THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ

heokool

Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Thành viên thân thiết
Tham gia
22/9/2011
Bài viết
14.934
Giới thiệuTác giả: Dan Brown
Tác giả: Dan Brown
Dịch giả: Văn Thị Thanh Bình
Người hiệu đính: Trần Bình Minh
Người gõ: Mõ Hà Nội (Nguyễn Học)


Bạn đọc thân mến ,
Xin cám ơn đông đảo bạn đọc đã đóng góp để "Mật mã Da Vinci" trở thành tác phẩm ăn khách.
Ra đời trước tác phẩm "Mật mã Da Vinci", cuốn sách mà các bạn đang có trong tay là câu chuyện kể về cuộc hành trình của nhà biểu tượng học Robert Langdon ở thành Vatican đúng một năm trước khi có chuyến thăm định mệnh tới bảo tàng Louvre.
"Thiên thần và ác quỷ" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi xây dựng nhân vật Langdon cùng với những kiến thức của nhân vật về nghệ thuật, biểu tượng học, mật mã, những tổ chức bí mật và vùng ranh giới giữa thiện và ác. Tôi mong rằng các bạn sẽ thấy những bí ẩn trong tác phẩm Thiên thần và Ác quỷ cũng hấp dẫn không kém gi những bức hoạ của Da Vinci. Cho dù moi quan tâm của các bạn đối với nghệ thuật như thế nào, tôi vẫn dám chắc rằng bạn sẽ tim thấy trong cuốn sách những câu hỏi hóc búa, những điều bí ẩn trong lịch sử, - cũng những tình huống ly kỳ và nhiều sự kiện bất ngờ.
Tôi thực sự hy vọng các bạn cũng đam mê đọc sách và thích nhân vật Robert Langdon giống như niềm vui sướng của tôi khi viết tác phẩm này.
Xin chân thành cám ơn.



For Blythe …


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Emily Bestler, Jason Kaufman, Ben Kaplan, và đội ngũ nhân viên của Nhà xuất bản Pocket Books vì họ đã tin tưởng vào dự án này. Cám ơn người bạn và người đồng nghiệp Jake Elwell vì sự nhiệt tình và những nỗ lực không mêt mỏi của anh. Cám ơn George Wieser huyền thoại, người đã thuyết phục tôi viết cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn người bạn thân thiết của tôi - Irv Sittler, người đã giúp tôi diện kiến Giáo hoàng và tiết lộ cho tôi nhiều bí mật của Vatican mà hiếm người biết được, và cũng là người biến chuyến thăm thành Rome của tôi thành kỷ niệm khó quên.
Cám ơn nghệ sĩ tài năng đương thời, John Langdon, người đã xuất sắc trong việc khơi gợi những thách thức tưởng chừng không thể thực hiện nỏi trong tôi và giúp tôi tạo biểu tượng Ambigram - biểu tượng hai chiều đối xứng - cho cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn Stan Planton, phu trach thư viện Trường Đại học Ohio -Chillicothe vì những nguồn thông tin quý báu trong rất nhiều chủ đề.
Cám ơn Sylvia Cavazzini vì chuyến đi tuyệt vời tới dương hạm Passetto bí ẩn.
Con cũng xin gứi tới cha mẹ, Dick và Connie Brown, lòng biết ơn… vì tất cả những gì cha mẹ đã dành cho con.
Tôi cũng xin cám ơn CERN, Henry Beckett, Brett Trotter, Viện khoa học giao chủ (Pontifical Academy of Science), Vien Brookhaven, Thư viện Fermi Lab, Olgar Wieser, Don Ulsch của Học viện An ninh Quốc gia, Caroline H. Thompson tai Trường Đại học Wales, Kathryn Gerhard và Omar Al Kinđi, John Pike và Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ, Heimlich Viserholder, Corina và Davis Hammond, Aizaz Ali, Dự án Galileo thuộc Trường Đại học Rice, Julie Lynn và Charlie Ryan thuộc hãng phim Mockingbird, Gary Goldstein, Dave (Vilas) Arnold và Andra Crawford, Hệ thống Hiệp hội Anh em Toàn cầu, Thư viện Học viện Phillip Exter, Jim Barrington, John Maier, đôi mắt cực kỳ tinh tường của Margie Watchtel, thành viên trang web: alt.masionic.members, Alan Wooley, Thư viện trưng bày Kinh thánh chép tay, Lisa Callamaro và Cong ty Callamaro, Jon A. Stowell, Bảo tàng Vatican, Aldo Baggia, Noah Alizera, Harriet Walker, Charles Ferry, Micron Electrics, Mindy Renselaer, Nancy và Dick Curtin, Thomas D. Nadeau, Nuvo Media và Rocket E-books, Frank và Sylvia Kenedy, Simon Edwards, Hãng du lịch Rome, Maestro Gregory Brown, Val Brown, Werner Brandes, Paul Krupin ở Direct Contact, Paul Stark, Tom King ở Computalk Network, Sandy và Jerry Nolan, Web guru Linda George, Vien Nghệ thuật Rome, Học giả tôn giáo và nhà vật lí Steve Howe, Robert Weston, The Water Street Bookstore ở Exeter, New Hampshire, và Đài quan sát Vatican.


