Nếu em không phải một giấc mơ

Totoro

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/12/2011
Bài viết
5.437
Lauren là nữ bác sĩ làm việc chăm chỉ trong một phòng cấp cứu bệnh viện thành phố nhưng không may bị tai nạn. Được các đồng nghiệp cấp cứu nhưng cô khó có thể thoát khỏi bàn tay tử thần đang rình rập. Cô được chuyển đến bệnh viện và được chăm sóc ở đấy như một người thực vật, không hề nhận biết được gì đang xảy ra xung quanh và đợi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Chuyện về tai nạn giao thông thảm khốc này cuối cùng cũng lắng xuống sau một thời gian.

Arthur là một kiến trúc sư chịu nhiều áp lực từ công việc đang theo đuổi. Một buổi tối sau khi đi làm về, anh phát hiện ra một phụ nữ núp trong tủ quần áo của mình. Đó chính là hình hài của Lauren nhưng bản chất là một linh hồn. Arthur có may mắn nhìn thấy được cô và có những cảm giác đụng chạm cô y như đối với một con người thực sự. Đây là sự ngẫu nhiên thú vị do sau tai nạn người ta đã cho thuê căn hộ cô ở và người thuê chính là Arthur.

Ban đầu, khi phát hiện ra người lạ trong nhà, Arthur không thể tin được rằng, đó chỉ là một hồn ma và rất khó chịu, nhưng càng về sau, anh càng có tình cảm với cô và cuối cùng thì tìm mọi cách đưa Lauren trở về với đời thường. Anh gác lại tất cả dự định cá nhân để mang Lauren về với khát khao được sống cùng cô. Anh cùng cô tìm hiểu về tình trạng hiện tại của cô trong bệnh viện, những tiến bộ y học và chạy đua với thời gian. Sự cô đơn của hai con người, sự đồng cảm và khao khát được sẻ chia làm giữa họ nảy sinh một tình yêu.

Trong khi hai người đang tìm kiếm tài liệu về tình trạng của Lauren thì bệnh viện đề nghị với mẹ Lauren về việc giải quyết tình trạng hiện nay của cô, do chi phí chăm sóc một người thực vật rất lớn và bệnh viện đang cần chỗ để phục vụ cho việc chạy chữa những người khác, còn khả năng sống sót hiện nay của cô rất thấp, vì vậy cần bà đồng ý làm việc rút ống thở của cô. Lúc đầu, bà không đồng ý nhưng sau khi bị thuyết phục nhiều lần, mẹ Lauren xuôi theo ý kiến đề nghị. Arthur và một người bạn của anh biết tin này đã đánh cắp cơ thể cô từ bệnh viện mang đi một nơi khác, với hy vọng sẽ tự chăm sóc cô trong khi đợi làm gì khác. Cuối cùng, cảnh sát cũng đã tìm ra nơi giấu cơ thể Lauren và tìm đến chỗ họ, yêu cầu mang trả cô về bệnh viện.

Arthur đành phải trả cơ thể Lauren lại cho bệnh viện, nhưng linh hồn của cô vẫn ở bên anh. Cho đến một ngày, linh hồn Lauren tự dưng tan biến. Arthur rất đau khổ và không liên lạc với thế giới bên ngoài trong vòng một tuần. Khi liên lạc lại thì anh được biết đúng thời điểm linh hồn Lauren ở bên anh biến mất, cô đã tỉnh lại. Anh vội đến ngay bệnh viện. Tuy Lauren không nhận ra anh, nhưng anh tin rằng thời gian sẽ giúp cô khôi phục lại trí nhớ về những gì xảy ra giữa hai người.


"Từ nước Mỹ sang Châu Âu rồi ngược lại, đã giữ gìn sự hồi hộp của ta cho tới trang cuối cùng." (Le Temps)





Câu chuyện bắt đầu từ một tai nạn ôtô đã bất ngờ đẩy Lauren, nữ sinh viên y khoa nội trú tại bệnh viện San Francisco, vào một cơn hôn mê kéo dài. Nhận thức được tất cả nhưng không thể nào giao tiếp được với thế giới bên ngoài, cô trở thành một cái xác sống, bất động và mất ý thức dưới mắt tất cả mọi người. Khát khao trở lại với cuộc sống bình thường đã khiến cho hồn cô đột nhiên tách ra khỏi cơ thể bất lực và đi lang thang khắp nơi.




Trở về ngôi nhà cũ của mình, hồn Lauren đã gặp tại đây Arthur, người thuê nhà mới- một kiến trúc sư trẻ. Anh trở thành người duy nhất nhận biết được sự có mặt của Lauren và giao tiếp được với cô-nói đúng hơn là với hồn cô. Từ chỗ nghi ngờ ban đầu đi đến chỗ bị thuyết phục và thương cảm, Arthur đã tìm mọi cách để giúp Lauren thoát ra khỏi tình trạng phân ly hồn xác thương tâm này và trở lại với cuộc sống bình thường.
Mối tình kỳ lạ giữa một người trần mắt thịt và một hồn ma đã nảy sinh như vậy, cảm động, hấp dẫn mà không hề quái dị, giật gân. Để đi được đến kết thúc có hậu, cặp tình nhân đã phải trải qua biết bao thăng trầm, nhiều khi tưởng như hoàn toàn tuyệt vọng. Đó là một câu chuyện cổ tích của thời hiện đại, đươc viết bằng một văn phong trong sáng và thấm đượm tình người.






Tác giả: Marc Levy

Chương 01
Mùa hè 1996
Trên chiếc bàn đầu gi.ường làm bằng gỗ màu sáng, cái đồng hồ báo thức nhỏ vừa mới reo lên. Năm giờ rưỡi sáng, căn phòng tràn ngập một ánh sáng vàng óng ả mà chỉ những buổi bình minh ở San Francisco mới có.
Cả nhà đang ngủ, con chó Kali nằm trên tấm thảm to, Lauren cuộn tròn trong chăn bông trên chiếc gi.ường rộng.
Vẻ ấm áp dịu dàng lan tỏa làm cho căn hộ của Lauren đẹp một cách bất ngờ. Nằm trên tầng cao nhất của môt ngôi nhà xây kiểu thời Victoria ở Green Street, căn hộ có một phòng khách liền bếp kiểu Mỹ, một phòng thay quần áo, môt phòng ngủ rộng và một buồng tắm thênh thang có cửa sổ. Sàn nhà lát bằng những phiến gỗ to màu vàng, sàn trong phòng tắm thì được sơn trắng kẻ ô đen. Những bức tường trắng được trang hoàng bằng các bức hoạ cũ mua ở các galerie Union Street, trần nhà viền một đường kẻ chỉ bằng gỗ chạm trổ rất thanh thoát bởi bàn tay của một người thợ mộc tài năng hồi đầu thế kỷ và được Lauren sơn lại thành màu caramen.
Vài tấm thảm dừa bện sợi đay đặt quanh mấy góc phòng khách, phòng ăn và cạnh lò sưởi. Đối diện lò sưởi một chiếc đivăng to đùng bọc vải mộc như mời mọc ngồi vào nghỉ ngơi. Trên tủ tường, giá sách có đặt mấy chiếc đèn xinh xắn với những chụp đèn xếp nếp, những đồ được mua trong vòng ba năm qua.
Đêm trôi qua thật nhanh. Là sinh viên y khoa nội trú tại bệnh viện Memorial San Francisco, Lauren đã phải kéo dài ca trực của cô lâu hơn hẳn hai mươi tư giờ thường lệ, do lúc đêm khuya có các nạn nhân của một đám cháy lớn được đưa đến. Những chiếc xe cứu thương đầu tiên lao vào khu cấp cứu mười phút trước lúc đổi ca và cô đã lập tức tiến hành phân loại để chuyển những nạn nhân trước nhất vào các phòng khác nhau, trong khi những người cùng ê kíp với cô nhìn nhau chán nản. Bằng một phương pháp điêu luyện, cô khám mỗi bệnh nhân mất có vài phút rồi phát cho họ những mảnh giấy thay đổi màu sắc tuỳ theo tình trạng trầm trọng hay ít hay nhiều của họ, sơ thảo chẩn đoán bệnh trạng, viết đơn cho họ đi làm những xét nghiệm ban đầu và hướng dẫn các hộ lý đưa bệnh nhân vào những phòng thích hợp. Công việc phân loại mười sáu người nhập viện từ mười hai giờ đêm đến mười hai giờ mười lăm kết thúc vào đúng mười hai giờ rưỡi đêm, và các bác sĩ phẫu thuật, được gọi đến khẩn cấp, đã có thể tiến hành những ca mổ đầu của cái đêm dài này từ lúc một giờ kém mười lăm.
Lauren làm phụ tá cho bác sĩ Fernstein trong hai ca mổ liên tiếp, cô chỉ chịu về nhà khi bác sĩ ra lệnh dứt khoát bằng cách cảnh cáo cô rằng sự mệt mỏi có thể làm cô lầm lẫn và điều đó rất nguy hiểm cho người bệnh.
Nửa đêm, cô ngồi vào sau tay lái của chiếc xe Triumph, rời bãi đậu xe của bệnh viện, phóng như bay về nhà qua những đường phố vắng tanh, vắng ngắt. “Mình quá mệt và mình phóng quá nhanh”, chốc chốc cô lại tự nhủ như vậy để chống lại cơn buồn ngủ, nhưng chỉ cần nghĩ đến chuyện trở lại khoa cấp cứu giữa những phòng bệnh ồn ào là cô lại thấy người tỉnh táo.
Cô bấm điều khiển từ xa để mở cửa gara, cất chiếc xe ôtô cũ vào đó. Đi xuyên qua hành lang bên trong, cô nhảy bốn bậc lên cầu thang chính và bước vào nhà, thở phào nhẹ nhõm.
Kim đồng hồ quả lắc phía trên lò sưởi chỉ hai giờ rưỡi. Lauren cởi bỏ quần áo ngay giữa phòng khách. Không mặc gì trên người, cô vào bếp pha một cốc chè. Những chiếc lọ đặt trên giá đựng đủ loại chè khác nhau, như thể mỗi một thời điểm trong ngày phải có một hương vị riêng của nó. Cô đặt chén chè lên chiếc bàn đầu gi.ường, chui vào trong chăn và ngủ thiếp đi ngay. Ngày mới qua quá dài, và ngày sắp tới lại có việc cần dậy sớm. Lợi dụng hai ngày được nghỉ tình cờ rơi vào đúng cuối tuần, cô đã nhận lời mời đến chơi chỗ mấy người bạn ở Carmel. Mặc dù sự mệt mỏi tích tụ cho cô cái quyền hết sức chính đáng được dậy trưa, nhưng không điều gì có thể làm cô bỏ thói quen dậy sớm. Lauren rất mê những buổi bình minh ở nơi này, trên con đường chạy ven biển Thái Bình Dương và nối San Francisco với vịnh Monterey. Nửa thức nửa ngủ, cô quờ tay ấn nút tắt chuông đồng hồ báo thức. Đưa cả hai tay nắm chặt lên giụi mắt, cô nhìn con chó Kali đang nằm trên tấm thảm.
- Đừng có nhìn tao như thế, tao không còn là người hành tinh này nữa đâu.
Nghe thấy giọng nói của cô, con chó vội vã chạy lăng xăng quanh gi.ường rồi đặt đầu lên bụng cô chủ. “Này con gái, tao bỏ rơi mày hai ngày nhé. Quãng mười một giờ mẹ tao sẽ ghé qua đón mày. Dịch ra nào, tao dậy đây, tao sẽ cho mày ăn”.
Lauren duỗi chân, vươn tay, ngáp rõ dài rồi chụm nhảy bật dậy.
Vừa lấy tay vuốt tóc, cô vừa đi vào bếp, mở tủ lạnh, ngáp cái nữa rồi lấy ra bơ, mứt, bánh mì, hộp đồ ăn cho chó, một gói giăm bông Parme đã mở sẵn, một miếng phomát Hà Lan, một hộp mứt quả táo, hai hộp sữa chua, một ít ngũ cốc rang giòn, nửa quả bưởi; nửa quả còn lại thì để ở ngăn dưới của giá đựng đồ ăn. Kali vừa nhìn cô chủ vừa lắc đầu nhiều lần. Lauren trợn mắt dọa con chó và kêu lên :
- Tao đói!
Như thường lệ, cô bắt đầu bằng việc chuẩn bị bữa sáng cho con vật cưng trong một cái gamen to bằng đất nung.
Sau đó, cô xếp đồ ăn cho mình vào một cái khay rồi mang ra bàn làm việc. Từ chỗ này, cô có thể khẽ quay đầu để ngắm nhìn Saussalito và những ngôi nhà mọc trên những quả đồi của nó, cầu Golden Gate kéo dài như một vạch nối giữa hai phía của vịnh, cảng đánh cá Tiburon và những mái nhà nối tiếp nhau như những bậc thang ra đến tận khu Marina. Cô mở toang cửa sổ, thành phố yên tĩnh tuyệt đối. Chỉ có tiếng còi u u của những chiếc tàu lớn chở hàng đi Trung quốc hòa với tiếng kêu của lũ hải âu là đệm nhịp cho không khí mơ màng uể oải của buổi sáng này. Lauren vươn vai lần nữa rồi tấn công vào bữa sáng ngồn ngộn đồ ăn với vẻ ngon miệng hết sức. Hôm qua cô không ăn tối do không có thời gian. Tranh thủ mấy phút giữa ba đợt tiếp nhận bệnh nhân, cô đã định ăn vội một miếng xăng wuých, nhưng lần nào cái máy nhắn tin của cô cũng réo lên gọi cô đến một ca cấp cứu mới. Chả thế mà lỗi lần có người hỏi Lauren về nghề nghiệp của cô, bao giờ cô cũng trả lời bằng đúng một câu: “cấp tốc”. Ngốn ngấu xong gần hết bữa đại tiệc của mình; cô đặt cái khay rửa bát rồi đi vào buồng tắm.
Cô lấy ngón tay vuốt lên những chớp cửa để khép lại, cởi chiếc sơ mi vải bông trắng ra rồi đứng vào dưới vòi hoa sen. Tia nước ấm phun mạnh làm cô tỉnh hẳn ngủ.
Tắm xong, cô lấy một chiếc khăn bông cuộn quanh mình, để hở đùi và ngực.
Đứng trước gương, cô bĩu môi, quyết định chỉ trang điểm nhẹn nhàng, mặc vào người một cái quần bò, áo polo, rồi cởi quần bò ra, mặc váy ngắn, cởi váy ngắn, mặc lại quần bò. Cô mở tủ lấy ra một cái túi bằng vải bạt, ném vào đó vài thứ lặt vặt, những đồ vệ sinh cá nhân, và cảm thấy đã hoàn toàn sẵn sàng cho chuyến đi chơi cuối tuần. Quay người lại, cô nhìn quang cảnh bừa bộn trong nhà, quần áo vứt trên sàn, khăn tắm quẳng mỗi nơi một cái, bát đĩa bẩn trong bồn rửa bát, chăn đệm lộn xộn; bằng một vẻ hết sức dứt khoát, cô hướng về tất cả những đồ vật này, cất tiếng nói to, dõng dạc :
- Không ý kiến, không than phiền gì hết, ngày mai ta sẽ về sớm và sẽ dọn dẹp đâu ra đấy!
Rồi cô chộp lấy một cái bút chì và một mảnh giấy, thảo ra mẩu thư sau rồi dính nó lên trên cửa tủ lạnh bằng một cục nam châm to hình con ếch :
Mẹ giữ hộ con chó nhé, nhớ đừng có dọn dẹp gì đấy, khi nào về con sẽ làm tất.
Con sẽ đi thẳng đến chỗ mẹ để đón Kali vào quãng 5 giờ ngày chủ nhật. Yêu mẹ, cô bác sĩ cưng của mẹ.
Cô khoác áo măng tô, dịu dàng xoa đầu con chó, thơm lên trán nó rồi dập cửa khóa nhà lại.
Cô bước xuống những bậc cầu thang to, đi ra phía ngoài để ra gara, và gần như nhảy phóc vào cỗ xe cũ kỹ của mình.
- Đi rồi, thế là đi được rồi đây. - Cô lặp đi lặp lại - Thật không thể tin được, cứ như có phép màu, bây giờ chỉ cần cái xe này nó vui lòng khởi động cho thôi. Nếu mày lại giở trò ho khụ lên một tiếng rồi tắt ngấm thì tao sẽ tưới xi rô vào động cơ của mày rồi ném mày ra đống sắt vụn, tao sẽ thay mày bằng một cái ôtô mới chạy hoàn toàn bằng điện, không cần bộ phận khởi động và không nhõng nhẽo lúc sáng sớm trời lạnh, hy vọng là mày hiểu rồi chứ? Nổ máy.
Rõ ràng là những lời của cô chủ đã gây ấn tượng rất mạnh cho chiếc xe Ănglê cũ kỹ, bởi vì động cơ của nó nổ vang ngay lập tức. Một ngày tốt đẹp hứa hẹn bắt đầu.
 
Chương 02Lauren bắt đầu lái xe đi chầm chậm để khỏi làm hàng xóm thức giấc. Green Street là một phố xinh xắn có cây cối và những ngôi nhà nhỏ hai bên đường. Ở đây, mọi người quen biết nhau như trong một cái làng. Qua sáu ngã tư rồi ra tới Van Nees, một trong hai trục đường lớn chạy xuyên qua thành phố, cô chuyển sang tốc độ cao hơn. Ánh sáng ban mai nhợt nhạt mỗi lúc lại hồng lên làm lộ ra dần dần cảnh sắc rực rỡ của thành phố. Chiếc xe lao đi vun vút trên những đường phố vắng tanh. Lauren nhấm nháp cảm giác say ngây ngất của khoảnh khắc này. Những con đường dốc của San Francisco tạo điều kệin hết sức thuận lợi cho cái cảm giác chóng mặt ấy.
Một chỗ rẽ ngoặt gấp khúc ở Sutter Street. Có tiếng két lên rồi những tiếng lạch cạch trong bộ lái. Đường dốc đứng xuống phía Union Square, lúc đó là 6 giờ rưỡi, đài ôtô bật lên một điệu nhạc đinh tai nhức óc, Lauren cảm thấy hạnh phúc, lâu lắm rồi không hạnh phúc được như vậy. Hết stress, hết bệnh viện, hết cả mọi nghĩa vụ. Một cuối tuần hoàn toàn thuộc về cô đang bắt đầu và không nên bỏ phí một phút nào. Union square tĩnh lặng. Vài tiếng đồng nữa thì các vỉa hè sẽ đầy những người du lịch và những người dân thành phố đi mua sắm trong những cửa hàng lớn nằm dọc bên quảng trường. Những chiếc cable-cars sẽ nối đuôi nhau; những tủ kính sẽ sáng rực, những chiếc ôtô sẽ xếp hàng dài ở lối vào bãi đậu xe ngầm phía dưới những khu vườn, nơi mà các ban nhạnc rong thường đổi vài nốt nhạc, dăm ba điệp khúc lấy mấy đồng tiền.
Trong lúc chờ đợi, vào cái khoảnh khắc tinh mơ này sự yên tĩnh ngự trị. Các cửa hàng tối om, vài người vô gia cư đang ngủ trên những chiếc ghế băng. Người gác bãi đậu xe ngủ gà ngủ gật trong chòi gác. Chiếc xe Triumph ngốn đường theo nhịp điệu giật cục của cái cần sang số. Các ngã tư toàn đèn xanh, Lau ren giảm tốc độ xuống số hai để chuẩn bị rẽ sang Polk Street, một trong bốn phố bao quanh quảng trường. Người lâng lâng, đầu quấn một chiếc khăn như một giải băng để giữ tóc, cô bắt đầu rẽ ngoặt trước mặt tiền rộng mênh mông của tòa nhà Macy’s. Một đường cong hoàn hảo, bánh xe khẽ kêu kèn kẹt, một tiếng động lạ tai, những tiếng lạch cạch lạch cạch, tất cả diễn ra rất nhanh, những tiếng lạch cạch hòa vào nhau, lẫn lộn, rồi lại đối chọi nhau.
Một cú va đập đột ngột! Thời gian ngưng lại. Hoàn toàn không còn đối thoại giữa bộ lái và các bánh xe nữa, sự liên lạc bị đứt đoạn hẳn. Chiếc ôtô đi vẹo sang một bên và trượt dài trên mặt đường hãy còn ẩm ướt. Mặt Lauren nhăn nhúm lại. Hai tay cô bám chặt lấy cái tay lái đã trở nên dễ sai khiến, chấp nhận quay không ngừng vào một khoảng trống khủng khiếp cho đến hết ngày. Chiếc xe Triumph tiếp tục trượt, thời gian dường như bỗng trở nên thanh thản và thư giãn như trong một cái ngáp dài. Đầu óc Lauren quay cuồng, đúng ra là khung cảnh quay cuồng xung quanh cô với một tốc độ ghê người. Chiếc ôtô biến thành một con quay. Bánh xe húc mạnh vào vỉa hè, phần trước xe bật tung lên, ôm lấy cái ống nước chữa cháy. Mui xe tiếp tục lao về phía trời cao. Bằng một nỗ lực cuối cùng, chiếc xe xoay tròn, hất tung ra ngoài người lái xe đã trở nên quá nặng đối với cái con quay bất chấp luật sức hút này. Người Lauren bị ném lên không trung rồi rơi đập vào mặt trước của một cửa hàng lớn. Tấm kính to của cửa hàng vỡ tung và toé ra thành một tấm thảm thủy tinh vụn. Lớp thủy tinh ấy đón nhận vào nó cô gái trẻ đang lăn dưới đất rồi dựng lại bất động, mái tóc xoã xượi giữa những mảnh vỡ, trong lúc chiếc xe Triumph cũ kỹ đang kết thúc cuộc chay đua và sự nghiệp của nó, nằm chổng ngược, một nửa xe ghếch lên vỉa hè. Một làn khói mỏng thoát ra từ trong lòng chiếc xe và nó trút hơi thở cuối cùng, chấm dứt trò đỏng đảnh cuối cùng của “bà lão Ănglê”.
Lauren nằm bất động. Trông cô như đang nghỉ ngơi, bình thản. Nét mặt cô thư thái, hơi thở chầm chậm và đều đặn. Miệng hơi hé mở như khẽ cười, mắt nhắm lại, cô có vẻ đang ngủ. Mái tóc dài viền quanh khuôn mặt cô, tay phải cô đặt trên bụng.
trong chòi gác, người gác bãi đỗ xe chớp mắt, anh ta nhìn thấy hết, “hệt như trong phim”, nhưng đây “rõ ràng là thật”, sau này anh kể lại như vậy. Anh đứng dậy, chạy ra ngoài rồi thay đổi ý kiến và quay trở lại. Run lên như trong cơn sốt, anh nhấc máy điện thoại, bấm số 911. Anh gọi cấp cứu, và đội cấp cứu lên đường.
Nhà ăn của bệnh viện San Francisco là một gian phòng rộng lát đá hoa trắng, tường quét vôi vàng. Một lô bàn hình chữ nhật làm bằng formica được xếp rải rác dọc hai bên của một lối đi chính dẫn đến chỗ đặt các máy bán đồ ăn thức uống tự động. Bác sĩ Philip Stern nằm ngủ gà ngủ gật bên một chiếc bàn, tay cầm một chén cà phê nguội. Cách đó một chút, người cùng êkíp với anh đang lắc lư trên một chiếc ghế, mắt mơ màng nhìn vào chỗ trống. Máy nhắn tin chợt réo lên trong túi áo của bác sĩ. Anh mở mắt, vừa nhìn đồng hồ vừa càu nhàu; chỉ mười lăm phút nữa thôi là anh hết phiên trực. “Sao lại thế được nhỉ, mình đúng là chẳng may tí nào cả; Frank, gọi cho tổng đài hộ cái xem”. Frank chộp lấy cái máy điện thoại treo trên tường ngay cạnh đó, ngeh thông tin mà trong máy truyền đạt lại cho anh, đặt lại điện thoại rồi quay về phía Stern. “Đứng dậy thôi ông bạn, có việc cho chúng mình rồi, ở Union square, hình như trầm trọng đấy...” Hai bác sĩ nội trú thuộc đội cấp cứu của San Francisco đứng dậy đi về phía có chiếc xe cấp cứu đang đợi họ, động cơ lập tức nổ vang, đèn pha sáng chói. Còi xe hú lên hai hồi ngắn gọn, báo hiệu đội cấp cứu số 2 lên đường. Lúc đó là bảy giờ kém mười lăm, Mark Street vắng tanh vắng ngắt, chiếc xe cấp cứu phóng như bay trong buổi sáng tinh mơ.
- Khỉ thật, thế mà hôm nay lại đẹp trời cơ chứ
- Việc gì mà cậu cứ ca cẩm thế?
- Tại vì mình hết hơi rồi, mình sẽ lăn ra ngủ và chẳng hưởng thụ được cái ngày đẹp trời thế này
- Rẽ trái thôi, mình đi ngược chiều.
Frank thực hiện, chiếc xe cấp cứu rẽ vào Polk Street, đi về phía Union Square. “Đây rồi, phóng nhanh lên, mình nhìn thấy rồi đây”. Đến nơi, hai bác sĩ nhận thấy trước hết là bộ khung của chiếc xe Triumph cũ kỹ, nằm rúm ró bên ống nước chữa cháy. Frank ngắt còi xe cấp cứu.
- Này, cũng chẳng phải vừa đâu - Stern vừa nhảy từ trên xe xuống vừa nhận xét. Hai cảnh sát đã có mặt tại chỗ, một người vẫy Philip về phía cửa kính vỡ.
- Nạn nhân đâu? - Bác sĩ hỏi viên cảnh sát.
- Đây, ngay trước mặt anh, đó là một phụ nữ, cô ấy là bác sĩ, hình như ở khoa cấp cứu thì phải. Có lẽ anh biết cô ấy chứ?
Quỳ xuống bên cạnh th.ân thể Lauren, Stern hét lên gọi người bạn cùng êkíp chạy đến. Dùng kéo, anh rạch chiếc quần bò và cái áo chui cổ của cô gái, để phơi ra làn da. Dọc theo bên đùi trái có một chỗ biến dạng rõ rệt, máu đọng thâm quầng bên trong, dấu hiệu bị gãy xương. Phần còn lại của cơ thể bề ngoài không có chỗ nào có vẻ bị giập nát.
- Chuẩn bị làm điện tim và truyền thuốc đi, mạch yếu lắm, chưa đo được huyết áp, nhịp thở 48, vết thương ở đầu, gãy xương đùi kèm chảy máu bên trong, cậu chuẩn bị cho mình 2 quilô (đơn vị truyền thuốc hoặc truyền máu). Bọn mình có biết cô này không nhỉ? Cô ấy có làm việc ở chỗ mình không?
- Mình đã từng gặp cô ấy, cô ấy là bác sĩ nội trú ở khoa cấp cứu, làm việc với ông Fernstein. Chỉ có cô ấy là dám trái ý ông ta
Philip không đáp lại nhận xét này. Frank đặt bảy cái núm nhỏ lên trên ngực cô gái, nối từng núm một với máy điện tim; mỗi núm được nối bằng 1 sợi dây điện có màu khác nhau, sau đó anh bật máy. Màn hình sáng lên ngay tức khắc.
- Điện tâm đồ trông thế nào? anh hỏi người bạn cùng êkíp.
- Không có gì khả quan cả, cô ấy đang xỉu đi. Huyết áp 8/6, mạch 140, môi tím nhợt, mình chuẩn bị cho cậu một ống thuốc endotracheal 7, chúng mình sẽ đặt nội khí quản cho cô ấy.
Bác sĩ Stern vừa mới nối được xong ống thông, anh đưa chai huyết thanh cho một viên cảnh sát.
- Cẩn thận hộ tôi, tôi cần rảnh cả hai tay.
Quay lại phía người bạn, anh yêu cầu bạn tiêm vào ống truyền thuốc 5mg adrenaline, 125mg Solu-Medrol và chuẩn bị ngay tức khắc máy sốc điện. Đúng lúc đó, nhiệt độ Lauren hạ xuống đột ngột, trong khi điện tâm đồ trở nên dao động thất thường. Phía dưới chiếc màn hình màu xanh lá cây, cái đèn đỏ hình trái tim bắt đầu nhấp nháy, báo hiệu sắp có một cơn rung thất.
- Nào, cô gái, cố lên nào! Cô ấy có lẽ bị chảy máu dữ lắm ở bên trong người. Bụng cô ấy ra sao?
- Bụng mềm, chắc chảy máu phía trong ở đùi thôi. Cậu sẵn sàng để đặt nội khí quản chưa?
Chưa đầy một phút, Lauren đã được đặt nội khí quản và cái ống được nối vào một máy hô hấp. Stern hỏi các hằng số tình trạng nạn nhân. Frank trả lời là nhịp thở ổn định, huyết áp hạ xuống còn có 5. Anh chưa kịp nói xong thì tiếng bíp bíp đều đều ở máy đã chuyển thành một tiếng rít chói tai.
- Rung thất rồi, cậu nạp cho mình 300 jun.
Philip cọ cọ hai tay cầm của máy sốc điện vào nhau.
- Được rồi, có điện rồi đấy - Frank kêu lên.
- Tránh ra, mình làm sốc điện đây!
Do tác dụng của máy sốc điện, cơ thể nạn nhân bật cong lên đột ngột, bụng oằn lên rồi lại rơi phịch xuống.
- Không, chưa được.
- Thử để ở 360 xem, làm lần nữa nào.
- 360 rồi, làm đi.
- Tránh ra!
Tấm thân nhảy dựng lên rồi lại rơi xuống bất động. “Cho mình 5mg adrenaline và nạp lại ở 360. Tránh ra!”. Điện lại phóng ra, cơ thể nạn nhân nảy lên lần nữa. “Vẫn cứ rung thất! Hỏng mất rồi, tiêm vào ống truyền một đơn vị Lidocaine và nạp lại máy sốc điện. Tránh ra”. Tấm thân lại nảy lên. “Tiêm 500mg Beryllium và nạp lại ngay 380!”
Lauren được làm sốc điện thêm một lần nữa, quả tim cô dường như có chịu tác dụng của những loại thuốc được truyền vào, nó bắt đầu đập lại với nhịp điệu ốn định, nhưng chỉ được chốc lát: tiếng rít lên ở máy chỉ bặt đi vài giây rồi lại vang lên to hơn... “Tim ngừng đập” Frank thốt lên.
Ngay lập tức Philip tiến hành thao tác mát xa tim mạch - hô hấp với vẻ kiên quyết khác thường. Vừa cố sức để cứu sống cô gái, anh vừa nói khẩn thiết với cô: “Đừng có ngốc nghếch thế, hôm nay trời đẹp lắm, trở lại đi, đừng làm như vậy”. Rồi anh ra lệnh cho bạn chuẩn bị máy sốc điện một lần nữa. Frank thử làm cho bạn bình tĩnh lại: “Thôi nào, Philip, không ích gì nữa đâu”. Nhưng Stern không chịu thôi, anh hét lên, đòi chuẩn bị máy sốc điện. Frank thực hiện. Philip lại yêu cầu mọi người tránh ra; không biết là lần thứ bao nhiêu rồi. Cơ thể nạn nhân uốn cong lên lần nữa, nhưng điện tâm đồ vẫn là một đường thẳng. Philip lại làm mát xa, trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Vẻ mệt mỏi làm lộ rõ nỗi tuyệt vọng của người bác sĩ trẻ trước sự bất lực của mình. Frank hiểu rằng Philip đã không còn tỉnh táo nữa. Lẽ ra Philip đã phải ngừng cấp cứu nạn nhân từ nãy để tuyên bố thời điểm nạn nhân qua đời, vậy mà anh lại cứ tiếp tục làm mát xa tim.
- Truyền thêm nửa mg adrenaline và tăng máy sốc điện lên thành 400.
- Philip, thôi đi, thật là vô nghĩa, cô ấy chết rồi. cậu làm gì vớ vẩn thế.
- Im mồm và làm ngay đi!
Viên cảnh sát ném một cái nhìn dò hỏi về phía người bác sĩ trẻ đang quỳ bên Lauren, nhưng anh chẳng mảy may chú ý đến điều đó. Frank nhún vai, tiêm thêm một liều thuốc nữa vào ống truyền, nạp điện lại vào máy sốc điện. Anh thông báo là dòng điện đã đạt đến 400mA. Stern chẳng buồn yêu cầu mọi người tránh ra nữa, anh làm sốc điện ngay. Lồng ngực nạn nhân bị dòng điện với cường độ cao hất tung lên khỏi mặt đất. Điện tâm đồ vẫn cứ thẳng băng một cách tuyệt vọng. Philip không nhìn điện tâm đồ, anh đã đoán được trước kết quả từ khi chưa làm sốc điện lần cuối này. Anh đập tay vào ngực Lauren. “Mẹ kiếp, mẹ kiếp!”, Frank túm lấy vai bạn, xiết chặt.
- Thôi nào, Philip, cậu mất tự chủ rồi, bình tĩnh lại đi! Cậu tuyên bố nạn nhân tắt thở rồi chúng mình chuồn. Cậu đang suy sụp rồi, đi nghỉ thôi.
Philip đầm đìa mố hôi, mắt nhìn đờ đẫn. Frank cao giọng thêm và dùng hai tay kéo đầu bạn, bắt bạn nhìn thẳng vào mình.
 
Anh ra lệnh cho Philip phải bình tĩnh lại, và không thấy Philip có bất cứ phản ứng gì, anh bèn tát cho bạn một cái. Philip tiếp nhận cái tát. Giọng nói của Frank bèn trở nên dịu lại: “Trở lại với mình đi, Philip, tỉnh trí lại nào”. Rồi kiệt sức, anh buông bạn ra, đứng dậy, cũng vô hồn như thế. Mấy viên cảnh sát sững sờ nhìn hai bác sĩ. Frank đi đi lại lại, vẻ hoang mang ra mặt. Philip vẫn quỳ trên nền đất, người rúm lại, từ từ ngẩng đầu lên, há miệng nói bằng một giọng trầm trầm: “Bảy giờ mười, tắt thở”. Và quay về phía viên cảnh sát vẫn cầm chai huyết thanh một cách hết sức thận trọng, anh nói: “Các anh đưa cô ấy đi, thế là hết rồi, chúng tôi không còn làm gì cho cố ấy được nữa”. Anh đứng dậy, nắm vai Frank và kéo bạn đi về phía xe cứu thương. “Đi về thôi”. Hai viên cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ khi họ trèo lên xe cứu thương. “Hai ông đốc này có vẻ kì quặc nhỉ!”, một người cảnh sát nói. Người kia chăm chú nhìn vào mặt bạn đồng nghiệp.
- Cậu đã bao giờ tham dự một phi vụ trong đó người quân ta bị giết chưa?
- Chưa
- Thế thì cậu không hiểu được cái mà hai bác sĩ kia vừa trải qua. Nào, giúp tôi một tay, ta nhấc cô ấy lên rồi đặt vào băng ca trong khoang xe.
Chiếc xe cứu thương đã rẽ vào chỗ ngoặt cuối phố. Hai viên cảnh sát nâng tấm thân bất động của Lauren dậy, đặt lên băng ca rồi lấy một cái chăn phủ lên. Vài người xem hiếu kỳ cũng bỏ đi vì chẳng còn gì mà xem nữa. Bên trong xe cứu thương, hai bác sĩ ngồi lặng thinh từ lúc xe lăn bánh. Frank phá vỡ sự im lặng.
- Lúc nãy cậu bị cái gì ám thế Philip?
- Cô ấy chưa đến 30 tuổi, là bác sĩ, quá đẹp để mà chết.
- Đúng vậy, thế nhưng đó lại chính là cái mà cô ấy làm đấy! Cô ấy đẹp và là bác sĩ thì có khác gì? Cô ấy có thể xấu và làm việc trong một siêu thị. Đó là số phận, cậu chẳng có thể làm được gì hết, đó là giờ của cô ấy. Bây giờ chúng mình về nhà, cậu đi ngủ và cố quên hết tất cả những chuyện đó.
Đi sau họ một quãng, chiếc ôtô cảnh sát đến một ngã tư đúng vào lúc một chiếc xe taxi vượt qua đường, khi đèn hiệu đã chuyển sang màu đỏ. Viên cảnh sát tức giận phanh két lại và cho còi cảnh sát rú lên, người lái taxi “Limo Service” dừng xe lại và xin lỗi rối rít. th.ân thể của Lauren vì cú phanh này nên bị rơi khỏi băng ca. Hai người cảnh sát trèo ra phía sau, người trẻ nâng chân Lauren, người đứng tuổi hơn thì kéo hai cánh tay cô. Mặt ông đờ ra khi ông nhìn vào ngực cô gái.
- Cô ấy thở!
- Cái gì?
- Cô ấy thở, ngồi ngay vào tay lái rồi phóng về phía bệnh viện đi.
- Anh đã thấy chưa! Dù thế nào đi nữa thì hai ông đốc này cũng có vẻ kỳ quặc sao đó.
- Im đi và phóng nhanh lên. Tôi không hiểu gì cả, nhưng bọn này sẽ phải nghe nói đến tôi.
Chiếc xe cảnh sát bất thần vượt qua xe cứu thương và lao đi vun vút dưới con mắt sửng sốt của hai bác sĩ. Đó chính là xe cảnh sát “của họ”. Philip muốn để còi cứu thương rồi phóng theo xe cảnh sát, nhưng Frank không chịu, anh đã kiệt sức rồi.
- Tại sao họ lại phóng như thế kia?
- Mình không biết gì hết, mà chưa chắc đó đã là họ. Cảnh sát thì ai cũng giống nhau.
Mười phút sau, họ đỗ xe bên cạnh chiếc xe cảnh sát, các cửa xe vẫn để mở. Philip xuống xe và đi vào khu cấp cứu. Anh bước về phía thường trực, mỗi bước một vội vã hơn. Không kịp chào cô thường trực, anh hỏi cô luôn :
- Cô ấy ở phòng nào?
- Ai cơ hả bác sĩ Stern? - Cô y tá trực hỏi.
- Cô gái vừa được đưa đến ấy.
- Cô ấy ở phòng mổ số 3, Fernstein đã vào đó rồi. Hình như cô này làm việc trong ê kíp của ông ấy.
Từ phía sau lưng Stern, viên cảnh sát đứng tuổi khẽ đập vào vai anh.
- Đầu óc ông thế nào đấy, ông bác sĩ?
- Xin lỗi ông.
Xin lỗi, cứ tưởng xin lỗi là xong à. Làm sao anh ta lại có thể tuyên bố là một cô gái trẻ đã chết khi cô ấy còn thở trong thùng xe? “Anh có hiểu được là không có tôi thì cô gái đã bị ướp sống trong nhà lạnh không?” Anh ta sẽ phải nghe nói đến viên cảnh sát này. Đúng lúc đó bác sĩ Fernstein đi ra khỏi phòng mổ, làm ra vẻ không hề chú ý đến viên cảnh sát, ông hướng thẳng về phía anh bác sĩ trẻ: “Stern, anh truyền cho nạn nhân bao nhiêu adrenaline?” “Bốn lần,mỗi lần 5 mg” Stern trả lời. Ngay lập tức, giáo sư Fernstein quở trách Stern rằng cung cách cứu chữa nạn nhân của anh thật là dai dẳng thái quá. Sau đó quay về phía viên cảnh sát, ông khẳng định rằng Lauren đã chết từ trước lúc bác sĩ Stern tuyên bố giờ cô tắt thở.
Giáo sư nói thêm rằng lỗi của đội cấp cứu hẳn là đã quá cố gắng kéo dài những biện pháp vô ích để cứu trái tim của nạn nhân này, mà tất cả phí tổn cho ch.uyện ấy thì đổ lên đầu những người đóng bảo hiểm. Để chấm dứt mọi tranh luận, ông giải thích rằng lượng thuốc truyền vào đã ứ đọng lại xung quanh màng ngoài tim: “Khi các ông phanh ôtô lại một cách đột ngột thì lượng thuốc ấy chuyển vào quả tim. Quả tim liền phản ứng một cách thuần túy hóa học và bắt đầu đập lại”. “ch.uyện ấy đáng buồn là chẳng thay đổi được gì đối với việc bộ óc của nạn nhân đã chết. Còn về quả tim thì khi nào thuốc tiêu hết nó cũng ngừng đập ngay thôi, chưa biết chừng nó đã ngừng đập chính vào lúc tôi nói chuyện với các ông đây”. Giáo sư đề nghị viên cảnh sát xin lỗi bác sĩ Stern về sự bực tức hoàn toàn không chính đáng đối với bác sĩ, và yêu cầu Stern trước khi về thì rẽ qua phòng của giáo sư. Viên cảnh sát quay về phía Philip, giọng gắt gỏng: “Tôi thấy rõ là ngành cảnh sát chúng tôi không giữ độc quyền về chủ nghĩa nghiệp đoàn. Tôi không chúc ông một ngày tốt đẹp đâu”. Ông ta quay gót rời bệnh viện. Mặc dù hai cánh cửa bệnh viện đã khép lại sau khi ông ta đi qua, người ta vẫn còn nghe rõ tiếng dập đánh ình một cái cửa xe ôtô cảnh sát.
Stern đứng lặng, hai tay vẫn đặt trên quầy thường trực, mắt nheo lại băn khoăn nhìn cô ý tá trực. “Nhưng mà tất cả câu chuyện này có nghĩa là gì?” Cô y tá nhún vai và nhắc anh rằng giáo sư Fernstein đang đợi anh.
Anh gõ vào cánh cửa có móc khóa xích ở bên trong nơi thủ trưởng của Lauren làm việc. Giáo sư mời anh vào.. Đứng ở phía sau bàn làm việc, ông quay lưng nhìn qua cửa sổ, rõ ràng đang đợi Stern nói trước, anh bèn cất tiếng luôn. Anh thú nhận với ông là anh không hiểu những điều nói với viên cảnh sát. Fernstein ngắt lời anh một cách khô khan.
- Nghe kỹ tôi nói đây, Stern, điều mà tôi nói với viên sĩ quan ấy là cái đơn giản nhất có thể giải thích cho ông ta để ông ta khỏi làm một báo cáo về anh và làm tiêu sự nghiệp của anh. Cách cư xử của anh thật không chấp nhận được đối với một người có kinh nghiệm như anh. Cần phải biết chấp nhận cái chết khi ta không còn cách nào khác. Chúng ta không phải thánh thần và không chịu trách nhiệm về số phận. Cô gái này đã chết khi anh đến, và sự ngoan cố của anh suýt nữa đã làm anh phải trả giá đắt đấy.
- Nhưng giáo sư giải thích thế nào về việc cô ấy lại thở?
- Tôi không giải thích và tôi không việc gì phải giải thích. Chúng ta không biết hết tất cả mọi điều. Cô ấy đã chết, bác sĩ Stern. Anh không thích điều đó là một chuyện, nhưng cô ấy quả thực đã từ giã cuộc đời. Tôi chẳng cần chuyện là phổi cô ấy phập phồng và tim cô ấy tự đập, điện não đồ của cô ấy thẳng băng. Bộ não cô ấy chết hẳn rồi. Chúng ta sẽ đọi những bộ phận còn lại chết theo rồi đưa cô ấy xuống nhà xác. Chấm hết.
- Nhưng giáo sư không thể làm một chuyện như vậy được, không thể khi có bao nhiêu điều hiển nhiên như thế!
Fernstern biểu lộ sự bực bội của ông bằng một cái lắc đầu và nói cao giọng hơn. Ông không việc gì phải nghe dạy dỗ cả. Stern có biết giá tiền phải trả cho một ngày làm hồi sức cấp cứu không? Anh tưởng bệnh viện sẽ giữ riêng một gi.ường bệnh để duy trì cuộc sống nhân tạo cho một “cây rau” à? Ông hết sức yêu cầu anh trưởng thành lên một chút.
Ông từ chối việc buộc cá gia đình phải trải qua hàng tuần lễ liền bên gi.ường bệnh của một người bất động và mất trí, chỉ còn sống nhờ máy móc. Ông từ chối chịu trách nhiệm về cái loại quyết định chỉ cốt để thảo mãn cái tôi của bác sĩ như thế này.
ông ra lệnh cho Stern đi tắm cho tỉnh người và biến đi cho khuất mắt ông. Người bác sĩ trẻ vẫn đứng ì ra trước mặt giáo sư, anh tiếp tục lập luận mỗi lúc một hùng biện hơn. Khi anh tuyên bố là cô ấy đã chết, người bệnh này của anh đã ở trong trạng thái ngừng tim mạch - hô hấp được mười phút rồi. Tim cô và phổi cô đã ngừng hoạt động. Đúng là anh có cố sức dai dẳng một cách thái quá thật, bởi vì lần đầu tiên trong đời làm bác sĩ của anh, anh cảm thấy rằng cô gái này không hề muốn chết. Anh kể cho gaío sư nghe qua đôi mắt hé mở của cô gái, anh cảm thấy cô chống chọi và không chịu để bị cuốn chìm đi.
Vì vậy, anh đã cùng với cô chống chọi quá mức bình thường, và thế là mười phút sau, trái với mọi logíc, ngược lại tất cả những điều mà anh đã học, trái tim cô bắt đầu đập lại và phổi cô lại hít thở khí trời, hít thở nguồn sống. “Giáo sư có lý khi nói rằng chúng ta chỉ là bác sĩ và không phải cái gì cũng biết - Anh tiếp tục - Cô gái này cũng là bác sĩ”. Anh van xin giáo sư cho cô gái một cơ hội. Người ta đã nhìn thấy những bệnh nhân chìm trong hôn mê đến hơn sáu tháng trời rồi bỗng nhiên tỉnh lại mà chẳng ai hiểu được là vì sao. Điều vừa xảy ra với cô gái chưa từng xảy ra với người nào cả, vậy thì nếu phải tốn tiền để cứu cô ấy cũng có sao đâu. “Đừng để cô ấy chết, cô ấy không muốn, đó là điều cô ấy nói với chúng ta”. Giáo sư im lặng một chút rồi trả lời anh :
- Bác sĩ Stern, Lauren là học trò tôi, tính cách không phải dễ nhưng rất có tài, tôi rất quý mến cô ấy và đã hy vọng nhiều về sự nghiệp của cô ấy, cũng như tôi hy vọng nhiều về sự nghiệp của anh; cuộc nói chuyện này kết thúc ở đây.
Stern bước ra khỏi phòng làm việc của giáo sư mà không khép cửa lại. Frank đứng đợi anh trong hành lang.
- Cậu đứng đây làm gì?
- Đầu óc cậu làm sao thế Philip, cậu có biết cậu vừa nói bằng cái giọng như thế với ai không?
- Thế thì sao?
- Người mà cậu nói chuyện là giáo sư của cô gái ấy, ông ta biết rõ cô ấy và làm việc cùng với cô ấy suốt mười lăm tháng nay, ông ta đã cứu sống nhiều người hơn là cậu có thể làm trong suốt cuộc đời bác sĩ của cậu. Cậu cần phải học cách tự chủ, quả thực là đôi khi cậu nói năng rất nhảm nhí.
- Để cho mình yên, Frank, hôm nay mình nghe giảng đạo đức thế là đủ rồi
 
