uỷ ban Quân sự (3.5.1957) và tài trợ hầu như toàn bộ cho hoạt động của Liên minh. Sau Cách mạng 1958, Irăc rút khỏi Khối Batđa (1959). Tổ chức này đã phải dời trụ sở đến Ankara (Thổ Nhĩ Kì) và lấy tên là TCHƯTT. Mục đích chính lúc đầu của tổ chức là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô, nối liền hai khối quân sự NATO và SEATO, nhưng sau đó tính chất kinh tế dần dần nổi lên. Do không bằng lòng về thái độ của các đồng minh phương Tây (Anh, Hoa Kì) trong các cuộc tranh chấp trong khu vực, các nước này lần lượt rút khỏi tổ chức (Pakixtan, 1967; Iran và Thổ Nhĩ Kì, 1979) và đặt quan hệ thân thiện với Liên Xô. Chính thức bị giải thể năm 1979. ANZUS: (The Australia, New Zealand, United States Security Treaty – Hiệp ước An ninh Thái Bình Dương),là hiệp ước an ninh giữa Ôxtrâylia, Niu Zilân và Hoa Kì, kí 1-9-1951, nêu ra nguyên tắc cơ bản: một cuộc tấn công vũ trang trong khu vực Thái Bình Dương chống bất cứ một thành viên nào kí kết hiệp ước này sẽ bị coi là nguy hiểm cho hoà bình và an toàn của tất cả các bên kí kết; do đó, mỗi nước bằng hành động riêng hoặc hành động tập thể phù hợp với quá trình hợp hiến của mình sẽ chống lại mối nguy hiểm đó. Cơ cấu tổ chức: cơ quan chủ yếu là Hội đồng ANZUS mà thành viên gồm bộ trưởng hoặc thứ trưởng ngoại giao của các nước thành viên. Các cơ quan khác: Uỷ ban Quốc phòng và nhóm Cố vấn Quân sự. Theo Hiệp ước, một số lực lượng vũ trang của Hoa Kì được đóng trên lãnh thổ của Ôxtrâylia và Niu Zilân. Năm 1984, Niu Zilân bác bỏ yêu cầu của Hoa Kì đòi các tàu chiến Hoa Kì có mang vũ khí hạt nhân được phép vào cảng của Niu Zilân. Năm 1985, Ôxtrâylia, Niu Zilân cùng 11 nước khác ở khu vực kí hiệp ước thiết lập một khu vực không có vũ khí hạt nhân tại Nam Thái Bình Dương. Từ tháng 7.1985, các cuộc họp của Hội đồng ANZUS được thay thế bằng các cuộc trao đổi tay đôi giữa Hoa Kì và Ôxtrâylia. Niu Zilân bị cắt tư cách thành viên của ANZUS (1986) và Hoa Kì ngừng mọi hình thức hợp tác quân sự với nước này. Hiện nay, trên thực tế, ANZUS là sự liên minh tay đôi giữa Ôxtrâylia với Hoa Kì, hoặc với Niu Zilân; phạm vi hoạt động không chỉ ở khu vực Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Mĩ còn đưa ra hàng chục vạn quân đóng ở nước ngoài. Những năm 1968 – 1969, Mĩ đưa 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài trong tổng số 3.499.000 quân thường trực của Mĩ, trong đó 60 vạn quân ở Đông Dương, 32 vạn quân ở châu Âu, 28 vạn ở Nhật Bản và nhiều đảo khác. Đáp lại, Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước Đông Âu (tập trung ở Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô – Trung. Mĩ có bom nguyên tử vào năm 1945, lập tức 4 năm sau, vào khoảng tháng 9 – 1949, Liên Xô cũng chế tạo thành công loại bom này, phá thế độc quyền bom nguyên tử của Mĩ. Đến năm 1957, khi Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo thành công thì cũng đạt được sự cân bằng về vũ khí chiến lược với Mĩ. Hai bên tiếp tục chạy đua vũ trang, thi nhau chế những vũ khí và trang thiết bị hiện đại. Cuộc chạy đua vũ trang lên tới đỉnh cao vào những năm 60 của thế kỷ XX. Hai bên Xô – Mỹ đã có một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ. Theo ước tính của những nhà quân sự thì chỉ cần phóng một nửa số kho vũ khí hạt nhân của Mĩ hoặc của Liên Xô, cũng đủ hủy diệt toàn bộ sự sống con người và nền văn minh nhân loại. Từ khi hình thành trật tự hai cực Ianta đến khi nó sụp đổ đã xảy ra trên thế giới xấp xỉ 100 cuộc chiến tranh cục bộ, trong đó có khoảng 10 cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất đã cho thấy tính chất “nóng” của cuộc Chiến tranh lạnh. Hai điểm nóng nhất trong số các cuộc chiến tranh đó đã diễn ra ở Đông Á và Trung Đông – những nơi có vị trí địa – chính trị, địa – chiến lược quan trọng hàng đầu trên thế giới mà không một cường quốc nào có thể bỏ qua trong chiến lược toàn cầu của mình. Ở Đông Á, cuộc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra những năm 1950-1953, cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam (1955-1975) chính là những ví dụ minh họa cụ thể và sinh động về sự đối đầu giữa hai phe, trong đó “Cuộc chiến tranh của nhân dân Đông Dương chống đế quốc là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất giữa hai phe”. Từ cuối thập niên 60-đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mĩ chuyển sang trạng thái hòa hoãn, hợp tác giải trừ quân bị. Động thái này có dấu hiệu từ năm 1969 khi cả hai siêu cường đều phải đối phó với rất nhiều khó khăn ( Mĩ đang sa lầy ở Việt Nam, muốn thoát khỏi tình trạng đó, nền kinh tế có những dấu hiệu sa sút; Liên Xô cũng có nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là vấn đề mối quan hệ giữa hai miền của nước Đức; tác động của cuộc xung đột biên giới Liên Xô – Trung Quốc (từ tháng 3 đến tháng 6 - 1969). Tình hình đó buộc Liên Xô phải chuyển sang hòa hoãn, tìm sự nhân nhượng của nhau. Tuy nhiên, sự hòa hoãn này bị chấm dứt khoảng cuối năm 1980, khi Rônan Rigân trúng cử Tổng thống Mỹ. Rigân lên cầm quyền trong bối cảnh tình hình thế giới có những sự kiện lớn và đang diễn ra bất lợi cho Mĩ: vừa thất bại trong cuộc chiến ở Việt Nam cách đó không lâu, đến năm 1979, Mỹ lại thất bại ở Iran và buộc phải rút ra khỏi nước này, mất đi một đồng minh chiến lược ở Trung Đông. Tình hình đó làm địa vị của Mỹ bị giảm sút trên thế giới. Về phía Liên Xô, nước này cũng đã đưa quân vào Apganixtan, hậu thuẫn cho Ba Lan để chính phủ nước này tuyên bố “tình trạng chiến tranh” nhằm trấn áp các thế lực đối lập ở Ba Lan vào cuối năm 1981. Trước tình hình đó, Rigân phản ứng quyết liệt bằng việc thực hiện chạy đua vũ trang mạnh mẽ nhằm phá thế cân bằng về chiến lược quân sự với Liên Xô, khôi phục lại vị trí đứng đầu về quân sự. Từ năm 1980 đến năm 1987 đã diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử giữa hai phe. Tổng thống Mỹ khi đó là Rigân có tham vọng muốn phá vỡ thế cân bằng về chiến lược quân sự giữa Liên Xô và Mỹ đã được xác lập từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Từ năm 1981 đến năm 1988, ngân sách quân sự của Mỹ đã tăng lên tới 2.400 tỷ đô la. Không chỉ có vậy, từ tháng 3 năm 1988, Tổng thống Rigân còn đề ra kế hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao” (SDI) với chi phí 26 tỷ đôla trong 5 năm. Trong bối cảnh đang có những khó khăn ngày càng lớn về kinh tế, song Liên Xô vẫn phải gắng sức để đối phó với cuộc chạy đua vũ trang của Mỹ. Năm 1974 Liên Xô phải chi tiêu tới 109 tỷ đô la cho quân sự (trong khi Mỹ chi 85 tỷ đô la). Cũng trong năm này, chỉ riêng Liên Xô và Mỹ cũng đã sở hữu 5000 máy bay chiến đấu các loại. Bảng so sánh dưới đây cho thấy rõ tiềm năng sử dụng vũ khí hạt nhân của hai siêu cường.