THÔNG TIN

Cơ quan nghiên cứu khoa học lớn nhất thế giới - Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) - gần đây đã thành công trong việc tạo ra những hạt đầu tiên của phản vật chất. Phản vật chất giống hệt vật chất, chỉ trừ một điều nó được cấu tạo bởi các hạt có điện tích ngược với điện tích trong vật chất thông thường.
Phản vật chất là nguồn năng lượng mạnh nhất ma con người từng biết đến. Nó tạo ra năng lượng với hiệu suất 100% (trong khi phản ứng phân hạch hạt nhân chỉ đạt hiệu suất là 1,5%). Phản vật chất không gây ô nhiễm hay phóng xạ, và chỉ cần một giọt nhỏ cũng có thể cung cấp đủ năng lượng cho thành phố New York trong một ngày.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lo ngại…
Phản vật chất rất không ổn định. Nó sẽ phát nổ khi chạm vào bất cứ thứ gì… kể cả không khi. Chỉ riêng một gram phản vật chất đã chứa nguồn năng lượng của một quả bom hạt nhân 20 kiloton - bằng kích cỡ của trái bom thả xuống Hiroshima.
Cho đến gần đây, người ta mới chỉ chế tạo được một lượng phản vật chất rất nhỏ (khoảng vài nguyên tử mỗi lần). Nhưng CERN đã đưa ra bước đột phá dựa trên thiết bị h.ãm tốc phản Proton - một thiết bị sản xuất phản vật chất tiên tiến, hứa hẹn sẽ tạo được số lượng lớn phản vật chất.
Một câu hỏi được đặt ra là: Liệu thứ vật chất kém ổn định như vậy sẽ là cứu cánh cho thế giới này, hay nó sẽ được dùng để chế tạo thứ vũ khí huỷ diệt kinh hoàng nhất mà con người chưa từng biết đến?


LỜI TÁC GIẢ

Những tài liệu tham khảo liên quan đến các công trình nghệ thuật, kiến trúc, lăng mộ và đường hầm ở thành Rome là hoàn toàn có thật (cũng như vị trí chính xác của chúng). Chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Hội kín Illuminati cũng có thực.


SƠ ĐỒ THÀNH PHỐ ROME HIỆN ĐẠI




SƠ ĐỒ THÀNH VATICAN


1. Đại thánh đường St. Peter (Basilica)
2. Quảng trường St. Peter.
3. Nhà nguyện Sistine
4. San Borgia
5. văn phòng Đức Giáo hoàng
6. Bảo tàng Vatican
7. Sở chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ
8. Sân bay trực thăng
9. Khu vườn
10. Đường ngầm Passetto
11. San Belvedere
12. Bưu điện trung tâm
13. Sảnh diễn thuyết của Giáo hoàng
14. Cung điện Chính phủ.
LỜI DẪN
Nhà vật lí Leonardo Vetra ngửi thấy mùi d.a thịt cháy khét lẹt trên cơ thể mình. Ông kinh hãi nhìn bóng đen lù lù trước mắt:
- Ngươi muốn gì!
- Chìa khoá, - giọng nói khàn khàn đáp lại. - Mật mã.
- Nhưng… ta không…
Kẻ lạ mặt lại đè xuống, ấn mạnh cái vật sáng trắng, nóng rực lên ngực Vetra. Chỉ có tiếng xèo xèo của thịt cháy.
Vetra gào lên đau đớn:
- Không có mật mã nào hết! - Ông cảm thấy mình sắp ngất lịm đi.
Bóng đen nhìn trừng trừng.
- Ta rất sợ điều đó.
Vetra cố giữ cho đầu óc tỉnh táo, nhưng bóng tối đang bủa vây lấy ông. Niềm an ủi duy nhất là kẻ tấn công kia chưa lấy được thứ hắn muốn. Dù vậy, chỉ một lát sau, kẻ đó rút ra một lưỡi dao, dí sát vào mặt Vetra. Lưỡi dao vung lên. Rất gon. Rất điêu luyện.
- Vì Chúa! - Vetra thét lên. Nhưng đã quá muộn.
 