Chương 03Bác sĩ Fernstein đi ra khép lại cửa phòng, ông nhấc máy điện thoại, lưỡng lự đặt máy xuống, bước vài bước về phiá cửa sổ, rồi lại đột ngột nhấc điện thoại lên. Ông yêu cầu cho ông nói chuyện với phòng mổ. Ngay lập tức có một giọng máy trả lời ở đầu máy bên kia.
- Fernstein đây, các anh chuẩn bị đi, mười phút nữa ta có một ca mổ, tôi sẽ bảo mang bệnh án đến cho các anh.
- Ông nhẹ nhàng đặt máy điện thoại xuống, lắc đầu, và đi ra khỏi phòng làm việc.
Vừa bước ra, ông xô ngay phải giáo sư Williams.
- Tình hình anh thế nào? - Giáo sư Williams hỏi - Đi uống chén cà phê với tôi nhé?
- Không, tôi không đi được đâu.
- Anh có việc gì thế?
- Một việc ngớ ngẩn, tôi đang chuẩn bị làm một việc ngớ ngẩn. Tôi phải đi ngay đây, tôi sẽ gọi điện cho anh sau.
Fernstein bước vào phòng mổ, người khoác chiếc áo blu màu xanh lá cây có dây buộc lại ở thắt lưng. Một cô y tá đeo vào cho ông đôi găng tay đã khử trùng. Căn phòng rộng mênh mông, kíp mổ đã đứng bao quanh chỗ Lauren nằm. Phía sau đầu cô gái có một cái máy dao động theo nhịp thở và nhịp tim đập của cô.
- Các hằng số thế nào? - Fernstein hỏi bác sĩ gây mê.
- Ổn định, ổn định không ngờ. Sáu mươi nhăm và 12/8. Cô ấy đang ngủ thiếp đi, huyết khí bình thường, giáo sư có thể tiến hành.
- Phải, anh nói đúng, cô ấy đang ngủ thiếp đi.
Lưỡi dao mổ rạch một đường dài dọc theo vết thương đùi. Vừa bắt đầu tách những lớp cơ ra, giáo sư vừa nói với cả kíp mổ. Gọi họ là “các bạn đồng nghiệp thân mến”, ông giải thích cho họ rằng họ sắp chứng kiến một giáo sư phẫu thuật với hai mươi năm kinh nghiệm thực hiện một ca mổ chỉ đáng để cho sinh viên y nội trú năm thứ năm làm: nắn lại xương đùi.
- Các anh chị có biết vì sao tôi lại làm không?
Đó là bởi vì không có một sinh viên nội trú năm thứ năm nào sẽ chấp nhận nắn lại xương đùi cho một người mà bộ não đã chết được hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cũng đề nghị đừng ai hỏi ông gì hết, họ chỉ có mười lăm phút là cùng thôi và ông cám ơn tất cả đã sẵn sàng vào cuộc. Nhưng Lauren là học trò của giáo sư nên tất cả mọi người có mặt trong phòng đều hiểu ông và đồng tình với ông thực hiện ca mổ. Một bác sĩ điện quang bước vào và chiếu cho mọi người xem mấy tấm phim. Trên phim thấy hiện rõ một bọc máu ở thuỳ xương chẩm. Quyết định được đưa ra là phải chọc hút để giải phóng sức ép. Một lỗ chọc được thực hiện phía sau đầu, một chiếc kim mảnh được luồn qua đó rồi xuyên qua màng não, dưới sự giám sát bẳng màn hình. Chiếc kim được bác sĩ phẫu thuật điểu khiển đến tận nơi có bọc máu. Bản thân bộ não thì dường như không bị ảnh hưởng gì. Một dòng máu chảy qua ống thông. Gần như ngay lập tức, sức ép trong sọ giảm đi. Bác sĩ gây mê lập tức tăng lưu lượng ôxygen truyền vào não bằng con đường đặt nội khí quản. Được giải phóng khỏi sức ép, các tế bào lấy lại được sự chuyển hóa bình thường, loại dần đi những độc tố tích tụ. dần dần từng phút một, ca mổ thay đổi trạng thái tinh thần. Cả êkíp phẫu thuật quên đi là họ đang mổ cho một người đã chết lâm sàng. Mọi người bị cuốn hút vào cuộc, những thao tác điêu luyện nối tiếp nhau. Chụp X quang xương sườn, khôi phục lại những đoạn xương gãy, chọc hút màng phổi... Ca mổ được thực hiện rất có phương pháp và chuẩn xác. Năm tiếng đống hồ sau, giáo sư Fernstein tháo găng tay ra đập khẽ vào nhau. Ông yêu cầu kíp mổ làm nốt việc khâu lại vết mổ rồi chuyển bệnh nhân vào phòng hồi sức. Ông ra lệnh tháo hết các máy móc trợ giúp hô hấp ngay khi thuốc mê hết hiệu lực.
Một lần nữa, ông cám ơn kíp mổ về sự có mặt của họ và về việc họ sẽ kín tiếng sau này. Trước khi rời khỏi phòng mổ, ông yêu cầu một cô y tá, Betty, khi nào tháo các máy móc ra khỏi người Lauren thì báo ngay cho ông biết. Ông đi ra khỏi phóng mổ và bước nhanh về phía thang máy. Đi ngang qua tổng đài, ông gọi điện hỏi cô thường trực và muốn biết xem bác sĩ Stern có còn ở trong bệnh viện hay không. Cô gái trả lời là không, anh ấy đã đi về rồi, vẻ mặt mệt mỏi lắm. Giáo sư cám ơn cô gái và nói là ông đi nghỉ, nếu có ai hỏi thì nói là ông ở trong phòng làm việc của ông.
Từ phòng mổ, Lauren được đưa vào phòng hồi sức. Betty lắp máy kiểm tra tim, máy điện não và một ống thông nối vào máy thở nhân tạo. Được trang bị như vậy, trông Lauren lúc này không khác gì một phi công vũ trụ. Cô y tá trích một ít máu của Lauren để xét nghiệm rồi rời khỏi căn phòng. Lauren nằm ngủ yên, trên mi mắt như hiện lên bóng dáng của một xứ sở khác trong giấc ngủ dịu dàng và sâu thẳm. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, Betty gọi điện cho giáo sư Fernstein.Cô báo cho giáo sư là thuốc gây mê đã hết tác dụng đối với Lauren. Ông bèn hỏi cô về các hằng số cơ bản. Cô xác nhận với ông điều mà ông đang chờ đợi, các hằng số vẫn ổn định như trước. Cô xin ông khẳng định lại việc phải làm tiếp theo.
- Cô tháo máy hô hấp ra đi. Lát nữa tôi sẽ đến.
Nói rồi giáo sư dập máy. Betty đi vào phòng, cô tháo ống thông ra khỏi máy, thử để cho bệnh nhân tự thở. Một lát sau cô rút hẳn ống thông ra khỏi bệnh nhân, giải phóng cho khí quản khỏi vướng víu. Cô vuốt lại một mảng tóc của Lauren về phía sau, âu yếm nhìn cô gái rồi tắt đèn, và đi ra khỏi phòng. Căn phòng chìm trong ánh sáng màu xanh lá cây phát ra từ máy điện não. Biểu đồ trên máy vẫn thẳng băng. Lúa đó là gần 21h30 phút, xung quanh tĩnh lặng.
Gần một giờ sáng, tín hiệu ở máy hiện sóng bắt đầu dao động, lúc đầu chỉ rất khẽ khàng. Đột nhiên, điểm cuối biểu đồ bỗng nhảy vọt lên, vạch thành một đỉnh khá cao, sau đó lại nhào đến chóng mặt xuống phía dưới rồi lại trở về thành một đường kẻ ngang.
Không ai chứng kiến sự bất thường này. Điều ngẫu nhiên đã xảy ra như vậy, phải một tiếng đồng hồ sau đó, Betty mới trở lại căn phòng. Cô đến lấy những chỉ số của Lauren, mở xem băng giấy in biểu đồ tuôn ra từ máy, phát hiện ra cái đỉnh cao bất thường, cô nhướn lông mày và tiếp tục đọc thêm vài cm nữa. Nhận thấy đoạn biểu đồ tiếp theo vẫn là một đường thẳng, cô ném tờ giấy đi mà không đặt thêm câu hỏi nào khác. Cô nhấc máy điện thoại treo ở tường lên và gọi điện cho giáo sư Fernstein.
- Tôi đây, thưa giáo sư, bệnh nhân chìm sâu trong hôn mê với những hằng số ổn định. Tôi làm gì tiếp bây giờ?
- Cô tìm một gi.ường bệnh ở tầng năm, cám ơn Betty.
Fernstein dập máy.
 
Chương 04Mùa đông 1996
Arthur dùng điều khiển từ xa để mở cửa gara và đỗ xe ôtô vào đó. Anh đi theo lối cầu thang trong vào căn hộ mới của mình. Anh dùng chân dập cửa lại, đặt túi xuống, cởi áo măng tô và ngồi phịch vào đi văng. Giữa phòng khách, chừng hai chục thùng các tông vứt ngổn ngang nhắc anh nhớ đến những công việc phải làm. Anh cởi bỏ bộ comlê ra, mặc vào cái quần bò và miệt mài tháo dỡ những thùng đồ, xếp những quyển sách trong các thùng lên giá sách. Sàn gỗ kêu ken két dưới bước chân anh. Đến lúc rất khuya, khi đã xếp xong tất cả, anh bèn gập bỏ những vỏ hộp các tông lại, cho chạy máy hút bụi và dọn nốt cái bếp. Xong xuôi, anh ngắm nghía tổ ấm mới của mình. “Mình phải xả cho nguội bớt người đi một chút mới được”, anh tự nhủ. Đi vào buồng tắm, anh do dự không biết nên dùng vòi hoa sen hay dùng bồn tắm. Quyết định dùng bồn tắm, anh vặn vòi nước, bật cái đài nhỏ trên lò sưởi gần tủ quần áo đựng quần áo bằng gỗ, cởi quần áo ra và bước vào bồn tắm, thở dài nhẹ nhõm.
Trong khi Peggy Lee hát bài Fever trên làn sóng 101.3FM, Arthur nhúng đầu nhiều lần vào nước. Điều làm anh ngạc nhiên trước hết là chất lượng âm thanh của bài hát mà anh đang nghe, sau đó là tính chất stereo thực đến kinh ngạc, nhất là lại phát ra từ một cái đài được coi là mono. Nghe kỹ, anh cảm thấy hình như từ chiếc tủ quần áo vọng ra tiếng ngón tay đánh nhịp theo giai điệu của bài hát, óc tò mò bị kích thích, anh bước ra khỏi buồng tắm, đi rón rén về phía tủ để nghe rõ hơn. Tiếng động mỗi lúc một rõ lên. Anh do dự, hít một hơi dài rồi bất thần mở tung cánh cửa tủ. Trố mắt ra, anh khẽ lùi lại.
Giữa những chiếc mắc quần áo có một cô gái, mắt nhắm lại, vẻ như bị điệu nhạc quyến rũ, vừa búng ngón tay trỏ và ngón tay cái vào nhau để đánh nhịp, vừa khe khẽ hát.
- Cô là ai? Cô làm gì ở đây? - Anh hỏi.
Cô gái giật nảy mình và mở tròn xoe mắt.
- Anh nhìn thấy tôi à?
- Tất nhiên là tôi nhìn thấy cô.
- Cô gái dường như vô cùng sửng sốt về việc anh nhìn thấy cô. Arthur liền nhắc cô rằng anh không mù cũng chẳng điếc, rồi anh đặt lại câu hỏi lần nữa: cô làm gì ở đây? Đáp lại mọi câu hỏi, cô gái nói với anh rằng cô thấy điều này thật tuyệt vời. Arthur chả thấy có gì là “tuyệt vời” trong tình huống này cả, và bằng một giọng khó chịu hơn, anh hỏi lại cô lần thứ ba: cô làm gì trong phòng tắm của anh vào giữa lúc đêm khuya như thế? “Tôi cho là anh chưa hiểu ra vấn đề - Cô gái nói - anh thử chạm vào cánh tay tôi đi!” Anh ngẩn người ra sững sờ, cô gái nài nỉ :
- Nào, anh làm ơn chạm vào cánh tay tôi đi.
- Không, tôi không chạm vào cánh tay cô đâu, có chuyện gì xảy ra ở đây?
Cô gái cầm lấy cổ tay Arthur rồi hỏi anh có cảm thấy là cô chạm vào anh không. Vẻ bực tức, anh quả quyết xác nhận rằng anh có cảm thấy là cô chạm vào anh, rằng anh nhìn thấy cô hết sức rõ ràng. Lần thứ tư, anh hỏi cô là ai và làm gì trong tủ đựng quần áo ở phòng tắm của anh. Cô gái lờ hẳn đi trong câu hỏi của anh và hân hoan nhắc lại rằng thật là “kỳ diệu” vì anh nhìn thấy cô, nghe thấy cô và có thể chạm được vào cô. Sau một ngày làm việc một mỏi, Arthur có tâm trạng không lấy gì làm vui.
- Này cô, đủ rồi đấy. Đây là trò đùa của ông bạn hợp doanh của tôi phải không? Cô là ai? Một gái gọi dùng để làm quà mừng nhà mới à?
- Lúc nào anh cũng thô lỗ như vậy hay sao? Trông tôi có giống gái điếm không?
Arthur thở dài.
- Không, trông cô không giống gái điếm, có điều là cô lại nấp trong buồng tắm nhà tôi vào lúc gần nửa đêm.
- Hiện thời anh là người đang trần truồng chứ không phải tôi!
Arthur giật nảy mình, chộp vội một cái khăn tắm quấn ngang bụng và cố lấy lại vẻ bình thường. Sau đó anh cao giọng :
- Thôi được, bây giờ ta chấm dứt cái trò này, cô ra khỏi đây, đi về nhà cô và nói với Paul rằng đây là một trò rất tầm thường, rất rất tầm thường.
Cô không quen biết Paul và yêu cầu anh hãy hạ giọng xuống. Dù sao thì cô cũng có điếc đâu, chỉ có những người khác là không nghe thấy cô, chứ cô thì nghe rất rõ. Anh mệt mỏi và không hiểu gì cả về tình huống này. Cô gái có vẻ rất xáo động, anh thì vừa mới chuyển nhà xong và chỉ muốn được yên tĩnh.
- Làm ơn cầm lấy các thứ của cô rồi về nhà cô đi, và nhất là ra khỏi cái tủ này đi chứ.
- Từ từ nào, việc này đâu có dễ như vậy, tôi không thể chính xác hoàn toàn được, cho dù vài ngày nay cũng đã khá hơn rồi.
- Cái gì khá hơn từ vài ngày nay?
- Nhắm mắt lại đi, tôi thử đây.
- Cô thử làm gì?
- Ra khỏi tủ chứ còn gì nữa, đó là điều anh muốn, phải không nào? Vậy thì nhắm mắt lại đi, tôi cần phải tập trung tư tưởng, và anh im đi cho 2 phút.
- Cô thật điên rồ quá mức!
- Ồ! Khó chịu đến thế là đủ rồi, xin anh im đi và nhắm mắt lại cho, ta sẽ không đứng cả đêm ở đây.
Bối rối, Arthur bèn phục tùng. Hai giây sau anh nghe một giọng nói từ phòng khách vọng đến.
- Không đến nỗi nào, chỉ đến được cạnh đi văng thôi, nhưng vậy là cũng không đến nỗi.
Anh vội đi ra khỏi buồng tắm và nhìn thấy cô gái đang ngồi trên sàn nhà ở chính giữa phòng. Cô làm như không hề có chuyện gì xảy ra cả.
- Anh giữ lại các tấm thảm thế này tôi rất thích, nhưng tôi ghét cái tranh treo trên tường kia.
- Tôi treo những tấm tranh tôi thích ở chỗ mà tôi thích, và tôi muốn đi ngủ đây, vậy nên nếu cô không muốn nói cô là ai thì cũng không sao cả, nhưng đi ra ngoài ngay! Về nhà cô đi!
- Tôi đang ở nhà tôi! Tức là, hồi trước đây là nhà tôi. Tất cả câu chuyện này sao mà nản quá.
Arthur lắc đầu, anh thuê căn hộ này cách đây mười hôm và báo cho cô biết rằng anh đang ở nhà anh.
- Vâng, tôi biết, anh là người thuê nhà của tôi sau khi tôi chết, tình huống này quả thật cũng khá nực cười.
- Cô nói vớ vẩn, chủ nhà này là một bà quãng bảy chục tuổi. Còn cái chuyện thuê nhà sau khi cô chết có nghĩa là gì vậy?
- Bà ấy sẽ rất hài lòng nếu được nghe anh nói đấy, bà ấy sáu mươi hai tuổi, đó là mẹ tôi và là người giám hộ hợp pháp của tôi trong hoàn cảnh hiện thời. Tôi mới thực là chủ nhà.
- Cô có một người giám hộ hơp pháp à?
- Đúng vậy, chiếu theo hoàn cảnh, đối với tôi lúc này mà phải ký giấy tờ thì thật khó đến phát điên lên được.
- Cô đang điều trị trong một bệnh viện à?
- Đúng thế, nói một cách nhẹ nhàng nhất thì là như vậy.
- Ở đó chắc mọi người đang lo lắng lắm. Bệnh viện nào vậy, tôi sẽ đưa cô đến.
- Này anh, anh đang nghĩ tôi là một mụ điên rồ đấy à?
- Không phải thế đâu...
- Sau chuyện gái điếm mà cón thêm thế nữa thì quá nhiều đối với lần gặp đầu đấy.
Anh cóc cần biết cô là một gái gọi hay một người điên kỳ quái, anh mệt rũ ra rồi và chỉ muốn đi ngủ thôi. Cô gái không đáp lại mà cứ tiếp tục theo đà suy nghĩ của mình.
- Anh thấy tôi thế nào? - Cô lại hỏi
- Tôi không hiểu câu hỏi của cô.
- Trông tôi thế nào, tôi không nhìn thấy mình trong gương được, trông tôi thế nào?
- Xáo động, cô có vẻ rất xáo động - Anh thản nhiên nói.
- Tôi muốn hỏi về mặt hình thức cơ.
Arthur do dự, anh miêu tả cô là một cô gái cao lớn, mắt rất to, miệng xinh, gương mặt dịu dàng trái ngược hẳn với cách xử sự của cô, anh nói rằng cô có những ngón tay dài với những cử chỉ duyên dáng.
- Nếu tôi nhờ anh chỉ cho một ga tàu điện ngầm thì chắc hẳn anh sẽ cho biết hết tất cả những cách có thể di chuyển đến đó phải không?
- Xin lỗi, tôi không hiểu.
- Thế anh không tự hỏi làm sao tôi có thể vào đây một cách chính xác như thế à?
- Làm sao cô vào đây được, cô có chìa khóa khác à?
- Tôi không cần chìa khóa. Thật khó tin là anh lại nhìn thấy tôi.
Cô lại nhấn mạnh rằng đối với cô việc được người khác nhìn thấy đúng là một phép màu. Cô nói với anh rằng cô thấy cách anh miêu tả cô thật dễ thương. Và cô mời anh ngồi xuống cạnh cô. “Điều mà tôi sắp nói với anh đây sẽ không dễ nghe và thật khó chấp nhận, nhưng nếu anh vui lòng nghe câu chuyện của tôi, nếu anh vui lòng dành cho tôi sự tin cậy thì có thể cuối cùng anh sẽ tin tôi và điều đó rất quan trọng, bởi vỉ dù anh không hề ngờ tới, anh là người duy nhất trên đời mà tôi có thể chia sẻ bí mật này”.
Arthur hiểu rằng không còn cách nào khác, anh sẽ phải nghe điều mà cô gái này muốn nói với anh, và mặc dù mong muốn duy nhất của anh lúc này là được ngủ, anh vẫn ngồi xuống bên cô và nghe câu chuyện khó tin nhất mà anh từng được nghe trong đời.
Cô tên là Lauren Kline, cô nói rằng mình là sinh viên y nội trú và sáu tháng trước đã bị tai nạn ôtô, một tai nạn trầm trọng do gãy bộ lái. “Từ đó tôi bị hôn mê. Không, anh đừng nghĩ gì vội, để tôi giải thích cho anh”. Cô không nhớ gì về tai nạn nữa cả. Cô lấy lại được ý thức lúc ở phòng hồi sức, sau ca mổ. Khắp người có những cảm giác rất kỳ lạ, cô nghe thấy tất cả những điều người ta nói xung quanh cô, nhưng cô không thể cử động mà cũng chẳng nói được. Lúc đầu cô cho rằng đó là do thuốc gây mê “Nhưng tôi đã lầm, nhiều tiếng đồng hồ trôi qua mà tôi vẫn không sao tỉnh dậy được về mặt thể chất” Cô tiếp tục nhận thức được tất cả, nhưng không thể giao tiếp được với thế giới bên ngoài. Trong đời chưa bao giờ cô sợ đến thế, vì suốt bao nhiêu ngày cứ nghĩ rằng mình bị liệt toàn thân. “Anh không thể tưởng tượng được cái mà tôi trải qua đâu. Suốt đời bị cầm tù bởi chính th.ân thể mình”.
Cô hết sức muốn chết đi cho xong,nhưng mà khó lòng làm đựoc điều đó khi mà đến giơ ngón tay lên cũng chả được. Mẹ cô ở bên gi.ường bệnh của cô. Bằng ý nghĩ, cô vna xin mẹ dùng gối làm cho cô nghẹt thở. Rồi có một bác sĩ bước vào phòng, cô nhận ra giọng của ông, đó là giọng nói của giáo sư của cô. Bà Kline hỏi giáo sư liệu con gái bà có nghe được khi mọi người nói với cô không. Fernstein trả lời là ông không biết gì về chuyện đó cả, nhưng các công trình nghiên cứu cho phép nghĩ rằng những người trong tình trạng như cô nhận thức đựơc tín hiệu của thế giới bên ngoài, vì vậy cần phải thận trọng khi nói bên cạnh cô. “Mẹ tôi muốn biết liệu có ngày tôi tỉnh lại được không”. Giáo sư trả lời bằng một giọng trầm tĩnh rằng ông vẫn không biết gì hết, rằng cần phải giữ một chút hy vọng, rằng người đã thấy có bệnh nhân hồi tỉnh sau nhiều tháng, rằng điều đó rất hiếm nhưng đã từng xảy ra. “Tất cả đều có thể, ông nói, chúng ta không phải là thánh thần, chúng ta không biết hết mọi điều”. Ông nói thêm: “Cơn hôn mê kéo dài là một điều bí ẩn đối với y học”. Thật kỳ lạ, điều đó làm cô nhẹ cả người, cơ thể cô hóa ra còn nguyên vẹn. Sự chẩn đoán này không làm an lòng hơn, nhưng ít nhất cũng không phải là vĩnh viễn. “Liệt toàn thân thì vô phương cứu chữa. Trong các trường hợp hôn mê kéo dài thì bao giờ cũng còn hy vọng, dù rằng rất nhỏ”, Lauren nói thêm. Các tuần lễ chậm chạp trôi qua, dài lê thê, mỗi ngày một dài hơn. Cô sống trong những kỷ niệm của mình và nghĩ đến những nơi khác. Một đêm, khi mơ về cuộc sống ở phía bên kia cánh cửa phòng, cô tưởng tượng ra cái hành lang với những cô y tá qua lại, tay ôm đầy hồ sơ bệnh án hay đẩy xe lăn, các đồng ngiệp của cô, đi từ phòng này sang phòng khác...
- Và lần đầu tiên điều đó xảy ra: tôi thấy mình ở giữa cái hành lang mà tôi đang hết sức nghĩ đến. Đầu tiên, tôi nghĩ là trí tưởng tưởng của tôi đã chơi khăm tôi một vố, tôi biết rõ những nơi này, đó là bệnh viện mà tôi làm việc. Nhưng khung cảnh trông hiện thực đến rủn cả người. Tôi nhìn thấy các nhân viên bệnh viện xung quanh tôi, Betty mở tủ lấy ra những miếng gạc rồi đóng tủ lại, Stephen đi qua, tay vò đầu. Anh ta bị một tật về thần kinh, lúc nào anh ta cũng làm như vậy.
Cô nghe thấy tiếng ồn ào từ cửa thang máy, cô ngửi thấy mùi tỏa ra ở những món ăn được đem đến cho các nhân viên đang phiên trực. Không ai nhìn thấy cô cả, mọi người đi lại xung quanh cô, thậm chí chẳng buồn tìm cách tránh cô, hoàn toàn không biết đền sự có mặt của cô. Cô cảm thấy mệt mỏi, cô nhập lại vào cơ thể mình.
 
Những ngày tiếp theo, cô học cách di chuyển trong bệnh viện. Cô nghĩ đến nhà ăn và có mặt ở đó, nghĩ đến phòng cấp cứu và “hấp”, cô ở đó ngay. Sau ba tháng luyện tập, cô đã đi xa được ra ngoài bệnh viện. Bằng cách ấy cô đã tham dự bữa ăn tối với một cặp người Pháp trong một khách sạn yêu thích của cô, xem nửa bộ phim trong một rạp chiếu bóng, đến ở nhà mẹ cô vài tiếng đồng hồ. “Tôi không lặp lại thử nghiệm này lần nào nữa, tôi thấy quá khổ tâm khi ở ngay bên mẹ mà không thể giao tiếp với mẹ được”. Con chó Kali cảm nhận được sự có mặt của cô, nó vừa đi quanh quẩn vừa rên ư ử, điều đó làm cho cô phát điên lên được. Rồi cô trở lại đây vì dù sao đây cũng là nhà cô, và đây vẫn là nơi cô cảm thấy dễ chịu nhất. “Tôi sống trong sự cô đơn tuyệt đối. Anh không thể nào tưởng tượng được cái sự không thể nói với ai cả, trở nên vô hình, không tồn tại trong cuộc sống một người nào nữa. Vì thế anh sẽ hiểu nỗi bất ngờ và sự kích động của tôi khi anh nói với tôi tối nay, lúc tôi ở trong tủ và khi tôi nhận rõ là anh nhìn thấy tôi. Tôi không hiểu tại sao lại thế, miễn là điều đó kéo dài, tôi có thể nói với anh hàng giờ được, tôi có đến hàng trăm câu nói đang tồn kho”. Những lời nói đầy cảm xúc mãnh liệt nhường chỗ cho một khoảnh khắc yên lặng. Nước mắt trào ra lóng lánh ở khoé mắt cô. Cô nhìn Arthur, lấy tay vuốt lên mặt. “Chắc anh cho là tôi điên?” Arthur lặng đi, mủi lòng trước cảm xúc của cô gái, choáng ngợp bởi câu chuyện kì quặc mà anh vừa được nghe.
- Không, tất cả những chuyện đó, nói thế nào nhỉ, thật lạ thường, gây hoang mang, sửng sốt. Tôi thật không biết nói sao. Tôi muốn giúp cô, nhưng không biết phải làm gì.
- Cho tôi ở lại đây, tôi sẽ thu mình thật nhỏ, tôi sẽ không làm phiền anh đâu.
- Cô có thật sự tin vào tất cả những điều cô vừa kể cho tôi không?
- Anh không tin tí nào cả à? Anh đang tự nhủ rằng trước mặt anh là một cô gái hoàn toàn mất thăng bằng phải không? Dù sao thì tôi cũng chẳng có cơ may nào cả.
Anh đề nghị cô thử đặt mình vào vị trí của anh. Nếu như vào lúc nửa đêm cô bắt gặp trong tủ quần áo ở buồng tắm nhà cô một người đàn ông hơi bị kích động, anh ta cố giải thích cho cô rằng anh ta là một loại ma đang bị hôn mê, khi ấy cô sẽ nghĩ gì và phản ứng tức khắc của cô sẽ ra sao?
Nét mặt Lauren giãn ra, giữa làn nước mắt thoáng hiện một nụ cười. Cuối cùng cô thú nhận với anh rằng “tức khắc” hẳn là cô sẽ rú lên, và cô đồng ý rằng có thể châm chước cho anh được. Arthur bèn cám ơn cô về điều này.
- Arthur, anh phải tin tôi, tôi van anh đấy. Không ai có thể bịa ra được một câu chuyện như thế.
- Có chứ, có chứ, anh bạn hợp doanh của tôi có thể tưởng tượng được ra một trò đùa tầm cỡ này.
- Quên ông bạn hợp doanh của anh đi! Ông ta chẳng dính dáng gì vào đây cả, đây không phải là trò đùa.
Khi anh hỏi cô làm sao biết được tên anh, cô trả lời rằng cô ở đây từ trước khi anh chuyển đến. Do vậy cô thấy anh đến xem căn hộ và ký hợp đồng thuê nhà trên bàn trong bếp với nhân viên của hãng bất động sản. Cô cũng ở đây khi những thùng đồ bằng các tông của anh được chuyển đến và khi anh làm gãy cái makét máy bay của anh trong lúc tháo dỡ nó ra. Thành thực mà nói, tuy rằng cô lấy làm tiếc cho anh, cô cũng rất buồn cười về sự tức giận của anh lúc đó. Cô cũng nhìn thấy anh treo cái tranh nhạt thếch này trên đầu gi.ường anh.
- Anh cũng hơi gàn đấy, chuyển đi chuyển lại cái đi văng đến hai chục lần để rồi cuối cùng lại đặt nó vào chỗ duy nhất hợp với nó. Tôi rất muốn nhắc anh là cái chỗ ấy trông hiển nhiên đến thế cơ mà. Tất cả mọi lúc.
- Cô cũng có mặt khi tôi tắm hay lúc nằm trong gi.ường à?
- Tôi không phải người thích nhìn trộm. Nói cho cùng thì anh có thân hình cũng cân đối đấy, chỉ cần chú ý để khỏi bị mỡ ở thành bụng thôi, còn thì trông anh hoàn toàn không đến nỗi nào.
Arthur nhướn lông mày. Cô nói năng rất có sức thuyết phục hay đúng hơn là rất tự tin, nhưng anh có cảm giác như đang bị sa lầy, câu chuyện của cô gái này thật là vô nghĩa. Nếu cô muốn tin thì đó là việc của cô, anh chả có lý do gì để phải chứng minh cho cô là chuyện đó không có thật, anh có phải là bác sĩ tâm thần của cô đâu. Anh muốn ngủ và để cho xong việc anh bèn đề nghị cô ở lại đây một đêm, anh sẽ ngủ trên cái đi văng mà anh “phải khó nhọc lắm mới đặt được đúng chỗ” và nhường cho cô phòng ngủ của anh. Ngày mai cô sẽ về nhà cô hay về bệnh viện, chỗ nào mà cô muốn, và họ sẽ mỗi người một ngả. Nhưng Lauren không đồng ý, cô đứng ra trước mặt anh, vẻ cau có, quyết làm cho anh phải nghe cô. Hít một hơi dài, cô tuôn ra một loạt những bằng chứng kinh hoàng về các việc anh làm trong mấy ngày gần đây. Cô thuật lại cuộc nói chuyện điện thoại giữa anh và Carol-Ann lúc quãng mười một giờ tối hôm kia. Cô ấy dập phắt máy điện thoại trước mũi anh ngay sau khi anh lên lớp đạo đức cho cô ấy, mà lại khá là long trọng nữa chứ, về những lý do khiến anh không còn muốn nghe nói đến chuyện anh và cô ấy nữa. “Tin tôi đi” Cô nhắc lại với anh về hai cái chén mà anh đánh vỡ khi dỡ đồ đạc, “Tin tôi đi”, về chuyện anh ngủ dậy muộn và bị bỏng vì vòi nước nóng lúc tắm hoa sen, “Tin tôi đi”, về cả chuyện anh mất bao nhiêu thời gian vừa đi tìm chìa khóa xe ôtô vừa cáu kỉnh. “Tin tôi đi chứ, giời ạ”. Thêm vào đó, cô cho là anh rất đãng trí, chìa khóa của anh đặt ngay trên cái bàn nhỏ ở lối đi vào chứ đâu. Hôm thứ ba thì có hãng điện thoại đến đây, họ bắt anh đợi mất nửa tiếng đồng hồ. Và anh đã ăn bánh mì với pastrami, anh làm dây ra áo khoác và anh đã thay áo trước khi đi khỏi nhà.
“Bây giờ thì anh tin tôi rồi chứ?”
- Cô theo dõi tôi nhiều ngày nay, tại sao thế?
- Nhưng làm sao mà tôi lại theo dõi anh được chứ, đây có phải là Watergate đâu! làm gì có máy quay phim và máy ghi âm đặt ở mọi chỗ!
- Sao lại không nhỉ? Nhu vậy còn hợp lý hơn là câu chuyện của cô, phải không?
- Cầm lấy chìa khóa xe ôtô của anh đi!
- Để đi đâu?
- Đến bệnh viện, tôi đưa anh đi xem tôi.
- Tất nhiên rồi! Đã gần một giờ sáng, tôi sẽ đâm đầu đến một bệnh viện ở đầu kia thành phố và yêu cầu y tá trực vui lòng đưa tôi hết sức cấp tốc đến phòng bệnh của một cô gái mà tôi không quen biết vì hồn ma của cô ấy đang ở trong nhà tôi, tôi thì rất muốn ngủ mà cô ấy lại rất bướng bỉnh nên đó là cái cách duy nhất để cô ấy cho tôi được yên.
- Thế anh có thấy một cái khác không?
- Một cái gì khác?
- Một cái cách khác, nào, anh có dám nói với tôi là anh sẽ ngủ được không?
- Nhưng mà tôi đã làm gì Chúa trời để đến nông nỗi này?
- Anh có tin Chúa đâu, anh đã nói qua điện thoại với ông bạn hợp doanh của anh về một hợp đồng: “Paul, tao không tin vào Chúa, nếu bọn mình được vụ này thì đó là do bọn mình khá nhất, còn nếu không được thì phải rút ra những kết luận và tự xem lại mình”. Vậy thì, tự xem lại anh năm phút đi, tôi chỉ yêu cầu anh có thế thôi. Tin tôi đi! Tôi cần anh, anh là người duy nhất....
Arthur nhấc máy điện thoại và bấm số máy người bạn hợp doanh của anh.
- Tao có đánh thức mày không?
- Không đâu, mới có một giờ sáng thôi và tao đang đợi mày gọi điện thoại để còn đi ngủ - Paul trả lời.
- Tại sao? Tao cần phải gọi điện cho mày à?
- Không, mày không cần phải gọi cho tao, nhưng mà đúng là mày đã đánh thức tao rồi đấy. Mày muốn gì vào cái giờ này?
- Muốn cho mày nói chuyện với một người và nói với mày là những trò đùa của mày ngày càng ngu ngốc hơn.
Arthur đưa ống nghe cho Lauren và yêu cầu cô nói chuyện với bạn anh. Cô không cầm máy điện thoại được, cô giải thích cho anh là cô không cầm được bất kỳ vật nào. Đầu dây bên kia dây nói Paul sốt ruột hỏi Arthur đang nói với ai. Arthur mỉm cười đắc thắng và ấn nút bật micro ở máy điện thoại.
- Mày nghe thấy tao không, Paul?
- Có, tao nghe thấy mày. Nói đi, mày giở trò gì thế? Tao muốn ngủ.
- Tao cũng muốn ngủ, mày im đi cho một giây. Nói với hắn đi, Lauren, nói đi nào!
Cô gái nhún vai.
- Nếu anh muốn. Chào Paul, chắc chắn là bạn anh không nghe thấy tôi đâu, nhưng cả bạn anh anh cũng chẳng chịu nghe nốt.
- Thôi được, Arthur, nếu mày gọi tao để chẳng nói gì hết thì quả thật là rất muộn rồi đấy.
- Trả lời đi.
- Trả lời ai?
- Người vừa nói với mày ấy.
- Thì chính mày vừa nói với tao và tao đã trả lời mày rồi.
- Mày không nghe thấy ai khác à?
- Này, người hùng, mày bị lên cơn do lao lực quá hay sao?
Lauren nhìn anh với vẻ rất thương cảm.
Arthur lắc đầu; dù sao thì nếu như hai này người thông đồng với nhau, hắn ta cũng không đời nào chịu lòi đuôi dễ dàng như vậy được. Qua micro họ nghe thấy Paul hỏi lại xem Arthur nói với ai. Arthur yêu cầu bạn quên hết những chuyện này đi và xin lỗi vì đã gọi điện muộn như thế. Paul lo lắng muốn biết xem liệu mọi việc có ổn cả không, có cần anh ghé qua không. Athur trấn an bạn ngay lập tức, mọi việc đều ổn cả và anh cám ơn bạn.
- Nào, có gì đâu, ông bạn, mày cứ việc đánh thức tao khi nào mày muốn vì những trò ngớ ngẩn của mày, không việc gì mà phải ngại cả, bọn mình hợp doanh với nhau trong cả cái tốt lẫn cái xấu cơ mà. Vậy nên khi nào mày gặp chuyện gì xấu như thề này thì cứ đánh thức tao dậy, ta cùng hưởng. Thế nhé, ta ngủ lại được chưa hay mày còn chuyện gì khác?
- Chúc mày ngủ ngon, Paul.
Và họ dập máy điện thoại.
- Đi với tôi đến bệnh viện đi, lẽ ra ta đã ở đó rồi.
- Không, tôi không đi với cô đâu, đi như vậy là gia cố lòng tin cho câu chuyện kỳ cục này. Tôi mệt rồi cô ạ, và tôi muốn đi ngủ, vậy cô vào phòng ngủ còn tôi nằm đi văng hoặc là cô biến đi. Đó là đề nghị cuối cùng của tôi.
- Thế đấy, mình đã tìm được một kẻ còn cứng đầu hơn mình nữa chứ. Đi vào phòng ngủ của anh đi, tôi không cần gi.ường.
- Vậy cô làm gì?
- Điều đó thì ảnh hưởng gì đến anh?
- Điều đó ảnh hưởng đến tôi, vậy thôi.
- Tôi sẽ ở lại trong phòng khách.
- Cho đến sáng mai, sau đó thì...
- Vâng cho đến sáng mai, cám ơn lòng hiếu khách quý hóa của anh.
- Cô không vào phòng ngủ của tôi để theo dõi tôi chứ?
- Anh cứ việc khóa cửa phòng anh lại vì anh có tin tôi đâu, với lại nếu đó là do anh ngủ không mặc quần áo thì việc gì, tôi đã nhìn thấy cả người anh rồi, anh biết đấy!
- Tôi tưởng là cô không thích nhìn trộm cơ mà?
Cô lưu ý anh rằng lúc nãy trong buồng tắm, không cần phải thích nhìn trộm, mà phải mù cơ. Anh đỏ mặt lên và chúc cô ngủ ngon. “Đúng vậy, chúc anh ngủ ngon, Arthur, chúc anh có những giấc mơ đẹp”. Arthur đi vào phòng ngủ và dập cửa lại. “Đúng là một mụ điên - Anh lầm bầm - Thật là một câu chuyện điên rồ”. Anh nằm phịch vào gi.ường. Những chữ số màu xanh trên chiếc đài báo thức chỉ một giờ rưỡi. Anh nhìn những chữ số thay đổi cho đến lúc thành hai giờ mười một phút. Anh nhảy chồm dậy, mặc vào người một chiếc áo pull rộng thùng thình, quần bò, đi tất và đi ra khỏi phòng khách một cách đột ngột. Lauren đang ở đó, ngồi xếp bằng tròn trên bệ cửa sổ. Khi anh bước vào, cô nói với anh đầu không quay lại :
- Tôi thích khung cảnh này, anh có vậy không? Đó chính là cái khiến tôi mê căn hộ này. Tôi thích ngắm cây cầu, mùa hè tôi thích mở cửa sổ ra để nghe tiếng còi tàu thuỷ. Tôi luôn luôn muốn đếm những con sóng bị tan ra khi đập vào mũi tàu thủy trước khi những con tàu này vượt ra khỏi Golden Gate.
- Nào, ta đi thôi - Anh nói với cô thay câu trả lời.
- Thật chứ, tại sao đột nhiên anh lại quyết định thế?
- Cô làm toi mất đêm nay của tôi rồi, thôi thì đã hỏng cho hỏng luôn, miễn sao giải quyết đựơc vấn đề trong hôm nay, ngày mai tôi còn phải làm việc. Tôi có một cuộc gặp mặt quan trọng lúc trưa mai, và tôi phải cố ngủ ít nhất hai tiếng, vậy nên ta đi ngay bậy giờ. Cô khẩn trương lên chứ?
- Anh đi đi, tôi sẽ đi đến gặp anh.
- Cô đến gặp tôi ở đâu?
- Tôi sẽ đến gặp anh, tôi nói vậy rồi, tin tôi hai phút đi.
Anh cho rằng đối với tình huống hiện tại thì anh dành cho cô như vậy đã quá nhiều lòng tin. Trước khi đi ra, anh hỏi lại họ cô. Cô nói cho anh họ của mình và chỉ dẫn thêm cả số phòng lẫn số tầng mà cô đang nằm điều trị, tầng năm và phòng 505. Cô nói thêm là dễ nhớ thôi, toàn số năm cả mà. Anh thì thấy những cái đang chờ đợi mình chẳng có gì là dễ cả. Anh đóng cửa nhà, xuống cầu thang, đi vào chỗ đỗ xe. Lauren đã ở trong ôtô, ngồi ở hàng ghế sau.
- Tôi không biết bằng cách nào mà cô làm đựơc như vậy, nhưng quả thật tài quá. Cô chắc làm cùng với Houdini!
- Ai vậy?
- Houdini, một nhà ảo thuật.
- Anh có những nguồn thật hết ý.
- Xin cô ngồi lên phía trước cho, tôi không có mũ an toàn đâu.
- Xin anh độ lượng cho một tí, tôi đã nói với anh là tôi chưa thật chính xác được, ngồi vào ghế sau thì đâu có đến nỗi tồi, tôi còn có thể đậu lên nắp đậy xe được ấy chứ. Tuy rằng tôi đã rất tập trung tư tưởng vào bên trong xe. Tôi đảm bảo với anh là tôi tiến bộ ngày càng nhanh chóng hơn.
Lauren ngồi vào cạnh anh. Sự yên lặng ngự trị, cô gái nhìn qua cửa sổ. Arthur phóng vun vút trong đêm. Anh hỏi cô nên làm thế nào khi đã vào bệnh viện. Cô đề nghị anh giả vờ làm một người anh họ của cô ở Mehicô vừa mới nhận được tin đã phải đi mất một ngày một đêm để đến đây. Sáng sớm mai anh ta lại phải đi máy bay sang Anh và sáu tháng nữa mới quay lại, do vậy hết sức cần thiết phải vi phạm nội quy và cho phép anh ta được vào thăm cô em họ yêu quý, mặc dù đã khuya lắm rồi. Thành thực mà nói anh không tự thấy mình giống một gã Nam Mỹ, và lường trước là câu chuyện bịa của cô sẽ không trót lọt.
Cô cho là anh thật bi quan và gợi ý rằng nếu đúng như thế thì ngày mai họ sẽ quay lại đây. Anh không nên lo lắng. Nhưng thực ra thì trí tưởng tượng của cô mới là cái làm anh lo lắng hơn. Chiếc Saab chui vào trong khu vực của bệnh viện. Cô bảo anh rẽ trái, sau đó đi đường thứ hai bên tay phải và khuyên anh đỗ xe ở ngay sau cây thông màu bạc. Đỗ xe xong, cô khẽ chỉ cho anh cái chuông để bấm ban đêm, nhắc anh là đừng bấm lâu quá kẻo người ta khó chịu đấy. “Ai cơ?” Anh hỏi. “Những cô y tá đi từ cuối hành lang đi ra mở cửa chứ ai, họ không thể di chuyển bằng điều khiển từ xa được, anh tỉnh ngủ đi nào...” “Tôi cũng muốn lắm” Anh nói.
 
Chương 05Arthur ra khỏi ôtô và bấm hai hồi chuông ngắn gọn. Một phụ nữ nhỏ bé, cặp mắt đóng khung trong cái kính gọng đồi mồi ra mở cửa cho anh. Cô ta hé cửa và hỏi anh muốn gì. Anh xoay xở bằng mức tốt nhất mà anh có thể với câu chuyện của mình. Cô y tá cho anh biết rằng ở đây có nội quy thì hẳn để thi hành nó, anh chỉ có việc trở lại đây ngày mai thôi, và hoãn chuyến đi của anh lại.
Arthur van xin, viện cớ là ngoại lệ củng cố cho nguyên tắc. Đến lúc anh đã sẵn sàng đầu hàng, trong lòng ngán ngẩm, thì thấy cô y tá có vẻ nao núng, nhìn đồng hồ rồi rốt cục nói với anh. “Tôi phải đi một vòng thăm bệnh nhân đây, anh đi theo tôi, tuyệt đối không làm ồn, không đụng chạm vào đâu hết và mười lăm phút sau thì anh đi khỏi đây”. Anh cầm tay cô y tá lên hôn để tỏ lòng cám ơn. “Ở Mêhicô, tất cả các anh đều như vậy à?”, cô y tá hỏi, miệng thoáng một nụ cười. Cô để cho anh vào bên trong và bảo anh đi theo cô. Họ ra thang máy và đi thẳng lên tầng năm.
- Tôi đưa anh vào phòng, tôi tiếp tục đi thăm bệnh nhân rồi sẽ qua đây đón anh. Anh đừng động vào gì hết.
Cô y tá đẩy cửa phòng số 505, căn phòng mờ mờ tối. Một phụ nữ nằm trên gi.ường, người được rọi sáng bằng một ngọn đèn đêm, có vẻ như đang chìm trong một giấc ngủ sâu. Từ cửa ra vào, Arthur không thể nào phân biệt được những đường nét trên khuôn mặt đang ngủ ấy. Cô y tá hạ giọng :
- Tôi để cửa mở, anh vào đi, cô ấy không tỉnh dậy đâu, nhưng phải chú ý đối với những điều nói bên cạnh cô ấy đấy, người ta không bao giờ biết rõ về những bệnh nhân hôn mê cả. Ít ra thì đó là điều mà các bác sĩ nói, tôi thì tôi nói khác cơ.
Arthur rón rén đi vào, Lauren đã đứng cạnh cửa sổ và yêu cầu anh đi lại chỗ cô: “Lại đây nào, tôi không cắn anh đâu”. Anh không ngừng tự hỏi không biết mình làm gì ở đây. Anh đến gần bên gi.ường và hạ mắt xuống. Sự giống nhau trông thật đến bàng hoàng. Cô gái nằm bất động nhợt nhạt hơn cái phiên bản đang mỉm cười với anh, nhưng ngoài chi tiết này ra thì các đường nét của họ y hệt nhau. Anh bèn lùi lại một bước.
- Không thể như thế được, cô là chị em sinh đôi với người này à?
- Anh làm tôi nản quá! Tôi làm gì có chị với em. Chính tôi đang nằm đó, chỉ là tôi thôi, anh hãy giúp tôi và hãy cố chấp nhận điều không thể chấp nhận nổi. Không có cái gì là giả mạo ở đây và anh cũng không mê ngủ đâu. Arthur, tôi chỉ có mỗi anh, anh phải tin tôi, anh không thể quay lưng lại với tôi được. Tôi cần sự giúp đỡ của anh, anh là người duy nhất trên trái đất này mà tôi có thể nói chuyện cùng kể từ sáu tháng nay, là người duy nhất cảm thấy được sự hiện diện của tôi nghe được tôi nói
- Tại sao lại là tôi?
- Làm sao tôi biết được, chính tôi cũng cảm thấy chẳng có chút gì là lôgíc trong tất cả câu chuyện này.
- “Tất cả câu chuyện này” thật khá là ghê rợn.
- Anh tưởng là tôi không sợ hay sao?
Gì chứ nỗi sợ thì cô có thừa. Cô nhìn thấy chính cơ thể mình nằm đó như cây rau héo hắt đi từng ngày một, cô thấy mình nằm đó, nối với ống thoát tiểu và ống truyền thức ăn. Cô không có một câu trả lời nào cho những câu hỏi đặt ra và ngày nào cô cũng tự hỏi suốt từ lúc bị tai nạn đến giờ. “Tôi đặt ra những câu hỏi mà anh không thể ngờ được đâu”. Mắt nhìn buồn bã, cô chia sẻ với anh những điều ngờ vực và những nỗi khiếp sợ của cô: điều bí ẩn này sẽ kéo dài bao lâu? Cô có thể sống lại dù chỉ vài ngày cuộc sống của một phụ nữ bình thường, tự đi được bằng đôi chân của mình, ôm trong vòng tay mình những người mà mình yêu thương? Cô đã dành bao nhiêu năm học y để làm gì nếu như mọi chuyện lại kết thúc như thế này? Còn bao nhiêu ngày nữa thì tim cô thôi đập? Cô nhìn thấy mình chết và sợ đến lạnh người. “Tôi là một người -ma, Arthur”. Anh hạ mắt xuống để tránh cặp mắt cô.
- Để chết thì cần phải ra đi, thế nhưng cô vẫn ở đây cơ mà. Lại đây, ta về thôi, tôi mệt rồi và cô cũng vậy. Tôi đưa cô về.
Anh quàng tay lên vai cô và kéo cô sát lại người mình như để an ủi. Khi quay lại, anh thấy cô y tá đứng ngay trước mặt, nhìn anh chòng chọc, vẻ sửng sốt.
- Anh bị chuột rút à?
- Không, sao vậy?
- Cánh tay anh giơ lơ lửng lên cao, bàn tay thì nắm chặt, không phải là chuột rút à?
Arthur rụt phắt tay khỏi vai Lauren và để lại như thường.
- Chị không thấy cô ấy à? - Anh hỏi cô y tá.
- Tôi không thấy ai cơ?
- Không ai cả!
- Anh có muốn nghỉ ngơi một chút trước khi đi khỏi đây không, tôi thấy anh tự nhiên có vẻ là lạ thế nào ấy.
Cô y tá muốn trấn an anh, những chuyện thế này bao giờ cũng làm cho người ta bị sốc, “điều đó bình thường thôi”, “rồi sẽ qua thôi”. Arthur nói rất chậm để trả lời cứ như là anh đã bị mất tiếng và đang tìm lại cách nói: “Không, mọi chuyện ổn cả mà, tôi đi đây”. Cô y tá ngại hỏi liệu anh có tìm được đường ra khỏi đây không. Lấy lại được tinht hần, anh nói cô cứ yên tâm, lối ra ngay đầu hành lang thôi mà.
- Vậy tôi để anh lại đây nhé, tôi còn có việc ở phòng bên cạnh, tôi phải thay đồ trải gi.ường, có một sự cố nhỏ.
Arthur chào cô y tá rồi đi ra hành lang. Cô y tá nhìn thấy anh giơ tay lên để ngang và nói lầm bầm: “Tôi tin cô, Lauren, tôi tin cô”. Cô y tá nhướn lông mày rồi quay vào phòng bên cạnh. “Ôi trời! Vẫn có những người như vậy, họ bị chấn động thôi, có gì đáng nói đâu”. Hai người biến vào trong buồng thang máy. Arthur hạ mắt nhìn xuống dưới. Anh không nói gì, cô gái cũng vậy. Một đợt gió từ phía bắc thổi vào vịnh đem theo cơn mưa nhỏ và giá buốt, trời lạnh như cứa vào d.a thịt. Anh nâng cổ áo măng tô lên che gáy và mở cửa xe cho Lauren. “Ta tạm ngưng trò đi xuyên tường một chút là lập lại trật tự, xin cô vui lòng cho!” Cô vào xe ô tô một cách bình thường và mỉm cười với anh.
Đường về không ai nói một câu nào. Arthur tập trung vào việc nhìn đường, Lauren thì nhìn mây qua cửa sổ. Chỉ đến lúc về đến sát nhà cô mới bắt đầu lên tiếng, mắt không rời khỏi bầu trời :
- Tôi rất thích ban đêm, sự tĩnh mịch của nó, những dáng hình không in bóng của nó, những cách nhìn mà ta không thể có được ban ngày. Cứ như thể hai thế giới chung với nhau một thành phố mà không quen biết nhau, không hình dung ra mối liên quan giữa sự tồn tại của mình với cái kia. Vô khối người xuất hiện lúc hoàng hôn và biến mất lúc bình minh. Chẳng biết được họ đi đâu. Chỉ có những người ở bệnh viện như chúng tôi là biết đến họ.
- Dù sao đây cũng là một câu chuyện điên rồ. Cô thừa nhận đi. Thật khó mà chấp nhận được.
- Đúng vậy, nhưng ta sẽ không dừng lại ở đây chỉ vì thế, và mất cả phần đêm còn lại để lặp đi lặp lại điều này.
- Nếu mà nó còn lại được chút gì chứ, cái đêm của tôi!
- Đậu xe ô tô lại đi, tôi đợi anh trên kia.
Arthur đậu xe ở bên ngoài để khỏi làm hàng xóm thức giấc vì tiếng ồn khi mở cửa gara. Anh lên cầu thang và vào nhà. Lauren ngồi xếp bằng tròn ở giữa phòng khách.
- Cô nhắm vào cái đi văng phải không?
- Không, tôi nhắm vào tấm thảm và tôi rơi đúng vào đây
- Nói dối, tôi dám chắc là cô nhắm vào đi văng.
- Tôi thì tôi nói với anh là tôi nhắm vào tấm thảm.
- Cô đóng kịch kém lắm.
- Tôi muốn pha cho anh một chén trà nhưng...Anh phải đi ngủ thôi, anh chỉ còn rất ít thời gian để ngủ.
Anh hỏi cô về hoàn cảnh mà cô gặp tai nạn, cô kể cho anh nghe về sự thất thường của “mụ già Ănglê”, cái xe Triumph yêu quí của cô, về kỳ nghỉ cuối tuần đầu mùa hè năm ngoái, dự định ở Carmel và kết thúc ở Union Square. Cô không biết điều gì đã xảy ra.
- Thế bồ của cô thì sao?
- Bồ của tôi cái gì?
- Lúc ấy cô đi để gặp anh ta phải không?
- Đặt lai câu hỏi của anh đi - Lauren vừa nói vừa mỉm cười - Câu hỏi của anh là: “Cô có bồ không?”
- Hồi trước cô có bồ không? - Arthur nói theo.
- Cám ơn về thời quá khứ nhé, còn ch.uyện ấy thì tôi cũng đã từng có rồi.
- Cô chưa trả lời hẳn vào câu hỏi.
- Thế điều đó có liên quan đến anh à?
- Không, nói cho cùng thì tôi cũng chả hiểu tại sao tôi lại xen vào đây làm gì.
Arthur quay gót đi về phía phòng ngủ, anh lại mời Lauren vào ngủ trong gi.ường, còn để phần anh phòng khách.
Cô cám ơn anh đã tỏ ra ga lăng, nhưng cô cảm thấy rất thoải mái ở đi văng. Anh đi ngủ, quá mệt mỏi để có thể suy nghĩ về tất cả những điều mà buổi tối hôm nay gây ra, ngày mai họ sẽ nói lại chuyện đó sau. Trước khi khép lại cửa phòng anh chúc cô ngủ ngon, cô xin anh một đặc ân cuối cùng: “Anh có vui lòng hôn vào má tôi không?” Arthur nghiêng đầu, vẻ dò hỏi. “Trông anh như một cậu bé mười tuổi ấy, tôi chỉ đề nghị anh hôn vào má tôi chứ có gì đâu. Đã sáu tháng rồi chẳng có ai hôn tôi cả”. Anh quay lại, đến gần cô, ôm vai cô và hôn lên hai má cô. Cô dựa đầu vào ngực anh. Arthur cảm thấy mình lóng ngóng và bối rối. Anh vụng về khép hai cánh tay lại quanh vòng hông thon thả của cô. Cô dụi má vào vai anh.
- Cám ơn, Arthur, cám ơn anh về tất cả. Anh đi ngủ đi, anh sẽ kiệt sức mất thôi. Lát nữa tôi sẽ đánh thức anh dậy.
Anh đi vào phòng, cởi áo pull và áo sơ mi ra, ném cái quần dài lên một cái ghế rồi chui vào trong chăn. Chỉ vài phút sau giấc ngủ đã ập đến với anh. Khi anh đã ngủ rất say, Lauren đang từ chỗ ngồi ở phòng khách bèn nhắm mắt lại, tập trung tư tưởng rồi đậu xuống ngồi một cách chênh vênh trên tay vịn của chiếc ghế bành đối diện gi.ường. Cô nhìn anh ngủ. Gương mặt Arthur thanh thản, cô nhận thấy cả một nụ cười như của trẻ sinh thấp thoáng trên môi anh. Cô ngắm anh nhiều phút dài, cho tới khi đến lượt cô bị giấc ngủ cuốn đi. Đó là lần đầy tiên mà cô ngủ kể từ khi bị tai nạn.
Khi cô tỉnh dậy, vào quãng mười giờ sáng, anh còn ngủ rất say sưa. “Thôi chết rồi!”, cô la lên; cô ngồi sát vào cạnh gi.ường và lay anh thật mạnh. “Dậy đi, muộn lắm rồi”. Anh quay lại và làu bàu.
- Carol-Ann, đừng lay mạnh thế.
- Niềm nở thật, niềm nở thật, dậy thôi nào, không phải Carol-Ann đâu, và đã mười giờ năm rồi.
Thoạt đầu Arthur mở mắt từ từ, rồi đột nhiên giương to mắt và ngồi phắt dậy trên gi.ường.
- Cô ở đây à, vậy ra không phải là mơ?
- Lẽ ra anh đã có thể tránh để không nói điều này, thật là một câu nói đáng được mong đợi quá. Anh phải nhanh lên đi, đã hơn mười giờ rồi.
- Cái gì? - Đến lượt Arthur kêu lên - Cô phải đánh thức tôi dậy cơ mà.
- Tôi không điếc đâu, Carol-Ann thì có điếc không? Tôi rất tiếc, tôi ngủ quên đi mất, từ khi tôi nằm bệnh viện chưa bao giờ tôi ngủ như vậy cả, tôi đã tưởng là có thể ăn mừng sự kiện đó cùng anh nhưng tôi thấy là anh không còn lòng dạ nào nữa, anh đi chuẩn bị thôi.
- Này, cô đừng mất công nói bằng cái giọng chế giễu ấy nhé, cô đã làm toi của tôi một đêm rồi, giờ cô lại còn định tiếp tục buổi sáng nữa sao, xin cô thôi cho.
- Sáng ra anh niềm nở gớm nhỉ, khi anh ngủ tôi thấy thích anh hơn.
- Cô định cãi nhau với tôi đấy à?
- Đừng có mà mơ, đi mặc áo quần đi, không lại thành lỗi của tôi nữa đấy.
- Tất nhiên đó là lỗi của cô rồi, nếu cô đi ra ngoài cho thì thật là tử tế vì dưới lớp chăn này tôi không mặc quần áo gì cả.
- Bây giò anh lại kín đáo thế à?
Anh yêu cầu cô miễn cho cái trò cãi cọ trong nhà ngay khi vừa ngủ dậy và dại mồm kết thúc câu nói của mình bằng “nếu không thì...” “Nếu không thì” thường bao giờ cũng là một câu “thừa!”, cô đốp lại ngay lập tức. Bằng một giọng chua chát cô chúc anh một ngày tốt lành rồi đột ngột biến mất. Arthur nhìn xung quanh, do dự một lát, rồi gọi: “Lauren! Đủ rồi, tôi biết cô ở đây mà. Cô quả là có một tính cách tệ quá. Chui ra đi thôi, như vậy thật ngu ngốc”. Người trần truồng, hoa chân múa tay ở giữa phòng khách, anh chợt bắt gặp cái nhìn của ông hàng xóm nhà đối diện, ông ta nhìn qua cửa sổ cái cảnh này với vẻ rõ ràng là sửng sốt. Anh vội ngồi xuống đi văng, chộp lấy cái chăn, quấn ngang lưng và vừa đi về phía buồng tắm vừa lẩm bẩm: “Mình ở trần như nhộng, đứng giữa phòng khách, chưa bao giờ bị muộn như vậy và lại còn tự nói một mình nữa chứ, sao lại có chuyện điên rồ như thế này!”
Bước vào buồng tắm, anh mở cửa tủ quần áo và hỏi rất nhẹ nhàng: “Lauren, cô có ở đây không?” Không có tiếng trả lời nào. Arhtur thất vọng. Anh bèn tắm hoa sen thật nhanh. Tắm xong, anh chạy vào phòng ngủ, lặp lại câu hỏi ở tủ quần áo lúc nãy, và khi không thấy có một phản ứng nào, anh bèn mặc vào người bộ com lê. Phải thắt đi thắt đi thắt đi thắt lại ca vát đến ba lần mới xong, anh càu nhàu: “Sáng nay sao tay mình lóng ngóng thế!” Mặc quần áo xong, anh vào bếp, lục tủ tìm chìa khoá, hóa ra nó lại ở trong túi quần của anh. Anh vội vã đi ra khỏi nhà, đột nhiên dừng lại, đi ngược trở vào và lại mở cửa ra: “Lauren, vẫn không ở đó à?” Vài giây yên lặng, anh khóa lại cửa bằng hai lần khoá. Đi thẳng xuống chỗ đỗ xe bằng cầu thang trong, anh đi tìm xe ô tô của mình rồi nhớ ra là mình đậu xe ở ngoài, anh lại chạy xuyên qua hành lang và cuối cùng thì cũng ra được ngoài đường. Ngước mắt lên, anh lại nhận thấy ông hàng xóm đang nhìn mình chòng chọc, vẻ bối rối. Anh bèn mỉm cười gượng gạo với ông ta, lóng ngóng cho chìa khóa vào ổ khóa ở cửa xe ô tô, ngồi vào tay lái và tức khắc nổ máy. Khi anh đến cơ quan, anh bạn hợp doanh của anh đang ở trong đại sảnh, nhìn thấy anh, anh ta bèn lắc đầu mấy cái và bĩu môi rồi nói với anh :
- Có lẽ mày nên đi nghỉ vài ngày thôi.
- Mày đi nghỉ thì có và đừng có quấy nhiễu tao sáng nay.
- Niềm nở thật, mày niềm nở quá đấy.
- Mày cũng lại giở cái giọng ấy ra à?
- Mày nối lại với Carol-Ann rồi hay sao?
- Không, tao không nối lại với Carol-Ann, chấm dứt với Carol-Ann rồi, mày biết rõ quá còn gì.
- Để cho mày đến nông nỗi này thì chỉ có hai cách thôi, hoặc Carol-Ann, hoặc lại có một cô mới.
- Không, chả có cô nào mới cả, tránh ra, tao đã bị khá muộn rồi.
- Không đùa đấy chứ, mới mười một giờ kém mười lăm chứ mấy. Tên cô ta là gì?
- Tên ai?
- Mày có nhìn thấy cái mặt mày không?
- Mặt tao làm sao?
- Mày có vẻ đã qua đêm với một chiếc xe tăng xung kích chứ chả chơi, kể tao nghe với nào!
- Tao chả có gì để kể hết.
- Thế cú điện thoại nửa đêm của mày, với những trò ngớ ngẩn ở máy điện thoại, ai đấy?
Arthur nhìn chằm chằm vào anh bạn.
- Nghe đây, tối qua tao ngốn phải một cái của khỉ gì đó, tao bị một cơn ác mộng, tao ngủ được ít lắm. Thôi mày làm ơn, tao thật không còn tâm trạng đâu, để tao đi qua nào, tao đã bị muộn thật rồi.
Paul tránh ra. Khi Arthur đi qua trước mặt anh, anh bèn vỗ vào vai bạn: “Tao là bạn của mày, phải không nào?” Arthur quay lại, Paul nói thêm :
- Nếu mày gặp chuyện gì không hay thì mày nói với tao chứ?
- Nhưng mày làm sao thế? Tao chỉ bị mất ngủ đêm qua, vậy thôi, đừng có làm to chuyện.
- Được rồi, được rồi. Cuộc họp là vào lúc một giờ, mình hẹn gặp họ ở Hyatt Embarcadero, nếu mày muốn thì bọn mình cùng đi đến đó, sau đó tao lại về cơ quan.
- Không, tao sẽ đi xe của tao, sau đó tao còn hẹn một chỗ khác.
- Tuỳ mày thôi.
 
Arthur đi vào phòng làm việc của mình, đặt túi và ngồi xuống, anh gọi điện cho cô trợ lý, yêu cầu cô ta mang đến một tách cà phê, anh làm quay cái ghế xoay về phía đối diện cửa sổ, ngả ghế về phía sau và bắt đầu suy nghĩ.
Một lát sau, Maureen gõ cửa, một tay cầm tập tài liệu, tay kia cầm tách cà phê, một chiếc bánh rán đặt bên mép đĩa. Cô đặt cái tách nóng bỏng xuống góc bàn.
- Tôi pha thêm sữa vào cho anh đấy, tôi nghĩ đây là tách cà phê sáng đầu tiên của anh.
- Cám ơn. Maureen, mặt mũi tôi trông thế nào?
- Mặt anh có vẻ “tôi chưa uống tách cà phê sáng đầu tiên của tôi”.
- Tôi chưa uống tách cà phê sáng đầu tiên của tôi!
- Anh có tin nhắn lại ở điện thoại đấy, cứ ăn sáng thong thả đi, không có gì gấp cả đâu, tôi để lại giấy tờ cho anh ký. Anh vẫn khỏe chứ?
- Ừ, tôi vẫn khỏe, tôi chỉ mệt một chút thôi mà.
Đúng lúc đó, Lauren xuất hiện, rơi chệch ra ngoài góc bàn một tí. Cô lập tức biến khỏi tầm nhìn của Arthur và rơi phịch lại xuống tấm thảm. Arthur đứng phắt dậy :
- Cô có bị đau không?
- Không, không, không sao cả.
- Tại sao tôi lại bị đau cơ chứ? - Maureen hỏi.
- Không, không phải cô- Arthur trả lời.
Maureen đưa mắt nhìn khắp phòng.
- Ở đây có nhiều người đâu.
- Tôi nói to ý nghĩ của mình lên đấy mà.
- Anh nghĩ là tôi bị đau, và anh nói to lên như thế?
- Không đâu, tôi nghĩ đến một người khác và tôi diễn đạt thành lời nói, chuyện đó không bao giờ xảy ra với cô à?
Lauren ngồi khoanh chân ở góc bàn và quyết định chất vấn Arthur :
- Ahh không bị bắt buộc phải so sánh tôi với một cơn ác mộng đâu! - Cô nói với anh.
- Nhưng tôi đâu có gọi cô là cơn ác mộng.
- Đấy, chỉ còn thiếu nước ấy thôi, rồi anh sẽ tìm được những ơcn ác mộng để sai pha cà phê cho anh - Maureen trả lời.
- Maureen, tôi có nói với cô đâu!
- Trong phòng này có ma hay tôi bị mù một phần nên không nhìn thấy cái gì chắc?
- Thứ lỗi cho tôi, Maureen, thật là lố bịch, tôi thật lố bịch, tôi mệt quá và tôi nói to những điều mình nghĩ, đầu óc tôi hoàn toàn cứ ở đâu đâu ấy.
Mauree hỏi anh đã từng nghe đến chứng trầm uất do lao lực chưa? “Anh có biết là phải chữa chạy ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên không, để lâu hơn thì có khi phải mất hàng tháng mới hồi phục được đấy”.
- Maureen, tôi không bị trầm uất do lao lực, tôi vừa qua một đêm xấu, thế thôi.
Lauren tiếp luôn :
- A! Anh thấy chưa, một đêm xấu, cơn ác mộng...
- Thôi nào, xin cô, không thể thế được, cho tôi một phút nào.
- Nhưng tôi có nói gì đâu - Maureen thốt lên.
- Maureen, cô cho tôi ngồi yên một mình, tôi cần tập trung tư tưởng, tôi sẽ làm vài động tác thư giãn, rồi đâu sẽ vào đấy thôi.
- Anh sẽ tập thư giãn à? Anh làm tôi rất lo lắng đấy.
- Không đâu, mọi chuyện ổn cả mà.
Anh yêu cầu Maureen để anh một mình và đừng chuyển cho anh bất cứ cú điện thoại nào cả, anh cần yên tĩnh. Maureen miễn cưỡng đi ra và khép lại cửa phòng. Ra đến hành lang, cô thấy Paul, cô bèn xin anh cho gặp riêng một lát.
Còn lại một mình trong phòng, Arthur nhìn Lauren chăm chú.
- Cô không thể xuất hiện bất ngờ như thế này được, cô sẽ đặt tôi vào những tình huống khó xử.
- Tôi muốn xin lỗi về buổi sáng nay, tôi đã rất khó tính.
- Đó là lỗi của tôi, tâm trạng của tôi lúc đó thật tồi tệ.
- Đừng mất cả buổi sáng để xin lỗi nhau làm gì, tôi muốn nói chuyện với anh.
Paul bước vào mà không gõ cửa.
- Tao có thể nói chuyện với mày một câu được không?
- Thì mày đang nói đấy thôi.
- Tao vừa nói chuyện với Maureen xong, mày làm sao thế?
- Để cho tao yên thân đi, không phải chỉ vì có một làn tao đến muộn và mệt mỏi mà cần phải tuyên bố tức khắc là tao mắc chứng trầm uất.
- Tao không bảo là mày mắc chứng trầm uất.
- Không, nhưng đó là điều mà Maureen gợi ý với tao, như thể là sáng nay tao có một cái mặt giống ma ám.
- Không phải là giống ma ám, mà là bị ma ám.
- Tao bị ma ám đấy, ông bạn ạ.
- Tại sao? Mày đã gặp ai à?
Arthur dang hai tay ra và gật đầu thừa nhận, mắt ánh lên vẻ ranh mãnh.
- A, mày thấy chưa, mày không thể giấu tao cái gì được, tao biết chắc mà. Tao có biết cô ta không?
- Không, mày không thể biết được.
- Mày kể tao nghe được không? Ai thế? Khi nào thì tao gặp cô ta được?
- Cái này thì phức tạp đấy, đó là một bóng ma. Nhà tao bị ma ám, tối hôm qua tao tình cờ phát hiện ra điều này. Đó là một ma nữ, sống trong tủ quần áo ở buồng tắm nhà tao. Tao đã qua đêm với cô ta, nhưng nói thật ra, cô ta rất đẹp dưới dạng ma, không như... (anh làm vẻ mặt xấu như quỷ) ...quả thật là không như vậy, đó là một hồn ma rất đẹp hiện về, cô ta vẫn ở trong phạm trù những kẻ còn lưu lại dương gian, điều này giải thích mọi chuyện. Bây giờ thì mày đã thấy rõ hơn rồi chứ?
Paul nhìn bạn chằm chằm, vẻ thương cảm.
- Được rồi, tao sẽ đưa mày đến một bác sĩ.
- Thôi đi, Paul, tao rất mạnh khỏe.
Và anh nói với Lauren :
- Chuyện này thật không phải dễ đâu.
- Cái gì không phải dễ? - Paul hỏi.
- Tao không nói với mày.
- Vậy mày nói với con ma, nó ở trong phòng này à?
Arthur nhắc bạn rằng đó là một phụ nữ, và báo cho Paul biết là cô ta đang ngồi ngay cạnh anh trên góc bàn. Paul nhìn bạn nghi ngờ, và lấy lòng bàn tay vuốt rất chậm lên mặt bàn làm việc của Arthur.
- Này, tao biết là tao thường hay giở những trò vớ vẩn ra lừa mày, nhưng mà bây giờ thì mày làm tao sợ đấy, Arthur, mày không nhìn thấy cái mặt mày sáng nay, trông mày như sắp nổ tung ra đến nơi.
- Tao mệt, tao ngủ ít và hẳn là tao có vẻ mặt kinh lắm, nhưng ở bên trong thì tao hoàn toàn khỏe mạnh.
- Bên trong mày khỏe mạnh à? Bên ngoài thì có vẻ ọp ẹp lắm, còn các phía khác ra sao?
- Paul, để yên cho tao làm việc, mày là bạn tao, không phải bác sĩ tâm thần của tao, mà tao cũng chẳng cần bác sĩ tâm thần. Tao hoàn toàn không cần.
Paul đề nghị Arthur đừng đến cuộc gặp gỡ để ký kết sắp tới nữa. Anh có thể làm cho họ lỡ mất cái hợp đồng này. “Tao cho rằng mày không ý thức được rõ về tình trạng của mày, trông mày phát sợ”. Arthur cáu tiết đứng dậy, chộp lấy cái túi và đi ra cửa.
- Đồng ý, tao trông phát sợ, tao có cái mặt bị ma ám, vậy thì tao sẽ đi về nhà, xê ra cho tao đi. Lại đây, Lauren, ta đi thôi.
- Mày thật thiên tài, Arthur, vở của mày búa bổ quá.
- Tao không diễn vở với mày, Paul, mày có một đầu óc quá là, nói thế nào nhỉ, quá là tuân thủ lệ thường để có thể tưởng tượng được những điều mà tao trải qua. Nhớ là tao không giận mày đâu, bản thân tao cũng đã tiến triển rất nhiều kể từ tối hôm qua.
- Tuy vậy mày cũng đã nghe câu chuyện của chính mày rồi đấy chứ, thật vĩ đại!
- Ừ, mày đã nói vậy rồi mà, này, đừng có lo lắng gì hết, mày đã đề nghị để tự mày đảm nhiệm một mình việc ký kết này, như vậy tốt lắm, tao quả thật rất thiếu ngủ, tao sẽ đi nghỉ đây, cám ơn mày, ngày mai tao sẽ đến, mọi việc sẽ tốt hơn nhiều.
Paul bảo bạn cứ nghỉ ngơi vài ngày, ít nhất là đến cuối tuần; chuyển đến nhà bao giờ cũng hết hơi lắm. Anh sẽ giúp bạn trong dịp cuối tuần, nếu như Arthur cần gì đó. Arthur cám ơn một cách mỉa mai, rời phòng và chạy xuống cầu thang. Anh đi ra khỏi tòa nhà và tìm Lauren trên vỉa hè.
- Cô có ở đây không?
Lauren xuất hiện, ngồi trên mui xe ô tô.
- Tôi gây cho anh bao nhiêu là vấn đề, tôi thực sự rất tiếc.
- Không, cô không việc gì mà phải tiếc cả. Rốt cục, đã lâu lắm rồi tôi không làm cái trò này,
- Làm gì cơ?
- Bỏ học đi bụi. Suốt cả một ngày đi bụi.
Paul đứng ở cửa sổ, trán nhăn lại, nhìn bạn nói một mình ngoài đường, mở cửa xe phía bên kia một cách vô cớ và đóng lại ngay lập tức, đi vòng quanh xe, và ngồi vào sau tay lái. Anh tin chắc rằng người bạn thân nhất của anh đã mắc chứng trầm uất do lao lực hoặc là bị một tai biến não. Ngồi trên ghế ô tô, Arthur đặt tay lên tay lái và thở dài. Anh nhìn Lauren chăm chú, mỉm cười lặng lẽ. Ngượng nghịu, cô mỉm cười đáp lại anh.
- Thật bực mình khi bị coi là điên, phải không? Đó là anh ta còn chưa bảo anh là “đểu” đấy nhé!
- Tại sao? Cách giải thích của tôi rối rắm lắm à?
- Không, chẳng rối rắm tí nào cả. Ta đi đâu?
- Đi ăn một bữa sáng thật no, và cô sẽ kể hết cho tôi nghe, thật chi tiết.
Từ cửa sổ phòng làm việc của anh, Paul tiếp tục theo dõi bạn mình đang đậu xe phái dưới trước cửa tòa nhà. Khi anh nhìn thấy bạn nói một mình trong ô tô với một người vô hình và tưởng tượng, anh quyết định gọi điện cho bạn theo số máy đi động. Arthur vừa nhấc điện thoại, Paul liền yêu cầu bạn đừng nổ máy ôtô, anh xuống ngay lập tức, anh có điều cần nói với bạn.
- Về chuyện gì?
- Chính về ch.uyện ấy mà tao xuống đây.
Paul chạy xuống cầu thang, đi qua sân, đến trước chiếc xe Saab, anh mở cửa xe phía tay lái và ngồi xuống gần như vào đùi người bạn thân nhất của mình.
- Xê ra nào!
- Nhưng mày vào cửa bên kia chứ, trời ạ!
- Tao lái xe thì mày không bực mình chứ?
- Tao không hiểu, ta nói chuyện hay là ta lái xe đi?
- Cả hai, nào, ngồi sang ghế bên kia!
Paul đẩy Arthur ra và ngồi vào sau tay lái, anh vặn chìa khóa để nổ máy và chiếc xe rời chỗ đậu. Đến ngã tư đầu tiên anh phanh lại đột ngột.
- Hỏi một câu trước đã: Bóng ma của mày hiện có mặt trong xe ô tô với bọn mình không?
- Có, cô ấy ngồi ghế phía sau, do cái cách vào xe sỗ sàng của mày.
Paul bèn mở cửa, đi ra khỏi xe, gập ghế ngồi của anh lại, và nói với Arthur :
- Mày làm ơn đề nghị Casper ra khỏi đây để bọn mình riêng với nhau. Tao cần nói chuyện riêng với mày. Bọn mày gặp lại nhau ở nhà mày ấy!
Lauren xuất hiện ở phía cửa xe không có tay lái.
- Tìm tôi ở North-Point nhé, - Cô nói - tôi sẽ đi dạo ở đó. Anh biết đấy, nếu phức tạp quá thì anh không nhất thiết phải nói sự thật với anh ta, tôi không muốn đặt anh vào một tình huống khó xử.
- Anh ấy là người hợp doanh với tôi và là bạn tôi, tôi không thể nói dối anh ấy được.
- Mày cứ việc nói về tao với cái hôp đựng găng tay! - Paul tiếp tục - Tao ấy à, mày biết không, tối qua tao mở tủ lạnh ra, đèn sáng lên, tao thò đầu vào, và tao nói về mày với miếng bơ và mớ xa lát đến nửa tiếng đồng hồ.
- Tao không nói về mày với cái hộp đựng găng tay, mà là nói với cô ấy.
- Được rồi, thế thì mày bảo công nương Casper đi ủi lại tấm vải choàng của cô ta đi để ta có thể nói chuyện một tí!
Lauren biến mất.
- Hắn đi rồi à? - Paul hỏi, vẻ hơi cáu kỉnh.
- CÔ TA, chứ không phải HẮN! Ừ, cô ấy đi rồi, mày thật thô lỗ quá! Nào, mày định giở trò gì?
- Tao định giở trò gì à? - Paul vừa hỏi vừa bĩu môi.
Anh cho xe nổ máy.
- Không, tao chỉ muốn bọn mình ngồi riêng với nhau, tao muốn nói với mày những chuyện có tính chất riêng tư.
- Về cái gì?
- Về những hiệu ứng phụ đôi khi xảy ra nhiều tháng sau một cuộc chia tay.
Paul bắt đầu xổ ra tràng giang đại hải, Carol-Ann không phải là người dành cho Arthur, anh nghĩ là cô ta làm cho Arthur đau khổ nhiều vì những chuyện không đâu và cô ta không đáng để phải mất công. Tóm lại, người phụ nữ ấy là một kẻ tàn phế về phương diện hạnh phúc. Anh kêu gọi Arthur hãy trung thực với chính mình, cô ta thật không xứng đáng để anh phải rơi vào tình trạng mà anh đã trải qua từ khi hai người chia tay nhau. Sau Karine, Arthur chưa bao giờ suy sụp như vậy cả. Mà Karine thì Paul còn hiểu được, chứ Carol-Ann thì, nói thật ra là...
 