Bảng so sánh phương tiện phóng hạt nhân của Liên Xô và Mĩ
(vào những năm 70 của thế kỷ XX)
Mỹ Liên Xô
Tên lửa xuyên đại châu 1.054 1.575
Tên lửa tầm trung 600
Tên lửa đặt trên tàu ngầm 656 720
Máy bay ném bom tầm xa 437 140
Máy bay ném bom tầm trung 66 800
(Nguồn: Pôn Kennơđi, Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc, NXB. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, trang 61) Năm 1982, ngân sách quân sự của Mĩ chiếm 7,4% tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Tháng 11 – 1983, Rigân cho triển khai tên lửa tầm trung “Pershing” và “Cruise” ở Cộng hòa Liên bang Đức, Bỉ, Hà Lan và một số nước châu Âu khác hướng vào Liên Xô và Đông Âu. Ngày 23 tháng 3 năm 1983. Để chống lại các hành động của Liên Xô, Rigân tiến hành giải tỏa các điều luật của Quốc hội về hạn chế quyền chủ động của Tổng thống. Nhờ vậy, Tổng thống Mỹ hoàn toàn chủ động tiền hành các chiến dịch ở Grênađa (1983), ở Libi (1986) và cung cấp vũ khí cho quân nổi loạn ở Apganixtan. Ở vùng Trung Cận Đông, Rigân tiến hành một loạt những biện pháp để giữ vững vị trí của họ ở khu vực này: thiết lập một loạt căn cứ quân sự ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Ôman, thành lập “lực lượng phản ứng nhanh” (RDF) gồm 11 000 người…Để đối phó lại cuộc chạy đua vũ trang của Mĩ, Liên Xô cũng buộc phải tăng ngân sách quân sự lên tới 15% tổng sản phẩm quốc dân. Liên Xô cũng triển khai các tên lửa tầm trung SS4, SS5 và đặc biệt là SS20 ở các nước Đông Âu và ở lãnh thổ châu Á của mình. Bảng so sánh lực lượng quân sự giữa 2 khối (vào những năm 70 của thế kỷ XX) (Theo Tập san Quốc phòng toàn dân, số tháng 3 năm 1991, tr 89)
Khối Vacsava Khối NATO
1. Vũ khí thông thường Quân số 5.373.100 3.660.200
Xe tăng 59.470 30.690
Máy bay chiến đấu 7.876 7.130
Tàu ngầm 228 200
Tàu chiến các loại 102 499
2. Vũ khí chiến lược Tên lửa chiến lược ICBM (loại đặt trên bệ phóng mặt đất) 1.398 1.018
Tên lửa chiến lược SLBM (loại đặt trên tàu ngầm) 922 672
Máy bay chiến lược 160 518
Tàu ngầm chiến lược 62 30
2. Chiến lược Quốc phòng của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh Nửa cuối thế kỷ 20, quân đội Mỹ tập trung nỗ lực vào Liên Xô và khối Vácsava. Phát triển lực lượng, bố trí các đơn vị và đầu tư cho các hệ thống vũ khí đều dựa trên cơ sở đánh giá mối đe dọa từ Liên Xô. Liên Xô đầu tư rất lớn cho lực lượng vũ trang và đạt được các công nghệ hiện đại cả trên vũ trụ, trên không, trên biển và trên bộ, như đưa vệ tinh nhân tạo Sputnik lên quỹ đạo trái đất tháng 10/1957. Thật may mắn, mặc dù một số nỗ lực tình báo cho phép Liên Xô thu thập công nghệ của Mỹ và hầu hết các hệ thống vũ khí của họ được phát triển trong nước, nhưng tiến trình triển khai, phát triển và quy trình của Liên Xô mất thời gian khá dài, từ đó tạo cơ hội cho Mỹ và phương Tây nỗ lực hiện đại hóa quân đội. Các đánh giá chính xác mối đe dọa trở thành cơ sở cho quân đội Mỹ hoạch định tác chiến và tăng ngân sách. Ngành công nghiệp và các cơ sở nghiên cứu của Chính phủ Mỹ phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì ưu thế về số lượng vũ khí, một phần do tiến trình triển khai và phát triển vũ khí của Liên Xô khá chậm. Nhờ nỗ lực ngân sách và phát triển công nghệ, Mỹ dần dần xóa bỏ khoảng cách công nghệ với Liên Xô. Mỹ cũng tin tưởng và nắm chắc các mối đe dọa có thể xuất hiện ở đâu. Sự ra đời của Tổ chức Hiệp ước Vácsava, bố trí lực lượng của tổ chức quân sự này và lịch sử đặc điểm địa lý quân sự giúp Mỹ đánh giá chính xác những nơi có khả năng xảy ra xung đột. Trên cơ sở xác định các vị trí đó, Mỹ và NATO triển khai lực lượng và các căn cứ quan trọng ở châu Âu cũng như nhiều nơi khác xung quanh "Lá chắn Thép" nhằm đối phó với những hành động thù địch của Liên Xô và khối Vácsava. Mỹ coi Liên Xô là mối đe dọa bởi Liên Xô có lực lượng quân sự hùng mạnh, được trang bị các loại vũ khí hạt nhân nhằm phá hủy “thế giới tự do” nhiều lần, và dưới sự kiểm soát của giới lãnh đạo độc quyền có ý đồ đánh bại phương Tây. Chiến lược của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh đã giúp lực lượng Mỹ và NATO ngăn chặn cuộc tấn công của Khối Vácsava. Cuối cùng, công nghệ Mỹ, cộng với sự ủng hộ mạnh mẽ sáng kiến “Phòng thủ Chiến lược” của Tổng thống Ronald Reagan đã khuất phục Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev ngừng tiếp tục Chiến tranh Lạnh. Gorbachev tuyên bố trước Bộ Chính trị rằng Liên Xô có nguy cơ "bị lôi kéo vào một cuộc chạy đua vũ trang vượt quá khả năng của mình". Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, bán đảo Bancang trở thành một trong những tâm điểm đối đầu giữa khối Hiệp ước Vacsava và NATO, đặc biệt là việc tranh giành ảnh hưởng đối với Nam Tư và Albania. 3. Vấn đề hạn chế vũ khí chiến lược Vấn đề hạn chế vũ khí chiến lược là vấn đề được cả thế giới quan tâm, cũng là một trong những vấn đề trung tâm trong quan hệ Xô – Mĩ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới bước sang một cuộc chiến mới, "Chiến tranh lạnh" thực chất nó là cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc quân sự Liên Xô - Mỹ. Người ta tìm mọi cách, mọi hình thức để uy hiếp lẫn nhau, nghiên cứu và chế tạo các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Khi nghe tin Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, nước Mỹ sống trong tâm trạng sợ hãi, người ta sợ "ưu thế” vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Năm 1953, Liên Xô cho nổ "quả bom khinh khí" đầu tiên càng làm cho tâm lý sợ hãi nhanh chóng tăng lên. Ít lâu sau, nước Mỹ lại được tin Liên Xô đang tập trung nghiên cứu đẩy mạnh tầm bắn của tên lửa để có thể trực tiếp tấn công vào lãnh thổ nước Mỹ. Để tăng thêm tâm lý "sợ Liên Xô" của dân chúng Mỹ, Liên Xô còn cố tình sử dụng một số biện pháp đánh lừa. Chẳng hạn, trong lễ duyệt binh lớn tổ chức ở Hồng Trường, họ cố ý ghi trên vỏ tên lửa số 19 và số 21, quan chức phương Tây thấy thế liền cho rằng tại một nơi nào đó chắc còn đang cất giấu tên lửa số 20. Kỳ thực hoàn toàn không có chuyện đó. Chính phủ Mỹ khổ nỗi không có biện pháp nào tốt hơn để kiểm tra tình hình thực tế. Do chính sách chạy đua vũ trang của Mĩ và các đồng minh của Mĩ, nhân loại đang đứng trước nguy cơ bùng nổ chiến tranh cực kỳ nguy hiểm, trong đó vũ khí hạt nhân trở thành một hiểm họa hủy diệt loải người. Đến thời điểm này, không chỉ Mĩ và Liên Xo6co1 vũ khí hạt nhân, mà còn một số nước khác cũng có vũ khí hạt nhân. Theo tính toán, chỉ cần một nửa số lượng vũ khí hạt nhân đang được tàng trữ trong các kho vũ khí của Mĩ hoặc Liên Xô cũng đủ sức để hủy diệt toàn bộ cuộc sống của con người. Chính vì thế, cuộc đấu tranh nhằm hạn chế, ngăn chặn chạy đua vũ trang hạt nhân, tiến tới giảm và loại trừ vũ khí hạt nhân, đặc biệt là vũ khí hạt nhân chiến lược, đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu của toàn thể nhân loại. Do so sánh lực lượng trên thế giới đã thay đổi căn bản khác trước, dưới áp lực đấu tranh của Liên Xô cùng các lực lượng cách mạng và hòa bình trên toàn thế giới, Mĩ đã buộc phải ký kết với Liên Xô một số hiệp định thỏa thuận về hạn chế vũ khí chiến lược. Việc Liên Xô và Mỹ đạt được thỏa thuận nhằm hạn chế vũ khí chiến lược có thể coi là một biểu hiện khác của sự hòa hoãn Đông - Tây. Sau 7 vòng đàm phán, ngày 26 tháng 5 năm 1972, Liên Xô và Mỹ đã kí kết “Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa” (gọi là ABM), quy định mỗi bên được xây dựng hai hệ thống ABM, một ở chung quanh thủ đô, một ở chung quanh căn cứ tên lửa chiến lược, mỗi hệ thống có 100 tên lửa chống tên lửa. Ngày 3 tháng 7 năm 1774, Liên Xô và Mỹ đã ký tiếp Nghị định thư bổ sung Hiệp ước ABM, quy định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống ABM. Điều quan trọng là Hiệp ước ABM có giá trị vô thời hạn. Cũng trong ngày 3 tháng 7 năm 1974, hai siêu cường đứng đầu hai cực Đông, Tây còn ký “Hiệp định tạm thời về một số biện pháp trong lĩnh vực hạn chế vũ khí tiến công chiến lược” và quy định mức độ duy trì vũ khí chiến lược của mỗi bên (tên lửa vượt đại châu, tàu ngầm hạt nhân, máy bay ném bom chiến lược, gọi tắt là SALT-1). SALT – 1 có những nội dung chính sau: - Cấm xây dựng thêm những tên lửa vượt đại châu đặt trên đất liền (gọi tắt là TCBM) sau ngày 1-7-1972. - Cầm thay thế những ICBM loại nhẹ, triển khai trước năm 1964 thành những ICBM loại nặng. - Duy trì mức vũ khí chiến lược của mỗi bên như sau:
Liên Xô
Tên lửa vượt đại châu đặt trên đất liền (ICBM) 1408 - 1618 1000 – 1054
Tàu ngầm hạt nhân 62 44
Tên lửa vượt đại châu đặt trên tàu ngầm (SLBM) 950 710
Hiệp định SALT -1 có giá trị hết ngày 3-10-1977, nhưng đến cuối tháng 9-1977, hai bên tuyên bố tiếp tục thi hành các điều khoản của Hiệp định. Từ năm 1973, giữa Liên Xô và Mĩ lại thương lượng để chuẩn bị kí kết hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược” (gọi tắt là SALT -2). Qua nhiều lần thương lượng, hai bên đã kí kết những văn bản thỏa thuận, như văn kiện “những nguyên tắc cơ bản về việc hạn chế hơn nữa vũ khí chiến lược tấn công” (21-6-1973), thỏa thuận Vơ la đi vô x tốc” (24-1-1974) Trong những năm 1974 -1979, sau nhiều lần đàm phán và gặp gỡ ở cấp nguyên thủ, Liên Xô và Mỹ đã kí kết Hiệp ước hạn chế vũ khí hạt nhân có tính chất tấn công (Strategic Arms Limitation Talks - I, gọi tắt là SALT-1). Nghị định bổ sung Hiệp ước ABM, quy định mỗi bên chỉ triển khai một hệ thống phòng, chống tên lửa (7 – 1974), Hiệp ước SALT-II (6 – 1979) quy định giới hạn tổng số vũ khí chiến lược tấn công và phương tiện phóng vũ khí hạt nhân của mỗi bên. Năm 1982, Mỹ còn đàm phán với Liên Xô về cắt giảm tên lửa tầm trung (INF). Có thể thấy, việc hàng loạt các hiệp ước liên quan đến vũ khí chiến lược được kí kết đã giúp cho cuộc chạy đua vũ trang căng thẳng giữa hai cực Xô – Mĩ có xu hướng giảm dần, cho thấy thế cân bằng chiến lược quân sự chung giữa Liên Xô và Mỹ được xác lập trên phạm vi thế giới. Thực tế này góp phần làm giảm nguy cơ một cuộc chiến tranh hủy diệt không có người chiến thắng và kẻ chiến bại, củng cố nền hòa bình, an ninh của các dân tộc. Như thế, với việc kí các hiệp định hạn chế vũ khí chiến lược ABM, SALT- 1, từ những năm 70 đã hình thành một thế cân bằng chiến lược quân sự chung giữa Liên Xô và Mĩ trên phạm vi thế giới, cũng như hình thành thế cân bằng vũ khí hạt nhân chiến lược giữa Liên Xô và Mĩ về chất lượng cũng như số lượng. Kết quả này góp phần làm hòa hoãn tình hình thế giới và có tác dụng củng cố hòa bình, an ninh của tất cả các dân tộc. Tuy vậy, sau khi Rigân lên làm Tổng thống Mỹ, Rigân và các thế lực phản động lại tìm cách phá vỡ thế cân bằng chiến lược đã được thiết lập, ra sức tái khởi động cuộc chạy đua vũ trang. Tháng 3 năm 1983, Rigân đã đề ra kế hoạch “cuộc chiến tranh giữa các vì sao” nhằm xây dựng hệ thống tên lửa nhiều tầng, từ 200 km đến 1000 km trong không gian nhằm vô hiệu hóa tên lửa tấn công, tạo ra một thách thức đối với Liên Xô. Đáp lại, Liên Xô buộc phải tăng ngân sách quân sự lên tới 25% tổng sản phẩm quốc nội (GNP), triển khai hệ thống tên lửa tầm trung ở Đông Âu và khu vực châu Á thuộc lãnh thổ Liên Xô. Do khó khăn về kinh tế của cả hai siêu cường nên quá trình cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược vẫn không bị bỏ rơi hoàn toàn. Nhờ vậy, ngày 13 tháng 7 năm 1991, Liên Xô và Mỹ đã ký “Hiệp ước nhằm hạn chế và giảm bớt vũ khí chiến lược” (Hiệp ước START-1), theo đó 30% kho vũ khí hạt nhân sẽ được phá hủy từ thời điểm đó đến năm 1998 và triệt phá hoàn toàn những đầu đạn có nhiều đầu đạn hạt nhân có căn cứ trên mặt đất. Đến năm 1993, Liên Xô và Mỹ lại đạt được thỏa thuận cắt thêm kho vũ khí chiến lược với việc ký Hiệp ước START-2, trong đó quy định trong vòng 10 năm loại bỏ 2/3 đầu đạn hạt nhân chiến lược, giảm từ 10.000 xuống còn 3000-5000. Tuy còn bất đồng, nhưng hai nước đã từng bước nhượng bộ nhau, không làm cho tình hình căng thẳng hơn và đi đến kết thúc tình trạng đối đầu, gây tổn thất cho cả hai bên. Con số thống kê 19 cuộc gặp cấp cao giữa Liên Xô và Mỹ trong những năm 1972-1996 đã cho thấy thiện chí và nỗ lực giảm căng thẳng của từng siêu cường đứng đầu mỗi cực. Từ cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 của thê kỷ XX, mối quan hệ giữa các nước TBCN Tây Âu và Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu cũng dần được cải thiện, cho thấy xu thế hòa hoãn giữa hai cực. Ngày 19 tháng 3 năm 1970, tại Erfurt (Đông Đức) đã diễn ra cuộc gặp lịch sử giữa Thủ tướng Tây Đức Brandt và người đứng đầu chính phủ Đông Đức Willy Stoph, mở ra một chương mới giữa hai quốc gia láng giềng vốn cùng chung một mái nhà quê hương sau hơn hai thập kỷ đối đầu. Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức Brandt đã nhận được sự chào đón nồng ấm của nhân dân Cộng hòa Dân chủ Đức. Cuộc gặp gỡ thứ hai giữa các nhà lãnh đạo hai nước Đức đã diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 1970 tại Cassel (Tây Đức). Nhờ những cuộc tiếp xúc này mà một số hiệp định đã được ký kết, đưa lại sự cải thiện trong quan hệ giữa các nước Tây Âu với Liên Xô và các nước Đông Âu. Cụ thể, ngày 12 tháng 8 năm 1970, một Hiệp định Liên Xô – Cộng hòa Liên bang Đức được ký tại Matxcơva, trong đó hai bên khẳng định mục tiêu quan trọng hàng đầu là hòa bình và thừa nhận tính bất khả xâm phạm của các đường biên giới đang tồn tại ở châu Âu, bao gộp cả đường Oder-Neisse, duy trì các quyền của bốn cường quốc đang chiếm đóng Beclin.Tiếp đó, vào tháng 11 năm 1970, tại Vacxava, một hiệp định đã được ký giữa Tây Đức và Ba Lan, trong đó tái khẳng định tính bất khả xâm phạm của đường biên giới Oder-Neisse. Sau một thời gian dài thương lượng, cuối cùng một bằng chứng quan trọng khác của sự hòa hoãn Đông - Tây, sự tháo ngòi cho các cuộc xung đột có thể xảy ra ở châu Âu, cũng đã diễn ra đó là cuộc gặp gỡ của Bộ trưởng Ngoại giao các quốc gia châu Âu tại thủ đô Helsinki của Phần Lan trong các ngày 3-7 tháng 7 năm 1975. Những người đứng đầu ngành Ngoại giao của các nước châu Âu đã thành lập 3 ủy ban, trong đó có một ủy ban đảm trách về tự do và các quyền của con người. Cuộc gặp mặt trên là bước đi dọn đường cho cuộc gặp thượng đỉnh của nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ các nước châu Âu tại Helsinki vào cuối tháng 7 năm 1975. Văn kiện cuối cùng (thường được biết đến với tên gọi là Định ước Helsinki) được kí ngày 1 tháng 8 năm 1975 bởi nguyên thủ của Mỹ và 25 quốc gia châu Âu ở cả 2 khối liên minh, các nước trung lập, thậm chí cả các nước nhỏ bé (San Marino, Leichtenstein, Monaco, Vatincan), trong đó đáng chú ý nhất là sự hiện diện của người đứng đầu của Mỹ (Gerald Ford), Liên Xô (Leonid Brejnev) và Pháp (Valéry Giscard d’Estaing). Định ước Helsinki đề cập đến nhiều nội dung quan trọng như: sự bình đẳng giữa các quốc gia, việc loại trừ sự đe dọa hay sử dụng vũ lực trong quan hệ, tính bất khả xâm phạm của các tuyến đường biên giới, sự không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; tăng cường phối hợp kinh tế, khoa học, kỹ thuật, trao đổi thông tin về các số liệu thống kê; tuân thủ quyền tự do và các quyền cơ bản của con người. Có thể khẳng định rằng, Định ước Helsinki năm 1975 đã có một tầm quan trọng đặc biệt trong quan hệ quốc tế ở châu Âu khi đó. Văn kiện này đã chấm dứt sự đối đầu gay gắt giữa hai nhóm nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, tạo lập một cơ chế nhằm duy trì sự ổn định, an ninh, cũng như tìm kiếm các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới, chung sống hòa bình giữa Đông và Tây. Định ước Helsinki còn có một ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ quốc tế thế giới, bởi lẽ, châu Âu là nơi bùng nổ hai cuộc chiến tranh thế giới, là nơi diễn ra cuộc chạy đua vũ trang lớn nhất trong lịch sử và cũng là trung tâm của cuộc chiến tranh lạnh đối đầu giữa hai cực Xô – Mỹ, giữa hai khối Đông – Tây. Một chương mới đã được mở ra trong quan hệ quốc tế ở châu Âu và thế giới. Rõ ràng, một châu Âu hòa bình, hợp tác và ổn định sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới xu thế hòa bình và hợp tác trên toàn thế giới. Cùng với quá trình hòa hoãn Đông – Tây là quá trình tiến tới chấm dứt chiến tranh lạnh. Quá trình này được xúc tiến mạnh mẽ thông qua sự chấm dứt đối đầu và bình thường hóa quan hệ giữa các cường quốc: Mỹ - Trung và Xô – Mỹ. Sự kiện Tổng thống Mỹ R. Nixon thăm chính thức Trung Quốc năm 1972 và ký “Thông cáo Thượng Hải” đã mở đường cho thỏa thuận thiết lập quan hệ ngoại giao và chấm dứt sự đối đầu giữa hai nước bắt đầu từ năm 1949. Cũng trong năm 1972, Tổng thống Mỹ R. Nixon còn thăm Liên Xô, ký văn kiện “Cơ sở quan hệ Xô – Mỹ” và một số văn kiện khác. Mùa hè năm 1973, quan hệ Xô – Mỹ được sưởi ấm bằng chuyến thăm đáp lễ Mỹ của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L. Brejnev. Cuối cùng, vào tháng 12 năm 1989, tại cuộc gặp gỡ không chính thức tại đảo Malta, người đứng đầu Liên Xô và Mỹ đã cùng nhau tuyên bố chấm dứt tình trạng cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài suốt từ năm 1947 đến năm 1989. Tuyên bố này đã củng cố thêm xu thế hòa hoãn trên thế giới và mở ra chiều hướng giải quyết các cuộc tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giớivào thời điểm đó. V, Xu hướng hòa hoãn Đông-Tây và sự chấm dứt Chiến tranh lạnh Sau hơn hai thập niên chạy đua vũ trang đầy tốn kém và hao tổn nhiều sức lực, đặc biệt trong bối cảnh lực lượng so sánh trên thế giới đã có những thay đổi căn bản khác trước, từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, đã xuất hiện xu hướng hòa hoãn Đông – Tây, biểu hiện qua những cuộc thương lượng giữa Liên Xô và Mỹ. Trước tiên phải kể đến xu hướng hòa dịu trong quan hệ giữa hai miền của nước Đức. Trên cơ sở những nguyên tắc đã được thỏa thuận giữa hai siêu cường, vào tháng 11 năm 1972, Cộng hòa Dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức đã kí kết tại Bon “Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức”. Theo đó, hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình thường với nhau trên cơ sở bình đẳng; hai nước sẽ giải quyết các vấn đề tranh chấp hoàn toàn bằng biện pháp hòa bình và sẽ tự kiềm chế việc đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực. Như vậy, sau nhiều năm căng thẳng, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức và các nước phương Tây khác đã phải thừa nhận trên pháp lý sự tồn tại như một thực thể chính trị của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức, thừa nhận đường biên giới và sự toàn vẹn lãnh thổ của Cộng hòa Dân chủ Đức. Nhờ vậy, tình hình châu Âu đã không còn ngột ngạt như giai đoạn trước đó.Việc giải quyết vấn đề Đức là một biểu hiện cho xu thế hòa dịu trong quan hệ Đông – Tây. 1.1 Những nguyên nhân chấm dứt Chiến tranh lạnh Thứ nhất, cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập kỷ và “bao” về chi tiêu quân sự hầu khắp thế giới (trong thời gian chiến tranh lạnh, hai nước Xô – Mỹ đã gánh chịu từ 50% đến 55% chi tiêu quân sự toàn cầu) làm cho hai nước Xô – Mỹ quá tốn kém và suy giảm “thế mạnh” của họ về nhiều mặt so với các cường quốc khác. Thứ hai, hai nước Mỹ và Liên Xô đều đứng trước những khó khăn và thách thức rất to lớn trong một thế giới mà mọi chuyển biến diễn ra hết sức mau lẹ, bất lợi cho hai nước này: Hai nước Tây Đức và Nhật, vốn là những nước phát xít chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, từ đống đổ nát của chiến tranh, nay họ vươn lên mạnh mẽ, trở thành đối thủ cạnh tranh đáng lo ngại. Châu Âu đã liên minh với nhau thành “Khối thị trường chung châu Âu” (EEC) và ngày càng trở nên mạnh. Tất cả đều thoát khỏi sự kiềm chế của Mĩ và cạnh tranh với Mỹ và vượt Liên Xô về kinh tế. Thứ ba, cuộc “chiến tranh kinh tế” mang tính toàn cầu mà cả thế giới đang ra sức chạy đua. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra sôi nổi mà tất cả các nước muốn vươn lên thì đều phải để tâm và tận dụng những thành tựu của nó. Tình hình nêu trên đặt ra cho hai nước Liên Xô và Mỹ muốn lấy lại vị trí của mình như trước đây, muốn vươn lên đuổi kịp và vượt các nước khác thì cần phải thoát ra khỏi thế đối đầu và cục diện ổn định. Ngoài ra, những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trước nhân loại, trước hai nước Xô – Mỹ, nhân dân Mỹ và Liên Xô cùng nhân dân thế giới đòi hỏi phải có sự hợp tác chung để giải quyết, như vấn đề môi trường, môi sinh, bảo vệ trái đất – ngôi nhà chung của loài người; chấm dứt các cuộc xung đột khu vực…Nếu tiếp tục đối đầu thì giải quyết những vấn đề chung này rơi vào bế tắc. Sự sụp đổ của Liên Xô và sự tan rã của “Trật tự hai cực” Năm 1973, cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng đã nổ ra, tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia trên thế giới, đưa tới sự khủng hoảng toàn diện trên nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, tài chính đến chính trị, xã hội. Từ khủng hoảng, nhiều vấn đề bức thiết được đặt ra cho mỗi quốc gia như: làm thế nào để theo kịp sự phát triển chóng mặt của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật; hội nhập như thế nào vào thị trường quốc tế ngày càng liên kết chặt chẽ; cần phải đối phó thế nào với nạn bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường… Trong bối cảnh đầy khó khăn và thách thức đó, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô lại vẫn cho rằng “quan hệ sản xuất XHCN là ưu việt, không chịu sự tác động chung của cuộc khủng hoảng trên thế giới, hơn nữa các nguồn tài nguyên và nhiên liệu của đất nước Xô viết như quá dồi dào, do đó họ chậm trễ thích ứng và không đổi mới”. Hệ quả là, khi những điều kiện phát triển đã đổi thay, mô hình của chủ nghĩa xã hội và những cơ chế của nó về kinh tế, chính trị, xã hội với nhiều khiếm khuyết, hạn chế, tích tụ trong một thời gian dài, đã bộc lộ ngày càng rõ nét sự không phù hợp, trở thành những rào cản kìm h.ãm sự phát triển mọi mặt của đất nước Xô viết. Cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ, thiếu công bằng và vi phạm nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm nảy sinh nhiều tệ nạn. Kết quả là Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu ngày càng lún sâu vào khủng hoảng. Trong nền kinh tế, tình trạng tăng trưởng âm kéo dài, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của xã hội, sự tụt hậu về trình độ khoa học công nghệ của Liên Xô và các nước Đông Âu so với phương Tây thể hiện sự yếu kém về năng lực sản xuất của CNXH so với CNTB. Tình trạng nợ nước ngoài gia tăng, sự mất cân đối trong cơ cấu nền kinh tế đã khiến cho lạm phát trong nước gia tăng, tác động sấu đến đời sống của tất cả các tầng lớp nhân dân. Để có thể khắc phục được tình trạng tồi tệ trên, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nước Liên Xô đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế theo chiều sâu, coi trọng vị trí của tiến bộ khoa học kỹ thuật và mở rộng các quan hệ đối ngoại. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện thì rất thấp, không theo ý muốn. Tháng 3 năm 1985, M. Goócbachốp được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Dưới sự lãnh đạo của M. Goócbachốp, Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô (diễn ra tháng 2 năm 1986) đã đề ra công cuộc cải tổ, được triển khai rộng khắp đất nước. Theo như tuyên bố của các nhà lãnh đạo Liên Xô, công cuộc cải tổ chính là một quá trình cách mạng nhằm đổi mới mọi mặt của đời sống xã hội Xô viết, sửa chữa những sai lầm thiếu sót trước đây, đưa Liên Xô thoát khỏi tình trạng trì trệ khủng hoảng và xây dựng CNXH theo đúng bản chất và ý nghĩa đích thực của nó, đồng thời mang tính hình thức hiện đại nhất phù hợp với những điều kiện và nhu cầu của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang diễn ra. Để đạt được những mục tiêu đó, công cuộc cải tổ được chủ trương tiến hành trên các mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Công cuộc cải tổ từ khi khởi xướng đã được đông đảo nhân dân Xô viết chào đón và ủng hộ, hi vọng, chờ đợi. Tuy nhiên, sau gần 6 năm cải tổ, do ban lãnh đạo Liên Xô không lường hết được tính chất nặng nề và phức tạp của những khuyết tật, sai lầm vốn tồn đọng quá lâu. Bên cạnh đó, sự thiếu chuẩn bị và những sai lầm mắc phải trong quá trình thực hiện đã khiến cho cải tổ càng thực hiện lại càng bế tắc, gặp muôn vàn khó khăn, trượt xa mục tiêu XHCN. Hậu quả là, Liên Xô ngày một lún sâu vào khủng hoảng toàn diện. Sự suy sụp về kinh tế làm nảy sinh những rối ren về chính trị, gia tăng mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc anh em, đưa đến hiện tượng ly khai của một số nước cộng hòa ra khỏi Liên bang Xô viết (ba nước vùng Baltic, Mônđôva…). Trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, sự chia sẽ và bè phái xuất hiện, ngày thêm sâu sắc, tạo cơ hội thuận lợi cho sự ra đời của một loạt đảng phái chính trị phi Cộng sản với nhiều xu hướng chính trị, xã hội khác nhau, các thế lực chống CNXH có điều kiện ngóc đầu dậy. Những năm 1989 - 1990 là giai đoạn đen tối trong lịch sử tồn tại của Liên Xô, với sự diễn biến phức tạp về kinh tế, chính trị và xã hội. Tổng sản phẩm quốc dân giảm 4-5%, thâm hụt mậu dịch lên tới 5 tỉ đô la Mỹ, nợ nước ngoài là 58 tỉ đô la. Đỉnh cao của cuộc khủng hoảng, suy sụp rồi tan rã của Liên Xô chính là sự kiện bùng nổ cuộc đảo chính do một số người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô tiến hành ngày 19 tháng 8 năm 1991. Tuy cuộc đảo chính bị thất bại, song nó đã gây ra những hậu quả rất tai hại, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại của Đảng Cộng sản Liên Xô, tới Nhà nước Xô viết và công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô. Ngay sau khi quay trở lại cầm quyền, Goócbachốp đã tuyên bố từ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô và yêu cầu giải tán Ủy ban Trung ương Đảng (24-8); Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động (29-8); chính quyền Xô viết trong toàn liên bang bị giải thể; nhiều nước cộng hòa tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên Xô; một làn sóng chống Đảng Cộng sản, chống CNXH bùng lên mạnh mẽ ở khắp nơi. Cuối cùng, sau lời tuyên bố từ chức Tổng thống Liên Xô của M. Goócbachốp tối ngày 25 tháng 12 năm 1991, lá cờ búa liềm trên nóc tròn điện Kremlin đã được hạn xuống, chính thức đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan vỡ của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết sau 74 năm tồn tại. Có thể nói rằng, sự tan rã của Liên bang Xô viết - hai năm sau khi Bức tường Béclin sụp đổ (1989)- là “thảm họa địa chính trị lớn nhất” trong thế kỉ XX. Nó gây ra một cú sốc trên quy mô toàn cầu. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ đã dẫn tới hệ thống chủ nghĩa xã hội ở trên thế giới thực tế là không còn tồn tại nữa. Đây là một bước tụt lùi và là một thất bại nặng nề của hệ thống chủ nghĩa xã hội, nhưng lịch sử đã chứng minh rằng đây chỉ là bước thụt lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ trở thành tương lai của xã hội loài ngư. Như vậy, với sự sụp đổ và biến mất trên bản đồ chính trị thế giới của Liên Xô - một cực trong trật tự hai cực Ianta, đồng nghĩa với việc trật tự thế giới được hình thành từ sau năm 1945 đã không còn, một trật tự thế giới mới sẽ hình thành. Sự biến chuyển nhanh chóng của tình hình các nước Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1989 - 1991, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở khu vực này sụp đổ. Cùng với nó là sự giải thể Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV, 28 – 6 – 1991) và Tổ chức Hiệp ước Vacsava (1 – 7 – 1991) - những tổ chức lớn của khối xã hội chủ nghĩa, tồn tại trong thời kì chiến tranh lạnh, đối lập với các tổ chức của khối tư bản chủ nghĩa. Những sự kiện trên đây đã làm cho trật tự hai cực Ianta sụp đổ. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực không còn nữa. Mỹ là cực duy nhất còn tồn tại, nuôi tham vọng thiết lập một thế giới đơn cực hòng thống trị thế giới. Thế giới bước vào một thời kì mới với các xu thế mới đang vận động. 1.2 Ảnh hưởng của việc giải thể tổ chức hiệp ước Vacxava Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Hội nghị Ianta mở ra một trật tự thế giới mới - “ Trật tự hai cực Ianta” thực chất “hai cực” ở đây là chỉ Mỹ và Liên Xô phân chia nhau phạm vi thế lực trên cơ sở thoả thụân của hội nghị Ianta. Sau hội nghị Ianta mối quan hệ Xô- Trung là mối quan hệ cơ bản nhất, có ảnh hưởng lớn nhất trong quan hệ quốc tế. Nhằm tiêu diệt Liên Xô và các nước Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Mỹ đã tiến hành “chiến tranh lạnh” chống Liên Xô. Cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mỹ diễn ra ngày càng quyết liệt. Chính sự căng thẳng trong quan hệ Xô- Mỹ đã làm cho tình hình thế giới ngày càng căng thẳng và phức tạp. Sau nhiều cuộc chạy đua vũ trang và xung đột quân sự giữa hai khối quân sự đối trọng NATO và Vacxava, cuối cùng, ngày 8-12-1991, các Tổng thống ba nước Nga, Ucraina, Bêlarút ra tuyên bố chung: Liên bang Xô viết không còn tồn tại nữa và quyết định thành lập một hình thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG. Tám nước Udơbêkiktan, Cadắcxtan, Adécbaigian, Ácmênia, Mônđôva, Tátgíttan, Cưrơgưxtan, Tuốcmênixtan tuyên bố tham gia SNG. Ngày 21 tháng 12 năm 1991, tại thủ đô Anma Ata (Cadắxatn), 11 nước cộng hòa kí kết Hiệp định về giải tán Liên bang Xô viết và chính thức thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Trong buổi tối giá lạnh 25-12-1991, sau lời tuyên bố từ chức Tổng thống Liên Xô của M. Goócbachốp, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc tròn điện Cremli đã hạ xuống, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan vỡ của Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết sau 74 năm tồn tại. Có thể nói rằng, sự tan rã của Liên bang Xô viết - hai năm sau khi Bức tường Béclin sụp đổ (1989)- là “thảm họa địa chính trị lớn nhất” trong thế kỉ XX. Nó gây ra một cú sốc trên quy mô toàn cầu. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ đã dẫn tới hệ thống chủ nghĩa xã hội ở trên thế giới thực tế là không còn tồn tại nữa. Đây là một bước tụt lùi và là một thất bại nặng nề của hệ thống chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong những năm 1989-1991 đã gây nên những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là một tổn thất chưa từng có trong lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại nữa. Từ những đổ vỡ ấy, nhiều bài học kinh nghiệm đau xót được rút ra cho các nước xã hội chủ nghĩa ngày nay đang tiến hành công cuộc cải cách - đổi mới, nhằm xây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa đúng với bản chất nhân văn vì giải phóng và hạnh phúc con người, phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ ở các nước Đông Âu và trước những biến đổi của tình hình thế giới mới, sự tồn tại của Hội đồng tương trợ kinh tế – tổ chức hợp tác quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa – không còn thích hợp nữa. Do đó, ngày 28-6-1991, tại khóa họp 45 của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ở Bu đa pét, đại diện các nước thành viên đã ký nghị định thư quyết định chấm dứt goạt động của tổ chức này sau hơn 40 năm tồn tại. Các nước thành viên đều nhất trí sau khi giải thể sẽ tiếp tục phát triển hợp tác trên cơ sở tay đôi. Cũng trong bối cảnh đó, nhất là sau cuộc gặp tại Manta vào cuối năm 1989 giửa tổng thống Mĩ Busơ và Tổng thống Liên Xô Goócbachốp, tình trạng “Chiến tranh lạnh” đước coi như đã chấm dứt trên thế giới, do đó sự tồn tại của Tổ chức Hiệp ước Vác xa va, liên minh chính trị – quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa không còn thích hợp nữa. Tại Praha, ngày 1-7-1991, Hội nghị lãnh đạo các nước thành viên Hiệp ước Vacxava đã chính thức tuyên bố quyết định giải thể tổ chức này sau 36 năm tồn tại. Như thế, những tổ chức quốc tế quan trọng nhất của cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại. Mặc dầu có những hạn chế và thiếu sót trong quá trình hoạt động, hai tổ chức SEV và Vacxava đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc củng cố tình hữu nghị, bảo vệ và phát triển quan hệ hợp tác giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một tổn thất nặng nề. Nhưng đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội khoa học, là một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội – như V.I Lê nin đã nói: “Nếu người ta nhận xét thực chất của vấn đề, thì có bao giờ người ta thấy rằng trong lịch sử có một phương thức sản xuất mới nào lại đứng vững ngay được, mà lại không liên tiếp trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm và tái phạm không ?