Từ trên bậc cao nhất của Kim tự tháp vĩ đại Giza, một phụ nữ trẻ đang cười và gọi vọng xuống.
- Robert, nhanh lên! Lẽ ra em nên lấy ông chồng trẻ hơn! - Nụ cười của cô đầy quyến rũ.
Anh gắng hết sức để theo cho kịp, nhưng đôi chân như hoá đá.
- Đợi đã. Làm ơn đi. - Anh năn nỉ.
Tiếp tục leo lên, anh thấy mọi thứ trước mặt nhoà đi. Trong tai anh như có tiếng đập thình thịch. "Mình phải đuổi kịp cô ấy". Những khi anh ngước lên lần nữa thì người phụ nữ đã biến mất, thay vào đó là một ông già răng rụng gần hết. Ông ta nhìn xuống, môi mím lại, vẻ nhăn nhó, rồi gào lên đau đớn, tiếng gào vang khắp sa mạc.
Robert Langdon tỉnh dậy sau cơn ác mộng. Chiếc điện thoại cạnh gi.ường reo vang. Nửa tỉnh nửa mê, anh nhấc máy.
- Xin chào.
- Tôi cần gặp ông Robert Langdon, - giọng một người đàn ông cất lên.
Langdon ngồi dậy trên chiếc gi.ường trống trải và cố gắng trả lời một cách tỉnh táo.
- Tôi… là Robert Langdon đây.
Anh ghé mắt nhìn đồng hồ. Mới có 5 giờ 18 phút sáng.
- Tôi cần gặp ông ngay lập tức.
- Ông là ai?
- Tên tôi là Maximilian Kohler, nhà vật lí hạt cơ bản.
- Là gì cơ? - Langdon hầu như không thể tập trung tư tưởng. - Ông có gọi đúng Langdon mà ông cần tìm không đấy?
- Ông là giáo sư ngành biểu tượng học của Trường đại học Harvard. Ông từng viết ba cuốn sách về biểu tượng và...
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ không?
- Tôi xin lỗi. Tôi có một thứ muốn nhờ ông xem hộ. Chuyện này không thể thảo luận trên điện thoại được.
Langdon rên lên. Trước đây, những chuyện tương tự như thế này đã từng xảy ra. Một trong những nỗi khổ của việc viết sách về biểu tượng tôn giáo là những kẻ cuồng tín thường gọi đến đòi anh khẳng định những dấu hiệu mới nhất của Chúa. Thág trước, một cô gái hành nghề thoát y ở bang Oklahoma hứa sẽ cho anh một đêm ái ân tuyệt vời nhất trong đời nếu anh có thể bay đến và chứng minh tính xác thực của biểu tượng thánh giá xuất hiện một cách kỳ lạ trên ga gi.ường của cô ta. "Tấm vải liệm người chết ở Tulsa"(1) , Langdon đã đặt cho nó cái tên như vậy.
- Làm thế nào ông có số điện thoại của tôi? - Dù vào giờ này, song Langdon vẫn cố gắng tỏ ra lịch sự.
- Trên mạng toàn cầu và trang web về cuốn sách của ông.
Langdon nhíu mày. Anh biết chắc chắn rằng trang web đó không nêu số điện thoại nhà của anh. Rõ ràng người đàn ông nay đang nói dối.
- Tôi cần gặp ông. - Người gọi điện khăng khăng. - Tôi sẽ trả công cho ông hậu hĩnh…
Đến lượt Langdon nổi đoá:
- Xin lỗi, nhưng tôi thực sự….
- Nếu đi ngay bây giờ, - ông có thể ở đây vào lúc….
- Tôi chẳng đi đâu hết! Mới có 5 giờ sáng! - Langdon gác máy và nằm vật xuống gi.ường. Anh nhắm mắt và cố ngủ, nhưng vô ích. Giấc mơ ban nãy vẫn hiện rõ nét trong tâm trí anh. Anh đành miễn cưỡng mặc quần áo và đi xuống nhà.