Arthur luư ý là vào cái thời với cô Karine nổi tiếng ấy thì anh mới có mười chín tuổi thôi, thêm vào đó anh cũng chưa bao giờ tán tỉnh cô ta cả. Hai mươi năm rồi Paul cứ nói đi nói lại mãi chuyện đó, mà chỉ vì Arthur là người nhìn thấy cô ta đầu tiên! Paul chối phắt việc anh đã từng gợi đến chuyện này. “Ít nhất là hai đến ba lần mỗi năm đấy!” Arthur đáp lại “Đùng một cái, cô ta lại được lôi từ hộp đựng đồ lưu niệm ra. Tao thì thậm chí chẳng nhớ nỗi mặt mũi cô ta thế nào nữa!” Paul bất chợt tỏ ra bực bội, anh bắt đầu hao chân múa tay.
- Nhưng tại sao không bao giờ mày muốn nói thật với tao về chuyện cô ta? Mẹ kiếp, thì cứ thú nhận là mày đã đi chơi với cô ta, vì đã hai mươi năm rồi như mày nói đấy, bây giờ có nói ra cũng chẳng tội tình gì!
- Mày làm tao phát cáu, Paul, mày chạy từ phòng làm việc xuống và bọn mình đang lái xe từ đầu này đến đầu kia thành phố không phải bỗng nhiên mày muốn nói với tao về Karine Lowenski đấy chứ? Mà ta đang đi đâu vậy?
- Mày không nhớ mặt mũi Karine,nhưng dù sao thì mày cũng không quên họ cô ta!
- Đó là chuyện rất quan trọng của mày đấy hả?
- Không, tao đang nói với mày về Carol-Ann chứ.
- Tại sao mày lại nói với tao về cô ta? Từ sáng đến giờ là ba lần rồi. Tao không gặp lại cô ta và bọn tao không ai gọi điện cho ai cả. Nếu mày lo lắng về chuyện đó thì thật là không đáng để bọn mình mất công lái xe ôtô của tao xuống tận Los Angeles, bởi vì bọn mình vừa đi xuyên qua cảng và hiện đã ở South-Market rồi đấy. Mày có chuyện gì vậy, cô ta mời mày đi ăn tối à?
- Sao mày có thể tưởng tượng ra là tao muốn ăn tối với Carol-Ann được? Cái hồi chúng mày còn cùng nhau tao đã khó mà có thể làm được chuyện đó rồi, ấy là còn có mày ngồi cùng bàn đấy nhé.
- Vậy thì có chuyện gì nào, mày bắt tao đi qua đến nảư thành phố để làm gì?
- Chẳng làm gì cả, đề nói chuyện với mày, để nghe mày nói thôi.
- Nói về gì?
- Về mày!
Paul rẽ sang tay trái và lái chiếc xe Saab vào chỗ đậu xe của một tòa nhà bốn tầng có mặt ngoài ốp sành trắng.
- Paul, tao biết rằng đối với mày chuyện này thật là điên rồ, nhưng tao đã gặp ma thật đấy!
- Arthur, tao biết rằng chuyện này thật là điên rồ, nhưng tao đưa mày đi khám sức khỏe thật đấy!
Arthur đang nhìn bạn bỗng quay ngoắt lại, dán mắt vào hàng chữ ở mặt trước của tòa nhà.
- Mày đem tao đến bệnh viện à? Mày có nghiêm túc không đấy? Mày không tin tao à?
- Có chứ, tao tin mày! Và tao sẽ còn tin mày hơn nữa sau khi mày được chụp quét.
- Mày muốn tao được chụp quét?
- Nghe kỹ tao nói đây, hươu cao cổ! Nếu có một ngày tao đến cơ quan với vẻ mặt của một gã bị mắc kẹt trên cầu thang di động suốt một tháng trời, rồi tao nổi cáu bỏ đi trong khi trước đó tao chưa hề mất bình tĩnh bao giờ cả, rồi qua cửa sổ mày nhìn thấy tao đi trên vỉa hè với cánh tay giơ ngang một góc chín mươi độ, sau đó tao mở cửa xe ô tô của tao cho một người đi cùng không hề tồn tại, rồi còn chưa hài lòng với những ấn tượng đã gây ra, tao tiếp tục vừa nói vừa hoa chân múa tay trong ô tô, y như là tao nói với ai đó, nhưng mà chẳng có ai, hoàn toàn không có ai cả, và rồi để giải thích tao chỉ biết nói với mày rằng tao vừa gặp một hồn ma, khi ấy tao hy vọng rằng mày cũng sẽ lo lắng cho tao như tao lo lắng cho mày lúc này đây.
Arthur thoáng mỉm cười.
- Khi tao gặp cô ấy trong tủ quần áo của tao, tao lại cứ tưởng là mày bày trò đùa tao.
- Mày đi theo tao, tao sẽ được trấn an ngay bây giờ!
Arthur để cho bạn kéo tay lôi đi vào tận trong phòng đón tiếp của bệnh viện. Cô thường trực đưa mắt nhìn theo họ. Paul ấn Arthur ngồi xuống và ra lệnh cho bạn không được nhúc nhích. Anh cư xử với bạn như cách mà người ta cư xử với một đứa trẻkhông được ngoan mà người ta lo rằng trong nháy mắt nó có thể biến khỏi tầm nhìn của mình được. Sau đó anh đi lại bàn thường trực, nói to để gọi cô gái :
- Có ca khẩn cấp đây!
- Ca nào? - Cô gái trả lời đốp lại, với một giọng khá là thong dong, trong khi giọng nói của Paul lộ rõ vẻ sốt ruột và căng thẳng.
- Người ngồi trên ghế đằng kia kìa!
- Không, tôi hỏi anh là ca này thuộc laọi bệnh gì cơ?
- Chấn thương sọ não!
- Tai nạn xảy ra như thế nào?
- Tình yêu là mù quáng và anh ta tiêu thời gian bằng việc giơ đầu cho cái gậy dò đường của người mù nện lên, do vậy kết cục là nó bị hỏng!
Cô gái bảo rằng câu trả lời hài hước lắm, tuy vậy cô không chắc đã hiểu được ẩn ý. Không có hẹn trước và không có đơn bác sĩ thì cô không thể làm gì cho anh được, cô rất lấy làm tiếc! “Cô đợi một chút rồi hãy tiếc!”. Cô sẽ tiếc khi anh nói xong cái đã, anh tuyên bố rồi hỏi bằng một giọng đầy uy quyền rằng bệnh viện này đúng là cảu bác sĩ Bresnik đấy chứ? Cô thường trực gật đầu công nhận. Anh liền giải thích cho cô ta bằng một giọng gay gắt rằng bệnh viện này là nơi mà hàng năm sáu chục nhân viên trong công ty kiến trúc của anh đến để kiểm tra sức khoẻ, để sinh con, để đưa con họ đi tiêm chủng hay là chữa bệnh cảm cúm, viêm họng và các thứ bệnh lặt vặt khác.
Anh nói một lèo không nghỉ lấy hơi và giải thích cho cô gái rằng tất cả số bệnh nhân tử tế ấy, tức là những khách hàng của bệnh viện này, là ở dưới quyền của cái thằng điên trước mặt cô đây, và cả của cái ông đang ngồi bối rối ở chiếc ghế bành đối diện kia nữa.
- Vậy nên, cô ạ, hoặc là bác sĩ Bresnik quan tâm đến ông bạn tôi ngay bây giờ, hoặc là tôi đảm bảo với cô là không một nhân viên nào của tôi còn đến giẫm vào thảm chùi chân ở cái bệnh viện lộng lẫy này của quý vị nữa, thậm chí để dán một miếng cao cũng không!
Một giờ sau Arthur, có Paul đi cùng, bắt đầu chịu một loạt xét nghiệm để làm một bản tổng kết sức khỏe toàn diện. Sau khi làm điện tâm đồ trong một trạng thái hoạt động mạnh (người ta bắt anh ngồi lên một chiếc xe đạp dùng để tập thể dục trong nhà và đạp hai mươi phút với một đống điện cực dán trên ngực) người ta lấy máu của anh (Paul không được ở lại trong phòng). Sau đó một bác sĩ tiến hành với anh một loạt phép thử phản ứng thần kinh (bác sĩ yêu cầu anh giơ một chân lên, một mắt mở, một mắt nhắm, bác sĩ lấy một cái búa nhỏ gõ vào đầu gối, vào cằm anh, rồi lại còn lấy một cái kim cào cào vào lòng bàn chân anh). Cuối cùng, do sức ép của Paul người ta nhận chụp quét cho anh. Phòng xét nghiệm được ngăn đôi bằng một bức tường kính rộng. Một bên đặt chình ình một cái máy hình trụ đồ sộ rỗng ở bên trong để bệnh nhân có thể chui cả người vào đó (vì thế người ta thường so sánh cái máy này với một cỗ quan tài to), nửa gian bên kia là phòng kỹ thuật lỉnh kỉnh những bảng, những máy nối vào chùm dây điện đen. Arthur nằm dài người trên một cái khuôn hẹp phủ vải trắng, đầu và ngang hông bị buộc chặt, bác sĩ ấn nút để đưa người anh dịch chuyển vào bên trong máy. Khoảng cách giữa người anh và hai bên thành ống chỉ có vài centimét, anh hoàn toàn không thể cựa quậy được nữa. Anh được báo trước rằng anh có thể gặp phải cảm giác rất dữ dội của chứng bệnh claustrophobie (chứng bệnh sợ nơi kín mít). Anh sẽ phải nằm trong đó một mình suốt thời gian xét nghiệm, nhưng anh có thể giao tiếp với Paul và bác sĩ ở phía bên kia bức tường kính lúc nào cũng được. Trong cái khoang, nơi anh bị nhốt, có gắn hai cái loa nhỏ. Mọi người có thể nói chuyện với anh từ gian điều khiển. Khi anh ấn vào quả lê nhỏ bằng nhựa mà người ta đưa anh cầm lúc trước, micro sẽ hoạt động và anh có thể nói chuyện được với bên ngoài. Cánh cửa khép lại và cỗ máy bắt đầu phát ra một loạt âm thanh chói tai.
- Cái mà anh ấy đang phải chịu đựng có kinh lắm không? - Paul hỏi với vẻ thú vị.
Người điều khiển máy giải thích rằng điều đó khá là khó chịu. Nhiều bệnh nhân mắc chứng claustrophobie không thể chịu được cuộc xét nghiệm này và bác sĩ buộc phải dừng lại giữa chừng.
- Hoàn toàn không có gì đau cả đâu, nhưng việc bị giam kín và tiếng ồn làm cho khó chịu về mặt thần kinh.
- Có thể nói chuyện với anh ấy được không? - Paul hỏi tiếp.
Paul có thể nói chuyện với bạn mình bằng cách ấn vào cái nút vàng ở ngay bên cạnh. Người điều khiển máy nói thêm rằng tốt nhất là nên nói chuyện khi cái máy không phát ra âm thanh, nếu không những cử động hàm miệng của Arthur khi anh trả lời sẽ làm cho ảnh chụp bị mờ đi.
- Thế ở đây anh nhìn thấy rõ được bên trong não của anh ấy à?
- Đúng vậy.
- Người ta có thể phát hiện ra được những gì?
- Tất cả mọi thứ bất bình thường, một chỗ phình mạch chẳng hạn...
Điện thoại reo lên và bác sĩ nhấc máy. Sau vài phút nói chuyện, bác sĩ xin lỗi Paul. Ông phải vắng mặt một tí. Ông yêu cầu anh không đụng vào gì hết, tất cả ở đây đều là tự động và mấy phút sau ông sẽ quay lại.
Khi bác sĩ rời khỏi phòng, Paul nhìn bạn mình qua lớp kính. Một nụ cười là lạ hiện trên môi anh. Mắt anh hướng về cái nút vàng của micro. Anh do dự một chút rồi ấn nút :
- Arthur, tao đây! Bác sĩ phải vắng mặt rồi, nhưng mày đừng lo, có tao ở đây để giám sát cho mọi việc tiến hành tốt đẹp. Ở phía này sao nhiều nút khiếp lên được. Cứ như là mình đang ở trong buồng lái máy bay ấy. Và tao là người lái đây, phi công nhảy dù mất rồi! Này, ông bạn, bây giờ thì mày khai hết ra chứ? Thế nào, mày không đi chơi với Karine, nhưng dù sao thì mày cũng có ngủ với cô ta phải không?
Khi họ đi ra bãi đậu xe của bệnh viện, Arthur kẹp dưới nách đến chục cái phong bì đựng các kết quả hoàn toàn bình thường.
- Bây giờ thì mày tin tao rồi chứ? - Arthur hỏi.
- Mày chở tao về cơ quan rồi mày về nhà mày nghỉ như dự định đi.
- Mày lờ câu hỏi của tao. Bây giờ thì mày biết tao không bị u trong đầu rồi thì mày tin tao chưa?
- Này, đi nghỉ đi, tất cả những chuyện đó có thể là do mày làm việc quá sức.
- Paul, tao đã chơi trò khám sức khỏe của mày rồi thì mày cũng phải chơi trò của tao đi.
- Tao không chắc là cái trò của mày làm tao thích được! Ta sẽ nói lại chuyện đó sau, tao phóng thẳng đến nơi hẹn gặp đây, tao sẽ đi taxi thôi. Tao sẽ gọi điện cho mày sau, trong ngày hôm nay.
Paul để bạn ngồi lại một mình trong chiếc xe Saab. Arthur lái xe rời chỗ và đi về hướng North-Point. Trong thâm tâm, anh đã bắt đầu thích câu chuyện này, nữ nhân vật của nó, và những tình huống mà cô gái không bỏ lỡ dịp gây ra.
 
Chương 06Tiệm ăn dành cho khách du lịch nằm trên vách đá chìa ra biển Thái Bình Dương. Trong phòng gần như đã chật kín hết chỗ ngồi và phía trên quầy rượu có đặt hai chiếc ti vi để khách ăn có thể theo dõi hai trận đấu bóng chày. Các cuộc cá cược đang diễn ra hối hả. Họ ngồi vào bàn phía sau khoang cửa kính.
Anh đang định đặt một ly rượu cabernet-sauvignon thì bất chợt cảm thấy rùng mình, anh nhận thấy cô đang dùng bàn chân trần cọ khẽ vào anh, nụ cười đắc thắng trên môi, cặp mắt tinh nghịch. Giật nảy mình, anh chộp lấy mắt cá chân cô, và vuốt lên đến tận đùi cô :
- Tôi cũng cảm thấy cô đấy!
- Tôi muốn kiểm tra cho chắc.
- Cô có thể chắc được rồi.
Cô hầu bàn đang đợi anh đặt món bèn vừa hỏi anh vừa bĩu môi vẻ nghi hoặc.
- Anh cảm thấy cái gì?
- Không, tôi chẳng cảm thấy gì cả.
- Anh vừa mới nói với tôi “Tôi cũng cảm thấy cô đấy”.
Hướng về phía Lauren đang cười tươi rói, anh nói :
- Dễ thật, tôi có thể làm cho mình bị nhốt lại bằng cách này đây.
- Anh rất có thể làm được như vậy đấy - Cô hầu bàn nhún vai trả lời và quay gót đi.
- Tôi có thể đặt món ăn được không? - Anh kêu lên
- Tôi sẽ bảo Bob ra chỗ anh, để xem anh có cảm thấy anh ấy không.
Vài phút sau Bob xuất hiện, trông anh ta lại còn có vẻ nữ tính hơn cô bạn đồng nghiệp của mình. Arthur đặt món trứng với cá hồi và một cốc nước ép cà chua có gia vị. Lần này, anh đợi cho người hầu bàn đi khỏi mới bắt đầu hỏi Lauren về sự cô đơn của cô trong sáu tháng vừa qua.
Bob dừng lại ở giữa gian phòng, bàng hoàng nhìn Arthur đang nói chuyện một mình. Câu chuyện vừa mới bắt đầu, Lauren ngắt lời anh nửa chừng và hỏi anh có mang theo điện thoại di động không. Không hiểu chuyện đó có liên quan gì, anh gật đầu xác nhận. “Anh bấm điện thoại và làm ra vẻ nói vào trong đó đi, nếu không người ta sẽ nhốt anh lại thật đấy”. Arthur quay lại và nhận thấy rằng nhiều người trong phòng đang nhìn anh chăm chú, một số người gần như không ăn uống thoải mái được vì cái nhân vật cứ một mình nói vào chỗ trống này. Arthur bèn cầm máy di động của anh lên, làm ra vẻ bấm một số máy và cất tiếng “Alô!” rất to. Mọi người tiếp tục nhìn anh vài giây nữa rồi mọi việc trở lại gần như bình thường, ai nấy lại tiếp tục bữa ăn của họ. Arthur đặt lại câu hỏi của anh cho Lauren vào trong máy. Những ngày đầu tiên việc mình trở thành vô hình cũng tiêu khiển được cho cô. Cô miêu tả cho anh cảm giác tự do tuyệt đối của mình khi cuộc phiêu lưu mới bắt đầu. Không cần phải suy nghĩ gì nữa về cách ăn mặc, về kiểu tóc, về mặt mũi, dáng vóc của mình, có ai nhìn mình nữa đâu. Không còn có gì là bắt buộc nữa, không còn giới hạn, không phải xếp hàng, cứ việc chen lấn lên trước mà chẳng phiền đến ai, chẳng ai chê trách thái độ của mình cả. Chẳng cần phải làm ra vẻ kín đáo nữa, ta có thể nghe người này người kia nói chuyện với nhau, nhìn cái lúc thường không nhìn được, thấy cái lúc thường không thấy được, có mặt nơi ta không có quyền đến, chẳng ai nghe thấy được ta.
- Tôi có thể đến yên vị trong một góc phòng Nhà Trắng và nghe tất cả những chuyện mật của Nhà nước, có thể ngồi lên đùi Richard Gere hay tắm hoa sen cùng với Tom Cruise.
Tất cả hay gần như tất cả đối với cô đều có thể: thăm các viện bảo tàng khi những nơi này đã đóng cửa, vào rạp xem phim không mua vé, ngủ trong những khách sạn hạng sang, trèo lên một máy bay, tham dự những cuộc phẫu thuật tinh vi nhất, bí mật tham quan những phòng thí nghiệm nghiên cứu, bước trên đỉnh cột trụ cầu Golden Gate. Dán chặt tai vào điện thoại di động, Arthur tò mò muốn biết xem cô đã thử ít nhất một trong những điều vừa nói chưa.
- Không, tôi hay chóng mặt, tôi sợ máy bay, Washington thì quá xa, tôi không biết di chuyển những khoảng cách lớn như vậy, tôi mới ngủ lần đầu tiên hôm qua, vì vậy những khách sạn hạng sang tôi chẳng cần làm gì, còn về các cửa hàng thì có ich lợi gì đâu nếu như tôi không thể đụng vào bất cứ cái gì hết.
- Thế Richard Gere hay Tom Cruise thì sao?
- Thì cũng như đối với các cửa hàng thôi!
Cô giải thích cho anh một cách rất chân thành rằng làm một bóng ma thật chẳng có gì là buồn cười cả. Cô thấy chuyện đó đáng thương thì đúng hơn. Tất cả đều trong tầm tay, nhưng tất cả đều không thể được. Cô cảm thấy thiếu những người mà cô yêu quý. Cô không thể nào tiếp xúc với họ được nữa. “Tôi không tồn tại nữa rồi. Tôi có thể nhìn thấy họ nhưng điều đó gây đau khổ hơn là sung sướng. Có lẽ nơi chuộc tội là như vậy đó, một sự cô đơn vĩnh cửu”.
- Cô tin vào Chúa à?
- Không, nhưng trong tình trạng như tôi người ta thường hơi có xu hướng xem lại điều mình tin và điều mình không tin. Trước đây tôi cũng chẳng tin là có ma.
- Tôi cũng thế - Anh nói.
- Anh không tin là có ma?
- Cô có phải là ma đâu.
- Anh nghĩ thế à?
- Cô không phải là người chết, Lauren, tim cô đập ở một nơi và hồn cô lại sống phiêu bạt nơi khác. Hai thứ đó tạm tách rời nhau, thế thôi. Cần phải tìm hiểu xem tại sao như vậy, và bằng cách nào có thể nhập lại hai thứ với nhau.
- Anh lưu ý cho rằng nhìn dưới góc độ này thì dù sao đây cũng là một vụ ly dị có hậu quả nặng nề.
Đó là một hiện tượng nằm ngoài tầm hiểu biết của anh, nhưng anh không định dừng lại ở sự xác nhận này. Vẫn áp tai vào máy điện thoại, anh nhấn mạnh rằng anh rất muốn tìm hiểu, rằng cần phải tìm và thấy cách để hồn cô trở lại cơ thể, rằng cô phải thoát ra cơn hôn mê, hai hiện tượng này gắn liền với nhau.
- Xin lỗi, nhưng đây thì tôi cho rằng anh vừa tiến một bước dài trong công cuộc nghiên cứu của anh đó.
Anh không đáp lại sự châm chọc của cô mà đề nghị cô trở về và tiến hành một loạt các cuộc điều tra trên Internet. Anh muốn kiểm kê ở đó tất cả những gì liên quan đến hôn mê: “các nghiên cứu khoa học, các báo cáo y khoa, các thư mục, các câu chuyện, các nhân chứng. Đặc biệt là những gì động đến các trường hợp hôn mê kéo dài mà cuối cùng người bệnh tỉnh lại được”. Chúng ta phải tìm được họ và hỏi họ. Những điều họ kể có thể là rất quan trọng.
- Tại sao anh lại làm việc đó?
- Bởi vì cô còn có sự lựa chọn nào nữa đâu.
- Trả lời câu hỏi của tôi đi. Anh có nhận thức rõ những sự liên lụy cá nhân mà anh phải chịu, thời gian mà anh phải mất khi làm việc này không? Anh có nghề nghiệp của anh, nghĩa vụ của anh.
- Cô là một phụ nữ đầy mâu thuẫn.
- Không, tôi tỉnh táo đấy chứ, anh không thấy là tất cả mọi người đến tiệm ăn này chỉ có anh là ngồi nói một mình suốt mười phút hay sao, anh có biết là lần sau mà anh đến tiệm ăn này thì người ta sẽ bảo anh là hết chỗ rồi, bởi vì người đời không thích ai khác mình, bởi vì một kẻ nói thành tiếng và làm các cử chỉ khi chẳng ngồi ăn cùng ai thì gây khó chịu, anh biết thế không?
- Có đến hơn một nghìn tiệm ăn trong thành phố này, cho nên còn khối chỗ.
- Arthur, anh là một kẻ ngoại đạo, thực sự ngoại đạo, nhưng anh không hiện thực.
- Tôi không muốn làm cô chạnh lòng nhưng về mặt siêu thực mà nói thì tôi tưởng trong tình huống hiện tại cô vượt xa tôi một bậc ấy chứ.
- Anh đừng chơi chữ, Arthur. Đừng hứa hẹn với tôi một cách bộp chộp, anh sẽ không bao giờ có thể giải đáp được điều bí ẩn này đâu.
- Tôi không bao giờ hứa nhăng cuội cả, và tôi cũng chẳng phải ngoại đạo gì hết!
- Đừng gieo cho tôi những hy vọng vô ích, đơn giản là anh sẽ không có thời gian.
- Tôi rất ghét làm chuyện này trong hiệu ăn, nhưng cô buộc tôi phải làm, thứ lỗi cho tôi một phút.
Arthur làm ra vẻ dập máy, anh nhìn cô chăm chú, nhấc máy lại và bấm số máy của Paul. Anh cảm ơn Paul đã dành thời gian cho anh sáng nay, cảm ơn sự quan tâm của bạn. Nói vài câu xoa dịu để Paul yên tâm, anh giải thích cho bạn rằng anh đang gần như suy sụp vì làm việc quá tải và tốt hơn đối với cả công ty lẫn anh là anh nghỉ vài ngày. Anh truyền đạt cho Paul một số thông tin có tính chất chuyên môn về những hồ sơ đang xử lý và chỉ rõ rằng Maureen sẽ làm việc dưới quyền Paul. Quá mệt không thể đi bất cứ đâu được, anh sẽ ở lại nhà và mọi người có thể liên lạc với anh qua điện thoại.
- Vậy đó, từ giờ tôi đã được giải phóng khỏi mọi nghĩa vụ nghề nghiệp, và tôi đề nghị chúng ta tiến hành nghiên cứu ngay lập tức.
- Tôi thật không biết nói sao.
- Cô cứ bắt đầu bằng cách giúp tôi với những kiến thức y học của cô.
Bob mang bản tính tiền đến, mắt chăm chăm nhìn vào Arthur. Arthur bèn trợn mắt, làm vẻ mặt đáng sợ, thè lưỡi và nhảy phóc dậy. Bob lùi lại một bước về phía sau.
- Tôi tưởng anh khá hơn chứ Bob, tôi rất lấy làm thất vọng. Đi thôi Lauren, nơi này không xứng với chúng ta.
Ngồi trong xe ô tô trên đường về nhà, Arthur giải thích cho Lauren phương pháp nghiên cứu mà anh dự định áp dụng. Họ trao đổi quan điểm với nhau, và nhất trí về kế hoạch dàn trận.
 
Chương 07
Về đến nhà, Arthur ngồi vào bàn làm việc. Anh bật máy vi tính lên và nối mạng Internet. Các “xa lộ thông tin” cho phép anh tiếp cận ngay tức khắc với hằng trăm cơ sở dữ liệu về đề tài mà anh quan tâm. Anh đưa lệnh tìm kiếm trên máy tính của mình bằng cách đơn giản gõ từ “hôn mê”, và “Web” đưa ra cho anh nhiều địa chỉ các nơi trên mạng có chứa những tài liệu, những lời chứng, những bản tường trình và những cuộc trao đổi về đề tài này, Lauren đến ngồi ở góc bàn.
Trước hết họ nối với máy chủ của bệnh viện Memorial, vào mục Bệnh lý thần kinh và chấn thương sọ não. Một công trình mới đây của giáo sư Silverstone về chấn thương sọ não cho phép họ tiếp cận với các cách phân loại các kiểu hôn mê khác nhau theo chuẩn Glassgow: có ba chữ số biểu thị khả năng phản ứng của cơ thể đối với các tác nhân kích thích về mặt thị giác, thính giác và cảm giác. Lauren phù hợp với loại 1.1.2, kết quả ghép ba chữ số này với nhau xác định kiểu hôn mê này thuộc dạng bốn, gọi một cách khác là hôn mê kéo dài. Họ được máy tính hướng về một thư viện thông tin khác có sự trình bày chi tiết những phân tích thống kê về sự tiến triển của các bệnh nhân trong từng loại hôn mê. Chưa từng có một người nào trở về từ một cuộc phiêu du “hạng 4”...
Một loạt biểu đồ, hình vẽ, báo cáo tổng hợp và các nguồn tư liệu được nạp vào trong máy tính của Arthur rồi được in ra. Tổng cộng có gần bảy trăm trang tư liệu được sắp xếp, phân loại và ghi vào danh mục tuỳ theo trọng tâm vấn đề.
Arthur đặt một chiếc pizza và hai chai bia, rồi tuyên bố rằng bây giờ chỉ có việc đọc mà thôi. Một lần nữa Lauren hỏi anh tại sao anh lại làm tất cả những việc này. Anh trả lời: “Do bổn phận đối với một người mà chỉ trong thời gian rất ngắn đã dạy cho anh biết bao điều, trong đó đặc biệt nhất là lòng khát khao hạnh phúc. Em biết đấy, mọi giấc mơ đều có giá của nó!” Và anh lại tiếp tục vừa đọc vừa ghi chú những điều mình không hiểu, tức là gần như tất cả. Theo đà tiến triển công việc của họ, Lauren giải thích những thuật ngữ và những lập luận y học.
Arthur đặt một tờ giấy to lên bản vẽ của anh và bắt đầu thảo ra đó bản tổng hợp những ghi chép mà anh đã thu thập được. Phân loại các thông tin thành từng nhóm, anh khoanh chúng lại rồi nối chúng với nhau theo các mối liên quan. Cứ như vậy, một biểu đồ khổng lồ dần dần hình thành, dẫn đến tờ giấy thứ hai, ở đó các lập luận hòa vào nhau thành kết luận.
Hai ngày hai đêm để đi đến kết luận rằng đối với một số nhà nghiên cứu thì trong vài năm nữa vẫn là và tiếp tục còn là một vùng tối, nơi cơ thể sống tách biệt khỏi trí lực, cái làm cho nó có sinh khí và một linh hồn. Kiệt sức, mắt đỏ ngầu, anh ngủ thiếp đi ngay trên sàn nhà; Lauren ngồi bên bàn vẽ, cô nhìn biểu đồ, dùng đầu ngón tay di di theo những mũi tên và bất ngờ nhận thấy rằng tờ giấy khẽ lay động dưới ngón tay cô.
Cô đến ngồi cạnh anh, khẽ cọ tay vào tấm thảm trải trên sàn nhà rồi lấy lòng bàn tay vuốt dọc theo cánh tay anh, lông tay liền dựng lên. Cô khẽ mỉm cười, vuốt nhẹ tóc Arthur rồi nằm xuống bên anh, nghĩ ngợi.
Bảy tiếng sau anh tỉnh dậy. Lauren vẫn ngồi bên bàn vẽ.
Anh dụi mắt và mỉm cười với cô, cô đáp lại ngay lập tức.
- Lẽ ra anh vào trong gi.ường thì sẽ dễ chịu hơn, nhưng anh ngủ say đến nỗi em không dám đánh thức anh dậy.
- Anh ngủ có lâu không?
- Nhiều tiếng đồng hồ, nhưng chưa đủ để bù lại.
Anh định uống một tách cà phê rồi tiếp tục công việc, nhưng cô ngăn anh lại. Sự tận tình của anh làm cô rất cảm động, nhưng đó là việc phí công vô ích. Anh không phải là bác sĩ, cô chỉ là sinh viên nội trú và chỉ có hai người họ sẽ không thể nào giải quyết nổi những vấn đề mà hiện tượng hôn mê đặt ra.
- Thế em bảo phải làm gì?
- Anh cứ uống cà phê như anh vừa nói đi, rồi anh đi làm và chúng mình đi dạo chơi. Anh không thể sống khép kín, ở ẩn trong nhà với cái cớ là vì nhà anh có chứa một bóng ma được.
Thì anh đang định uống cà phê đấy chứ, còn những chuyện kia rồi sẽ xét sau. Và anh muốn cô thôi đừng nói đến chuyện “ma” nữa, cô có đủ mọi vẻ trừ vẻ một bóng ma. Cô bèn hỏi anh nói “mọi vẻ” là muốn nói cái gì, nhưng anh từ chối trả lời. “Anh mà nói ra những điều nghe như để lấy lòng thì em sẽ giận mất”.
Lauren nhướn lông mày dò hỏi, muốn biết những điều nghe để lấy lòng là cái gì. Anh yêu cầu cô quên điều anh vừa nói đi, nhưng anh cũng ngờ trước là chẳng ăn thua gì. Cô đứng chống nạnh trước mặt anh và hỏi cho bằng được thì thôi.
- Những điều nghe như để lấy lòng là cái gì thế?
- Quên cái anh vừa nói đi Lauren, em không phải là ma, vậy thôi.
- Thế thì em là gì?
- Một cô gái, một cô gái rất đẹp, thôi bây giờ anh đi tắm đây.
Anh ra khỏi phòng mà không quay đầu lại. Lauren lấy tay vuốt lên thảm trải sàn lần nữa, vẻ sung sướng. Nửa tiếng sau, Arthur mặc quần Jean và một cái áo chui cổ rộng bằng casmia ra khỏi buồng tắm. Anh tỏ ý muốn đi chén một món thịt thật ngon. Cô thấy rằng mới có 10 giờ sáng thôi, nhưng anh đáp lại ngay rằng ở New York đã là giờ ăn trưa, còn ở Sydney đã là giờ ăn tối rồi.
- Vâng, nhưng chúng ta không ở New York hay Sydney, chúng ta đang ở San Francisco.
- Điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến việc anh thích ăn thịt cả.
Cô muốn anh trở lại với cuộc sống bình thường của anh và cô nói với anh như vậy. Anh may mắn có được một cuộc sống bình thường thì anh phải tận hưởng nó. Anh không có quyền bỏ bê tất cả như thế này. Anh không đồng ý việc cô quan trọng hóa vấn đề. Anh chỉ mất có mấy ngày thôi chứ có gì đâu, nhưng đối với cô thì anh đang sa vào một trò nguy hiểm và không lối thoát. Anh nổi đóa lên :
- Nghe những lời như vậy từ miệng một bác sĩ thật hay ho quá nhỉ, anh cứ tưởng rằng không có định mệnh, rằng còn sống thì còn hy vọng, rằng tất cả đều có thể chứ. Tại sao anh lại là người tin điều đó hơn em?
Chính bởi vì cô là bác sĩ đó thôi, cô trả lời, bởi vì cô buộc phải tỉnh táo, cô tin rằng họ làm mất thời gian của họ, cô làm mất thời gian của anh.
- Anh không nên gắn bó với em, em chẳng thể đem lại cái gì cho anh cả, chẳng có gì để chia sẻ, chẳng có gì để cho, đến pha cho anh một tách cà phê em cũng không làm được, Arthur!
- Thế thì việc quái gì, nếu như đến pha tách cà phê cho anh em cũng không làm được thì có tương lai gì phải lo. Anh không gắn bó với em, Lauren, chẳng với em mà cũng chẳng với ai. Anh cũng chẳng xin được gặp em trong tủ của anh, thế nhưng em lại ở đây, đó là cuộc đời, vậy thôi. Không ai nhìn thấy em và nói chuyện được với em.
Cô có lý, anh nói tiếp, để tâm đến vấn đề của cô là mạo hiểm đối với cả hai người; dối với cô, việc đó có thể gây ra những hy vọng hão huyền; đối với anh, “việc đó có thể làm mất thời gian và xáo trộn cuộc sống của anh, nhưng chính cuộc đời là như vậy đó” Anh chẳng có gì để lựa chọn cả. Cô ở đây, bên cạnh anh, trong nhà anh, “mà đó cũng là nhà của em nữa”, cô lâm vào một hoàn cảnh khó khăn và anh giúp đỡ cô, “đó là việc người ta vẫn làm trong thế giới văn minh, dù cho việc đó có những điều bất trắc”. Đối với anh, cho một người ăn mày một đô la khi đi từ siêu thị ra là một việc dễ dàng chẳng phải mất gì cả. “Khi ta cho cái phần nhỏ nhoi mà ta có, đó mới thực sự là cho”. Cô không biết nhiều về anh, nhưng anh kiên quyết đi đến cùng dù phải trả giá như thế nào đi nữa.
Anh yêu cầu cô để cho anh được quyền giúp đỡ cô, anh nhấn mạnh rằng điều duy nhất mà cô còn có thể làm được ở cuộc đời thật này, đó là biết chấp nhận sự giúp đỡ. Nếu cô cho rằng anh chưa suy nghĩ thật kỹ khi dấn thân vào câu chuyện này thì cô hoàn toàn có lý. Anh chẳng hề suy nghĩ gì cả. “Bởi vì trong khi ta tính toán, ta phân tích mặt lợi và mặt hại, thì cuộc đời trôi qua, và chả có gì xảy ra được cả”.
- Anh chưa biết là bằng cách nào, nhưng chúng mình sẽ kéo em ra khỏi tình trạng này. Nếu em cần phải chết thì việc đó đã xảy ra rồi, anh ở đây chỉ là để giúp em một tay thôi.
Anh kết luận anh bằng cách yêu cầu cô chấp nhận kế hoạch của anh, nếu không phải là vì cô thì cũng vì những người mà cô sẽ chữa bệnh trong vài năm tới.
- Lẽ ra anh có thể làm luật sư được đấy.
- Lẽ ra anh phải làm bác sĩ cơ
- Tại sao anh không làm bác sĩ?
- Tại mẹ anh mất quá sớm.
- Khi đó anh mấy tuổi?
- Quá sớm, anh thật sự không muốn nói đến chuyện này một tí nào cả
- Tại sao anh lại không muốn nói?
Anh bèn lưu ý cô rằng cô là sinh viên nội trú chứ không phải nhà phân tích tâm lý. Anh không muốn nói về ch.uyện ấy vì đó là một chuyện quá đau lòng đối với anh và anh cảm thấy rất buồn mỗi khi nhắc đến chuyện này. “Quá khứ là quá khứ, chỉ có vậy thôi”. Bây giờ anh lãnh đạo một công ty kiến trúc. Anh rất hạnh phúc trong công việc.
- Anh yêu thích công việc của anh và những người cùng làm việc với anh.
- Đó là khu vườn bí mật của anh đấy à?
- Không, một khu vườn thì có gì là bí mật, hoàn toàn trái lại, đó là một tặng vật mới đúng. Đừng cố hỏi nữa, đó là một cái thuộc về riêng anh.
Anh mất mẹ khi còn rất ít tuổi, mất cha còn sớm hơn nữa. Bố mẹ đã cho anh cái quý nhất của họ, thời gian mà họ có thể có. Đời anh là như vậy, nó có những thuận lợi và bất lợi của nó.
- Anh vẫn thấy đói lắm, tuy rằng chúng mình hiện không ở Sydney, vì vậy anh đi làm mấy quả trứng với thịt muối để ăn đây.
- Sau khi bố mẹ anh mất thì ai nuôi anh?
- Em có bướng bỉnh không đấy?
- Không, không một tí nào cả.
- Nhưng chuyện này có thú vị gì đâu. Mặc kệ nó, chúng ta còn nhiều việc quan trọng hơn để làm.
- Có chứ, đối với em việc đó rất đáng quan tâm.
- Cái gì làm em quan tâm?
- Cái xảy ra trong đời anh khiến anh có khả năng làm như vậy.
- Khả năng làm gì?
- Tung hê tất cả để quan tâm đến cái bóng của một phụ nữ mà anh không quen biết, và thậm chí lại không phải vì chuyện trai gái nữa chứ, điều đó kích thích óc tò mò của em.
- Em đừng có phân tích tâm lý của anh, anh không muốn mà cũng không cần điều đó. Chẳng hề có một vùng tối nào cả, em hiểu không? Có một quá khứ với tất cả những gì cụ thể và xác định nhất, bởi vì đó là quá khứ.
- Như vậy, em không có quyền được biết về anh?
- Có chứ, em có quyền, tất nhiên là em có quyền, nhưng em đang muốn biết về quá khứ của anh đấy chứ, đâu phải là về anh.
- Chuyện đó khó nghe đến thế cơ à?
- Không, chuyện đó có tính chất riêng tư, nó chẳng vui vẻ gì, dài dòng, đó không phải là đề tài để nói chuyện
- Mình có phải đi chuyến tàu nào đâ mà vội. Mình vừa làm một mạch hai ngày hai đêm liên tục về hôn mê, mình có thể tạm nghỉ một chút được.
- Lẽ ra em phải làm luật sư!
- Vâng, nhưng em lại là bác sĩ! Trả lời em đi.
Anh lấy công việc làm cớ thoái thác. Anh không có thời gian để trả lời cô. Không nói một lời, anh ăn nốt món trứng, đặt đĩa vào bồn rửa bát rồi lại ngồi vào bàn làm việc. Anh quay về phía Lauren đang ngồi trên đi văng.
- Trong đời anh có nhiều phụ nữ không? - Cô hỏi mà không ngẩng đầu lên
- Khi người ta yêu, người ta không tính!
- Và anh thì không cần bác sĩ tâm lý chứ gì! Vậy những người đáng tính đến thì anh có nhiều không?
- Thế em thì sao?
- Em là người đặt câu hỏi cơ mà.
 