(theo V. I. Lê nin, Toàn tập – Sáng kiến vĩ đại, tập 29). Sau chiến tranh lạnh, tình hình Đông Âu biến đổi mạnh mẽ, khối Vacxava và Liên Xô giải thể, theo lý mà nói lẽ ra NATO phải thuận theo hòa bình và phát triển sau chiến tranh lạnh, tức là tự giải tán mới đúng. Thế nhưng, lãnh đạo NATO vẫn còn ấp ủ những tính toán khác, họ thúc đẩy NATO bước sang một “chiến lược mới” với mục tiêu : xây dựng một Liên minh Đại Tây Dương xuyên quốc gia lớn mạnh và và rộng khắp hơn, để NATO trở thành một tổ chức có quy mô lớn hơn, lực lượng quân đội hùng hậu hơn và hoạt động mang tính linh hoạt hơn; phòng ngự và răn đe bất cứ mối đe dọa nào phương hại với các nước thành viên NATO, sẵn sàng tham gia phòng bị các cuộc xungg đột một cách có hiệu quả bất cứ lúc nào, đồng thời tích cực tham gia vào hoạt động giải trừ nguy cơ. Chiến tranh lạnh kết thúc và sự tan rã của Liên Xô tan rã cùng với sự giải thể tổ chức Vacxava, cục diện chiến lược thế giới thể hiện rõ xu hướng “nhất siêu đa cường”. Mĩ trở thành siêu cường thế giới, không còn tồn tại bất cứ tổ chức quân sự nào trở thành đối trọng với NATO như tổ chức Hiệp ước Vacxava như trong chiến tranh lạnh nữa. Ngay cả Liên Hợp Quốc cũng không thể kiểm soát được NATO, chỉ riêng Mĩ, thực lực quân sự đã đứng đầu thế giới, thêm vào đó là các nước Anh, Pháp, Italia khiến cho quân sự NATO vượt xa bất kỳ quốc gia và khu vực nào. Trong khi chấm dứt các hoạt động của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) vào tháng 6-1991 và tiếp đó là khối Vacxava vào tháng 7-1991, quân đội Liên Xô rút khỏi các nước này thì Ban lãnh đạo các nước Đông Âu thực hiện bước ngoặt với xu thế ngả hẳn sang các nước phương Tây, từ chính sách dựa vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu sang chính sách dựa vào phương Tây và Mĩ. Mục tiêu chủ yếu của chính sách đối ngoại của các nước này là gia nhập vào các cơ cấu kinh tế, chính trị, quân sự của châu Âu, mong nhận được sự bảo trợ, giúp đở từ phương Tây và Mĩ. Tất cả các nước Đông Âu đều có nguyện vọng gia nhập Liên minh châu Âu (EU), khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Đề nghị đó được chấp nhận về nguyên tắc, nhưng những diễn biến chung quanh vấn đề này cho thấy không đơn giản chút nào. Trước hết, quan điểm của các nước hàng đầu trong khối NATO về điều kiện tiên quyết đối với các nước Đông Âu là “phải có sự ổn định về chính trị” và đảng cầm quyền phải “được lòng” “ông chủ NATO”, phải đạt được sự tiến bộ trong việc xây dựng một nền dân chủ cũng như cải thiện quan hệ với các nước láng giềng, xây dựng một nền kinh tế thị trường tự do và dân chủ hóa bộ máy quản lý lực lượng vũ trang, điều chỉnh việc xây dựng quân đội của các nước này cho phù hợp với cơ cấu xây dựng quân đội của NATO. Mặt khác, mở rộng NATO cũng là một quá trình rất tốn kém với NATO cũng như các nước muốn gia nhập. Theo dự tính, phải cần ít nhất 7 tỉ USD trong vòng 10 năm cho việc chuyển giao vũ khí, cải thiện các trang thiết bị, kho tàng, sân bay… Các nước Đông Âu phải bỏ ra ít nhất 2,5 tỉ USD hàng năm (riêng Ba Lan phải chi ít nhất 150 triệu USD), chưa kể chi phí để xây dựng các cơ sở quân sự mới. Đó là gánh nặng cho nền tài chính các nước này sau nhiều năm suy thoái nghiêm trọng. Về mặt đối nội, việc ban lãnh đạo các nước Đông Âu xin gia nhập NATO đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các đảng đố lập và một bộ phận lớn nhân dân các nước này. Nhưng điều có tính chất tế nhị, tác động tới quá trình gia nhập NATO của các nước Đông Âu là thái độ phản đối của Nga. Nga coi việc mở rộng NATO tới sát đường biên giới nước mình là sự đe dọa trực tiếp đến an ninh của Nga, do đó đã kịch liệt phản đối các nước Đông Âu gia nhập NATO. Lập trường của Nga về vấn đề này được Tổng thống B. Enxin tuyên bố tại Hội nghị cấp cao Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE, 12-1994). Tổ chức Hiệp ước Vác xava giải thể, thế giới bước sang một thời kỳ lịch sử mới gọi là thời kỳ "sau chiến tranh lạnh", "hậu Xô viết", "hậu chủ nghĩa xã hội hiện thực" như các học giả phương Tây hay gọi. Tuy nhiên cho đến nay, những đường nét đặc trưng của thời kỳ này vẫn chưa được định hình rõ rệt. Chiến tranh lạnh kết thúc là xét trên bình diện toàn cầu, còn ở nơi này nơi kia vẫn có biểu hiện tiếp diễn. Đặc biệt khi NATO vẫn còn tồn tại với tư cách là khối quân sự lớn nhất trên thế giới, chi phối một số cuộc chiến tranh nóng cục bộ, xung đột vũ trang đã và đang xảy ra và kéo dài. "Với việc chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới trở nên ít nguy hiểm hơn và khó tiên đoán hơn". Song có thể nói, xu thế chủ đạo trong thời đại ngày nay vẫn là hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển. "Cục diện vừa đấu tranh (thậm chí bằng chiến tranh lạnh cục bộ hoặc từng phần), vừa hợp tác vẫn là đặc điểm chính chi phối quan hệ quốc tế và trật tự thế giới mới ít nhất là trong nửa phần đầu của thế kỷ tới" (Theo Phan Doãn Nam. - Thế kỷ XXI: Một nền hoà bình đa cực? - Tuần báo Quốc tế, Đặc san '96, tr. 12). Các quốc gia - dân tộc lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu đều tăng cường hợp tác, liên kết với nhau theo nhiều tầng nấc, trước hết vì lợi ích và sự phát triển của quốc gia - dân tộc mình. Tuy nhiên, vẫn như từ ngàn xưa trong lịch sử loài người, các cường quốc luôn luôn có vai trò, vị trí quyết định trật tự thế giới và chi phối hệ thống các quan hệ quốc tế. Chẳng hạn, trong suốt gần nửa thế kỷ "chiến tranh lạnh", Liên Xô và Mỹ đã tồn tại với tư cách là hai siêu cường đối địch, chi phối lẫn nhau và chi phối mọi mặt đời sống quốc tế trong trật tự hai cực, và biểu hiện rõ ràng nhất là hình thành hai tổ chức quân sự đối đầu, tăng cường chạy đua vũ trang là NATO và tổ chức Hiệp ước Vacxava. Sau khi Liên Xô tan rã, tổ chức Hiệp ước Vacxava giải thể, thế giới chỉ còn lại một siêu cường duy nhất là Mỹ - đứng đầu khối quân sự NATO, nước luôn muốn duy trì địa vị bá chủ thế giới của mình. Song các cường quốc khác - dù là những cường quốc lâu đời hay mới nổi lên - không dễ chấp nhận mô hình trật tự thế giới như vậy. Trong bối cảnh đó, quan hệ giữa các cường quốc đang tạo ra cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh. Thời kỳ quá độ này có lẽ còn diễn biến phức tạp và kéo dài, vì có nhiều nhân tố với những vectơ thuận nghịch đang cùng tác động vào đó. Các cường quốc thế giới đang trong quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh với nhau và ra sức tập hợp lực lượng, để từ đó xác lập vai trò, vị trí có lợi nhất cho mình. Tuy nhiên, với tiềm năng, sức mạnh khác nhau, các cường quốc cũng có những lợi thế so sánh khác nhau trên con đường xác lập vị trí quốc tế cho mình. Kéo theo đó là sự tan vỡ trong quan hệ đối đầu Đông-Tây, trật tự hai cực đối đầu cũng bị sụp đổ. Sau khi trật tự hai cực bị phá vỡ, Mĩ ra sức vươn lên “thế một cực” trong trật tự thế giới mới, còn các cường quốc khác cố gắng duy trì thế “đa cực”, trong đó Đức và Nhật Bản đang đòi hỏi trở thành “hai cực nữa” trong trật tự “đa cực” này. Từ đầu những năm 90, một trật tự thế giới mới đang dần dần được hình thành. Trật tự thế giới mới này được hình thành như thế nào, còn tùy thuộc ở nhiều nhân tố: + Sự phát triển về thế lực kinh tế, chính trị, quân sự của các nước Mĩ, Nga, Trung Quốc Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức trong cuộc chạy đua về sức mạnh quốc gia tổng hợp (tức sức mạnh tổng hợp về mọi mặt của một nước, trong đó kinh tế là sức mạnh trụ cột). + Sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng thế giới(sự thành bại của công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa, sự lớn mạnh của các nước Á – Phi – Mĩ latinh sau khi giành