Với đôi chân trần, Robert Langdon đi tha thẩn trong ngôi nhà trống trải ở bang Massachusetts được thiết kế theo phong cách Victoria, và tự chữa căn bệnh mất ngủ thường xuyên của mình bằng một cốc ca-cao Nestle Quik nghi ngút khói. Ánh trăng tháng 4 rơi qua khung cửa sổ lồi và đùa rỡn trên những tấm thảm phương Đông. Đồng nghiệp của Langdon vẫn đùa rằng nơi này giống bảo tàng nhân chủng học hơn là một ngôi nhà. Trên các giá chất đầy những mẫu vật tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới - bức tượng gỗ ekuaba(2) từ Ghana, cây thánh giá vàng của Tây Ban Nha, bức tượng thời kỳ đồ đồng của vùng biển Aegean(3) , tượng gỗ đan boccus hiếm có của Borneo - biểu tượng trẻ mãi không già của các chiến binh.
Khi ngồi xuống bên chiếc rương đồng Maharishi và thưởng thức vị ấm nóng của so-co-la, anh chợt nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu trong khung kính cửa sổ, trong méo mó và nhợt nhạt… giống như ma. Một con ma già, anh nghĩ, hình ảnh đó gợi nhắc tới thực tế trần trụi là tâm hồn trẻ trung của anh đang sống trong vỏ bọc già cỗi.
Mặc dù không có vẻ ngoài đẹp trai theo kiểu cổ điển, song ở tuổi 45, Langdon được các nữ đồng nghiệp đánh giá là người có vẻ đẹp "thông thái" - mái tóc dày màu nâu, đôi mắt xanh ánh lên niềm khát khao học hỏi, giọng nói trầm trầm cuốn hút, nụ cười vô tư của một vận động viên thể thao thành viên trong đội tuyển lặn của trường trung học và đại học, Langdon vẫn giữ vóc dáng cao 1 mét 8 và thân hình rắn chắc của một vận động viên bơi lội bằng cách bơi 50 vòng quanh bể bơi ở trường đại học mỗi ngày.
Bạn bè của Langdon cho rằng anh thuộc tip người khó hiểu - con người của nhiều thế kỷ. Vào ngay nghỉ cuối tuần, bạn bè thường bắt gặp anh lang thang trong sân trường, mặc quần jean, thảo luận về đồ hoạ máy tính hay lịch sử tôn giáo với các sinh viên, có khi người ta lại bắt gặp anh trong chiếc ao vest thêu hoa làm bằng vải tuýt hiệu Harris và được đăng hình trên các tạp chí nghệ thuật hàng đầu khi tham dự lễ khai trường bảo tàng, nơi anh đã từng được mời đến thuyết giảng.
Mặc dù là một giáo viên khó tính và nghiêm khắc nhưng Langdon lại là người đầu tiên bạn bè chạy đến nếu muốn nghe "những chuyện cười nghệ thuật" - Sinh viên vẫn đồn rằng anh có biệt tài truyền sự say mê của mình sang người khác. Biệt danh "Cá heo" ở trong khu nội trú đã minh chứng cho bản chất hoà nhã và khả năng ngụp lặn kỳ diệu của anh, vượt trội hơn hẳn toàn bộ đối phương trong các trận đấu bóng Polo nước.
Khi Langdon ngồi một mình, lơ đễnh nhìn vào bóng tối, sự im lặng trong ngôi nhà bị tan bởi tiếng xành xạch của máy fax . Kiệt sức vì bị quấy rầy, anh gượng nở một nụ cười mệt mỏi.
"Người của Chúa, anh nghĩ. 2000 năm chờ đợi Chúa Cứu Thế, và họ vẫn kiên trì như vậy".
Anh mệt nhọc đặt chiếc cốc lên bàn ăn và chậm chạp tiến về bàn làm việc bằng gỗ sồi. Bản fax vừa gửi đến đang nằm trên khay. Anh thở dài nhắc tờ giấy lên xem.
Ngay lập tức, Langdon thấy buồn nôn.
Trên trang fax là hình ảnh của một xác chết, toàn thân bị lột trần, đầu bị vặn ngược ra sau. Trên ngực nạn nhân có một vết cháy sém khủng khiếp. Người này bị đóng dấu... khắc một từ.
Langdon biết rõ từ này. Rất rõ. Anh nhìn chằm chằm vào những chữ cái được trang trí hết sức cầu kỳ, không thể nào tin được.