Anh trả lời rằng anh từng có ba mối tình, một của thời niên thiếu, một của thời trai trẻ và một khi đã “bớt trẻ” và đang trở thành đàn ông nhưng vẫn chưa phải là đàn ông hẳn, chứ nếu không thì họ vẫn còn đang ở bên nhau. Cô cho rằng câu trả lời như vậy là đúng luật chơi, nhưng muốn biết ngay lập tức khắc tại sao chuyện đó không thành. Anh nghĩ rằng tại vì anh quá cứng nhắc. “Quá sở hữu?”, cô hỏi, nhưng anh nhấn mạnh từ cứng nhắc.
- Mẹ anh đã nhồi vào đầu anh những chuyện tình yêu lý tưởng, thực là một khuyết tật nặng khi ta có những lý tưởng trong đầu.
- Tại sao?
- Điều đó đặt ra chuẩn mực rất cao
- Đối với người kia?
- Không, đối với chính mình.
Cô muốn anh nói rõ hơn nhưng anh muốn lẩn tránh vì sợ “nhai lại những điều cũ rích và thành ra lố bịch”. Cô đề nghị anh cứ thử xem. Anh biết mình chẳng có cơ hội nào để kéo cô ra khỏi đề tài này, vì vậy anh đành chọn làm theo ý cô.
- Nhận diện hạnh phúc khi nó ở dưới chân ta, đủ dũng cảm và quyết tâm hạ mình xuống đón nhận hạnh phúc vào tay mình... và gìn giữ nó. Đó là trí tuệ của trái tim. Trí tuệ mà không có phần trái tim trong đó thì chỉ là logic và không có mấy giá trị.
- Vậy tức là cô ấy đã bỏ anh!
Arthur không trả lời.
- Và anh vẫn chưa phục hồi hẳn.
- Có chứ, anh đã hồi phục, nhưng anh cũng có ốm đâu.
- Anh đã không biết yêu cô ấy à?
- Chẳng có ai là sở hữu được hạnh phúc hoàn toàn, thỉnh thoảng ta may mắn có được một hợp đồng, và trở thành người thuê thôi. Phải trả tiền thuê hết sức đều đặn, người ta thường để bị mất hợp đồng rất nhanh.
- Những điều anh nói nghe đáng yên lòng quá nhỉ?
- Ai cũng sợ đời thường, như thể đó là một định mệnh dẫn đến buồn chán, thói quen, anh thì không tin vào định mệnh này...
- Thế anh tin cái gì?
- Anh tin đời thường là nguồn gốc của sự đồng cảm, chính ở đó mà trái với thói thường ta có thể sáng tạo ra cái xa hoa và tầm thường, cái quá khổ và cái chừng mực.
Anh nói về những trái cây không được hái, bị để quên rồi rữa ra dưới đất. “Có những mật ngọt của hạnh phúc không bao giờ được nếm, do lơ là, do thói quen, do thành kiến và tự phụ”. Anh tin vào những tình cảm say đắm đi theo hướng trở nên sâu sắc hơn.
Đối với Arthur, không có gì trọn vẹn hơn là một cặp tình nhân, với thời gian biết chấp nhận để cho sự trìu mến lấn chỗ của tình yêu say đắm, nhưng làm sao mà đạt được như vậy khi người ta có khuynh hướng thích cái tuyệt đối? Đối với anh không có gì là sai lầm khi chấp nhận lưu giữ trong mình một phần của tuổi thơ, một phần mơ mộng.
- Chúng ta kết cục thì trở thành những người khác nhau, nhưng lúc đầu ai cũng từng là trẻ con cả. Thế còn em, em đã yêu rồi chứ?
- Anh có biết những người chưa từng yêu bao giờ không? Anh muốn biết em đã yêu chưa à? Không, có và không.
- Đời em có nhiều điều trái ý lắm sao?
- Tỉ lệ với tuổi em thôi, ừ cũng không ít đâu.
- Xem ra em cũng không phải là người hay chuyện nhỉ, người đó là ai vậy?
- Anh ta chưa chết: 38 tuổi làm điện ảnh, đẹp trai, ít có thời gian rảnh, hơi ích kỷ, tuýp đàn ông lý tưởng.
- Thế rồi sao?
- Thế rồi cách đến hàng nghìn năm ánh sáng cái mà anh mô tả về tình yêu.
- Mỗi người mỗi cảnh, em biết đấy! Điều quan trọng là cắm rễ của mình vào mảnh đất nào phù hợp
- Bao giờ anh cũng ví von ẩn dụ như thế à?
- Thường xuyên, đối với anh cách đó làm cho mọi việc dễ nói hơn. Thế còn câu chuyện của em thì sao?
Cô đã chia sẻ bốn năm trong đời với nhà điện ảnh của mình, bốn năm với một câu chuyện đứt đoạn và chắp nối, trong đó các nhân vật xâu xé nhau rồi hàn gắn lại không biết bao nhiêu lần, cứ như là đời có kịch tính thì sẽ phong phú hơn. Cô đánh giá mối quan hệ này là ích kỷ và không có gì hay ho cả, được duy trì bởi sự đam mê xác thịt. “Em có phải là người chú trọng thể xác không?” anh hỏi. Cô cho đây là một câu hỏi trắng trợn.
- Em không nhất thiết phải trả lời.
- Nhưng em cũng có định trả lời đâu! Tóm lại, anh ta cắt đứt hai tháng trước khi xảy ra tai nạn. Càng tốt cho anh ta, ít nhất thì bây giờ anh ta cũng không phải chịu trách nhiệm gì cả.
- Em có tiếc không?
- Không, lúc câu chuyện tan vỡ thì em có tiếc, nhưng bây giờ em tự nhủ rằng một trong những phẩm chất cơ bản để sống thành đôi là tính độ lượng
Cô đã phát chán vì những câu chuyện tình luôn luôn kết thúc vì những nguyên nhân như nhau. Nếu như có những người với tuổi tác mất dần đi lý tưởng, thì Lauren hoàn toàn ngược lại. Càng lớn tuổi hơn thì cô càng có xu hướng lý tưởng chủ nghĩa hơn. “Em tự nhủ rằng để có tham vọng chia sẻ một khoảng đời sống thành đôi thì cần phải ngừng tin và ngừng làm cho người khác tin rằng ta đang bắt đầu một câu chuyện nghiêm túc, nếu như ta chưa thực sự sẵn sàng để cho. Hạnh phúc chẳng dễ mà đạt được. Hoặc anh là người cho, hoặc anh là người nhận. Em cho trước khi nhận nhưng em đã dứt khoát với những kẻ ích kỷ, những người phức tạp và những người quá hà tiện nên không dám đụng đến những ước muốn và những hy vọng của mình”. Kết cục cô đã chấp thuận rằng giờ là lúc phải thừa nhận những chân lý riêng của mình và xác định cái mà mình mong đợi ở cuộc sống. Arhtur cho rằng cô dùng những lời quá mạnh. “Em đã bị cuốn hút quá lâu bởi cái trái ngược với mơ ước của em, cái đối cực với những điều có thể làm cho em hạnh phúc, có vậy thôi”, cô trả lời.
Cô muốn đi dạo ngoài trời và cả hai cùng đi. Arthur lái xe đưa họ ra Ocean Drive.
- Anh thường thích dạo chơi trên bờ biển - Anh nói để phá vỡ sự yên lặng kéo dài.
Lauren không trả lời ngay lập tức, cô nhìn đăm đăm về phía chân trời. Cô níu lấy tay Arthur.
- Chuyện gì đã xảy ra trong đời anh vậy?
- Tại sao lại có câu hỏi này?
- Tại vì anh không giống những người khác.
- Anh có hai cái mũi làm em khó chịu hay sao?
- Chẳng có gì làm em khó chịu cả nhưng anh khác người.
- Khác người? Anh không tự cảm thấy mình khác người, thế khác chỗ nào, khác ai?
- Anh rất thanh thản!
- Đó là khuyết điểm à?
- Không, hoàn toàn không, nhưng điều đó làm cho người ta ngại. Có vẻ như chẳng cái gì có thể gây thành vấn đề cho anh được cả.
- Đó là bởi vì anh thích tìm kiếm các giải pháp cho nên anh không sợ các vấn đề.
- Không, còn có chuyện gì khác nữa.
- Lại thấy TTT của tôi đây rồi.
- TTT của anh là cái gì vậy?
- Thầy thuốc Tâm lý Tại chỗ của anh.
- Anh có quyền không trả lời nhưng em có quyền cảm thấy các chuyện, và em không biến chuyện đó thành một cuộc thẩm vấn.
- Chuyện với trò gì mà cứ như một đôi đã cũ lắm rồi thế này. Anh chẳng có gì phải che dấu cả, Lauren, không có vùng tối nào, không có khu vườn bí mật, không có những chấn thương tinh thần. Anh chỉ có thế này thôi, với đầy khuyết điểm.
Anh không đặc biệt tự yêu mình, nhưng cũng chẳng tự ghét mình, anh thích cách sống của mình, tự do và không phụ thuộc vào những lề thói quy định. Có thể đó chính là điều mà cô cảm thấy. “Anh không thuộc về một hệ thống nào cả, anh luôn luôn cố gắng chống lại điều đó. Anh gặp gỡ những người mà anh yêu mến, anh đi những nơi anh muốn đi, anh đọc một cuốn sách vì thấy nó hấp dẫn đối với anh chứ không phải vì “nhất thiết phải đọc”, và cả đời anh là như thế”. Anh làm cái anh muốn mà không đặt ra hàng ngàn câu hỏi “tại sao” và “như thế nào”, “và anh không phức tạp hóa đời mình bởi những cái còn lại”.
- Em không muốn phức tạp hóa đời anh.
Cuộc nói chuyện được tiếp tục sau đó chút ít. Họ bước vào gian phòng khách ấm áp của một khách sạn. Arthur uống cappucino và nhấm nháp bánh xốp.
- Anh ưa nơi này vô cùng - Anh nói - ở đây có không khí gia đình, anh thích ngắm các gia đình lắm.
Trên chiếc đi văng có một chú bé chừng tám tuổi đang ngồi trong vòng tay mẹ. Người mẹ cầm một quyển sách to mở rộng và kể cho con nghe những hình ảnh mà hai mẹ con đang cùng xem. Ngón trỏ trên bàn tay trái của người mẹ cọ vào má chú bé một cách khẽ khàng và âu yếm. Khi chú bé cười, hai lúm đồng tiền hiện ra như hai mặt trời nhỏ. Arthur nhìn họ chăm chú hồi lâu
- Anh nhìn gì thế? - Lauren hỏi.
- Một khoảnh khắc hạnh phúc thật sự.
- Ở đâu vậy?
- Chú bé kia kìa. Em nhìn vẻ mặt nó mà xem, nó ở trung tâm thế giới, một thế giới của riêng chú.
- Điều đó gợi cho anh những kỷ niệm phải không?
Arhtur mỉm cười thay cho câu trả lời. Cô muốn biết trước kia hai mẹ con anh có tâm đầu ý hợp với nhau không.
- Mẹ anh mất hôm qua, hôm qua của nhiều năm trước. Em biết không cái làm cho anh ngạc nhiên nhất sau hôm mẹ anh mất là các ngôi nhà vẫn ở yên một chỗ, bên những đường phố đầy ôtô, những chiếc ôtô vẫn tiếp tục lăn bánh và những người đi bộ vẫn tiếp tục bước đi, có vẻ như họ hoàn toàn không biết rằng thế giới của anh vừa biến mất. Anh thì anh biết, do có một sự trống rỗng ập xuống đời anh như ập xuống một cuộn phim chụp hỗn độn. Bởi vì thành phố đột nhiên ngưng hẳn tiếng ồn, cứ như thế trong một phút tất cả các ngôi sao cùng vỡ tan ra và tắt ngấm đi. Ngày mẹ anh mất, anh thề vời em là điều này có thật, lũ ong trong vườn không bay ra khỏi tổ, không có con nào hút mật ở vườn hồng, y như là chúng cũng biết ấy. Anh thèm được như chú bé kia, chỉ dăm phút thôi, nép mình trong vòng tay của mẹ nghe giọng nói của mẹ vỗ về! Sống lại cái cảm giác run rẩy nhè nhẹ chạy dọc sống lưng khi mẹ ru anh ngủ hồi anh còn nhỏ, bàn tay mẹ vuốt vuốt dưới cằm anh. Chẳng điều gì có thể xảy ra với anh được nữa, cả những trò quấy nhiễu của thằng Steven Hacchenbach cao to ở trường, những tiếng quát tháo của thầy giáo Morton mắng mỏ anh không thuộc bài, lẫn cái mùi hăng hắc khó chịu ở nhà ăn. Anh sẽ nói cho em biết vì sao anh “thanh thản” như em bảo. Đấy là vì người ta không thể sống vì tất cả mọi thứ, do vậy điều quan trọng là sống vì “cái cốt yếu” và mỗi người chúng ta đều có “cái cốt yếu” của mình.
- Em ước rằng trời nghe thấy điều anh nói đây đối với chuyện của em: cái cốt yếu của em hãy còn ở phía trước.
- Chính vì vậy mà chúng ta không từ bỏ “cái cốt yếu” này. Ta về tiếp tục làm việc thôi.
Arthur trả tiền và họ đi ra bãi đậu xe. Trước khi anh ngồi vào ôtô, Lauren hôn lên má anh “cảm ơn anh vì tất cả”, cô nói. Arthur mỉm cười, đỏ mặt lên và mở cửa xe không thốt một lời.
 
Chương 08Arthur trải qua gần 3 tuần lễ ở thư viện thành phố, một tòa nhà nghiêm nghị theo phong cách cổ điển mới, được xây dựng vào hồi đầu thế kỷ, ở đó trong hàng chục gian phòng với mái vòm uy nghi, ngự trị một bầu không khí khác hẳn so với những chỗ giống như thế. Người ta thường gặp ở nơi này, trong những phòng chứa tư liệu của thành phố, những giới thượng lưu của San Fransisco bên cạnh những chàng “hippi” cũ giờ đã hoàn tục, họ trao đổi với nhau những câu chuyện tiếu lâm, những ý kiến thống nhất và những điểm bất đồng về các vấn đề của thành phố. Ghi tên vào phòng số 27, nơi tập trung những tác phẩm y khoa, ngồi ở dãy dố 48, bên cạnh những tài liệu về thần kinh học, Arthur ngốn ngấu trong vài ngày hàng nghìn trang sách về hôn mê, về sự mất ý thức và chấn thương sọ não. Nếu như việc đọc đã làm cho anh hiểu rõ hơn về tình trạng của Lauren thì vẫn không có gì làm cho anh tiếp cận được với cách giải quyết vấn đề đang đặt ra cho anh. Khép mỗi tài liệu lại, anh hy vọng sẽ tìm thấy một ý tưởng trong tài liệu sau. Sáng nào anh cũng có mặt vào lúc mở cửa thư viện, ngồi vào bàn với những chồng sách và miệt mài với những “bài tập” của mình. Đôi khi anh ngừng công việc nửa chừng, rời bàn đọc đến một máy vi tính để gửi các bức thư đầy những câu hỏi cho các giáo sư y học nổi tiếng. Có một vài người trả lời anh, đôi khi họ tỏ ra rất tò mò về mục đích nghiên cứu của anh. Sau đó anh lại về chỗ ngồi của mình và tiếp tục đọc.
Anh tạm nghỉ một chút để ăn trưa ở nhà ăn, đem theo các tạp chí về chính những đề tài này, và anh kết thúc ngày làm việc của mình vào quãng hai mươi hai giờ, lúc thư viện đóng cửa.
Tối khuya, anh về gặp lại Lauren và vừa ăn tối vừa kể cho cô nghe về những nghiên cứu trong ngày của anh. Những cuộc tranh luận thực sự bùng ra khi cô rút cục quên bẵng rằng anh không phải sinh viên y khoa. Anh làm cho cô ngạc nhiên bởi tốc độ nhanh chóng của anh trong việc nắm vững những thuật ngữ y học. Những lập luận và những ý kiến trái ngược nối tiếp nhau, đối lập nhau thường xuyên đến tận lúc đêm khuya và đến khi người đã mệt lử. Sáng sớm, vừa ăn sáng anh vừa nói với cô về phương hướng nghiên cứu mà anh dự định thực hiện trong ngày. Anh không cho cô đi theo anh, sợ cô làm anh mất tập trung. Nếu như Arthur không bao giờ tỏ ra nản chí trước mặt cô, nếu như những lời nói của anh luôn luôn tràn đầy lạc quan, thì sự yên lặng bao giờ cũng làm cho họ cảm thấy rằng họ sẽ không thành công.
Một ngày thứ sáu kết thúc tuần lễ nghiên cứu thứ ba của anh, anh rời thư viện sớm hơn thường lệ. Ngồi vào ôtô, anh bật đài to hết cỡ để nghe một bản nhạc của Barry White. Một nụ cười hiện ra trên môi anh, anh rẽ ngoặt đột ngột sang California Street và dừng lại mua vài thứ. Hôm nay anh không khám phá ra được điều gì đặc biệt cả, nhưng tự dưng cảm thấy muốn có một bữa ăn liên hoan buổi tối. Anh quyết định khi về nhà sẽ bày bàn ăn, thắp nến và làm cho cả căn nhà tràn đầy tiếng nhạc, anh sẽ mời Lauren khiêu vũ, và sẽ cấm tiệt mọi cuộc nói chuyện về y học. Khi ánh hoàng hôn lộng lẫy bắt đầu rọi lên trên vịnh, anh đỗ xe trước cửa ngôi nhà nhỏ theo phong cách thời Victoria ở Green Street. Anh nhún nhảy đi lên cầu thang, làm vài động tác tung hứng để cho chìa khóa vào ổ khóa và bước vào phòng, hai tay đầy các gói đồ. Anh dùng chân đẩy cửa và đặt tất cả các túi lên trên bàn bếp.
Lauren ngồi trên bệ cửa sổ. Lặng lẽ ngắm cảnh, cô thậm chí không buồn quay đầu lại. Arthur gọi cô bằng một giọng trêu chọc. Rõ ràng cô đang ở trong một tâm trạng buồn bực, cô vụt biến mất ngay lập tức. Arthur nghe thấy tiếng cô lầm bầm trong phòng trong: “Có việc đóng cái cánh cửa mà mình cũng không thể làm được nữa cơ chứ!”
- Em có chuyện gì à? - Anh kêu lên.
- Để cho em yên!
Arthur cởi áo măng tô và vội vã đi về phía cô. Khi anh mở cửa phòng, anh nhìn thấy cô đứng dán người vào tủ kính, tay ôm đầu.........
- Em khóc sao?
- Em không có nước mắt, sao anh lại bảo là em khóc được?
- Em khóc! Có chuyện gì vậy?
- Không, chả có chuyện gì hết.
Anh nhìn vào mắt cô dò hỏi nhưng cô xin anh để mặc cô. Nhẹ nhàng tiến lại gần, anh vòng tay ôm cô, xoay cô lại để nhìn thấy gương mặt cô.
Cô cúi đầu xuống, anh dùng ngón tay nâng cằm cô lên.
- Có chuyện gì vậy?
- Họ sắp chấm dứt rồi!
- Ai sắp chấm dứt và chấm dứt cái gì?
- Sáng nay em đến bệnh viện, mẹ em có ở đó. Người ta đã thuyết phục mẹ em đồng ý tiến hành euthanasie (biện pháp gây chết người không đau, áp dụng trong một số trường hợp bệnh kéo dài vô phương cứu chữa)
- Chuyện này là cái gì vậy? Ai đã thuyết phục ai làm chuyện đó?
Mẹ Lauren đến bệnh viện Memorial như mọi buổi sáng thường lệ. Có ba bác sĩ đợi bà bên gi.ường bệnh. Khi bà bước vào trong phòng, một trong ba bác sĩ, một phụ nữ đứng tuổi, đi về phía bà, xin được nói chuyện riêng với bà. Bác sĩ tâm lý được uỷ nhiệm bèn cầm tay bà Kline và mời bà ngồi xuống.
Thế là bắt đầu một bản thuyết trình dài trong đó mọi lý lẽ được trưng hết cả ra nhằm thuyết phục mẹ Lauren chấp nhận cái không thể chấp nhận được. Lauren chỉ còn là một cơ thể không có linh hồn mà gia đình cô nuôi dưỡng với một giá quá mức đối với xã hội. Duy trì một người thân trong cuộc sống nhân tạo quả là dễ hơn chấp nhận cái chết, nhưng mà với giá thế nào? Cần phải chấp nhận cái không thể chấp nhận và quyết định, không nên có bất cứ mặc cảm tội lỗi gì. Mọi cách đều đã thử cả rồi. Không có cái gì là hèn nhát ở đây. Cần phải dũng cảm thừa nhận điều đó. Bác sĩ Clomb nhấn mạnh sự phụ thuộc mà bà Kline phải chịu đối với cơ thể của con gái bà.
Hoàn toàn mất tự chủ, bà Kline lắc đầu tỏ ý kiên quyết từ chối. Bà không thể và không muốn làm điều đó. Từng phút, từng phút một, những lý lẽ của nhà tâm lý học sau nhiều lần vòng vo xa gần đã làm giảm dần đi cảm xúc để nhường chỗ cho một quyết định hợp lý và nhân đạo, bằng cách chứng minh với một thuật hùng biện tinh tế rằng từ chối việc làm này là bất công, tàn nhẫn đối với bà, và đối với những người thân của bà thì là ích kỷ, không lành mạnh. Kết cục sự hồ nghi bắt đầu xuất hiện. Một cách hết sức tế nhị, với những lý lẽ còn sắc sảo hơn nữa, những từ ngữ tinh tế hơn và gây mặc cảm tội lỗi hơn được tung ra rất nhẹ nhàng. Chỗ mà con gái bà hiện đang giữ trong khoa hồi sức có thể ngăn cản một bệnh nhân khác được cứu sống, một gia đình khác được có những hy vọng có cơ sở. Mặc cảm tội lỗi này được thay bằng mặc cảm tội lỗi khác... và thế là mối hồ nghi thắng thế. Lauren tham dự vào vở kịch này, khiếp sợ, nhìn thấy lòng quyết tâm của mẹ mình tiêu tan dần. Sau bốn tiếng đồng hồ trò chuyện, sự kháng cự của bà Kline tan vỡ hẳn, bà thừa nhận trong nước mắt những lý lẽ có căn cứ của các bác sĩ. Bà chấp nhận việc dự kiến tiến hành euthanasie đối với con gái bà. Điều kiện duy nhất mà bà đặt ra, yêu cầu duy nhất của bà là đợi thêm bốn ngày nữa, “để tin chắc”. Hôm đó là thứ năm, vậy không được làm gì trước thứ hai cả. Bà cần phải chuẩn bị cho mình và cho những người thân. Thương cảm, các bác sĩ gật đầu, tỏ ra hoàn toàn thấu hiểu, che giấu sự thỏa mãn hết sức của họ vì đã tìm được ở một người mẹ giải pháp cho một vấn đề mà cả ngành khoa học của họ không thể giải quyết nổi: làm gì đối với một người không chết không sống?
Hyppocrate đã không dự kiến được rằng y học sẽ có ngày gây ra một thảm kịch kiểu này. Các bác sĩ rời căn phòng, để lại bà một mình với con gái. Bà cầm tay cô, úp đầu vào bụng cô và vừa khóc vừa xin cô tha thứ. “Mẹ không thể làm gì được nữa, con yêu của mẹ, con gái bé bỏng của mẹ. Mẹ muốn ở chỗ của con”. Từ một góc phòng, Lauren lặng nhìn mẹ, lòng trĩu nặng một cảm giác lẫn lộn vừa sợ vừa buồn, vừa ghê rợn. Rồi cô đi đến ôm vai mẹ nhưng bà không cảm thấy gì cả. Trong thang máy, bác sĩ Clomb nói chuyện với các đồng nghiệp của mình, lấy làm mừng rỡ.
- Nhỡ đâu bà ấy thay đổi ý kiến thì sao? - Fernstein hỏi.
- Không, tôi không nghĩ như thế, vả lại nếu cần thì ta lại nói chuyện với bà ấy.
Lauren rời mẹ và cơ thể của chính mình, để 2 người lại với nhau. Bảo rằng cô lang thang như một hồn ma cũng không phải là oan. Cô trở về bậu cửa sổ, quyết định chìm đắm vào tất cả những ánh sáng, tất cả những khung cảnh, tất cả những hương vị và tất cả những âm thanh của thành phố. Arthur kéo cô vào vòng tay anh, ôm quanh người cô một cách hết sức dịu dàng
- Dù em khóc, em vẫn cứ xinh. Lau nước mắt đi, anh sẽ ngăn chặn họ.
- Bằng cách nào? - Cô hỏi.
- Để anh suy nghĩ một vài tiếng đã.
Cô rời khỏi anh và trở lại bên cửa sổ
- Có ích gì! - Cô vừa nói vừa đăm đăm nhìn vào ngọn đèn đường - Có lẽ như vậy lại tốt hơn, có lẽ chính họ có lý.
- “Như vậy lại tốt hơn” có nghĩa là gì? Câu hỏi của anh, được đặt ra với một giuọng hung hăng, không hề có âm. Thường ngày rất mạnh mẽ, cô trở nên nhẫn nhục. Nếu nhìn thẳng vào sự thực, thì cô chỉ có nửa cuộc sống, cô hủy hoại cuộc sống của mẹ cô, và cứ như cô nói thì “chả có ai chờ đợi cô khi ra khỏi đường hầm”. “Nếu như em tỉnh dậy...mà không có điều gì ít chắc chắn hơn thế cả”.
- Ấy là tại vì em tin, dù chỉ trong một khoảnh khắc, rằng mẹ em sẽ nhẹ nhõm hơn nếu như em chết đi vĩnh viễn.
- Anh thật là dễ thương - Cô ngắt lời anh
- Anh đã nói gì thế nhỉ?
- Không có gì đâu, cái câu “chết đi vĩnh viễn” của anh khiến em cảm thấy dễ thương thôi, nhất là trong tình huống hiện nay.
- Em có tin là mẹ em sẽ lấp được khoảng trống mà em để lại không? Em nghĩ rằng điều tốt nhất cho mẹ em là em bỏ cuộc à? Thế còn anh thì sao?
Cô nhìn anh chăm chú, vẻ dò hỏi
- Anh cái gì?
- Anh sẽ đợi em khi em tỉnh dậy, với mắt người khác thì em là vô hình, nhưng với mắt anh thì không phải vậy.
- Đó có phải là một lời tỏ tình không?
Cô bắt đầu trở nên ranh mãnh.
- Em đừng có tự mãn - Anh trả lời một cách khô khan.
- Tại sao anh làm tất cả những việc này? - Cô nói gần như tức giận.
- Tại sao em lại khiêu khích và gây gổ thế?
- Tại sao anh lại cứ ở đây, xung quanh em, loanh quanh luẩn quẩn, bỏ công sức vì em? Có cái gì không ổn trong đầu anh?
Cô hét lên.
- Động cơ của anh là gì?
- Em đang trở thành độc ác rồi đấy!
- Vậy thì trả lời đi, trả lời một cách thành thực!
- Ngồi xuống cạnh anh đi và bình tĩnh lại nào. Anh sẽ kể cho em nghe một câu chuyện có thật, rồi em sẽ hiểu. Một hôm có bữa ăn tối ở nhà anh, gần Carmel. Lúc đó anh nhiều nhất là bảy tuổi thôi...
Arthur thuật lại cho cô câu chuyện do một người bạn cũ của bố mẹ anh kể trong một ăn tối mà anh được mời đến. Bác sĩ Miller là một nhà phẫu thuật nhãn khoa nổi tiếng. Tối hôm ấy ông có vẻ kỳ lạ, dường như bối rối hay rụt rè, điều này hoàn toàn không giống với ông. Đến nỗi mẹ Arthur phải lo lắng và hỏi xem ông có chuyện gì vậy. Ông đã kể lại câu chuyện sau. Mười lăm ngày trước, ông đã mổ cho một cô bé bị mù bẩm sinh. Em không biết trông em như thế nào, không hiểu bầu trời là gì, không biết các màu sắc và không biết cả gương mặt của mẹ em. Thế giới bên ngoài đối với em lạ lẫm, chưa từng có hình ảnh nào lọt được vào trong óc em. Em đã dò đoán những hình dạng và những đường viền suốt đời em, nhưng không thể liên hệ được một hình ảnh nào với cái mà tay em kể lại.
Thế rồi Coco, đó là biệt hiệu mà tất cả mọi người dùng để gọi bác sĩ, đã thực hiện một ca mổ “không thể được”, làm một thử nghiệm tối đa để đạt cái tối đa. Buổi sáng trước bữa ăn tối ở nhà cha mẹ Arthur, một mình trong phòng với cô bé, ông đã tháo băng cho em.
- Cháu sẽ bắt đầu nhìn thấy một cái gì đó trước khi bác tháo băng xong cho cháu. Chuẩn bị tinh thần đi!
- Cháu sẽ nhìn thấy cái gì cơ? - Cô bé hỏi.
- Bác đã giải thích cho cháu rồi đấy, cháu sẽ nhìn thấy ánh sáng.
- Nhưng mà ánh sáng là gì?
- Là cuộc sống, đợi một tí đã...
Và như ông đã hứa, một vài giây sau ánh sáng ban ngày tràn vào mắt cô bé. Nó ào đến dồn dập xuyên qua hai đồng tử nhanh hơn một dòng sông được giải phóng khỏi một đập chắn vừa bị vỡ, vượt qua hai thủy tinh thể với tốc độ nhanh nhất và đến đặt vào đáy mắt hàng tỉ thông tin mà nó chuyển tải. Được kích thích lần đầu tiên kể từ khi cô bé chào đời, hàng triệu tế bào võng mạc ở mắt em trở nên náo động, gây ra phản ứng hóa học của một phức hợp tuyệt vời, nhằm mã hóa những hình ảnh được in vào võng mạc. Mật mã được truyền ngay lập tức đến hai dây thần kinh thị giác vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, chúng vội vã chuyển cái lưu lượng đầy ắp dữ liệu này đến não. Chỉ trong chừng vài phần nghìn giây, bộ não đã giải mã xong mọi dữ liệu nhận được, tái tạo chúng thành những hình ảnh linh hoạt, dành cho nhận thức nhiệm vụ liên kết và diên giải những hình ảnh này. Bộ phận vi xử lý hình ảnh cổ nhất, phức tạp nhất và tinh xảo nhất thế giới vừa mới được đột ngột nối vào một bộ phận quang học và bắt đầu vận hành.
Cô bé, vừa sốt ruột vừa sợ hãi, túm lấy tay Coco và bảo ông: “Khoan đã, cháu sợ”. Ông dừng lại một chút, lấy tay ôm cô bé và nói lại cho em nghe lần nữa về những điều sẽ xảy ra khi ông tháo hết băng. Đối với em, đó là hàng trăm thông tin mới để tiếp thu, để hiểu, để so sánh với tất cả những cái mà trí tưởng tượng của em đã tạo ra. Coco lại tiếp tục tháo băng.
Khi mở mắt, cái đầu tiên mà em nhìn chính là đôi tay mình; em quay đi quay lại đôi tay như quay những con rối. Rồi em nghiêng đầu, mỉm cười, cười thành tiếng và khóc nữa, mắt vẫn không thể rời khỏi mười ngón tay mình, cứ như là để lẩn tránh tất cả mọi thứ xung quanh em, những thứ đã trở thành hiện thực, bởi vì hẳn là em đang sợ hãi. Sau đó em hướng cái nhìn vào con búp bê của mình, cái hình thù bằng vải đã ở bên em trong những đêm và những ngày dày đặc bóng tối của em.
Ở đầu bên kia của gian phòng rộng thênh thang này, mẹ em bước vào mà không nói một lời. Cô bé ngẩng đầu lên và nhìn mẹ chăm chú trong vài giây. Em chưa từng nhìn thấy mẹ bao giờ cả. Vậy mà, khi người phụ nữ ấy chỉ còn cách em có vài mét thì nét mặt em bé thay đổi. Chỉ trong tích tắc, gương mặt ấy trở nên như một bé thơ, em dang rông hay cánh tay và không chút do dự gọi người “không quen biết” này là mẹ.
Khi Coco kể xong câu chuyện này, anh hiểu rằng từ nay trong cuộc đời ông, ông đã có một nguồn sức mạnh lớn lao, ông có thể tự nhủ rằng mình đã làm được một cái gì quan trọng. Em cứ việc nói cho đơn giản là điều mà anh làm cho em, đó là để tưởng nhớ đến Coco Miller. Còn bây giờ nếu em đã bình tĩnh lại, em phải để cho anh suy nghĩ.
Lauren không nói gì, cô lẩm bẩm điều gì đó mà không ai có thể nghe được. Arthur ngồi vào đi văng và bắt đầu gặm mẩu bút chì mà anh vớ được trên cái bàn thấp. Anh ngồi như vậy hàng phút dài, sau đó anh đứng phắt dậy, đi đến ngồi vào bàn làm việc và bắt đầu viết ngoay ngoáy trên một tờ giấy. anh làm việc mất gần một tiếng đồng hồ, trong thời gian đó Lauren nhìn anh như một con mèo đang quan sát con ruồi hay con bướm một cách kỹ càng. Cô nghiêng đầu, bĩu môi vẻ tò mò trước mỗi cử chỉ của anh, mỗi khi anh bắt tay vào viết hay ngừng lại gặm bút chì. Khi làm xong, anh nói với cô, vẻ rất nghiêm túc.
- Ở bệnh viện người ta tiến hành điều trị những gì đối với cơ thể em?
- Anh muốn nói ngoài những chăm sóc vệ sinh ấy à?
- Đặc biệt là những chăm sóc về mặt y tế.
Cô miêu tả cho anh là cô phải nối ống truyền, vì không thể nuôi dưỡng cô bằng cách nào khác được. Mỗi tuần 3 lần người ta tiêm kháng sinh để phòng ngừa. Cô miêu tả việc xoa bóp mà người ta thực hiện ở hông, khuỷu tay, ở đầu gối và vai cô để ngăn chặn những mảng chết hoại. Những việc còn lại là kiểm tra các hằng số và lấy nhiệt độ của cô. Cô không phải dùng máy thở nhân tạo.
- Em tự thở được, chính đó là cả vấn đề của họ, nếu không thì họ chỉ có việc tháo máy thôi. Tóm lại, đó gần như là tất cả.
- Thế thì tại sao họ lại nói là việc đó đắt đến thế?
- Tại vì gi.ường bệnh.
Cô giải thích tại sao chỗ nằm trong bệnh viện lại đắt tiền khủng khiếp. Người ta không thật sự phân biệt những loại hình điều trị dành cho bệnh nhân. Người ta dừng lại ở chỗ chia giá thành hoạt động của các khoa theo số gi.ường bệnh mà các khoa này có và theo số ngày trong năm mà các gi.ường đó có người nằm; bằng cách ấy họ tính được giá thành một ngày nằm bệnh viện ở mỗi khoa, khoa thần kinh, khoa hồi sức, khoa chỉnh hình...
- Có thể chúng ta sẽ giải quyểt được cả vấn đề của ta lẫn vấn đề của họ cùng một lúc - Arthur khẳng định.
- Anh có ý gỉ?
- Em đã từng chăm sóc những bệnh nhân trong tình trạng giống em chưa?
 