được độc lập, sự phát triển của phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. ….) + Sự phát triển của cách mạng kho học – kỹ thuật sẽ còn tiếp tục tao ra những “đột phá” và chuyển biến trên cục diện thế giới. Tuy thế, đã xuất hiện một số đặc điểm và xu thế phát triển sau đây: Xu thế đối ngoại, hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng tôn trọng lẫn nhau trong cùng tồn tại hòa bình, đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu trong các mối quan hệ quốc tế. Năm nước lớn: Nga, Mĩ, Trung Quốc, Anh, Pháp (tức năm nước ủy viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc) tiến hành thương lượng, thỏa thuận và hợp tác với nhau trong việc duy trì trật tự thế giới mới. Vai trò của Liên Hợp Quốc được tăng cường và đề cao trong việc duy trì trật tự, an ninh trên thế giới (đưa quân đội Liên Hợp Quốc đến giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột ở các khu vực trên thế giới). Tất cả mọi quốc gia đều đang điều chỉnh lại chiến lược đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới, nhằm củng cố vị trí của mình hoặc tạo lập những tập hợp lực lượng riêng. Xu thế “liên kết khu vực” đi đôi với xu thế “toàn cầu hóa” phát triển nhanh, như Liên minh châu Âu (EU), khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mĩ (NAFTA), Hiệp hội ASEAN, Liên minh kinh tế Trung Mĩ (khối MERCOSUR), Hiệp hội tự do thương mại Mĩ Latinh (LAFTA), Hiệp hội hải quan Trung Phi (CACU), Cộng đồng Đông Phi (EAC), Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (ECOAC), Hiệp hội hợp tác khu vự các nước Nam Á (SAARC), …. Một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế đã bắt đầu, trong đó tất cả các quốc gia, dân tộc đều đang đứng trước những thử thách, những thời cơ để đưa vận mệnh đất nước mình tiến lên kịp với thời đại mới. Sự nghiệp bảo vệ hòa bình – mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại, đang ngày càng tiến triển, mặc dù nguy cơ chiến tranh chưa phải đã chấm dứt. Những cuộc xung đột vũ trang vẫn đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới (một số nơi đã tiến hành đường lối hòa bình để giải quyết mâu thuẫn như ở Trung Đông, ở Bôxnia Hécxêgôvia…), nhưng đã xuất hiện những khả năng hiện thực để ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới hủy diệt, bảo vệ sự sống con người và nền văn minh nhân loại. VI, KẾT LUẬN Thế giới đang trong thời kỳ khá ổn định, nhưng đâu đó trên trái đất này, những cuộc xung đột vũ trang vẫn liên tiếp xảy ra, đặc biệt ý đồ tranh giành ngôi vị bá chủ toàn cầu và các hành động quân sự của các cường quốc quân sự vẫn đang tiếp diễn. Khối quân sự NATO được thành lập, dưới sự cầm đầu của Mĩ, được che đậy dưới những danh từ lừa bịp như “phòng thủ để bảo vệ hòa bình an ninh chung”, “bảo vệ tự do”……, khối quân sự NATO đã trở thành một trung tâm gây chiến, xâm lược của đế quốc Mĩ chuyên cấu kết với các thế lực phản động các nước để tiến hành những hành động phản cách mạng ở châu Âu và thế giới. đối với phe tư bản chủ nghĩa mà nói, khối NATO là một tổ chức quân sự, chính trị qua đó đế quốc Mĩ khống chế các nước kí kết về kinh tế, chính trị, quân sự (để Mĩ thiết lập các căn cứ quân sự , đóng quân và buộc các nước hội viên phải cung cấp nhân, tài, lực, ….). Ngược lại, khối Vác xava được thành lập nhằm duy trì hòa bình, an ninh châu Âu, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa anh em… Tổ chức hiệp ước Vacxava mang tính chất là một liên minh phòng thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu. Trở thành đối trọng với NATO trong suốt 36 năm tồn tại, khối Vác xava đã góp phần không nhỏ vào việc ổn định an ninh, chính trị trên thế giới. Với vai trò của mình và những đóng góp của mình, tuy phải giải thể (trong khi NATO vẫn còn tồn tại và có những hành động gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh thế giới) nhưng chúng ta phải khẳng định rằng khối Vác xava đã góp phần kiềm chế những hành động quân sự quân sự điên cuồng của khối NATO, giảm bớt nguy cơ chiến tranh và buộc khối NATO phải tôn trọng một số quyền lợi chủ quyền của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong toàn bộ quá trình đối trọng của hai khối quân sự này, trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh, nhất là trước những thảm họa của cuộc chiến tranh hạt nhân, cả hai khối đều cố gắng tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Thế nhưng các cường quốc này lại đụng độ với nhau thông qua những cuộc chiến tranh cục bộ hay những xung đột quân sự khu vực, đây cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của mâu thuẫn Đông – Tây giữa các cường quốc đối đầu nói chung và giữa hai khối quân sự NATO và Vác xava nói riêng như: Cuộc chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950 – 1953); Vụ quốc hữu hóa kênh Xuyê và cuộc chiến tranh xâm lược Ai Cập của Anh, Pháp và Ixaren (1956); Sự đối đầu Mĩ – Xô cũng diễn ra trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946 – 1954);...... Xu thế hòa hoãn Đông – Tây xuất hiện và những thay đổi lớn lao trong tình hình thế giới và tình hình nội bộ Liên Xô đã dẫn đến sự sụp đổ và biến mất trên bản đồ chính trị thế giới của Liên Xô - một cực trong trật tự hai cực Ianta, đồng nghĩa với việc trật tự thế giới được hình thành từ sau năm 1945 đã không còn, một trật tự thế giới mới sẽ hình thành. Sự biến chuyển nhanh chóng của tình hình các nước Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1989 - 1991, làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở khu vực này sụp đổ. Cùng với nó là sự giải thể Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV, 28 – 6 – 1991) và Tổ chức Hiệp ước Vacsava (1 – 7 – 1991) - những tổ chức lớn của khối xã hội chủ nghĩa, tồn tại trong thời kì chiến tranh lạnh, đối lập với các tổ chức của khối tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là khối NATO. Những sự kiện trên đây đã làm cho trật tự hai cực Ianta sụp đổ. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực không còn nữa. Mỹ là cực duy nhất còn tồn tại, nuôi tham vọng thiết lập một thế giới đơn cực hòng thống trị thế giới. Thế giới bước vào một thời kì mới với các xu thế mới đang vận động, chi phối một phần không nhỏ tình hình an ninh và chính trị thế giới hiện nay.
VII, TÀI LIỆU THAM KHẢO Bài viết có tham khảo các tài liệu sau: 1, Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục Việt Nam. 2, Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại (1945-1975), NXB Giáo dục, 1986. 3, NATO – những bí mật bạn chưa biết, NXB Quân đội nhân dân. Và một số trang web sau: 1, https://cpv.vn 2, https://vi.wikipedia.org 3, www.bachkhoatrithuc.vn
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top