- Illuminati… - anh lắp bắp, tim đập thình thịch. Không thể nào...
E ngại vì những gì mình sắp chứng kiến, Langdon chầm chậm xoay tờ fax 180 độ. Anh nhìn ngược từ đó.
Ngay lập tức, anh cảm thấy nghẹt thở, hệt như bị xe tải đâm. Không tin vào mắt mình, anh quay lại tờ fax , đọc xuôi rồi đọc ngược.
Illuminati, anh thì thầm.
Langdon sững sờ ngồi sụp xuống ghế. Anh lặng đi một lúc, hoàn toàn ngây dại. Một lúc sau, anh nhận ra ánh đèn đỏ vẫn đang nhấp nháy trên máy fax . Người gửi cho anh bản fax này vẫn đang giữ máy... chờ nói chuyện với anh. Langdon nhìn ánh dèn đỏ nhấp nháy một hồi lâu.
Rồi anh run rẩy nhấc điện thoại.

Chú thích:
(1) Tulsa: Thành phố lớn thứ hai ở bang Oklahoma, Mỹ.
(2) Ekuaba: tượng một vị thần làm bằng gỗ - biểu tượng cho sự phồn thịnh ở Ghana và các khu vực phụ cận.
(3) Aegean: vùng biển nằm gần Địa Trung Hải, giữa phía Nam bán đảo Balkan và Anatolian (giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ)
 
- Liệu tôi đã được anh chú ý đến chưa? - Giọng nói của người đàn ông cất lên khi anh trả lời đường dây.
- Vâng, ông đã làm được cái việc chết tiệt ấy rồi đấy. Ông muốn giải thích gì về bản thân?
- Ban nãy tôi đã định trình bày với ông. - Giọng nói có vẻ cứng nhắc. - Tôi là một nhà vật lý, đang điều hành một cơ sở nghiên cứu. Ở đây vừa xảy ra một vụ án mạng. Ông dã nhìn thấy xác chết rồi đấy.
- Làm thế nào ông tìm ra tôi? - Langdon hầu như không thể tập trung được vì tâm trí anh vẫn bị ám ảnh bởi hình ảnh trên tờ fax .
- Tôi đã nói với ông rồi. Trên mạng toàn cầu. Trên trang web về cuốn sách của ông: Nghệ thuật của Illuminati .
Langdon cố gắng tập trung suy nghĩ. Cuốn sách của anh ít người trong giới học thuật biết đến, nhưng nó vẫn được tung lên mạng. Tuy nhiên, những gì người đàn ông này nói có vẻ không hợp lý.
- Trang web đó không có thông tin liên lạc. - Langdon nói - Tôi chắc như vậy.
- Người của tôi ở phòng thí nghiệm rất thạo việc moi thông tin của người sử dụng từ trên mạng.
Langdon vẫn còn hoài nghi:
- Nghe cứ như phòng thí nghiệm của ông biết rất nhiều về Internet.
- Đúng thế, - người đàn ông đáp trả. - Chúng tôi tạo ra nó mà.
Giọng nói của người này cho thấy ông ta không đùa.
- Tôi cần gặp ông? - người gọi điện khăng khăng - Vấn đề này không thể đề cập trên điện thoại được. Phòng thí nghiệm của chúng tôi chỉ cách Boston một giờ bay.
Langdon đứng im dưới ánh sáng lờ mờ hắt ra từ bàn làm việc, chăm chú nhìn bản fax trong tay. Hình ảnh quá ấn tượng, có lẽ phải mất cả thế kỷ để tìm kiếm. Một thập kỷ nghiên cứu của anh chỉ để khẳng định một dấu hiệu.
- Rất khẩn cấp đấy. - Giọng nói ở đầu dây bên kia lộ rõ vẻ căng thẳng.
Mắt Langdon dán chặt vào hình dấu khắc. Illuminati , anh đọc đi đọc lại. Các công trình nghiên cứu của anh luôn dựa vào các biểu tượng đào từ dưới đất lên - những tài liệu cổ xưa với những câu chuyện truyền miệng - nhưng hình ảnh trước mắt anh là của thực tại. Của thời hiện tại. Anh thấy mình giống như một nhà cổ sinh vật đang đối mặt với một con khủng long sống.
- Tôi sẽ cử một máy bay riêng đến chỗ ông, - giọng nói cất lên. - Nó sẽ có mặt ở Boston trong vòng 20 phút nữa.
Langdon cảm thấy miệng đắng ngắt. Một giờ đồng hồ bay...
- Xin hãy tha lỗi cho sự đường đột của tôi, - giọng nói tiếp tục, - nhưng tôi cần ông ở đây.
Langdon nhìn lại bản fax - một bí ẩn cổ đại trong bức ảnh đen trắng. Y nghĩa sâu xa của nó thì thật là ghê rợn. Anh lại nhìn lơ đãng qua khung cửa sổ. Những tia nắng bình minh đầu tiên đang chiếu xuống hàng cây bulô ngoài vườn, nhưng sáng nay quang cảnh trông khác hẳn. Sự đan xen kỳ lạ của nỗi sợ hãi và cảm giác phấn khích tràn ngập trong anh. Langdon biết anh không còn sự lựa chọn nào khác.
- Ông đã thắng. - Anh nói - Cho tôi biết chỗ đậu máy bay.
Cách đó hàng chục ngàn kilômét, hai người đàn ông đang gặp nhau trong một căn phòng tối tăm bằng đá xây từ thời Trung cổ.
Benvenuto(1) , người có quyền lực nói. Ông ta ngồi trong bóng tối nên không nhìn rõ mặt.
- Ngươi có làm được việc không?
Si(2) , bóng đen đáp lại.
- Perfettamente(3) - Lời nói của hắn chắc như đinh đóng cột.
- Và không thể biết được ai là người phải chịu trách nhiệm?
- Không.
- Tuyệt vời. Ngươi đã lấy được thứ ta yêu cầu chưa?
Đôi mắt của kẻ giết người sáng quắc lên. Hắn đưa ra một thiết bị điện tử khá nặng và đặt lên bàn.
Người đàn ông trong bóng tối có vẻ hài lòng:
- Ngươi được việc lắm.
- Được phụng sự hội là niềm vinh dự đối với tôi. - Kẻ giết người đáp.
- Giai đoạn hai sẽ bắt đầu sớm thôi. Hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay chúng ta sẽ thay đổi cả thế giới.