Cô đã làm việc này đối với những bệnh nhân được nhận vào khoa cấp cứu, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi, chưa bao giờ trong trường hợp nằm viện dài hạn cả. “Nhưng nếu em phải làm thì sao?” Cô cho rằng điều ấy không đặt ra vấn đề gì đối với cô, đó gần như là một công việc thuộc trách nhiệm của y tá, chỉ trừ trường hợp có biến chứng bất ngờ. “Vậy tức là em biết cách làm?”
Cô không hiểu anh muốn dẫn đến chuyện gì.
- Truyền thuốc có phải là một công việc phức tạp lắm không? - Anh hỏi gặng.
- Về mặt gì?
- Về mặt kiếm các vật dụng, ta có thể mua ở hiệu thuốc được không?
- Ở hiệu thuốc của bệnh viện thì được.
- Ở hiệu thuốc công cộng thì không được à?
Cô suy nghĩ vài giây rồi bảo là được, người ta có thể mua glucoza, thuốc chống đông tụ, huyết thanh và pha lẫn vào nhau để truyền cho người bệnh. Như vậy là việc đó có thể làm được. Hơn nữa, các bệnh nhân điều trị tại nhà cũng thuê y tá truyền thuốc cho, những y tá này thường đặt mua các thứ ở một hiệu thuốc trung tâm.
- Anh phải gọi điện cho Paul ngay bây giờ - Anh nói
- Để làm gì?
- Để lấy xe cứu thương.
- Xe cứu thương nào? Anh có ý gì thế? Em có thể biết thêm được không?
- Bọn mình sẽ bắt cóc em. Không có người thì cũng không có euthanasie!
- Anh điên hẳn rồi.
- Không đến nỗi thế đâu.
- Làm sao mà bắt cóc được em? Bọn mình sẽ giấu cơ thể em ở đâu? Rồi ai sẽ chăm sóc?
- Từ từ từng câu hỏi một chứ!
Chính cô sẽ chăm sóc th.ân thể cô, cô đã có kinh nghiệm rồi. Chỉ còn phải tìm cách để kiếm những thứ để truyền vào người, nhưng nghe ra thì việc đó không phải là không thể làm được. Có lẽ thỉnh thoảng phải thay đổi hiệu thuốc để khỏi bị chú ý quá thôi.
- Lấy đơn thuốc ở đâu ra? - Cô hỏi.
- Chuyện này thuộc về phần đầu câu hỏi của em: làm thế nào?
- Vậy anh định sao?
Bố dượng Paul là thợ đóng thùng xe, chuyên sửa chữa các loại xe cứu viện: cứu hỏa, cảnh sát, cứu thương. Họ sẽ mượn một cái xe “cứu thương”, xoáy vài cái áo blu, và họ sẽ đến đón cô để chuyển bệnh viện. Lauren bật cười, vẻ kích động “Nhưng chuyện này đâu có diễn ra như vậy!”
Cô lưu ý anh rằng người ta khong vào một bệnh viện như đi siêu thị. Để tiến hành chuyển viện, “chuyển giai đoạn hai” theo biệt ngữ của giới y tế, thì cần phải làm một lô thủ tục hành chính. Cần phải có giấy đồng ý nhập viện của nơi cần đến, giấy cho phép xuất viện có chữ ký của bác sĩ điều trị, phiếu di chuyển của công ty xe cứu thương, kèm theo một thư đi đường miêu tả rõ cách thức vận chuyển.
- Chính ở chỗ này mà em phải vào cuộc, Lauren, em sẽ giúp anh kiếm những giấy tờ đó.
- Nhưng em không thể làm được, em không thể cầm, cũng không thể dịch chuyển được bất cứ cái gì.
- Nhưng em biết những thứ đó ở đâu chứ?
- Biết, nhưng vậy thì sao?
- Vậy thì anh sẽ là người cuỗm những thứ đó. Em biết những mẫu giấy tờ in sẵn này chứ?
- Tất nhiên là biết, ngày nào mà em chả phải ký loại giấy này, nhất là trong khoa cấp cứu của em.
Cô miêu tả cho anh các giấy tờ này. Đó là những mẫu in kiểu bản kê khai, trên nền giấy trắng, hồng, xanh, ở đầu giấy có in tên và biểu tượng của bệnh viện hay công ty xe cứu thương.
- Vậy ta sẽ sao lại những giấy tờ đó. Em đi theo anh.
Arthur lấy áo khoác, chìa khoá, anh như người ở trong trạng thái lạc ý thức, với một sự kiên quyết đến mức khiến cho Lauren chẳng còn được mấy hứng thú phản bác lại cái kế hoạch không hiện thực này. Họ ngồi vào ôtô, anh bấm điều khiển từ xa để mở cửa gara, và lái xe ra phố. Đang đêm. Thành phố yên tĩnh, nhưng anh thì trái lại, anh phóng xe vun vút cho đến tận bệnh viện Memorial. Anh lái thẳng vào bãi đậu xe của xe cấp cứu. Lauren đang hỏi anh làm gì vậy, anh trả lời với một nụ cười khẽ trên môi: “Đi theo anh và đừng có cười!”
Khi anh bước qua cánh cửa đầu tiên của khao cấp cứu, anh bèn cúi gập người lại và cứ đi lom khom như thế đến tận bàn thường trực. Cô nhân viên trực hỏi anh bị làm sao. Anh mô tả những cơn co thắt dữ dội phát ra sau bữa ăn tối của anh chừng hai tiếng, nhấn mạnh 2 lần rằng anh đã từng mổ ruột thừa, và từ sau lần đó anh đã từng có những cơn đau không chịu được kiểu này. Cô hộ lý bảo anh nằm xuống băng ca trong lúc chờ đợi một cô hộ lý đến khám cho. Ngồi trên tay vịn của một chiếc ghế có bánh xe lăn, đến lượt Lauren cũng phải bật cười. Arthur đóng kịch rất giỏi, đến bản thân cô cũng còn lo lắng khi thấy anh như sắp xỉu đi ở phòng đợi.
- Anh không biết là anh đang làm cái gì đâu - Cô thầm thì với anh đúng vào lúc một bác sĩ tới khám cho anh
Bác sĩ Spacek xuất hiện và mời anh đi theo vào một trong những gian phòng nằm dọc hành lang, phòng nọ chỉ được ngăn cách với phòng kia bằng một tấm riđô. Bác sĩ bảo anh nằm xuống gi.ường khám bệnh và vừa hỏi về những cơn đau của anh, vừa đọc một tờ giấy trên đó ghi tất cả những thông tin mà người ta hỏi anh lúc ở chỗ thường trực. Ngoại trừ mỗi cái tuổi mà anh trở thành đàn ông là không phải khai, còn thì gần như tất cả mọi điều về anh đều được ghi lại ở đó, không kém gì một cuộc hỏi cung của cảnh sát. Anh tuyên bố rằng có những cơn đau co thắt khủng khiếp. “Anh bị những cơn co thắt khủng khiếp ấy ở những chỗ nào?”, Bác sĩ hỏi. “Khắp bụng”, vì vậy mà anh đau phát điên lên được. “Đừng có nói quá, - Lauren thì thầm - anh sẽ được hưởng một mũi tiêm an thần, sẽ phải ngủ đêm ở đây, và sáng mai được rửa ruột rồi soi ruột”.
- Đừng tiêm! - Anh buột miệng thốt lên.
- Nhưng tôi có nói là tiêm đâu - Spacek vừa nói vừa ngẩng đầu lên khỏi hồ sơ.
- Không, nhưng tôi thấy nên nói ngay thì hơn vì tôi ghét tiêm lắm.
Bác sĩ hỏi anh có phải là tạng người dễ bị kích thích không và Arthur gật đầu xác nhận. Bác sĩ sẽ sờ nắn anh và anh sẽ phải chỉ cho bác sĩ chỗ nào đau dữ nhất. Arthur lại gật đầu. Bác sĩ để hai bàn tay, tay nọ chồng tay kia, đặt lên trên bụng Arthur, và bắt đầu khám bệnh.
- Anh có đau ở đây không?
- Có - Anh do dự nói.
- Còn đây?
- Không, anh không muốn đau ở chỗ này đâu - Lauren vừa rỉ tai anh vừa mỉm cười.
Arthur chối phắt ngay lập tức là không hề bị đau tí nào ở chỗ mà bác sĩ đang nắn.
Cô đã hướng dẫn anh trả lời như vậy trong suốt cuộc khám bệnh. Bác sĩ kết luận là anh bị đau ruột do nguyên nhân thần kinh, cần phải dùng một loại thuốc chống co thắt mà hiệu thuốc của bệnh viện sẽ cấp cho anh khi anh trao cho họ cái đơn thuốc mà bác sĩ vừa thảo xong. Tiếp đó, sau 2 cái bắt tay và 3 lần “Cảm ơn bác sĩ”, anh nhẹ nhõm đi dọc theo hành lang dẫn tới hiệu thuốc. Anh đã có trong tay ba loại giấy khác nhau, tất cả đều có in tên và biểu tượng của bệnh viện Memorial. Một cái màu xanh, một cái màu hồng, cái thứ ba màu xanh lá cây. Một cái là đơn thuốc, cái thứ hai là hóa đơn thanh toán, còn cái thứ ba là giấy xuất viện, với tiêu đề in bằng chữ to: “Phiếu di chuyển/phiếu xuất viện”, và dòng chữ in nghiêng: “Gạch những mục không cần thiết”. Anh cười hớn hở, rất hài lòng về mình. Lauren bước bên anh. Anh lấy tay khoác vai cô. “Dù sao thì tụi mình cũng làm thành một ekip ăn ý đấy chứ nhỉ!”
Về đến nhà, anh cho ba tờ giấy vào máy chụp quét ở máy vi tính của anh và chụp lại. Kể từ lúc đó, anh đã có một nguồn dồi dào các mẫu giấy in đủ các màu sắc và các loại, các kiểu giấy tờ chính thức của Memorial.
- Anh tài thật đấy - Lauren nói với anh khi cô nhìn thấy những tờ giấy có in tiêu đề đầu tiên chui ra từ chiếc máy in màu.
- Một tiếng nữa anh sẽ gọi điện cho Paul - Anh trả lời cô.
- Trước hết, ta cần nói chuyện một chút về cái kế hoạch của anh đã, Arthur ạ.
Cô có lý, anh bảo, cần phải hỏi cô về tất cả mọi điều liên quan đến cách thức tiến hành của một quá trình di chuyển bệnh nhân. Nhưng đó không phải là điều bệnh nhân muốn thảo luận.
- Thế thì về việc gì?
- Arthur, kế hoạch của anh làm em cảm động, nhưng xin lỗi anh, nó thật không hiện thực, điên rồ và vô cùng nguy hiểm đối với anh. Anh sẽ phải đi tù nếu như anh bị tóm, mà vì cái gì kia chứ, giời ạ!
- Vậy đối với em không phải là còn nguy hiểm hơn nhiều nếu như ta không thử làm gì hay sao? Chúng ta chỉ có bốn ngày thôi Lauren!
- Anh không thể làm chuyện đó, Arthur, em không có quyền để anh làm như thế. Xin lỗi anh.
- Anh biết một cô bạn mà cứ nói một câu là lại kèm một câu xin lỗi, quá đáng đến mức các bạn trai của cô ấy không dám mời cô ấy uống một cốc nước nữa, sợ rằng cô ấy sẽ xin lỗi vì đã khát.
- Arthur, đừng làm ra vẻ ngu ngốc, anh biết em muốn nói cái gì, đó là một kế hoạch điên rồ!
- Chính tình huống này mới là điên, Lauren! Anh không có cách nào khác.
- Còn em, em sẽ không để cho anh nhận lấy những mạo hiểm như vậy vì em.
- Lauren, em phải giúp anh, đừng làm anh mất thời gian, chính cuộc sống của em là cái đang bị đe doạ đấy.
- Có thể có một giải pháp khác.
Arthur chỉ thấy có một cách có thể thay thế được cho kế hoạch của anh, đó là nói chuyện với mẹ của Lauren và thuyết phục bà chấp nhận không làm euthanasie nữa, nhưng cách này thật khó mà thực hiện. Anh chưa bao giờ gặp bà, và chắc gì đã có thể hẹn gặp được. Bà sẽ không nhận lời tiếp một người lạ đâu. Anh có thể tự xưng là bạn thân của con gái bà, nhưng Lauren nghĩ là bà sẽ nghi ngờ, bà biết tất cả những người thân của cô. Anh có thể làm ra vẻ tình cờ gặp bà, ở một nơi mà bà thường đến. Cần phải tìm xem chỗ nào là thuận lợi.
Lauren suy nghĩ một lát.
- Sáng nào mẹ em cũng dẫn chó đi dạo ở khu Marina - Cô nói.
- Vậy à, nhưng thế thì anh cũng cần một con chó để dẫn đi dạo.
- Tại sao?
- Tại vì nếu anh đi với một sợi dây không buộc vào cổ con chó nào cả, anh có thể mất tín nhiệm ngay lập tức.
- Anh chỉ cần đi dạo bộ ở Marina mà thôi.
Cô cho là ý này khá hấp dẫn. Anh chỉ việc đi bộ dọc khu Marina, vào giờ dạo chơi của Kali, mềm lòng trước con chó, vuốt ve nó và cứ thế mà bắt chuyện với mẹ Lauren. Arthur đồng ý thử một phen xem sao, anh sẽ ra chỗ đó vào ngày mai. sáng sớm, Arthur dậy, mặc một chiếc quần vải thô và áo chui cổ. Trước khi ra đi, anh yêu cầu Lauren ôm anh thật chặt.
- Anh làm sao vậy? cô nói, vẻ ngượng ngùng.
- Chả sao cả, anh không có thời gian giải thích cho em, làm như vậy là để cho con chó đấy.
Cô thực hiện, áp đầu lên vai anh và thở dài. “Tốt lắm rồi - Anh vừa nói bằng một giọng bí ẩn vừa rời khỏi cô - anh biến đây kẻo lỡ không gặp được mẹ em mất”. Anh không đứng lại để chào tạm biệt cô, mà lao vọt ra khỏi nhà. Cửa khép lại và Lauren vừa nhún vai vừa thở dài: “Anh ấy ôm mình là vì con chó”.
Khi anh bắt đầu cuộc đi dạo, cầu Golden Gate hãy còn ngủ trong một đám mây xốp như bông. Chỉ có đỉnh hai cột trụ của chiếc cầu đỏ này là nhô ra khỏi lớp sương mù bao bọc của nó. Mặt biển bị giam h.ãm trong vịnh đang tĩnh lặng, những con hải âu dậy sớm lượn những vòng tròn rộng tìm bắt cá, những thảm cỏ rộng bao quanh bến tảu hãy còn đẫm sương đêm, và những chiếc tàu thủy được neo vào bến đang đung đưa rất nhẹ nhàng. Cảnh vật thật thanh bình, vài người tập chạy thích dậy sớm lám đánh động bầu không khí ẩm ướt và tươi mát. Vài tiếng nữa một mặt trời to lừng lững sẽ xuất hiện phía trên đồi Saussalito và đồi Tiburon và sẽ giải phóng cây cầu đỏ ra khỏi đám sương mù của nó.
Anh nhìn thấy bà từ đằng xa, trông hoàn toàn phù hợp với sự miêu tả của con gái bà. Kali chạy lon ton cách bà vài bước. Bà Kline đang đắm chìm trong dòng suy tưởng và có vẻ như mang trong lòng toàn bộ gánh nặng của điều bà lo nghĩ. Con chó đi ngang qua Authur và đột nhiên đứng lại một cách lạ lùng, nó hít hít không khí xung quanh anh, mũi phập phồng và đầu lắc lư. Nó lại gần Arthur, hít mạnh gấu quần anh và tức khắc vừa nằm xuống vừa kêu ư ử; đuôi nó vẫy loạn xì ngầu, con vật run lên vì mừng rỡ và kích động. Arthur quỳ xuống và bắt đầu vuốt ve nó một cách dịu dàng. Con vật vội vã liếm tay anh, những tiếng kêu ư ử của nó vang lên to hơn và dồn dập hơn. Mẹ Lauren bước lại gần, rất sửng sốt.
- Anh quen nó à? - Bà nói.
- Sao lại thế ạ? - Anh vừa trả lời vừa nhỏm dậy.
- Thường ngày nó nhát lắm. Không ai đến gần nó được, thế mà bây giờ nó cứ như quấn lấy anh.
- Tôi không biết, có lẽ vậy, trông nó giống ghê lắm một người bạn gái rất thân của tôi.
- Vậy à? - Bà Kline nói, tim đập thình thịch.
Con chó ngồi dưới chân Arthur và lại vừa sủa ăng ẳng vừa chìa chân ra cho anh.
“Kali! - Mẹ Lauren gọi - Để cho ông này được yên”.
Arthur giơ tay ra và tự giới thiệu, bà Kline do dự rồi cũng chìa tay ra. Bà cho rằng thái độ của con chó thật là không hiểu được và xin lỗi vì nó dám tỏ ra thân thiện như vậy.
- Không sao đâu, tôi rất yêu súc vật và con chó này thì rất dễ thương.
- Nhưng thường ngày nó chỉ thích thui thủi một mình, vậy mà nó lại có vẻ thực sự quen biết anh.
- Tôi luôn luôn thu hút lũ chó, tôi cho rằng chúng cảm thấy được là ai yêu chúng. Con chó này có cái đầu xinh thật.
- Đó là một con chó lai, một nửa là giống chó săn êpahơn, một nửa là giống chó labrađô
- Sao nó lại giống con chó của Lauren đến thế cơ chứ.
Bà Kline gần như bị chóng mặt, nét mặt của bà nhăn lại.
- Bà có khỏe không, thưa bà? - Arthur vừa hỏi vừa cầm lấy tay bà.
- Anh biết con gái tôi à?
- Vâng, biết rất rõ, chúng tôi khá thân nhau.
Bà chưa bao giờ nghe nói đến anh và bà muốn biết anh quen con gái bà như thế nào. Anh xưng là kiến trúc sư và đã gặp Lauren ở bệnh viện. Cô khâu cho anh một vết thương do dao rọc giấy gây ra. Họ hợp tính nhau, và gặp nhau thường xuyên, “thỉnh thoảng tôi lại đến ăn trưa cùng cô ấy ở khoa cấp cứu, đôi khi chúng tôi cũng ăn tối với nhau, những lúc mà cô ấy làm việc xong sớm buổi tối”.
- Lauren không bao giờ có thời gian ăn trưa, và tối nào cũng về muộn.
Arthur cúi đầu, yên lặng.
- Nhưng mà dù sao thì con Kali cũng có vẻ quen anh lắm.
- Tôi rất buồn về những chuyện đã xảy ra với cô ấy, thưa bà, từ khi xảy ra tai nạn tôi vẫn thường đến thăm cô ấy ở bệnh viện.
- Tôi chưa gặp anh ở đó bao giờ cả.
Arthur mời bà dạo bước một đoạn cùng anh. Họ bước dọc theo bờ biển. Arthur liều mạng hỏi thăm tin tức của Lauren, viện cớ là từ lâu nay anh chưa có dịp đến thăm cô. Bà Kline nói rằng tình hình không biến chuyển, chẳng còn có hy vọng mấy. Bà không nói gì về quyết định của bà, nhưng bà miêu tả tình trạng của con gái bà bằng những từ hoàn toàn tuyệt vọng. Arthur im lặng một chút, rồi bắt đầu một bài biện hộ cho niềm hy vọng. “Các bác sĩ không biết gì hết về hôn mê”... “Những người bệnh trong cơn hôn mê vẫn nghe được tiếng chúng ta đấy”... “Có những người đã tỉnh lại sau bảy năm”... “Không có gì là thiêng liêng hơn cuộc sống, và nếu như cuộc sống đã được duy trì trái với cả lẽ thường, thì đó là một tín hiệu mà ta cần đọc được”. Đến Thượng Đế cũng được lôi ra như là “đấng duy nhất có quyền định đoạt cái sống và cái chết”. Bà Kline dừng bước đột ngột và nhìn chằm chặp vào mắt Arthur.
- Anh không phải là gặp tôi một cách tình cờ đâu, anh là ai và anh muốn gì?
- Tôi chỉ đi dạo ở đây thôi, thưa bà, và nếu như bà cho rằng cuộc gặp gỡ này không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên, thì chỉ có bà mới cần tự đặt cho mình câu hỏi tại sao. Tôi không dụ dỗ con chó của Lauren để nó chạy đến với tôi mà tôi chẳng cần phải gọi nó.
- Anh muốn gì ở tôi? Và anh biết gì mà dám tuôn ra trước mặt tôi những lời quyết định về cái sống và cái chết? Anh không biết gì hết, không biết thế nào là cái sự phải có mặt ở đó tất cả mọi ngày, để nhìn con mình nằm bất tỉnh, chẳng có một sợi mi nào lay động, để nhìn ngực nó phập phồng, nhưng gương mặt nó thì khép kín với thế giới bên ngoài.
 
Trong cơn tức giận, bà miêu tả cho anh về những ngày và những đêm bà ngồi nói với con gái trong niềm hy vọng điên rồ là cô có thể nghe thấy được, bà không còn có cuộc sống nữa kể từ khi con gái bà gặp tai nạn, bà sống trong nỗi sợ một cú điện thoại gọi đến của bệnh viện gọi đến báo rằng thế là đã hết rồi. Bà đã cho cô cuộc sống. Khi cô còn nhỏ, mỗi sáng bà đánh thức cô dậy, mặc quần áo cho cô và dẫn cô đến trường, mỗi tối bà đưa cô vào gi.ường và kể chuyện cho cô nghe. Bà lo lắng nghe mỗi niềm vui của cô, mỗi nỗi buồn của cô. “Khi nó vào tuổi thiếu niên, tôi đã chấp nhận những cơn bực tức không chính đáng của nó, tôi đã chia sẻ những nỗi day dứt của nó lúc chớm yêu, tôi đã thức đem để giúp nó học bài, giúp nó ôn tập trong tất cả các kỳ thi. Tôi đã biết lùi lại phía sau khi cần thiết, và nếu như anh biết được ngay khi còn sống tôi đã nhớ nó đến thế nào. Ngày nào trong đời, tôi cũng tỉnh dậy với ý nghĩ về nó, đi ngủ mà nghĩ tới nó...”
Bà Kline ngừng bặt trong những tiếng nức nở cố nén. Arthur đặt tay lên vai bà và xin lỗi.
- Tôi không thể chịu được nữa - Bà nói bằng một giọng trầm trầm - Anh tha lỗi cho tôi và đi ngay đi, lẽ ra tôi không nên nói chuyện với anh.
Arthur lại xin lỗi lần nữa, xoa đầu con chó và chậm rãi rời xa. Anh vào xe ôtô của mình, lúc xe xa dần, anh thấy qua gương chiếu hậu của ôtô bà mẹ Lauren đang nhìn theo anh. Khi anh vào nhà, Lauren đang tập đứng thăng bằng trên một chiếc bàn thấp.
- Em làm gì vậy?
- Em luyện tập.
- Anh thấy rồi.
- Mọi chuyện diễn ra như thế nào?
Anh kể cho cô nghe một cách chi tiết về cuộc gặp gỡ, thất vọng vì đã không làm thay đổi được lập trường của mẹ cô.
- Anh không gặp may rồi, em chẳng thay đổi ý kiến bao giờ đâu, bà ấy cứng đầu cứng cổ lắm.
- Đừng khắt khe thế, mẹ em rất đau khổ.
- Anh có thể làm một chàng rể lý tưởng được đấy.
- Nhận xét này có ẩn ý sâu sắc gì thế?
- Chẳng có gì cả, anh là loại người được các bà mẹ vợ quý lắm đấy.
- Anh thấy cái suy nghĩ này của em rất tầm thường, và anh không cho đó là chủ đề đáng để ta nói chuyện.
- Tất nhiên là không rồi! Anh sẽ góa trước khi lấy vợ.
- Em có ý gì với cái giọng chua ngoa thế?
- Chẳng có gì hết, em không hề có ý nói gì với anh cả, thôi em đi ngắm biển đây, một khi mà em hãy còn có thể làm được điều này.
Cô đột ngột biến mất, để lại Arthur trong nhà một mình và bối rối. “Cô ấy làm sao thế nhỉ?” - Anh khẽ tự hỏi. Rồi anh ngồi vào bàn vẽ, bật máy vi tính lên và bắt đầu thảo ra những việc cần làm. Anh đã quyết định việc này từ lúc ngồi vào ôtô, khi xe rời khu Marina. Không còn cách nào khác và phải làm nhanh. Từ thứ hai trở đi là các bác sĩ có thể “ru ngủ” Lauren rồi. Anh lập một bảng cần thiết các thứ cần thiết để thực hiện kế hoạch của anh. Anh in tờ giấy ra, và nhấc máy điện thoại để gọi cho Paul.
- Tao cần gặp mày hết sức khẩn cấp.
- À, mày đã từ Knewawa trở về đấy à!
- Chuyện này gấp lắm, Paul, tao cần mày.
- Mày muốn tụi mình gặp nhau ở đâu?
- Mày muốn chỗ nào cũng được!
- Đến nhà tao đi.
Nửa tiếng sau Paul đón bạn. Họ ngồi vào đi văng ở phòng khách
- Mày có chuyện gỉ?
- Tao cần mày giúp một việc mà không hỏi câu nào cả. Tao muốn mày giúp tao đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện.
- Có phải đây là một chuỗi rủi ro không? Sau hồn ma ta sẽ chăm sóc một cái xác à? Tao có thể cho mày cái xác của tao nếu mày còn tiếp tục, mày có thể tùy ý sử dụng!
- Đó không phải là một xác chết.
- Thế thì đó là gì, một người bệnh đầy sức sống chăng?
- Tao nói nghiêm chỉnh đấy, Paul, và tao rất vội.
- Tao không được hỏi mày à?
- Mày sẽ khó lòng hiểu được những câu trả lời của tao!
- Tại vì tao ngu quá hay sao?
- Tại vì không ai có thể tin được điều mà tao đang trải qua.
- Thì cứ thử xem.
- Mày phải giúp tao đánh cắp cơ thể của một phụ nữ đang bị hôn mê, cô ấy sẽ phải chịu euthanasie vào thứ hai tới. Và tao thì không muốn thế.
- Mày phải lòng một cô đang bị hôn mê à? Ra đó là câu chuyện hồn ma của mày phải không?
Arthur trả lời bằng những tiếng ầm ừ mơ hồ. Paul hít một hơi thở dài và ngả người dựa lưng vào đi văng.
- Chuyện này rồi sẽ tốn đến hai ngàn đôla tiền chữa chạy ở bác sĩ tâm thần đây. Mày đã suy nghĩ kỹ chưa, mày nhất quyết thế à?
- Có mày hay không thì tao vẫn cứ làm.
- Mày thật là có một niềm say mê với những câu chuyện đơn giản!
- Mày không bị bắt buộc phải làm, mày biết đấy!
- Tao không bị bắt buộc, tao biết. Mày xộc đến đây, tao không có tin tức gì của mày từ mười lăm ngày nay rồi, trông mày chẳng còn giống ai nữa cả; mày yêu cầu tao phải mạo hiểm với mười năm nằm nhà đá để giúp mày đánh cắp cơ thể trong bệnh viện, còn tao, tao sẽ cầu nguyện thành Phật tổ Như Lai, đó là vận may duy nhất của tao. Mày cần cái gì nào?
Arthur giải thích kế hoạch của anh, những thứ mà Paul cần phải kiếm cho anh, cái chính là một xe cứu thương, mượn tạm ở xưởng sửa chữa của bố dượng Paul.
- A, thêm vào đó tao lại còn phải chọc vào ông chồng của mẹ tao nữa chứ! Tao thật hài lòng vì được quen biết với mày, ông bạn ạ, đó là một việc mà suýt nữa đời tao bị thiếu.
- Tao biết là tao yêu cầu mày quá nhiều.
- Không, mày không biết đâu! Mày cần tất cả những thứ đó lúc nào?
Anh cần xe cứu thương vào lúc tối mai. Anh sẽ tiến hành vào quãng hai mươi ba giờ, Paul sẽ ghé qua nhà anh để đón anh trước đó nửa tiếng. Sáng sớm mai Arthur sẽ gọi điện lại cho bạn để điểm lại các chi tiết linh tinh khác. Anh vừa ôm xiết bạn rất mạnh vừa nồng nhiệt cảm ơn. Paul tiễn anh ra tận cửa xe ôtô, vẻ băn khoăn lo lắng.
- Cám ơn mày lần nữa - Arthur thò đầu qua cửa xe ôtô nói.
- Bạn bè là để giúp nhau mà lại, có thể cuối tháng này tao sẽ cần mày giúp để đi cắt móng chân cho một con gấu trên núi, có gì tao sẽ báo cho mày biết. Thôi, mày chuồn đi, tao thấy mày có vẻ còn nhiều việc phải làm.
Xe ôtô mất hút sau ngã tư, và Paul giơ hai tay lên trời, hướng về Thượng đế mà kêu rống lên: “Tại sao lại là tôi?” Anh yên lặng ngắm những vì sao một lát, và do không có câu trả lời nào vọng đến với anh, anh bèn nhún vai và lẩm bẩm: “Ừ, mình biết, tại sao không!”
Phần còn lại của ngày Arthur chạy từ hiệu thuốc này đến phòng khám bệnh khác, và chất đầy thùng xe ôtô của anh.Về đến nhà, anh thấy Lauren đang thiu thiu ngủ trên gi.ường. Anh ngồi xuống bên cô một cách rất thận trọng và đưa tay lên phía trên tóc cô mà không chạm vào. Rồi anh thầm thì: “Bây giờ em đã ngủ được rồi. Quả thực em đẹp lắm”.
Rồi anh đứng dậy, vẫn nhẹ nhàng như thế, và quay trở lại phòng khách, ngồi vào bàn vẽ. Anh vừa rời khỏi phòng thì Lauren mở một mắt ra và mỉm cười tinh nghịch. Arthur lấy những mẫu giấy tờ hành chính mà anh in hôm trước ra bắt đầu điền vào. Anh để trống vài dòng rồi xếp tất cả vào bìa đựng hồ sơ. Anh mặc lại áo khoác, lấy xe ôtô và lái về hướng bệnh viện. Anh đỗ xe ở bãi đậu xe ở khoa cấp cứu, để ngỏ cửa xe rồi lẻn vào qua cửa. Một camera được đặt để quay phim hành lang nhưng anh không nhận thấy. Anh đi theo hành lang đến tận một gian phòng lớn được dùng làm nhà ăn. Một cô y tá trực gọi anh.
- Anh làm gì ở đây?
Anh đến để gây bất ngờ cho một cô bạn lâu năm, cô ấy làm việc ở đây, có thể cô biết cô ấy, cô ấy tên là Lauren Kline. Cô y tá im lặng một lúc, bối rối.
- Từ bao lâu rồi, anh không gặp cô ấy?
- Ít nhất là sáu tháng!
Anh ứng biến trong một vai nhiếp ảnh vừa mới ở Châu Phi về và muốn đến chào cô em họ theo quan hệ thông gia. “Chúng tôi thân nhau lắm. Cô ấy không làm việc ở đây nữa à?” Cô y tá lờ câu hỏi đi và mời anh ra thường trực, ở đó người ta sẽ thông tin cho anh; anh sẽ không tìm thấy bạn anh ở đây đâu, cô rất lấy làm tiếc. Arthur làm ra vẻ lo lắng và hỏi rằng có chuyện gì không. Vẻ lúng túng, cô y tá một mực yêu cầu anh ra nơi đón tiếp của bệnh viện.
- Tôi sẽ phải đi ra khỏi tòa nhà này à?
- Về nguyên tắc thì đúng vậy, nhưng như thế anh sẽ phải đi một vòng khá xa...
Cô chỉ dẫn cho anh để anh đi ra thường trực qua lối trong nhà. Anh chào cô và cảm ơn cô, mặt vẫn giữ nguyên vẻ lo lắng mà anh tạo ra rất khéo. Khuất mắt cô y tá, anh lẻn từ hành lang này sang hành lang khác cho đến lúc thấy cái mà anh đang tìm. trong một gian phòng có cánh cửa hé mở, anh nhìn thấy hai chiếc áo blu trắng móc trên mắc áo. Anh bước vào, lấy hai cái áo ấy, cuộn tròn lại rồi giấu bên trong áo măng tô của anh. Trong túi một chiếc áo, anh cảm thấy có một cái ống nghe. Anh nhanh chóng quay ra hành lang, theo những chỉ dẫn của cô y tá, và đi ra khỏi bệnh viện bằng cửa chính. Anh đi vòng quanh tòa nhà, ra chỗ xe ôtô của anh ở bãi đậu xe của khoa cấp cứu rồi chạy về nhà. Lauren ngồi trước máy vi tính, chỉ đợi anh bước vào phòng là thốt lên: “Anh thật điên rồ quá mức!” Anh không trả lời, đi lại bàn làm việc và ném lên đó hai chiếc áo blu.
- Anh điên thật rồi, xe cứu thương trong gara à?
- Paul sẽ mang cái xe đó đến đón anh, mười rưỡi tối mai.
- Anh lấy máy cái áo này ở đâu?
- Ở bệnh viện của em!
- Nhưng mà sao anh lại làm được tất cả những trò này? Ai đó có thể bắt giữ anh khi anh định làm gì thì sao? Đưa em xem nhãn đính trên áo blu đi.
Arthur mở hai chiếc áo ra, mặc vào người cái to hơn, và xoay người, nhại lại dáng điệu của những người mẫu thời trang đang trình diễn mốt trên sân khấu.
- Nào, em thấy anh ra sao?
- Anh đã cuỗm áo blu của Bronswick!
- Đó là ai vậy?
- Một bác sĩ tim mạch xuất sắc, không khí bệnh viện sẽ căng thẳng lắm đây, em đã thấy trước một loạt thông báo được niêm yết. Giám đốc phụ trách an ninh sẽ được một phen méo mặt. Đây là bác sĩ cau có nhất và kiêu căng nhất bệnh viện Memorial.
- Khả năng có ao đó nhận diện được anh thì sao?
Cô bảo anh yên tâm, ít có khả năng ấy lắm, phải có chuyện gì đặc biệt không may thì mới thế, vì có 2 lần thay ca, ca làm cuối tuần và ca trực đêm. Anh chẳng sợ gặp phải một người trong ê kíp của bác sĩ này đâu. Tối chủ nhật đó sẽ là một bệnh viện khác, với những người khác, và không khí hoàn toàn khác.
- Này, nhìn xem, anh có cả ống nghe nhé.
- Đeo vào cổ anh đi!
Anh thực hiện.
- Trông anh hấp dẫn khinh khủng trong trang phục bác sĩ, anh có biết không? - Cô nói bằng một giọng rất dịu dàng và đầy nữ tính.
Arthur đỏ mặt lên.. Cô cầm lấy tay anh và ve vuốt những ngón tay. Cô ngước mắt nhìn anh và nói bằng một giọng vẫn dịu dàng như vậy :
- Cảm ơn về tất cả những điều anh làm cho em, chưa bao giờ có ai quan tâm chăm sóc em như vậy cả.
- Thì chính vì vậy nên Zorro đã đến!
Cô đứng dậy, khuôn mặt sát lại gần mặt Arthur. Họ nhìn vào mắt nhau. Anh vòng tay ôm cô, luồn bàn tay ra sau gáy cô, kéo cô lại để đầu cô tựa vào vai anh.
- Bọn mình có nhiều việc phải làm - Anh bảo cô - Anh phải làm việc đây.
Anh rời ra để ngồi vào bàn làm việc. Cô hướng về anh một cái nhìn chăm chú rồi yên lặng rút vào phòng trong, để ngỏ cửa. Anh làm việc rất khuya, chỉ ngừng lại để vừa nhấm nháp vài đồ ăn vặt vừa gõ mấy dòng vào máy vi tính, ngồi trước màn hình, tập trung hết sức vào những ghi chép của mình. Anh nghe thấy tiếng tivi được bật lên. “Em làm thế nào mà được vậy?” anh cất cao giọng hỏi. Cô không trả lời. Đứng dậy, anh đi xuyên qua phòng khách và nghiêng người qua cánh cửa hé mở. Lauren đang nằm sấp trên gi.ường. Cô rời mắt khỏi tivi và mỉm cười với anh, vẻ trêu chọc. Anh mỉm cười đáp lại, rồi trở về với bàn phím của mình. Đến lúc anh chắc rằng cô đang say sưa với bộ phim của mình, anh bèn đứng dậy và đi ra tủ đựng tài liệu. Anh lấy ra một cái hộp và đặt lên bàn rồi nhìn hồi lâu trước khi mở ra xem. Đó là một chiếc hộp hình vuông, to như một hộp đựng giày và được bọc một lớp vải đã ngả màu vì năm tháng. Anh hít một hơi và mở nắp hộp ra; trong hộp có một bó thư được buộc lại bằng một sợi dây gai. Anh lấy ra một cái phong bì to hơn hẳn những cái khác và mở ra. Một bức thư niêm phong và một chùm chìa khóa cũ, to và nặng, rơi ra khỏi phong bì. Anh chộp lấy chùm chìa khóa, lấy tay tung hứng nó và mỉm cười lặng lẽ. Anh không đọc bức thư mà nhét nó vào trong túi áo vét của anh, cùng với chùm chìa khoá. Anh đứng dậy, đặt lại chiếc hộp vào chỗ cũ, và trở lại bàn làm việc, nơi bản kế hoạch hành động của anh đang được in ra. Sau cùng, anh tắt máy vi tính và đi vào phòng ngủ. Cô đang ngồi ở chân gi.ường, xem phim truyền hình nhiều tập. Tóc cô buông xoã, trông cô có vẻ rất bình thản, thư giãn.
- Tất cả đều sẵn sàng ở mức có thể rồi - Anh nói.
- Một lần nữa, tại sao anh làm tất cả những việc này?
- Em hỏi cái đó thì được ích gì, tại sao em cần biết hết mọi điều?
- Chẳng tại sao cả.
Anh đi vào buồng tắm. Vừa lắng nghe tiếng động trong buồng tắm, cô vừa vuốt nhẹ lên thảm trải sàn. Khi tay cô vuốt qua, những sợi tơ bật lên, dựng tua tủa do tĩnh điện. Anh đi ra, người quấn trong một chiếc áo choàng vải bông.
- Anh phải đi ngủ bây giờ đây, ngày mai anh phải thật khỏe mạnh.
Cô đến gần anh và đặt một cái hôn lên trán anh. “Chúc anh ngủ ngon, và hẹn đến mai” rồi cô đi ra khỏi phòng.
Ngày hôm sau trôi qua theo nhịp tích tắc thong thả từng phút một, trong không khí chậm rãi uể oải của những ngày chủ nhật. Mặt trời chơi trốn tìm với những trận mưa bóng mây. Họ ít nói chuyện với nhau. Thỉnh thoảng cô lại nhìn anh đăm đăm và hỏi rằng anh có chắc là vẫn muốn tiếp tục không, câu hỏi mà anh không buồn trả lời nữa. Đến trưa thì họ ra bờ biển dạo chơi.
- Lại đây em, chúng mình đi bên mép nước, anh muốn nói với em vài điều.
Anh đặt tay lên vai cô trước khi nói.
Họ đến sát mép nước, nơi những con sóng bị vỡ tung ra trên cát.
- Em hãy nhìn kỹ tất cả những thứ xung quanh ta: nước giận dữ nổi sóng, đất trơ trơ bất cần, những ngọn núi vượt hẳn lên trên, rồi cây cối, rồi ánh sáng mà mỗi phút trong ngày lại đùa nghịch thay đổi cường độ và màu sắc, những con chim bay lượn trên đầu ta, những con cá vừa cố tìm cách để khỏi phải làm mồi cho lũ hải âu vừa đi săn lùng những con cá khác. Có sư hòa điệu của các âm thanh, tiếng sóng, tiếng gió, tiếng cát; và rồi ở giữa các dàn nhạc phi thường này của cuộc đời, và vạn vật có em, có tất cả những người quanh ta. Có bao nhiêu người nhìn thấy những cái mà anh miêu tả cho em? Có bao nhiêu người mỗi buổi sáng ra lại biết nhận thấy cái đặc quyền được tỉnh dậy và được thấy, được ngửi, được động chạm, được nghe, được cảm? Có bao nhiêu người trong chúng ta có khả năng quên đi trong giây lát những nỗi lo toan của mình để mê đắm trước cái cảnh tượng kỳ diệu này. Phải nói rằng sự vô ý thức lớn nhất của con người, đó là sự vô ý thức đối với chính cuộc đời mình. Em thì em nhận thức được tất cả những điều này, vì em đang gặp nguy hiểm, và cái đó làm cho em trở thành một người đặc biệt, bởi cái mà em không cần để sống: đó là những người khác, bởi vì em không còn sự lựa chọn nào nữa cả. Vậy thì để trả lời cho câu hỏi mà em không ngừng đặt ra cho anh từ bao nhiêu ngày nay, nếu anh không chịu mạo hiểm, thì toàn bộ vẻ đẹp này, toàn bộ năng lượng này, toàn bộ vật chất sống này sẽ trở thành cái không thể đạt được đối với em. Chính vì vậy mà anh làm việc này, đưa em trở về cuộc sống sẽ làm cho đời anh có một ý nghĩa. Cuộc đời có thể làm được cho anh mấy dịp được làm những điều cốt yếu như vậy?
Lauren không nói một lời, rồi sau cùng cô hạ mắt nhìn xuống cát. Họ bước cạnh nhau ra ôtô.
 
Chương 09Vào lúc 10h, Paul đậu xe cứu thương ở chỗ đỗ xe của Arthur và bấm chuông cửa. “Tao sẵn sàng rồi”, anh nói. Arthur đưa cho bạn một cái túi.
- Mặc cái áo blu này, và đeo kính đi, là kính không số thôi.
- Mày không có râu giả à?
- Tao sẽ giải thích cho mày trên đường đi, nào, đi thôi, mình phải có mặt ở lúc đổi ca, vào 11h đúng. Lauren, em đi với bọn anh, bọn anh sẽ cần đến em.
- Mày nói với bóng ma của mày đấy à?
- Tao nói với một người đang ở cạnh chúng ta nhưng mày không nhìn thấy.
- Tất cả chuyện này là một trò đùa. Arthur, hay là mày điên thật rồi?
- Không đùa mà cũng không điên, chuyện này mày không thể hiểu được, vì vậy giải thích chỉ vô ích thôi.
- Tốt nhất là tao nên biến thành một thanh sôcôla, ngay bây giờ, thời gian sẽ trôi nhanh hơn và nằm trong lớp giấy bạc. Tao sẽ bớt lo lắng hơn.
- Đó cũng là một cách thôi, nhanh lên.
Hóa trang thành bác sĩ và nhân viên tải thương, cả hai người đi về phía gara.
- Trông cái xe cứu thương của mày tởm quá
- Xin lỗi, tao lấy cái mà tao tìm được, rồi sắp tới tao sẽ bị chửi một chặp cho mà xem! Còn mày thì chỉ có việc nói với tao bằng thứ tiếng Đức đó thôi. Đúng là tao đang nằm mơ!
- Tao đùa đấy, cái xe trông được lắm.
Paul cầm tay lái, Arthur ngồi bên cạnh và Lauren ở giữa hai người
- Mày có muốn bật đèn xoay và bật còi cấp cứu không, bác sĩ?
- Mày có muốn thử nghiêm túc một tí không?
- Ồ không, ông bạn ạ, nhất định là không, nếu tao thử nghiêm túc để nhận ra rằng tao đang lái một chiếc xe cứu thương mượn tạm để đi xoáy một cái xác trong bệnh viện cùng với người hợp doanh của tao, tao có thể bừng tỉnh và kế hoạch của mày sẽ đi đời nhà ma. Vì vậy tao sẽ cố hết sức để càng ít nghiêm túc càng tốt, như thế tao sẽ tiếp tục tin rằng tao đang trong một giấc mơ sắp chuyển thành cơn ác mộng. Mày lưu ý cho rằng mặt tốt của vấn đề là ở chỗ tao vẫn thường thấy các buổi tối chủ nhật nhạt nhẽo quá, nhưng đây thì dù sao cũng được giật gân lên một đôi chút.
Lauren cười
- Em thấy buồn cười à? - Arthur nói.
- Mày không thể thôi cái trò nói một mình đi được à?
- Tao không nói một mình
- Đồng ý, có một hồn ma ở phía sau! Nhưng đừng nói chuyện riêng với hắn nữa, điều đó làm cho tao khó chịu!
- Với cô ấy chứ!
- Cô ấy cái gì?
- Đó là một cô gái, và cô ấy nghe thấy tất cả những điều mày nói!
- Tao cũng muốn được như mày!
- Lái xe đi!
- Hai anh lúc nào cũng như thế này à?
- Thường xuyên.
- Thường xuyên cái gì? - Paul hỏi.
- Tao không nói với mày
Paul phanh két lại đột ngột
- Mày làm sao thế?
- Thôi ngay đi! Tao thề với mày là cái trò đó làm cho tao điên tiết!
- Trò gì cơ?
- Trò gì à? - Paul nhắc lại và nhăn mặt - Cái trò nói một mình thậm vô lý của mày ấy.
- Tao không nói một mình, Paul, tao nói với Lauren. Tao xin mày tin tao.
- Arthur, mày chập mạch hẳn rồi. Phải dừng câu chuyện này lại ngay tức khắc, mày cần được giúp đỡ.
Arthur cao giọng.
- Chuyện gì cũng phải nói với mày hai lần. Mẹ kiếp, tao chỉ xin mày tin tao thôi chứ có gì đâu.
- Thế thì mày giải thích tất cả cho tao đi, nếu mày muốn tao tin mày! - Paul kêu to - Tại vì bây giờ trông mày giống như một thằng điên, mày làm những trò điên rồ, mày nói một mình, ày tin những chuyện ma quỷ nhảm nhí, và mày kéo tao vào một việc ngu xuẩn!
- Lái xe đi, tao van mày, tao sẽ thử giải thích cho mày đây, và cái chính là mày hãy thử cố hiểu xem.
Trong khi chiếc xe cứu thương đi xuyên qua thành phố, Arthur giải thích cho người bạn luôn luôn là đồng sự của mình về cái điều không thể giải thích nổi ấy. Anh kể cho bạn nghe toàn bộ câu chuyện từ lúc bắt đầu, từ cái tủ quần áo trong buồng tắm cho đến tối hôm nay.
Quên mất sụ hiện diện của Lauren trong giây lát, anh nói với bạn về cô, về những cách nhìn của cô, về đời cô, về những nỗi nghi ngại của cô, về sức mạnh của cô, về vị ngọt ngào của những khoảnh khắc cùng cô chia sẻ, về những lời công kích lẫn nhau của họ. Paul ngắt lời anh.
- Nếu quả thực cô ta đang ở đây thì mày toi rồi con ạ.
- Tại sao?
- Tại vì mày vừa tuôn ra một lời tỏ tình thực sự.
Paul quay ra nhìn bạn một cách chăm chú. Rồi anh tiếp tục với một nụ cười thỏa mãn :
- Ít ra thì mày cũng tin câu chuyện của mày.
- Tất nhiên là tao tin chứ, sao mày lại nói thế?
- Tại vì mày vừa mới đỏ mặt lên. Tao chưa bao giờ thấy mày đỏ mặt cả.
Rồi anh nói tiếp, vẻ huênh hoang: “Thưa cô gái mà chúng tôi sắp đánh cắp cơ thể, nếu quả thực là cô ở đây, tôi muốn nói với cô rằng thằng bạn tôi nó bám dai lắm đấy, trước kia tôi chưa bao giờ thấy nó như vậy cả!”
- Im mồm và lái xe đi.
- Tao sẽ tin vào câu chuyện của mày vì mày là bạn tao và mày không cho tao được lựa chọn. Nếu tình bạn không phải là cùng nhau chia sẻ mọi chuyện điên rồ thì thử hỏi nó là cái gì? Thôi, bệnh viện của mày đây rồi.
- Abott và Costello! - Lauren nói, phá vỡ sự im lặng của mình, vẻ mặt tươi rói.
- Tao lái xe đi đâu bây giờ?
- Đi về phía xe cấp cứu và đỗ xe. Bật đèn xoay lên.
Cả ba xuống xe và đi về phía thường trực, nơi có một cô y tá đang chào họ.
- Các anh mang gì đến cho chúng tôi đấy? - Cô nói.
- Không có gì cả, chúng tôi đến mang một người đi - Arthur trả lời bằng một giọng đầy quyền hành.
- Người nào vậy?
Anh tự giới thiệu là bác sĩ Bronswick, anh đến để nhận về điều trị một bệnh nhân tên là Lauren Kline, cần phải chuyển viện tối nay. Ngay lập tức cô ý tá đòi xem những giấy tờ chuyển viện. Arthur chìa ra cho cô một tập giấy tờ. Cô làm vẻ mặt khó đăm đăm, sao họ lại đến vào lúc đổi ca như thế này cơ chứ! Phải mất nửa tiếng mới xong được chuyện này, mà năm phút nữa là cô hết phiên trực. Arthur xin lỗi, trước đó ở chỗ anh có nhiều bệnh nhân quá. “Chỗ tôi cũng vậy, tôi rất tiếc”, cô y tá nói tiếp. Cô chỉ cho họ phòng 505 ở tầng năm. Cô sẽ kí những giấy tờ của họ, cô sẽ về trước, để họ lại đây với xe cứu thương của họ, nhưng cô sẽ báo cho người trực ca sau biết. đây thực không phải là lúc làm việc chuyển viện! Arthur không thể nén được câu trả lời rằng không khi nào có thể coi là đúng lúc cả, “bao giờ cũng sớm quá hoặc muộn quá.” Cô y tá đành lòng chỉ đường cho họ.
- Tôi sẽ đi lấy băng ca - Paul nói để chấm dứt cuộc đôi co. - Tôi sẽ lên kia theo ông, thưa bác sĩ!
Cô y tá đề nghị được giúp họ với vẻ chẳng lấy gì làm mặn mà. Arthur khước từ sự trợ lực của cô và yêuc ầu cô lấy hồ sơ của Lauren ra và để vào xe cứu thương cùng với những giấy tờ khác.
- Hồ sơ sẽ để lại đây, nó sẽ được chuyển qua đường bưu điện, anh cần phải biết điều đó chứ - Cô nói.
Đột nhiên cô có vẻ do dự.
- Tôi biết, thưa cô - Arthur nhanh nhẹn trả lời - tôi chỉ nói về những kết quả xét nghiệm cuối cùng của bệnh nhân thôi, những hằng số, lượng hồng cầu, bạch cầu, kiểm tra khí trong máu, NFS (công thức máu), thể tích huyết cầu.
- Anh xoay xở tài quá, - Lauren nói thầm - anh học tất cả những thứ ấy ở đâu?
- Anh xem ti vi - Arthur thì thào.
Anh có thể xem những số liệu này ở trong phòng bệnh nhân, cô y tá ngỏ ý đưa anh lên đó. Arthur cám ơn cô và xin cô cứ kết thúc ca trực như giờ đã định, không có cô anh cũng xoay xở được. Hôm nay là chủ nhật, cô đáng được nghỉ ngơi. Paul vừa trở alị với chiếc băng ca bèn túm lấy tay ông bạn chí cốt của mình và nhanh nhẹn kéo bạn vào hành lang. Thang máy đưa cả ba người lên tầng năm. Khi cánh cửa thang máy vừa mở ra, Arthur quay sang nói với Lauren :
- Cho đến giờ thì mọi sự đều tốt đẹp.
- Đúng vậy! - Paul và Lauren đồng thanh trả lời
- Mày nói với tao hả? - Paul hỏi
- Nói với cả hai người.
Từ một căn phòng có một sinh viên ngoại trú trẻ măng lao vọt ra. Chạy đến chỗ họ, anh ta dừng phắt lại, nhìn chiếc áo blu của Arthur và túm lấy vai anh “Anh là bác sĩ à?” Arthur sửng sốt.
- Không phải, à mà đúng, đúng vậy, tại sao anh lại hỏi thế?
- Xin anh theo tôi, tôi có một vấn đề ở phòng 508, ơn Chúa vì anh đến đúng lúc thế này!
Chàng sinh viên y khoa chạy về phía căn phòng mà anh ta chạy ra lúc nãy.
- Ta phải làm gì bây giờ? - Arthur hoảng hốt hỏi.
- Mày hỏi tao đấy à? - Paul đáp lại, cũng có vẻ hết hồn như vậy.
- Không, tao hỏi Lauren!
- Ta đi thôi, không còn cách nào khác - Arthur cao giọng nhắc lại.
- Thế là thế nào, ta đi thôi à? Mày không phải là bác sĩ, có lẽ mày nên chấm dứt trò mê sảng của mày trước khi làm chết người.
- Cô ấy sẽ giúp chúng ta.
- A, giá mà cô ấy giúp được! - Paul vừa nói vừa giơ hai tay lên trời - Tại sao lại là tôi? Tại sao lại là tôi?
Cả ba người đi vào phòng 508. Chàng sinh viên ngoại trú đang ở bên đầu gi.ường bệnh nhân, một y tá đang chờ anh ta, anh ta hốt hoảng nói với Arthur :
- Ông ta tự nhiên bị loạn nhịp tim, đây là một bệnh nhân đái đường nặng, tôi không làm sao cho ông ta ổn định lại được, tôi mới đang học năm thứ ba thôi.
- Thế thì chẳng lợi lộc gì cho ông ta cả - Paul nói
Lauren rỉ tai Arthur :
- Xé băng giấy chạy từ máy điện tim ra, và đọc cái giấy ấy sao cho em cũng có thể đọc được.
- Bật đèn trong phòng lên cho tôi - Arthur nói bằng một giọng uy quyền.
Anh đi sang phía bên kia gi.ường và giật một phát để xé băng điện tâm đồ. Anh mở rộng băng giấy ra và quay lại nói thầm: “Thế này thì em có nhìn thấy không?”
- Đó là loạn nhịp tâm thất, cậu này thật vô tích sự!
Paul lấy tay vuốt lên trán, dụi dụi mắt.
- Tôi cũng thấy rõ đó là loạn nhịp tâm thất, thưa bác sĩ, vậy ta phải làm gì?
- Không, anh không thấy gì hết, anh thật vô tích sự! Ta phải làm gì à? - Arthur nói.
- Hỏi xem anh ta đã tiêm thuốc gì? - Lauren nói.
- Anh đã tiêm thuốc gì?
- Chưa có gì cả!
Cô y tá nói bằng một giọng coi thường, cho thấy rằng anh chàng sinh viên này đã làm cô ngao ngán đến mức độ nào.
- Chúng tôi đang ở trong tình trạng hoảng hốt, thưa bác sĩ!
- Anh thật vô tích sự! - Arthur nhắc lại - Nào vậy ta phải làm gì?
- Bố khỉ, ta không cần lên lớp cho anh ta, vì ông kia đang tím hết cả người rồi, ông bạn ơi, à quên, thưa bác sĩ! Saint-Quentin, ta sẽ đi thẳng đến Saint-Quentin (nhà tù lớn ở California)! - Paul giậm chân.
- Bình tĩnh nào ông ơi! - Arthur nói với Paul, rồi anh quay về phía cô y tá - Cô thứ lỗi cho anh ta, anh ta là người mới, nhưng đó là nhân viên tải thương duy nhất còn rảnh việc.
- Tiêm 2 miligram nephrine, rồi đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm, cái này sẽ phức tạp đấy, anh yêu! - Lauren nói
- Tiêm 2 miligram nephrine - Arthur thốt lên.
- Đã đến lúc rồi! Tôi đã chuẩn bị sẵn thuốc thưa bác sĩ, - Cô y tá nói - tôi chỉ đợi có một người nhận trách nhiệm vào mình được thôi.
- Sau đó thì đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm - Anh tuyên bố bằng một giọng nửa như hỏi, nửa như khẳng định - Anh có biết đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm không? - Anh hỏi chàng sinh viên.
- Bảo cô y tá làm việc đó, cô ta sẽ sướng điên lên được, vì các bác sĩ chả bao giờ để cho y tá làm việc này cả - Lauren nói trước khi anh sinh viên trả lời.
- Tôi chưa bao giờ làm cả - Anh sinh viên nói.
- Cô y tá, cô sẽ đặt đường truyền ở tĩnh mạch trung tâm!
- Không đâu, bác sĩ cứ làm thôi, tôi thích làm lắm nhưng ta không có thời gian, tôi sẽ chuẩn bị cho bác sĩ, dù sao cũng cám ơn bác sĩ về sự tin cậy, tôi rất cảm kích điều đó.
Cô y tá đi ra một góc phòng để chuẩn bị kim tiêm và ống.
- Làm gì bây giờ? - Arthur hoảng hốt hạ giọng hỏi.
- Bọn mình đi khỏi đây, - Paul trả lời - mày sẽ không đặt đường truyền ở đâu hết, mạch trung tâm cũng không mà mạch ngoài cũng không, ta cắm cổ chạy cuốn xéo khỏi đây thôi ông bạn ơi!
Lauren tiếp tục :
- Anh ra đứng trước bệnh nhân, anh nhắm vào chỗ dưới xương ức hai đốt ngón tay, anh biết xương ức là cái gì chứ! Em sẽ hướng dẫn anh nếu anh không tìm đúng chỗ, anh đặt mũi kim nghiêng 15 độ, và anh ấn kim từ từ nhưng dứt khoát. Nếu anh thành công, một chất lỏng màu trắng đục sẽ chảy ra, nếu anh làm hỏng thì sẽ chảy máu. Và anh cầu nguyện đi để có được vận may của một người tập sự vì nếu không thì khốn thật đấy, đối với cả bọn mình lẫn cái ông đang nằm kia.
- Anh không làm được đâu! - Anh thì thào.
- Anh không còn cách nào khác và ông ta cũng không, ông ta sẽ chết mất nếu anh không làm,
- Có phải em vừa gọi anh là anh yêu không hay là anh đang mơ đấy?
Lauren mỉm cười: “Anh làm đi và hít một hơi thật sâu trước khi ấn mũi kim nhé”. Cô y tá quay lại và đưa đường truyền cho Arthur. “Cầm vào cái đầu bằng nhựa ấy, chúc anh may mắn!” Arthur cầm kim như Lauren chỉ dẫn. Cô y tá nhìn anh chăm chú. “Tốt lắm, - Lauren thì thầm - nghiêng ít hơn một chút, bây giờ thì ấn một nhát đi”. Mũi kim ngập vào ngực người bệnh. “Dừng lại đi, mở cái vòi nhỏ ở bên cạnh ống”. Một chất lỏng đùng đục bắt đầu chảy vào trong ống. “Hoan hô, anh làm với đôi tay bậc thầy đấy - Cô nói - anh đã cứu sống người này”.
Paul suýt hai lần lăn ra bất tỉnh, hạ giọng lặp đi lặp lại mãi một câu: “Không thể tin được”. Được giải phóng khỏi chất lỏng đang đè lên nó, quả tim của bệnh nhân bị bệnh tiểu đường trở lại nhịp điệu bình thường. Cô y tá cám ơn Arthur. “Bây giờ tôi sẽ chịu trách nhiệm phần còn lại”, cô nói. Arthur và Paul chào cô rồi đi ra hành lang. Khi rời khỏi căn phòng, Paul không nhịn được thò lại đầu qua cánh cửa và nói vào mặt chàng sinh viên “Anh thật vô tích sự!”
Vừa đi Paul vừa nói với Arthur :
- Này, mày vừa làm cho tao sợ hết hồn!
- Cô ấy giúp tao đấy, cô ấy nhắc tao tất cả - Anh thì thầm.
Paul lắc đầu: “Tao sẽ tỉnh dậy và khi tao gọi điện cho mày để kể về cơn ác mộng mà tao đang thấy đây, mày sẽ cười, thậm chí không mày không thể tưởng tượng được là mày sẽ cười đến thế nào đâu và mày sẽ chế nhạo tao!”
- Lại đây, Paul, mình không có thời gian để mất đâu - Arthur nói.
Cả ba người bước vào phòng 505. Arthur bấm công tắc, và đèn nê-ông bắt đầu nhấp nháy. Họ đến bên gi.ường bệnh.
- Giúp tao với - Anh bảo Paul.
- Cô ta đấy à?
- Không, đó là lão ở phòng bên cạnh đấy; tất nhiên là cô ấy chứ còn gì! Kéo băng ca đến cạnh thành gi.ường đi.
- Suốt đời mày chuyên làm việc này hay sao?
- Được rồi, luồn tay vào dưới đầu gối cô ấy đi, và chú ý ống truyền nhé. Khi nào tao đếm đến 3 thì nâng cô ấy lên nhé. Một, hai,ba!
Cơ thể Lauren được đặt lên băng ca có bánh xe lăn. Arthur đắp chăn lên người cô, tháo lọ đựng dung dịch truyền ra và lắp lại vào cái giá ở phía trên đầu cô.
- Kết thúc giai đoạn 1, bây giờ ta đi xuống nhanh nhưng không vội vã.
- Vâng, thưa bác sĩ - Paul đáp bằng một giọng bực bội.
- Cả 2 anh đều xoay xở rất tài - Lauren thì thầm
Họ quay ra thang máy. Từ cuối hành lang cô y tá gọi họ, Arthur chậm rãi quay lại :
- Có gì thế cô?
- Bây giờ mọi việc đều ổn rồi, các anh cần giúp một tay không?
- Không, ở đây mọi việc cũng ổn cả.
- Xin cám ơn một lần nữa.
- Có gì đâu.
Cửa thang máy mở ra và họ chui vào trong. Arthur và Paul cũng thở hắt ra.
- Ba cô siêu người mẫu, mười lăm ngày ở Hawaii, một chiếc Testa Rossa và một cái thuyền buồm!
- Mày nói cái gì đấy?
- Tiền công của tao, tao đang tính với mày tiền công của tao tối nay.
Đại sảnh vắng tanh khi họ đi ra khỏi thang máy. Họ bước nhanh qua đó. Cơ thể Lauren được đặt ở phía sau của xe cứu thương. Rồi mỗi người ngồi vào chỗ của mình.
Trên ghế Arthur có những giấy tờ chuyển viện và một mảnh giấy kèm theo: “Đề nghị gọi điện cho tôi ngày mai, thiếu hai thông tin trong hồ sơ chuyển viện, Karen (415) 72500 00 - máy 2145. T.B: Chúc tiếp tục may mắn.”
Xe cứu thương rời bệnh viện Memorial.
- Rút cục thì xoáy một người bệnh xem chừng khá dễ - Paul nói.
- Ấy là vì không có mấy người quan tâm đến điều đó.
- Tao rất hiểu họ. Bọn mình đi đâu?
- Đầu tiên về nhà tao rồi sẽ đi đến một nơi cũng đang bị hôn mê và cả ba chúng ta sẽ đánh thức nó dậy.
 
Xe cứu thương đi lên Market Street và rẽ vào Van Nees. Trong xe yên lặng.
Theo kế hoạch mà Arthur vạch ra, họ còn phải về nhà anh để chuyển cơ thể Lauren sang xe ôtô của anh. Trong khi Paul mang trả chiếc xe cứu thương mượn tạm về xưởng của ông bố dượng thì Arthur sẽ mang xuống tất cả những đồ đạc đã được chuẩn bị cho chuyến đi và cho thời gian lưu lại ở Carmel. Những đồ mua ở hiệu thuốc đã được đóng gói cẩn thận và để trong chiếc tủ lạnh to mác General Electric.
Đến trước gara, Paul bấm điều khiển từ xa để mở cửa, nhưng cánh cửa không hề nhúc nhích.
- Bao giờ sự việc cũng xảy ra như thế trong những truyện trinh thám rẻ tiền thì thằng ngồi bên lấy vẻ hùng hổ hơn và ít kiểu cách hơn rồi hỏi: “Cái chết tiệt gì thế này?”. Đây, trong trường hợp ấy, thì là cái cửa gara nhà mày nó không chịu mở, và cái xe cứu thương lấy từ xưởng của ông bố dượng tao, với một cơ thể người ở bên trong, đỗ ngay trước khu nhà mày vào cái giờ mà tất cả hàng xóm của mày sẽ dẫn chó đi tè.
- Chết cha rồi!
- Thì tao cũng nói gần như vậy, Arthur.
- Đưa tao điều khiển từ xa!
Paul vừa chấp hành vừa nhún vai. Arthur cáu kỉnh ấn nút, chẳng ăn thua gì cả.
- Đã thế hắn lại coi mình là một thằng ngớ ngẩn nữa chứ.
- Hết phin rồi - Arthur nói.
- Chính là do pin, dĩ nhiên rồi. - Paul kết luận một cách châm chọc - Tất cả các thiên tài đều bị tóm một cách như thế.
- Tao chạy đi kiếm pin đây, mày lượn một vòng quanh khu nhà đi.
- Mày có thể cầu nguyện để có một cục pin trong ngăn kéo của mày, thiên tài!
- Đừng trả lời và lên nhà đi - Lauren bảo.
Arthur xuống khỏi xe cứu thương và ba chân bốn cẳng chạy lên cầu thang, anh lao vào nhà, và bắt đầu bới tất cả các ngăn kéo. Chẳng thấy cục pin nào cả. Anh dốc ngăn kéo tủ tài liệu, ngăn kéo tủ đầu gi.ường, các ngăn kéo trong bếp, trong lúc Paul đang lượn đến vòng thứ năm quanh khu nhà.
- Nếu mình không bị một đội tuần tra phát hiện, mình sẽ là một thằng cha bị cắm nhiều sừng nhất thành phố - Paul vừa lẩm bẩm vừa bắt đầu vòng thứ sáu đúng vào lúc anh gặp một chiếc xe cảnh sát. “Không phải rồi, mình không bị cắm sừng, nhưng giá mà như thế lại còn hơn!”
Chiếc xe cảnh sát dừng lại ngang tầm anh, viên cảnh sát ra hiệu cho anh hạ cửa kính xuống, anh thi hành.
- Anh bị lạc à?
- Không, tôi đợi một đồng nghiệp lên nhà lấy đồ rồi chúng tôi sẽ đưa Daisy đến xưởng.
- Daisy là ai? - Viên cảnh sát hỏi.
- Là xe cứu thương, đây là ngày cuối cùng của nó, nó đã hết thời rồi, mười năm rồi chúng tôi đi cùng nhau, cái xe này và tôi, chia tay không phải dễ, anh có hiểu không? hàng đống kỷ niệm, cả một mảng đời.
Viên cảnh sát gật đầu. Anh ta hiểu, anh ta yêu cầu Paul đừng đi lòng vòng lâu quá. Làm vậy sẽ gây ra những cú điện thoai gọi đến trung tâm đấy. Dân ở khu này có tính tò mò và hay lo lắng. “Tôi biết, tôi sống ở đây, thưa ông cảnh sát, tôi đón đồng nghiệp của tôi rồi chúng tôi đi. Chúc một đêm tốt lành!” Viên cảnh sát cũng chúc anh một đêm tốt lành và xe tuần tra đi xa dần. Trong xe, người lái xe cá cược với bạn đồng đội là Paul không đợi ai hết cả.
- Có lẽ anh ta không dứt khoát được để đưa cái xe cà khổ của mình đi. Mười năm lái xe đó rồi dù sao cũng buồn chứ.
- Ừ! Nhưng mặt khác thì chính những người như anh ta lại đi biểu tình vì tòa thị chính không cho họ tiền để thay những dụng cụ mới.
- Nhưng dù sao thì mười năm cũng tạo ra những mối ràng buộc.
- Những mối ràng buộc, đúng thế...
Trong nhà cũng rối tung rối mù gần như Arthur. Bất chợt anh đứng sững giữa phòng khách để tìm một ý tưởng có thể cứu được họ.
- Cái remote ti vi - Lauren thì thầm.
Sững sờ, anh quay về phía cô và lao về phía chiếc hộp đen. Anh giật phắt cái nắp đậy phía sau và tháo ra một cục pin vuông và lắp ngay vào cái điểu khiển của gara. Anh chạy ra cửa sổ và ấn nút.
Paul đang điên tiết bắt đầu vòng thứ 9 thì thấy cánh cửa mở ra. Anh vừa lao vọt vào vừa cẩu nguyện để cánh cửa đóng lại nhanh hơn là khi nó mở. “Đúng là tại pin thật rồi, sao mà nó ngu thế!”
Trong lúc đó, Arthur xuống cầu thang đi ra gara.
- Xong rồi chứ?
- Đối với tao hay đối với mày bây giờ? Tao sẽ moi ruột mày!
- Mày giúp tao thì tốt hơn, vẫn còn việc phải làm.
- Thì tao chỉ làm có mỗi cái việc giúp mày thôi chứ còn gì nữa đâu
Họ di chuyển cơ thể Lauren một cách hết sức cẩn thận. Họ đặt cô ngồi ở phía sau, lọ đựng dịch truyền được nhét vào giữa hai tay vịn ghế, và họ quấn người cô trong một cái chăn. Đầu cô dựa vào cánh cửa, từ bên ngoài nhìn vào tất cả đều có thề tưởng rằng cô đang ngủ.
- Tao có cảm giác đang trong một bộ phim của Tarantino (nhà điện ảnh Mỹ nổi tiếng với những cảnh bạo lực cảm giác mạnh trong phim của ông) - Paul càu nhàu - Mày biết đấy, một thằng vô lại đang tống khứ...
- Im đi! Mày lại sắp nói một điều ngớ ngẩn.
- Tại sao, tụi mình không phải đang làm một trò ngớ ngẩn tối nay sao? Thế mày sẽ đem trả xe cứu thương à?
- Không phải vậy, đó là cô ấy đang ở ngay cạnh mày và mày sẽ nói những điều xúc phạm, có thế thôi.
Lauren đặt tay lên vai anh.
- Các anh đừng cãi nhau, cả hai anh đều có một ngày căng thẳng rồi - Cô nói bằng một giọng xoa dịu.
- Đúng vậy, chúng ta tiếp tục thôi.
- Tao đúng khi không nói gì hết à? - Paul làu bàu.
Arthur bảo :
- Đi đến xưởng của bố dượng mày đi, mười phút nữa tao sẽ qua đón mày, tao lên nhà lấy dụng cụ.
Paul trèo lên xe cứu thương, cửa gara lần này mở ra ngay không nhõng nhẽo gì nữa, và anh đi ra không nói một lời. Đến chỗ rẽ sang Union Street anh không nhìn thấy chiếc xe tuần tra lúc nãy vừa chất vấn anh.
- Để một chiếc xe đi qua đã rồi đi theo chiếc xe cứu thương này! - Viên cảnh sát nói.
Xe cứu thương rẽ vào Van Nees, theo sau có chiếc xe số 627 của cảnh sát thành phố. Mười phút sau, khi xe cứu thương đi vào sân của xưởng sữa chữa, viên cảnh sát cho xe giảm tốc độ, và trở lại vòng tuần tra thường lệ của mình. Paul không bao giờ biết rằng mình đã bị theo dõi.
Mười lăm phút sau Arthur đến. Paul đi ra phố và trèo lên phía trước của chiếc xe Saab.
- Mày đi tham quan san Fransisco hay sao?
- Tao đi từ từ là vì có cô ấy.
- Mày dự định đến đó vào lúc bình minh à?
- Chính thế, và bây giờ thì mày thư giãn đi, Paul. Bọn mình đã gần như là thành công rồi. Mày vừa giúp tao một việc vô giá, tao biết thế; cái mà tao không biết, đó là phải nói điều ấy với mày như thế nào, và mày đã phải nhận những mạo hiểm, điều đó tao cũng biết.
- Thôi lái xe đi, tao ngấy những lời cám ơn lắm.
Xe ôtô ra khỏi thành phố theo con đường 280 phía nam. Rất nhanh, họ rẽ về phía Pacifica, trước khi đi vào đường số 1, con đường dọc theo bờ vách đá, dẫn đến vịnh Monterey, về phía Carmel, con đường mà lẽ ra Lauren phải đi một buổi sáng đầu hè năm ngoái, bên tay lái chiếc xe Triumph cũ kĩ của cô.
Phong cảnh thật đặc biệt. Những vách đá dường như sừng sững trong đêm, trông giống một mảnh đăng ten đen. Một vầng trăng khuyết làm nổi bật lên đường viền của con đường. Họ lái xe đi như vậy trong những tiếng hòa âm của bản concerto cho violin của Samuel Barber.
Arthur trao tay lái cho Paul, anh nhìn qua cửa sổ. Ở đoạn cuối của chuyến đi này có một sự thức dậy khác đợi anh. Sự thức dậy của nhiều kỷ niệm đã ngủ thiếp đi trong một thời gian thật dài...
 
Chương 10Arthur học kiến trúc ở trường đại học tổng hợp San Fransisco. Năm hai mươi lăm tuổi, anh bán căn hộ nhỏ mà mẹ anh để lại cho anh rồi lên đường sang Châu Âu, đến Paris, để học tiếp hai năm ở trường Camando. Anh ở trong một căn phòng nhỏ phố Marazine và đã trải qua hai năm đầy say mê. Sau đó anh đi học tiếp một năm ở Florence trước khi trở về California quê hương.
Bằng cấp đầy mình, anh vào hãng Miller, kiến trúc sư tạo mẫu nổi tiếng của thành phố, thực tập hai năm ở đó, làm việc bán thời gian ở Bảo tàng nghệ thuật hiện đại Moma. Chính ở đây anh đã gặp Paul, người hợp doanh tương lai của anh, người mà hai năm sau đã cùng anh lập một xưởng kiến trúc. Theo đà phát triển kinh tế của vùng, công ty cũng dần dần gây được thanh danh, thuê gần hai mươi người làm việc. Paul phụ trách các “phi vụ”, Arthur vẽ đồ gỗ, nhà cửa, đồ vật. Mỗi người một lĩnh vực và chưa bao giờ có một chút gợn giữa hai người bạn mà không ai và không điều gì có thể đẩy rời xa nhau nhiều hơn vài tiếng đồng hồ.
Nhiều điểm chung làm họ gắn bó với nhau. Quan niệm chung về tình bạn, về cách sống và một tuổi thơ đầy những cảm xúc có thể so sánh với nhau. Những thiếu thốn giống hệt nhau. Cũng như Paul, Arthur được mẹ nuôi dạy. Nếu như cha Paul đã bỏ rơi gia đình khi anh 5 tuổi và không bao giờ xuất hiện lại, thì Arthur được ba tuổi khi cha anh lên đường sang Châu Âu. “Máy bay của bố bay lên trời cao đến nỗi nó đã ở lại trên đó, gắn vào những vì sao” Cả hai đều lớn lên ở nông thôn. Cả hai đều đã nếm mùi trường nội trú. Họ đã tự mình nên người. Lilian đã chờ đợi lâu, sau đó đã để tang, ít ra bề ngoài là như vậy. Mười năm đầu tiên của đời mình, Arthur sống ở ngoại thành, bên bờ biển gần làng Carmel xinh đẹp, nơi mà Lili, Arthur gọi mẹ như thế, có một ngôi nhà to. Làm toàn bằng gỗ trắng, ngôi nhà chìa ra biển, trên phần đất cao của khu vườn kéo dài ra đến tận bãi tắm. Antoine, một người bạn cũ của Lili, sống ở căn nhà phụ trong địa phận này. Người nghệ sĩ không thành đạt đó đã được Lili đón tiếp, những người hàng xóm thì nói là “nhặt” về. Ông thực hiện cùngvới bà công việc căhm sóc bảo dưỡng khu vườn, hàng rào, và những mặt ngoài bằng gỗ của ngôi nhà mà hầu như năm nào cũng được sơn lại, và cả những cuộc nói chuyện dài tối tối. Là bạn, là người hùa theo, đối với Arthur ông là sự hiện diện nam tính mà vài năm trước đã biến mất khọi cuộc đời cậu bé. Arthur đi học những năm đầu tiên ở Monterey. Buổi sáng Antoine đưa anh đến trường, buổi chiều khoảng 4 giờ mẹ anh đến đón về. Đó là những năm quý giá trong cuộc đời anh. Mẹ anh cũng là bạn thân nhất của anh. Lili đã dạy anh tất cả những điều mà một trái tim có thể yêu. Đôi khi bà đánh thức anh dậy vào lúc sáng sớm chỉ để dạy anh ngắm nhìn mặt trời mọc, lắng nghe những âm thanh lúc một ngày mới bắt đầu. Bà chỉ cho anh biết các loại tinh dầu hoa. Từ hình vẽ một chiếc lá, bà dạy anh biết cách nhận ra cả cái cây mang chiếc lá này. Trong khu vườn rộng bao quanh ngôi nhà ở Carmel và kéo dài ra đến tận biển, bà bắt anh đi khám phá từng chi tiết của một thiên nhiên mà có những chỗ thì bà đã “khai hóa”, có những chỗ bà lại cố ý để hoang. Vào hai mùa được đánh dấu bằng màu xanh lá cây và màu hổ phách, bà bảo anh đọc thuộc tên những con chim bay đến nghỉ trên đỉnh những cây cù tùng trong cuộc hành trình dài của chúng.
Trong vườn rau mà Antoine chăm chút một cách thành kính, bà bảo Arthur hái những cây rau mọc lên như do có phép màu “chỉ hái những cây đã kịp lớn thôi”. Bên bờ biển, bà bảo anh đếm những con sóng thỉnh thoảng lại đến vuốt ve những mỏm đá, như để cố xin tha thứ cho sự dữ dội của chúng vào những mùa khác, “để nắm bắt được hơi thở của biển, áp lực của nó, tâm trạng của nó”. “Biển đưa mắt ta, đất đưa chân ta”, bà nói. Dựa vào mức độ của sự phối hợp giữa mây và gió, bà chỉ cho anh cách đoán thời tiết sắp đến, và hiếm khi bà nhầm. Arthur biết rõ từng khoảnh đất vườn nhà, anh có thể nhắm mắt lại mà đi trong đó, thậm chí đi giật lùi cũng được. Không có một góc nào đối với anh là xa lạ. Mỗi một cái hốc đều có một tên, và con vật nào muốn chọn đây làm nơi yên nghỉ mãi mãi thì cũng đều có mộ phần. Nhưng hơn tất cả, bà đã dạy anh biết yêu và biết tỉa hoa hồng. Vườn hoa hồng là một nơi giống như dấu ấn của phép màu. Hàng trăm mùi hương quyện lẫn vào nhau ở đó. Lili dẫn anh đến đây để kể cho anh nghe những câu chuyện trong đó lũ trẻ con thì mơ thành người lớn còn người lớn thì ước được trở lại tuổi thơ. Trong tất cả các loại hoa, đây là loài hoa mà anh yêu nhất.
Một buổi sáng đầu hè, mẹ bước vào phòng Arthur lúc trời mới rạng, ngồi xuống gi.ường cạnh đầu cậu bé và vuốt ve những búp tóc xoăn của cậu.
- Dậy đi, Arthur của mẹ, dậy đi con, mẹ dẫn con đi.
Cậu bé túm lấy những ngón tay của mẹ, xiết chặt trong bàn tay nhỏ của cậu và quay người lại, áp má vào lòng bàn tay mẹ. Gương mặt cậu sáng lên một nụ cười biểu lộ rõ tình cảm trìu mến.
Bàn tay Lili có một mùi hương không bao giờ phai nhạt trong ký ức khứu giác của Arthur. Đó là sự kết hợp của nhiều loại tinh dầu hoa mà bà tự pha trộn khi ngồi bên bàn trang điểm của mình, và sáng nào bà cũng xoa lên cổ.
Đây là một trong những kỷ niệm gắn với ký ức về hương thơm.
- Nào đi thôi, con yêu của mẹ, chúng ta sẽ phải cahỵ đau với mặt trời. Xuống bếp tìm mẹ trong vòng năm phút nữa nhé.
Đứa trẻ mặc vào người một chiếc quần vải bông cũ, khoác một chiếc áo chui cổ rộng lên vai, vừa vươn vai vừa ngáp. Cậu mặc quần áo trong yên lặng, mẹ cậu đã dạy cậu biết kính trọng sự tĩnh mịch lúc bình minh, cậu đi đôi ủng cao su vì biết rõ hai mẹ con sẽ đi đâu sau khi ăn sáng. Khi đã sẵn sàng, cậu vào gian bếp rộng.
- Đừng làm ồn, Antoine hãy còn ngủ.
Mẹ đã dạy cậu biết thích cà phê, vị của nó và đặc biệt là mùi thơm của nó.
- Con dễ chịu chứ, Arthur của mẹ?
- Vâng.
- Vậy thì con hãy mở to mắt và nhìn xung quanh con. Không nên để những kỷ niệm đẹp tàn phai đi. Con hãy thấu suốt những sắc màu và chất liệu. Đó sẽ là ngọn nguồn của thị hiếu của con và của những nỗi nhớ nhung khi nào con đã nên người.
- Nhưng con vẫn là người đấy chứ!
- Mẹ muốn nói là khi con thành người lớn.
- Trẻ con chúng con thì khác lắm hay sao?
- Ừ! Người lớn cũng có những nỗi lo âu mà trẻ con không biết đến, con muốn gọi đó là nỗi sợ cũng được.
- Mẹ sợ cái gì?
Mẹ giải thích cho cậu là người lớn sợ đủ thứ, sợ già, sợ chết, sợ cái mà họ không trải qua, sợ bệnh tật, đôi khi sợ cả cái nhìn của trẻ con, sợ bị phán xét.
- Con có biết tại sao mẹ con mình lại tâm đầu ý hợp đến thế không? tại vì mẹ không nói dối con, tại vì mẹ nói với con như với một người lớn, tại vì mẹ không sợ. mẹ tin tưởng con. Những người lớn sợ là vì họ không biết tính đến những tình huống. Đó chính là điều mà mẹ đang dạy con. Chúng ta đang tận hưởng một khoảnh khắc dễ chịu được tạo nên bằng một loạt các chi tiết đa dạng: hai mẹ con ta, cái bàn này, cuộc trò chuyện của chúng ta, đôi tay mẹ mà con đang nhìn từ nãy đến giờ, mùi thơm trong căn phòng này, cái khung cảnh thân thuộc đối với con này, sự tĩnh lặng của ngày đang thức dậy.
Mẹ đứng lên, cầm bát đem đặt vào chiếc bồn rửa tráng men. Sau đó bà lấy một miếng bọt biển lau bàn, vun những vụn bánh mì vào lòng bàn tay mà bà đang giơ ra hứng. Gần cửa ra vào có một chiếc giỏ bằng rơm bện, bên trong đầy dây câu. Trong một mảnh vải cuộn tròn đặt phía trên có bánh mì, phó mát và xúc xích. Lili đeo giỏ vào cánh tay và đưa tay dắt Arthur.
- Đi thôi, con yêu của mẹ, khéo chúng mình muộn mất.
Cả hai đi xuống theo con đường dẫn đến bến cảng nhỏ.
- Con nhìn những chiếc thuyền nhỏ đủ các màu sắc kia xem, trông như một bó hoa trên biển ấy.
Như thường lệ, Arthur bước xuống nước, tháo cái thuyền con ra khỏi móc và kéo thuyền vào bờ. Lili đặt cái giỏ vào đó và bước lên thuyền.
- Nào chèo đi, con yêu của mẹ.
Chiếc thuyền nhỏ dần dần rời xa bờ theo nhịp chèo của cậu bé. Khi bờ biển vẫn còn hiện rõ, cậu cất những mái chèo vào trong thuyền. Lili lấy những dây câu ra khỏi giỏ và đã móc mồi vào lưỡi câu. Như thường lệ, mẹ chỉ chuẩn bị cho cậu những dây câu đầu tiên, những dây câu tiếp theo cậu phải tự móc lấy con giun bé đỏ hỏn cứ vặn vẹo trong những ngón tay cậu làm cho cậu rất kinh tởm. Cuộn dây câu được đặt kẹp giữa hai chân cậu ngay trên sàn thuyền, cậu cuốn sợi dây ni lông vào ngón tay trỏ và ném dây xuống nước, hòn chì nặng nhấn chìm sợi dây và kéo mạnh con mồi xuống đáy. nếu chọn được chỗ tốt, chẳng mấy chốc cậu sẽ kéo lên được một con cá.
Hai mẹ con ngồi đối diện, yên lặng đã vài phút, mẹ nhìn cậu một cách căng thẳng và hỏi cậu bằng một giọng khác thường: “Arthur, con biết là mẹ không biết bơi, nếu mẹ ngã xuống nước thì con sẽ làm gì?” “Con sẽ nhảy xuống tìm mẹ”, đứa trẻ trả lời. Lili lập tức tỏ ra bực bội: “Sao con nói ngu ngốc thế!” Arthur sững người vì câu trả lời gay gắt.
- Phải cố chèo thuyền về đến đất liền, đó là điều mà con phải làm!
Lili kêu lên.
- Cuộc sống của con mới là cái quan trọng, đừng bao giờ quên điều đó, đừng bao giờ phạm sai lầm liều với món quà tặng duy nhất này cả, con hãy thề đi!
- Con thề với mẹ - Cậu bé trả lời sợ sệt.
- Con thấy đấy - Bà nói, vẻ dịu lại - con sẽ phải để cho mẹ chìm thôi.
Khi ấy, cậu bé Arthur bật khóc. Lili lấy ngón tay trỏ gạt những giọt nước mắt của con trai.
- Đôi khi chúng ta bất lực trước những mong muốn, những ước vọng hay những khao khát bất chợt của mình, và điều đó gây ra sự day dứt nhiều lúc không chịu nổi. Tình cảm này sẽ đi theo suốt đời con, đôi khi con quên nó đi, đôi khi nó lại hiện ra như một sự ám ảnh. Một phần nghệ thuật sống phụ thuộc vào khả năng của chúng ta khắc phục sự bất lực của bản thân. Đó là một việc khó, bởi vì sự bất lực sinh ra nỗi sợ. Nó làm tiêu tan phản ứng của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, lương tri của chúng ta, nó mở đường cho sự nhu nhược. Rồi con sẽ biết đến những nỗi sợ. Hãy đấu tranh chống lại chúng, nhưng đừng thay thế chúng bằng sự do dự quá lâu. Hãy suy nghĩ, quyết định và hành động! Đừng có hoài nghi, khi người ta không có khả năng đảm nhận sự lựa chọn của chính mình, người ta thường sinh ra ít nhiều chán đời. Mỗi câu hỏi có thể trở thành một trò chơi, mỗi quyết định đưa ra có thể dạy con tự biết mình, tự hiểu mình.
Hãy khấy động thế giới, thế giới của con! Hãy nhìn cái khung cảnh đang bày ra trước mắt con đây, con xem bờ biển được chạm trổ tinh vi biết bao, tưởng như đó là một mảnh đăng ten, con thấy mặt trời đang rọi xuống đó hàng nghìn tia sáng khác nhau. Mỗi cây rung rinh một kiểu khi được gió vuốt ve. Nhưng điều đẹp nhất mà trái đất cho chúng ta, điều làm chúng ta trở thành con người, đó là hạnh phúc được chia sẻ. Người không biết chia sẻ là người tàn phế trong những cảm xúc của mình. Con thấy đấy, Arthur, cái buổi sáng mà chúng ta ở bên nhau thế này rồi sẽ khắc sâu vào ký ức của con. Sau này, khi mẹ không còn nữa, con sẽ nhớ lại, và kỷ niệm này sẽ có đôi chút dư vị ngọt ngào, bởi vì mẹ con mình đã cùng nhau chia sẻ khoảnh khắc ấy. Nếu mẹ ngã xuống nước, con sẽ không nhảy xuống để cứu mẹ, làm như vậy là dại dột. Điều mà con sẽ làm, đó là đưa tay ra để giúp mẹ trèo lại lên thuyền, và nếu như con thất bại và mẹ bị chết đuối, con vẫn có lương tâm thanh thản. Con đã quyết định đúng là không liều mạng chết vô ích, nhưng con đã tìm đủ cách để cứu mẹ.
 