Chú thích:
(1) Benvenuto (tiếng Ý): Chào mừng, Xxin chào.
(2) Si (tiếng Ý): Có.
(3) Perfettamente (tiếng Ý): Tuyệt vời.
Chiếc xe SABB 9005 của Robert Langdon lao vun vút trong đường hầm Callahan và nhô lên ở bờ đông cảng Boston, gần lối vào sân bay Logan. Nhìn kỹ lại hướng đi, Langdon thấy đường Aviation và anh rẽ trái đi qua toà nhà của hãng hàng không Phương Đông. Cách lối vào gần 300m, một gara chứa máy bay lù lù hiện ra trong bóng tối, trên thân máy bay hiện con số "4" to tướng. Anh cho xe vào gara và bước ra ngoài.
Một người đàn ông có khuôn mặt tròn mặc bộ đồ bay màu xanh nước biển xuất hiện từ phía sau toà nhà.
- Ông Robert Langdon? - Anh ta gọi bằng giọng thân thiện. Langdon không thể xác định được anh ta nói bằng thứ thổ ngữ nào.
- Tôi đây. - Langdon vừa nói vừa khoá xe.
- Cực kỳ đúng giờ. - Người đàn ông nói - Chúng tôi cũng vừa hạ cánh. Xin mời đi theo tôi!
Khi họ đi vòng ra sau toà nhà, Langdon bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Anh không quen với những cuộc điện thoại bí ẩn và gặp gỡ với những người xa lạ. Không biết phải làm thế nào nên anh chỉ ăn mặc như thường ngày lên lớp - đôi giày vải bố, áo cổ lọ và thêm chiếc áo vét vải tuýt hiệu Harris. Vừa bước đi, anh vừa nghĩ về tờ fax để trong túi áo, vẫn không thể tin nổi hình ảnh đó.
Viên phi công đường như cảm nhận được nỗi lo lắng của Langdon.
- Ông không sợ bay chứ?
- Không hề, - Langdon đáp lại. Xác chết bị đóng dấu nung mới là vấn đề chính. Liệu mình có thể giải quyết được vụ việc này hay không?
Người đàn ông dẫn anh đi dọc theo nhà ga chứa máy bay. Họ đi vòng qua một góc rồi rẽ vào dường băng.
Langdon đứng chết lặng trên đường, há hốc mồm nhìn chiếc phi cơ đang đỗ trên sân băng rải nhựa.
- Chúng ta sẽ di bằng cái này sao?
Người kia cười cười:
- Ông không thích à?
Langdon nhìn chằm chằm một hồi.
- Thích ư? Cái thứ quỷ quái này là gì vậy?
***
Chiếc phi cơ trước mật họ thật đồ sộ. Nó gần giống chiếc tàu vũ trụ con thoi, trừ phần đầu đã được gọt đi trông khá bằng phẳng. Đậu lên đường băng, nó giống như một cái nêm khống lồ. Ấn tượng đầu tiên của Langdon là anh thấy mình như đang trong mơ. Trông nó giống như chiếc ô tô Buick trên không. - Trên thực tế, máy bay gần như không cánh - chúng chỉ như hai chiếc vây ngắn gắn vào thân máy. Bộ phận dẫn hướng nhô ra ở phần đuôi. Phần còn lại là thân máy bay - dài khoảng 61 mét không có cửa sổ, không có gì khác, chỉ đơn thuần là thân máy.
- Nếu nạp đầy nhiên liệu, trọng lượng máy bay là 250 tấn, viên phi công nói với giọng huênh hoang tựa như ông bố đang khoe đứa con sơ sinh. - Chạy bằng nguyên liệu hydro lỏng. Vỏ bằng hợp kim titan và sợi cac-bua si-li-côn. Tỷ lệ áp lực / trọng lượng là 20:1; động cơ phản lực thường chỉ chạy ở mức 7:1. Ngài giám đốc hẳn đang rất cần gặp ông. Thường thì ông ấy không cử chiếc máy bay này đi.
- Thứ này bay được à ? - Langdon hỏi.
Viên phi công mỉm cười:
- Ồ, vâng. - Anh ta dẫn Langdon vượt qua đường băng tiến đến chiếc máy bay. - Ông có vẻ hơi ngạc nhiên, tôi biết, nhưng ông nên làm quen với nó. Trong 5 năm tối, ông sẽ toàn thấy những chiếc máy bay như thế - máy bay HSCT - phương tiện vận chuyển dân dụng tốc độ cao. Phòng thí nghiệm của chúng tôi là một trong những nơi đầu tiên sở hữu máy bay kiểu này.
Phòng thí nghiệm chết tiệt , Langdon thầm nghĩ
- Chiếc này là mô hình của Boeing X-33, - viên phi công tiếp tục, - nhưng còn hàng chục chiếc khác - máy bay hàng không vũ trụ quốc gia, người Nga có Scramjet , người Anh có HOTOL . Đây là máy bay của tương lai. Ông có thể tạm biệt những chiếc máy bay phản lực cổ điển được rồi.
Langdon nhìn chiếc phi cơ với vẻ thận trọng.
- Tôi vẫn thích loại máy bay phản lực truyền thống hơn.
Viên phi công chỉ tay về phía cầu thang:
- Đường này, thưa ông Langdon. Cẩn thận đấy!
Vài phút sau Langdon đã ngồi trong cabin máy bay vắng lặng. Viên phi công cài khoá an toàn cho Langdon ở hàng ghế trước rồi tiến về phía đầu máy bay.
Thật kinh ngạc, ở bên trong cabin, mọi thứ trông giống như một khoang máy bay thương mại cỡ lớn. Điều duy nhất làm Langdon không thoải mái là anh không thấy có cửa sổ. Cảm giác sợ bị giam h.ãm vẫn ám ảnh anh đến lận bây giờ - hậu quả của một tai nạn thời thơ ấu mà anh chưa vượt qua được.
Ác cảm của Langdon đối với không gian kín có giảm đi đôi chút nhưng nó vẫn hiện hữu theo nhiều cách tinh tế và khiến anh thấy mệt mỏi. Anh luôn tránh những môn thể thao trong nhà như quần vợt sân tường, hay bóng quần, và anh cũng không luyến tiếc khi phải trả tiền để được sống trong căn nhà kiểu Victoria trần cao, thoáng khí dù trong trường luôn luôn có nhà ở.
Langdon cho rằng thế giới nghệ thuật hấp dẫn anh ngay từ khi anh còn bé bởi anh yêu thích những khoảng không rộng mở trong các viện bảo tàng.
Tiếng động cơ khởi động ngay dưới chân anh. Chiếc máy bay lắc mạnh. Langdon thở khó nhọc và chờ đợi. Anh cảm thấy chiếc phi cơ bắt đầu di chuyển. Tiếng sáo tiêu dạo khúc nhạc đồng quê đang khe khẽ vang lên ngay trên đầu.
Điện thoại trên tường kêu bíp bíp . Langdon nhấc ống nghe.
- Xin chào!
- Ông cảm thấy thoải mái chứ, ông Langdon?
- Không hề.
- Thư giãn đi. Chúng ta sẽ đến đó trong vòng một tiếng nữa.
- Thế chính xác nơi đó ở đâu? - Langdon hỏi vì nhận ra anh không hề biết một chút gì về nơi anh đang đến.
- Geneva. - Viên phi công trả lời và tăng tốc động cơ. - Phòng thí nghiệm nằm ở Geneva.
- Geneva, - Langdon nhắc lại, cảm thấy thoải mái hơn chút ít. - Phía trên bang New York. thực sự tôi cũng có họ hàng ở gần hồ Seneca. Tôi không biết là ở Geneva có phòng thí nghiệm vật lí đấy.
Viên phi công phì cười:
- Không phải Geneva ở New York đâu. Geneva ở Thuỵ Sĩ kia.
Phải mất một lúc Langdon mới hiểu được từ đó:
- Thuỵ Sĩ? - Anh cảm thấy mạch máu đập ùng ùng: - Tôi tưởng các anh bảo phòng thí nghiệm chỉ cách có một giờ bay!
- Đúng đấy, ông Langdon. - Viên phi công cười thầm. - Máy bay này bay với tốc độ siêu thanh Mach 15(1) .