Trong khi cậu bé chèo thuyền vào bờ, người mẹ lấy tay ôm đầu cậu và dịu dàng hôn lên trán cậu.
- Mẹ làm con buồn phải không?
- Vâng, mẹ sẽ không bao giờ chết đuối nếu có con ở đó. Và dù sao con vẫn sẽ lặn xuống nước, con đủ khỏe để đưa mẹ lên.

Lili tắt nghỉ cũng thanh nhã như khi bà sống. Buổi sáng hôm bà mất, cậu bé lại bên gi.ường mẹ :
- Tại sao?
Người đàn ông đứng bên gi.ường không nói gì, ông ngước mắt lên nhìn đứa trẻ.
- Mẹ con cháu thân nhau đến thế, tại sao mẹ lại không từ biệt cháu? Cháu thì cháu sẽ chẳng bao giờ làm như vậy đâu. Bác là người lớn, bác có biết tại sao không? Bác nói cho cháu đi, cháu cần phải biết, tất cả mọi người đều luôn luôn nói dối trẻ con, người lớn cứ tưởng rằng trẻ con ngờ nghệch lắm! Còn bác, nếu bác là người dũng cảm, hãy nói cho cháu sự thật, tại sao mẹ lại ra đi như vậy trong khi cháu ngủ?
Đôi khi cái nhìn của trẻ thơ kéo ta đi sâu vào những kỷ niệm của ta đến nỗi không thể không trả lời cho một câu hỏi đặt ra.
Antoine đặt tay lên vai cậu bé.
- Mẹ cháu không thể làm khác được, người ta không mời cái chết, nó tự đến. mẹ cháu thức dậy lúc nửa đêm, cơn đau rất dữ dội, mẹ cháu đã đợi mặt trời mọc, nhưng mặc dù rất muốn tỉnh táo, mẹ cháu vẫn từ từ thiếp đi.
- Vậy thì đó là lỗi của cháu, tại cháu ngủ.
- Không, tất nhiên là không phải vậy, cháu không nên nhìn sự việc như thế, cháu muốn biết lý do thực sự của việc mẹ cháu ra đi mà không từ biệt à?
- Vâng
- Mẹ cháu là một phụ nữ quý phái, tất cả những người phụ nữ quý phái đều biết ra đi có phẩm cách, để lại những người mình yêu cho chính họ.
Nhìn thấu vào cặp mắt xúc động của người đàn ông, cậu bé ngờ vực một mối đồng cảm mà cho đến lúc bấy giờ cậu mới chỉ phỏng đoán. Cậu theo dõi dòng nước mắt chảy dài trên má ông, luồn vào bộ râu lởm chởm. Người đàn ông lấy mu bàn tay quệt ngang mi mắt.
- Cháu thấy bác khóc đấy - Ông nói - cháu cũng nên làm như vậy, nước mắt làm cho nỗi buồn vợi bớt.
- Cháu sẽ khóc sau, nỗi buồn này còn gắn cháu với mẹ cháu, cháu còn muốn giữ nó lại. Mẹ là cả cuộc đời cháu.
- Không, cháu ơi, đời cháu là ở phía trước, không phải trong những kỷ niệm của cháu, đó chính là những điều mẹ cháu đã dạy cháu, hãy tôn trọng điều đó, Arthur, đừng bao giờ quên điều mà mới hôm qua mẹ còn nói với cháu: “Tất cả những ước mơ đều có giá của nó”. Với cái chết của mẹ cháu, cháu trả giá cho những ước mơ mà mẹ cháu đã cho cháu.
- Những ước mơ đó giá đắt quá, bác Antoine ơi, bác hãy để cháu một mình.
- Nhưng cháu đang một mình với mẹ cháu đó thôi. Cháu hãy nhắm mắt lại và quên đi sự có mặt của bác, sức mạnh của cảm xúc là ở đó. Cháu đang một mình với chính cháu, và từ nay sẽ bắt đầu một con đường dài.
- Mẹ cháu đẹp, có đúng không? Trước cháu tưởng cái chết sẽ làm cháu sợ, nhưng bây giờ cháu thấy mẹ đẹp lắm.
Cậu cầm tay mẹ, những đường gân xanh nổi trên làn da thật mềm mại và trắng trẻo của bà dường như mô tả đường đời bà, dài, náo động, lắm sắc màu. Cậu kéo bàn tay mẹ lại gần khuôn mặt cậu và chậm rãi giụi má mình vào đó trước khi đặt một cái hôn vào lòng bàn tay mẹ.
Có cái hôn đàn ông nào có thể đọ được với ngần ấy tình yêu?
- Con yêu mẹ - Cậu nói - con đã yêu mẹ với tình yêu của một đứa trẻ, giờ đây mẹ sẽ ở trong trái tim người lớn của con, cho đến tận ngày cuối cùng
- Arthur! - Antoine nói.
- Dạ.
- Có bức thư này mẹ cháu đã gửi lại cho cháu, bây giờ bác để cháu ở đây.
Còn lại một mình, Arthur ngửi phong bì và hít mùi hương thấm đượm trong đó, rồi cậu bóc thư.
Arthur của mẹ,
Khi con đọc bức thư này, mẹ biết rằng phần nào đó trong thâm tâm con, con sẽ rất giận mẹ vì đã chơi khăm con một vố. Arthur của mẹ, đây là bức thư cuối cùng của mẹ và cũng là di chúc tình yêu của mẹ.
Linh hồn mẹ bay đi, nó được nâng đỡ bằng tất cả những hạnh phúc mà con đã cho mẹ. Cuộc đời thật tuyệt diệu, Arthur, chỉ khi nó lặng lẽ bỏ đi người ta mới nhận ra điều đó, nhưng ngày nào cuộc đời cũng đều được hưởng thụ tuỳ theo lòng vui sống của ta.
Có những thời điểm, nó làm ta nghi ngờ tất cả, đừng bao giờ chịu khất phục, con yêu của mẹ. Từ ngày con ra đời, mẹ đã thấy trong mắt con một nguồn ánh sáng làm con thành một chú bé khác xa những đứa trẻ khác. Mẹ đã thấy con ngã và mím môi đứng dậy khi mà những đứa bé khác đều có thể khóc. Lòng dũng cảm này là sức mạnh của con nhưng cũng là chỗ yếu của con. Hãy coi chừng điều đó, những cảm xúc cần phải được chia sẻ, sức mạnh và lòng dũng cảm giống như hai cây gậy có thể quay ra chống lại người nào sử dụng chúng tồi. Người lớn cũng cần được khóc, Arthur ạ, người lớn cũng có những nỗi buồn.
Kể từ nay, mẹ không còn ở đây nữa, để trả lời những câu hỏi trẻ thơ của con, đó là vì đã đến lúc để con trở thành người lớn.
Trong cuộc du hành đang chờ đợi con này, đừng bao giờ để mất tâm hồn trẻ thơ của con, đừng bao giờ quên những ước mơ của con, đó sẽ là động cơ của đời con, đó là những hương vị sẽ làm nên ban mai của con. Rồi con sẽ biết đến một thứ tình yêu khác so với tình yêu mà con dành cho mẹ, khi ngày ấy đến, hãy chia sẻ nó với người con gái sẽ yêu con; những ước mơ chung của cả hai người sẽ làm nên những kỷ niệm đẹp nhất. Sự cô đơn là một khu vườn ở đó tâm hồn khô héo đi, những bông hoa mọc lên nơi ấy sẽ không có hương thơm.
Tình yêu có một hương vị tuyệt vời, con hãy nhớ là cần phải biết cho để được nhận; con hãy nhớ rằng cần phải là chính mình để có thể yêu. Con của mẹ, hãy nghe theo bản năng con, hãy trung thành với lương tâm và tình cảm của con, hãy sống cuộc đời mình, con chỉ có một cuộc đời mà thôi. Kể từ nay con sẽ phải chịu trách nhiệm về chính con và về những người mà con sẽ yêu. hãy sống có phẩm cách, hãy yêu, đừng để mất đi cái nhìn đã từng làm mẹ con mình gần gũi nhau đến thế khi chúng ta cùng nhau tận hưởng buổi bình minh. Con hãy nhớ đến những buổi mẹ con mình cùng nhau tỉa hoa hồng, ngắm trăng, tìm hiểu hương thơm các loại hoa, lắng nghe những tiếng động quanh nhà để hiểu nó. Đó là những điều thật giản đơn, đôi khi không hợp mốt, nhưng đừng để cho những kẻ cau có chán chường làm hỏng mất đi những khoảnh khắc màu nhiệm này đối với những người biết thưởng thức. Những khoảnh khắc ấy có một cái tên, Arthur ạ, đó là “đam mê cái đẹp”, và hoàn toàn chỉ phụ thuộc vào con thôi mà đời con có được đam mê cái đẹp hay không. Đó là điều thú vị nhất của cuộc hành trình dài đang đợi con.
Chú bé của mẹ, mẹ tạm biệt con nhé, con hãy bám chắc vào mảnh đất đẹp đến nhường này. Mẹ yêu con, con đã là lẽ sống của mẹ, mẹ cũng biết con yêu mẹ đến thế nào, mẹ ra đi trong lòng thanh thản, mẹ tự hào về con.
Mẹ của con.
Cậu bé gập bức thư lại và đặt vào trong túi. Cậu hôn lên vầng trán giá lạnh của mẹ mình. Cậu đi dọc theo giá sách, lấy ngón tay vuốt lên những bìa sách. “Một nguời mẹ chết là một tủ sách bị cháy”, mẹ cậu đã từng nói. Cậu đi ra khỏi căn phòng, bước đi dứt khoát, như mẹ đã dạy cậu: “Khi đã ra đi không bao giờ nên quay trở lại”.
Arthur ra vườn, sương sớm rớt xuống mát dịu, cậu bé đi đến bên những cây hoa hồng và quỳ xuống.
- Mẹ đã đi hẳn rồi, mẹ sẽ chẳng còn đến tỉa cành cho các bạn nữa, giá mà các bạn biết - Cậu nói - giá mà các bạn hiểu được, tôi có cảm giác là hai cánh tay tôi trở nên nặng quá chừng.
Làn gió làm cho những bông hoa rung rinh cánh như trả lời; khi ấy và chỉ đến khi ấy, cậu bé mới để cho nước mắt mình tuôn trào ra trong vườn hoa hồng. Từ phía nhà, đứng dưới cổng, Antoine nhìn cảnh đó.
- Ôi, Lili, em ra đi quá sớm đối với nó - Ông thì thầm - vô cùng quá sớm. Từ nay Arthur thành đơn độc, có ai ngoài em biết cách đi vào thế giới của nó đâu? Nếu em có một chút quyền lực nào từ nơi mà hiện em đang ở, hãy mở cho nó cánh cửa vào thế giới của chúng ta.
Ở cuối vườn, một con quạ ra sức kêu quang quác.
- Ồ không, Lili, không nên thế - Antoine nói - anh không phải là bố của Arthur.
Đó là ngày dài nhất mà Arthur từng biết; đến khuya, ngồi dưới cổng nhà, cậu vẫn còn tôn trọng sự yên lặng của khoảnh khắc nặng nề này.
Antoine ngồi bên cậu bé, nhưng không người nào nói cả. Mỗi người đều lắng nghe những âm thanh của đêm, chìm đắm vào ký ức của những bức tường này. Dần dần trong đầu cậu bé, những nốt nhạc của một giai điệu cho đến giờ không được biết đến bắt đầu nhảy múa, nốt móc làm tan đi các từ, nốt trắng - các trạng từ, nốt đen - các động từ, và dấu lặng - tất cả các câu đã trở nên vô nghĩa.
- Bác Antoine!
- Ừ, Arthur.
- Mẹ cháu đã cho cháu điệu nhạc của mẹ.
Rồi cậu bé ngủ thiếp đi trong vòng tay của Antoine.
Antoine cứ ngồi như vậy, bất động, ôm Arthur trong tay, trong nhiều phút dài, vì sợ làm cậu thức giấc. Khi ông tin chắc là cậu bé đã ngủ say, ông bế cậu lên và trở vào nhà. Lili mới ra đi mới có mấy tiếng đồng hồ, mà không khí đã đổi khác. Một âm vang khó tả, một vài mùi hương, một vài màu sắc dường như đang nhòa dần để rồi biến hẳn.
“Phải khắc sâu vào trí nhớ, lưu giữ những khoảnh khắc này”, Antoine lẩm bẩm khi đi lên cầu thang. Vào đến phòng của Arthur, ông đặt cậu bé xuống gi.ường cậu và lấy một cái chăn đắp lên cậu, cứ để cậu mặc nguyên quần áo. Antoine xoa đầu cậu bé, và rón rén đi ra...
Trước khi ra đi, Lili đã dự phòng tất cả. Vài tuần sau khi bà mất, Antoine đóng cửa ngôi nhà to và chỉ để mở hai phòng tầng dưới nơi ông dọn đến sống quãng đời còn lại của mình. Ông chở Arthur ra ga, đến cánh cửa của con tàu sẽ đưa cậu đến trường nội trú của cậu. Arthur lớn lên một mình ở đó. Trường nội trú là một nơi dễ chịu, những giáo viên đáng kính, đôi khi đáng yêu. Lili chắc chắn đã chọn nơi tốt nhất cho cậu. Bề ngoài không một cái gì trong khung cảnh này là buồn tẻ cả. Nhưng Arthur bước vào đó mang theo những kỷ niệm mà mẹ cậu để lại và nó choán đầy đầu óc cậu cho đến từng ngóc ngách nhỏ nhất. Cậu đã học được cách bình thản trước mọi điều. Từ những giáo lý của Lili, cậu tạo ra những thái độ, những cử chỉ, những lý lẽ theo một logic luôn luôn chặt chẽ. Arthur là một đứa trẻ thanh thản, cậu thiếu niên tiếp theo vừa giữ nguyên tính cách ấy vừa phát triển một óc quan sát đặc biêt. Chàng thanh niên mà cậu trở thành dường như không bao giờ biểu lộ tâm trạng của mình. Cậu là một học trò bình thường, chẳng phải xuất chúng cũng không kém cỏi, điểm số của cậu bao giờ cũng ở quãng trên trung bình một chút trừ môn lịch sử là cậu học xuất sắc, và cậu lặng lẽ vượt qua từng năm học một cho đến tận kỳ thi tú tài mà cậu đạt được mảnh bằng nhưng không được xếp hạng cao. Khi những năm học này kết thúc, cậu được bà hiệu trưởng của trường mời lên gặp, một buổi tối tháng sáu. Bà giải thích cho cậu rằng mẹ cậu, khi biết là mình mắc phải căn bệnh mà sẽ chỉ có được một ít thời gian tạm nghỉ trước khi ra đi vĩnh viễn, đã đến gặp bà hiệu trưởng hai năm trước lúc qua đời. Mẹ cậu đã dành hàng giờ để giải quyết những chi tiết liên quan đến việc học tập của cậu. Tiền học cho Arthur được trả trước cho đến tận khi cậu đã quá tuổi thành niên. Trước khi ra đi, mẹ cậu đã gửi gắm cho bà Senard, bà hiệu trưởng, nhiều thứ. Những chiếc chìa khóa, của ngôi nhà ở Carmel, nơi cậu đã lớn lên, và của một căn hộ nhỏ trong thành phố. Căn hộ đã được cho thuê cho đến tận tháng vừa rồi, nhưng đã được trả vào ngày cậu đến tuổi thành niên, đúng như chỉ dẫn. Tiền cho thuê nhà được gửi vào một tài khoản mang tên cậu, cùng với số tiền tiết kiệm mà mẹ cậu đã để lại cho cậu. Một khoản kha khá cho phép cậu học tiếp đại học và thậm chí hơn thế nữa.
Arthur cầm lấy chùm chìa khóa mà bà Senard đặt trên bàn. Cái móc chìa khóa là một quả cầu bằng bạc có một đường khe ở giữa, và được gắn một cái móc bấm tí xíu. Arthur bẩy cái van nhỏ, và quả cầu tách ra, để lộ hai bức ảnh nhỏ ở hai bên. Một bức ảnh là cậu khi bảy tuổi, bức kia là ảnh của Lili. Arthur khép cái móc chìa khóa lại một cách thận trọng.
- Em định học ngành gì ở đại học? - Bà giáo hỏi.
- Kiến trúc, em muốn trở thành kiến trúc sư.
- Em không đi Carmel, về lại ngôi nhà ấy à?
- Không ạ, em chưa đi, cũng còn phải lâu nữa.
- Tại sao?
- Mẹ em biết tại sao, đó là một bí mật.
Bà hiệu trưởng đứng dậy và mời cậu đứng lên theo. Khi họ đến gần cánh cửa phòng làm việc của bà, bà vòng tay ôm Arthur và xiết chặt. Bà nhét một chiếc phong bì vào bàn tay Arthur rồi gập những ngón tay cậu lại.
- Của mẹ em đấy - Bà nói nhỏ vào tai cậu - đó là cho em, mẹ em yêu cầu cô trao thư này cho em vào đúng thời điểm này.
Bà giáo vừa mở hai cánh cửa phòng thì Arthur bước ra luôn, mất hút trong hành lang, không quay đầu lại, một tay nắm chặt những chiếc chìa khóa dài và nặng, tay kia cầm bức thư. Cậu rẽ sang chiếc cầu thang to, bà giáo bèn khép lại hai cánh cửa phòng làm việc của bà.
 
Chương 11Xe ôtô chạy nốt những phút cuối cùng của cái đêm dài ấy, đèn pha rọi sáng những vệt màu da cam và trắng xen kẽ nhau giữa từng chỗ ngoặt lượn theo vết lõm cảu vách đá và từng đoạn đường thẳng chạy dọc một đầm lầy hay một bãi biển vắng tanh. Lauren thiu thiu ngủ, Paul lặng lẽ lái xe, tập trung vào đường và chìm trong những suy nghĩ của mình. Arthur lợi dụng khoảnh khắc yên tĩnh này để kín đáo lấy từ túi ra bức thư mà anh đã nhét vào đó khi lấy chùm chìa khóa dài và to trong tủ tài liệu ở nhà anh.
Khi anh bóc thư, một mùi hương đầy kỷ niệm tỏa ra, đó là hỗn hợp của hai thứ tinh dầu mà mẹ anh pha trộn trong chiếc bình con bằng pha lê màu vàng có nút bằng bạc mờ. Hương thơm thoát từ phong bì đem theo ra cả những kỷ niệm về mẹ anh. Arthur rút thư từ phong bì và mở nó ra một cách cẩn thận.
Arthur của mẹ,
Nếu con đọc những dòng này có nghĩa là cuối cùng con đã quyết định lên đường về Carmel. Mẹ rất tò mò muốn biết bây giờ con bao nhiêu tuổi. Con có trong tay những chiếc chìa khóa của ngôi nhà mà ở đó mẹ con mình đã sống cùng nhau những năm thật đẹp. Mẹ biết rằng con không trở về đây ngay lập tức, rằng con sẽ đợi đến lúc cảm thấy mình sẵn sàng đánh thức ngôi nhà này dậy.
Arthur của mẹ, con sắp bước qua cánh cửa mà tiếng động của nó đối với mẹ thân thuộc biết bao. Con sẽ đi khắp từng gian phòng chứa đầy những niềm tiếc nhớ. Con sẽ lần lượt mở từng cánh cửa chớp để cho ùa vào những tia nắng mặt trời mà mẹ sẽ thiếu biết chừng nào. Con hãy trở ra vườn hoa hồng, hãy nhẹ nhàng đến bên những đóa hoa. Trong suốt thời gian này, hẳn là chúng đã biến thành hoa dại.
Con cũng sẽ đi xuống phòng làm việc của mẹ, con sẽ ngồi vào đó. Trong tủ con sẽ tìm thấy một chiếc vali nhỏ màu đen, hãy mở nó ra nếu con muốn, nếu con đủ sức. Nó chứa những cuốn vở đầy những trang mà mẹ đã viết cho con mỗi ngày cảu tuổi thơ con. Cuộc đời con ở phía trước con; con là người chủ duy nhất của nó. Hãy xứng đáng với “tất cả những gì mà ta đã yêu”.
Mẹ yêu con từ trên cao này, mẹ chăm chú dõi theo con.
Mẹ Lili của con.
Khi họ đến vịnh Monterey, bình minh bắt đầu nhú lên. Bầu trời choàng một mảnh lụa màu hồng nhạt, kết những dải ruy băng dài lượn sóng, thỉnh thoảng như lại chạm vào mặt biển ở phía chân trời. Arthur chỉ đường. Nhiều năm đã trôi qua, anh chưa bao giờ đi con đường này mà ngồi ở hàng ghế trước của ôtô cả, thế nhưng mỗi cây số đều có vẻ thân thuộc với anh, mỗi hàng rào, mỗi cái cổng đi qua đều hướng anh về với ký ức tuổi thơ. Anh lấy tay ra hiệu khi phải rời đường cái. Sau chỗ ngoặt sắp tới có thể thấy thấp thoáng khu nhà. Paul đi theo những chỉ dẫn của anh; một đoạn đường đất bị xói mòn bởi những cơn mưa mùa đông và được làm khô lại bởi cái nóng mùa hè. Đến một chỗ ngoặt uốn cong, cánh cửa sắt màu xanh lá cây hiện ra trước mặt họ.
- Chúng ta đã đến nơi - Arthur nói.
- Mày có chìa khóa chứ?
- Tao đi mở cửa đây, mày lái xe đến sát tận nhà và đợi tao, tao xuống đi bộ.
- Cô ta đi với mày hay ở lại trong ôtô?
Arthur thò đầu vào xe và ung dung trả lời :
- Thì mày cứ hỏi thẳng cô ấy!
- Không, tao không thích thế.
- Em để anh đi một mình, em nghĩ lúc này như vậy là hơn - Lauren nói với Arthur.
Arthur mỉm cười và nói với Paul :
- Cô ấy ngồi lại với mày, cái thằng số đỏ!
Ôtô đi xa dần, kéo theo một đám bụi mù ở phía sau. Đứng lại một mình, anh lặng ngắm khung cảnh xung quanh anh. Những dải đất đỏ rộng trên trồng một vài cây thông lọng hay cây thông bạc, những cây cù tùng, những cây lựu và những cây minh quyết, tất cả dường như chạy dài ra tận biển. Nền đất phủ đầy những chiếc gai đã bị mặt trời làm cháy xém. Anh đi theo chiếc cầu thang nhỏ bằng đá bên lể đường. Đi được nửa chừng, anh thấy thấp thoáng phía bên tay phải mình cái còn lại của vườn hồng ngày xưa. Khu vườn bị bỏ hoang, vô số mùi hương quyện lẫn vào nhau gợi lên theo mỗi bước chân một vũ điệu farandole không thể kiểm soát nổi của những kỷ niệm khứu giác.
Khi anh đi qua, lũ ve sầu im bặt đi giây lát rồi lại tiêp tục hát say mê hơn. Những cây to cong xuống trước làn gió nhẹ buổi ban mai. Biển đập một vài con sóng lên các mỏm đá. Trước mặt anh, anh thấy ngôi nhà đang thiêm thiếp ngủ, hệt như anh đã để lại nó trong những giấc mơ của mình. Anh thấy nó có vẻ nhỏ hơn, mặt ngoài bị hư hỏng đôi chút nhưng mái ngói thì vẫn còn nguyên vẹn. Những cánh chớp đóng kín. Paul đỗ xe trước cổng và đang đợi anh bên ngoài ô tô.
- Mày mất khá thời gian để đến đấy!
- Hơn hai mươi năm!
- Ta làm gì đây?
Họ mang cơ thể Lauren vào quòng làm việc ở tầng dưới cùng. Anh đặt chìa khóa vào ổ khóa và vặn không hề do dự. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiều tại sao. Tiếng động trong ổ khóa và vặn không hề do dự, đúng như việc cần làm. Trí nhớ chứa đựng những mẩu kỷ niệm mà nó biết tung ra bất cứ lúc nào, không để người ta hiểu tại sao. Tiếng động trong ổ khóa vang lên đối với anh cũng dường như quá nhanh. Anh bước vào hành lang, mở cửa phòng làm việc ở bên trái lố vào, đi ngang qua căn phòng và mở cửa chớp. Anh cố tình không chú ý tí nào đến mọi thứ xung quanh mình, việc khám phá lại nơi này sẽ để lúc sau, và anh đã quyết định hưởng trọn vẹn những giây phút ấy. Rất nhanh chóng những hòm đồ đạc được tháo dỡ, cơ thể Lauren được đặt nằm trên đi văng, ống truyền được lắp lại.. Arthur khép lại cửa chớp bằng then móc. Rồi anh cầm lấy cái hộp các tông nhỏ màu nâu, và rủ Paul theo anh vào bếp: “Tao sẽ pha cà phê cho bọn mình mày mở hộp ra đi, tao sẽ đun nước nóng”
Anh mở ngăn tủ phía dưới bồn rửa bát, và lôi ra một vật bằng kim loại, hình thù kỳ quặc, gồm hai phần dối xứng và dối lập. Anh bắt đầu tháo nó ra bằng cách quay từng phần một ngược chiều nhau.
- Cái gì thế? - Paul hỏi.
- Bình pha cà phê kiểu Italia đấy!
- Bình pha cà phê kiểu Italia?
Arthur giải thích cho bạn cách vận hành của bình cà phê, lợi ích đầu tiên là không cần dùng giấy lọc và như vậy hương thơm sẽ giữ lại tốt hơn. Phải cho hai đến ba thìa cà phê đầy vào trong cái phiễu nhỏ nằm giữa phần dưới được đổ đầy nước và phần trên. Phải vặn chặt hai khoang lại và đặt tất cả lên bếp đun. Nước sôi sẽ trào lên, thấm qua cà phê đựng trong cái phễu nhỏ và chuyển sang phần trên, được lọc chỉ bằng một cái lưới mỏng bằng kim loại. Bí quyết duy nhất để thành công chỉ là phải kéo bình pha cà phê ra khỏi ngọn lửa đúng lúc, vì đó không phải là nước nữa, mà là cà phê rồi, và “cà phê sôi, cà phê ôi!”. Khi anh giải thích xong, Paul huýt sáo lên một tiếng :
- Này, cần phải là kỹ sư biết hai thứ tiếng mới pha cà phê được trong cái nhà này à?
- Còn cần hơn thế nhiều, ông bạn ơi, phải có tài, đó là cả một nghi lễ đấy!
Paul vừa bĩu môi tỏ ý nghi ngờ để trả lời câu nói của bạn, vừa chìa cho bạn gói cà phê. Athur cúi người xuống để mở bình ga đặt dưới bồn rửa bát. Rồi anh vặn chiếc vòi ở bên trái cái bếp, và cuối cùng là núm bật bếp.
- Mày nghĩ vẫn còn có ga à?
- Antoine không bao giờ để lại ngôi nhà với bình ga rổng trong bếp, và tao cuộc với mày là còn ít nhất hai bình ga đầy nữa ở trong gara.
Một cách máy móc, Paul đứng lên, đi ra phía công tắc ở cạnh cửa và ấn một cái. Một làn ánh sáng màu vàng tỏa khắp căn phòng.
- Mày làm thế nào mà lại có điện trong căn nhà này được?
- Hôm kia tao đã điện thoại đến công ty điện để họ cho lại điện, cả nước cũng thế, nếu như mày lo lắng, nhưng tắt đèn đi, phải lau bụi ở bóng đèn cái đã, nếu không khi bị nóng lên, nó sẽ nổ tung đấy.
- Mày học những cái đó ở đâu, pha cà phê kiểu Italia với lại lau bụi để bóng đèn khỏi nổ?
- Ở đây, ông bạn ạ, trong gian phòng này, và tao còn học vô số điều khác nữa.
- Thế cà phê được chưa?
Arthur đặt hai cái chén lên chiếc bàn gỗ. Anh rót vào chén nước cà phê nóng bỏng.
- Đợi đã rồi hãy uống - Anh nói.
- Tại sao?
- Vì nếu không mày sẽ bị bỏng, với lại trước tiên mày nên hít hương cà phê cái đã. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày.
- Mày làm tao phát ngấy với cái món cà phê của mày, ông bạn ạ, chả có cái gì thấm vào mũi tao sất! Đúng là tao đang nằm mơ. Để cho mùi thơm thấm dần vào mũi mày, nhưng mày kiếm đâu ra được cái của ấy chứ?
Paul nâng chén cà phê lên miệng, anh phun vội ra ngay lập tức chút nước nóng bỏng mà anh vừa uống. Lauren đến đứng sau lưng Arthur và vòng tay ôm anh. Cô tựa đầu lên vai anh và nói thầm vào tai anh :
- Em thích nơi này, em cảm thấy dễ chịu ở đây, khung cảnh thật là êm dịu.
- Lúc nãy em ở đâu?
- Em làm một vòng quanh khu nhà trong khi các anh triết lý về cà phê
- Vậy em thấy sao?
- Mày lại đang nói với cô ta đấy à? - Paul ngắt lời bằng một giọng bực tức.
Không hề chú ý đến câu hỏi của Paul, Arthur quay sang Lauren :
- Em thích à?
- Lẽ ra phải tỏ vẻ khó tính - Cô trả lời - nhưng anh phải kể cho em nghe nhiều điều bí mật đấy, ở đây đầy những điều bí mật, em có thể cảm thấy điều đó trong mỗi bức tường, mỗi đồ vật.
- Nếu tao quấy rầy mày thì mày cứ việc coi như tao không có ở đây! - Ông bạn chí thân của Arthur lại nói.
Lauren không muốn tỏ ra bội bạc nhưng cô rỉ tai anh rằng cô rất muốn được một mình với anh. Cô nóng ruột muốn được anh dẫn đi xem các nơi. Cô nói thêm rằng cô rất muốn họ được nói chuyện với nhau. Anh muốn biết là về điều gì, cô trả lời: “Về nơi này, về trước đây”.
Paul chờ đợi để Arthur cuối cùng cũng hạ cố nói với anh nhưng Arthur có vẻ lại tiếp tục trò chuyện với người bạn vô hình của mình. Paul đành quyết định ngắt lời họ.
- Nào, mày có cần đến tao nữa hay không, không thì tao quay về San Fransisco, có nhiều việc ở công ty với lại những cuộc chuyện trò cùa mày với Phantomas làm cho tao khó chịu.
- Đừng có hẹp hòi thế, được không?
- Xin lỗi! Chắc là tao nghe nhầm. Mày vừa mới bảo một thằng đã giúp mày đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện vào một tối chủ nhật, bằng một xe cứu thương lấy trộm, một thằng vừa uống cà phê kiều Italia ở một nơi cách nhà hắn bốn tiếng đồng hồ, đêm không được ngủ và mày bào hắn là đứng có hẹp hòi! Mày thật quá đáng!
- Tao có định nói thế đâu.
Paul không biết Arthur định nói gì nhưng anh muốn trở về trước khi họ cãi lộn “bởi vì điều đó có thể xảy ra, mày thấy đấy, và như vậy thì thật đáng tiếc, vì đã phải bỏ biết bao công sức cho đến tận lúc này”. Arthur lo lắng hỏi xem bạn anh có đủ sức để đi đường không. Paul trấn an bạn, với chén cà phê kiểu Italia (anh nhấn mạnh từ này một cách mỉa mai) mà anh vừa uống, anhc ó thể đi được ít nhất hai mươi tiếng đồng hồ trước khi cái mệt dám làm anh ríu mắt. Arthur không đáp lại lời châm chọc. Về phần Paul, anh cũng lo lắng vì để bạn lại không có ôtô trong ngôi nhà bỏ hoang này.
- Có cái xe Ford trong gara.
- Cái xe Ford của mày chạy lần cuối cùng khi nào?
- Lâu rồi!
- Liệu nó có nổ máy được không, cái xe Ford ấy.
- Nhất định rồi, tao sẽ thay acquy, nó sẽ nổ thôi.
- Nhất định rồi! Với lại, xét cho cùng thì nếu mày có bị mắc kẹt ở đây, mày cứ tự xoay xở lấy. Tao giúp mày đêm nay thế là đủ lắm rồi.
Arthur tiễn Paul ra tận ôtô.
- Đừng lo cho tao, mày đã giúp tao nhiều rồi.
- Nhưng tất nhiên là tao phải lo cho mày chứ. Bình thường ra thì tao sẽ bỏ mặc mày một mình trong ngôi nhà này và tao sẽ khiếp sợ với ý nghĩ về các hồn ma, nhưng mà mày, đã thế mày lại còn mang thêm hồn ma của mày đến nữa!
- Biến đi!
Paul cho xe nổ máy, anh hạ cửa kính xuống trước khi đi.
- Mày có chắc là sẽ ổn cả không?
- Chắc chắn.
- Vậy thì tao đi đây.
- Paul!
- Gì?
- Cảm ơn về tất cả những cái mày làm.
- Có gì đâu.
- Có chứ, nhiều lắm chứ, mày đã phải chịu bao nhiêu mạo hiểm vì tao, trong khi chưa hiểu rõ hẳn mọi việc, chỉ vì sự trung thành và tình bạn mà thôi, như vậy là rất nhiều, và tao biết điều đó.
- Tao biết là mày biết. Thôi, tao đi đây, nếu không bọn mình lại khóc tong tong mất. Nhớ giữ gìn sức khỏe và báo tin đến cơ quan cho tao nhé.
Những lời hứa hẹn tuôn ra, và chiếc Saab nhanh chóng mất hút sau quả đồi. Lauren bước ra bậc thềm.
- Nào - Cô nói - ta đi một vòng quanh khu nhà chứ?
- Bên trong hay bên ngoài trước
- Trước hết chúng ta đang ở đâu?
- Em đang ở trong ngôi nhà của Lili.
- Lili là ai?
- Lili là mẹ anh, chính ở đây anh đã lớn lên một nửa thời thơ ấu của mình.
- Mẹ anh mất lâu rồi à?
- Lâu lắm rồi.
- Và chưa bao giờ anh trở lại đây cả?
- Chưa bao giờ.
- Tại sao?
- Vào nhà đi! Ta sẽ nói chuyện đó sau, khi nào xem nhà xong đã.
- Tại sao? - Cô hỏi vặn.
- Anh quên mất rằng em cứng đầu cứng cổ như một con la. Tại thế đấy!
- Có phải em đã khiến anh trở lại nơi này không?
- Em không phải là hồn ma duy nhất của đời anh - Anh nói bằng một giọng dịu dàng.
- Anh phải trả giá đắt khi trở lại đây.
- Nói như vậy là không chính xác, có thể coi là điều đó quan trọng đối với anh.
- Và anh đã làm như vậy vì em?
- Anh làm điều đó vì đã đến lúc cần phải thử.
- Thử làm gì?
- Mở chiếc vali nhỏ màu đen.
- Anh vui lòng giải thích cho em về cái vali nhỏ màu đen chứ?
- Đó là những kỷ niệm.
- Anh có nhiều kỷ niệm ở đây?
- Gần như là tất cả. Đây là nhà anh mà.
- Thế sau khi ở đây thì sao?
- Sau đó anh đã cố làm sao cho mọi thứ trôi qua thật nhanh, sau đó anh đã tự lớn lên rất nhiều
- Mẹ anh chết đột ngột à?
- Không, mẹ anh chết vì bệnh ung thư, mẹ anh biết điều đó, chỉ có đối với anh là chuyện đó xảy ra quá nhanh thôi. Đi theo anh, anh sẽ dẫn em ra thăm khu vườn. Hai người đi ra bậc thềm, và arthur dẫn Lauren đến tận chỗ bờ biển tiếp giáp với khu vườn. họ ngồi xuống mép đá.
- Nếu em biết được anh đã ngồi ở đây bao nhiêu giờ với mẹ anh, anh đếm những ngọn sóng và đánh cuộc với mẹ. Hai mẹ con thường đến xem mặt trời lặn. Nhiều người ở đây ra bãi biển buổi tối, chừng nửa giờ, để xem cảnh này. Mỗi ngày cảnh tượng lại có một vẻ khác. Do nhiệt độ của biển, của không khí, do đủ mọi thứ mà màu sắc của bầu trời không bao giờ giống nhau. Cũng như ở thành phố, mọi người về nhà xem chương trình thời sự trên ti vi vào những giờ cố định, ở đây thì dân chúng đi ra xem mặt trời lặn, đó đã thành một tục lệ rồi.
- Anh sống ở đây lâu không?
- Hồi ấy anh là một chú nhóc con, anh được mười tuổi thì mẹ anh mất.
- Tối nay anh chỉ cho em xem mặt trời lặn nhé!
- Đó là một nghĩa vụ ở đây - Anh mỉm cười nói.
Sau lưng họ, ngôi nhà bắt đầu rực lên trong ánh sáng ban mai. Lớp sơn ở mặt ngoài phía trông ra biển đã bị hư hại, nhưng nhìn chung ngôi nhà đã kháng cự tốt với tháng năm. Từ ngoài nhìn vào, không ai có thể tin được rằng nó đã ngủ một giấc dài như vậy.
- Nó đã chống chọi tài đấy chứ? - Lauren nói.
- Antoine đã chăm chút ngôi nhà như một kẻ ương gàn. Làm vườn, sửa chữa đồ đạc, câu cá, trông trẻ, gác nhà, đó là một nhà văn không thành đạt mà mẹ anh đã đón về. Trước khi bố anh bị tai nạn máy bay, đó là một người bạn của bố mẹ anh. Anh cho rằng bác ấy luôn luôn yêu mẹ anh, ngay cả khi bố anh còn đó. Anh ngờ rằng cuối cùng họ đã trở thành tình nhân, nhưng đó là mãi về sau. Bác ấy ở trong tâm tư mẹ anh khi bà còn sống, mẹ anh ở trong tâm tư bác ấy của những năm để tang. Cả hai người đều ít nói, ít ra là những khi anh thức, nhưng họ vô cùng đồng điệu. Họ hiểu nhau từ cái nhìn. Trong sự yên lặng chung của họ, họ chữa lành tất cả những bão táp của đời mình. Giữa hai người ấy có sự bình thản đến kinh ngạc. Cứ như là cả hai đều đã thề không bao giờ biết đến tình cảm tức giận hay nổi loạn nữa.
- Cuối cùng ông ấy thế nào?
- Khép mình lại trong phòng làm việc, nơi đặt cơ thể Lauren bây giờ, ông đã sống thêm được mười năm sau Lili. Antoine đã dùng phần cuối của đời ông vào việc bảo dưỡng ngôi nhà. Lili đã để lại tiền cho ông, đó là phong cách của bà, dự kiến trước mọi điều, ngay cả điều không thể dự kiến được. Về mặt đó, Antoine giống bà. Ông mất ở bệnh viện vào đầu một mùa đông. Một buổi sáng nắng và se lạnh, ông tỉnh dậy trong người mệt mỏi. Khi đang tra dầu vào bản lề ở cổng, một cơn đau âm ỉ len lỏi vào ngực ông. Ông đi lại giữa hàng cây để lấy thêm không khí mà đột nhiên ông cảm thấy thiếu vô cùng. Cây thông già mà dưới bóng nó ông thường ngủ trưa vào mùa xuân và mùa hè đã đón nhận ông dưới những cành của nó, khi ông ngã và không thể gượng lại được. Bị cơn đau quật ngã, ông đã bò đến tận nhà và gọi hàng xóm đến giúp. Được chở đến phòng cấp cứu Monterey, ông đã tắt thở tại đó vào ngày thứ hai sau. Có thể nghĩ rằng ông đã chẩun bị trước cho sự ra đi của mình. Khi ông mất, công chứng viên của gia đình đã liên lạc với Arthur để hỏi xem anh cần phải làm gì với ngôi nhà.
 
×
Quay lại
Top