Chú thích:
(1) Mach 15: Bay nhanh gấp 15 lần so với tốc độ âm thanh.
Trên một đường phố ở châu Âu, tên giết người đang luồn lách giữa dòng người đông đúc. Hắn là kẻ đầy uy lực. Da ngăm ngăm và mạnh mẽ. Vẻ nhanh nhẹn giảo hoạt. Các cơ trong người hắn vẫn căng lên sau cuộc gặp mặt ly kỳ đó.
"Mọi việc đều tối đẹp" hắn tự nhủ. Mặc dù kẻ thuê hắn không bao giờ để lộ mặt nhưng tên sát nhân vẫn cảm thấy hãnh diện khi được gặp người đó. Có phải ông chủ liên lạc với hắn lần đầu cách đây chỉ mới 15 ngày? Tên giết người vẫn còn nhớ như in lừng lời trong cuộc điện thoại đó...
- Tên ta là Janus. - Người gọi điện nói - Chúng ta là những huynh đệ cùng chung một kẻ thù. Ta nghe nói ngươi rất được việc.
- Cái đó còn phụ thuộc vào việc ông đại diện cho ai, - kẻ giết người đáp.
Người gọi điện nói cho hắn biết.
- Ông có đùa không đấy?
- Ta biết ngươi đã nghe nói đến tên của chúng ta, - người gọi điện đáp.
- Đương nhiên. Hội kín này chỉ còn là truyền thuyết.
- Và ngươi vẫn còn nghi ngờ.
- Ai mà chẳng biết hội kín đó đã tiêu tan thành cát bụi.
- Đó chỉ là một âm mưu để đánh lừa kẻ địch thôi. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là kẻ mà không ai ngờ đến.
Tên sát nhân vẫn còn ngờ vực:
- Hội kín đó vẫn còn tồn tại?
- Bí mật hơn bao giờ hết. Bọn ta có chân rết khắp nơi, mọi thứ như ngươi thấy... thậm chí cả ở trong pháo đài thiêng liêng nhất của kẻ thù muôn đời của hội.
- Không thể nào. Nơi đó là bất khả xâm phạm.
- Tầm với của chúng ta rất xa.
- Không ai có thể với xa như vậy.
- Ngươi sẽ tin điều này ngay thôi. Một cuộc biểu trưng quyền lực vô cùng hoành tráng của hội chúng ta sắp bắt đầu. Ngươi sẽ thấy!
- Ông đã làm gì?
Kẻ gọi điện nói cho hắn biết. Tên giết người mở to mắt:
- Điệp vụ đó là bất khả thi.
Ngày hôm sau, báo chí trên toàn thế giới đều đưa chung một cái tin. Tên giết người hoàn toàn tâm phục khẩu phục.
Bây giờ, sau 15 ngày, niềm tin của tên sát thủ đã được củng cố, bóng đêm ngờ vực đã tan biến hẳn. Hội kín vẫn còn tồn tại , hắn nghĩ. Đêm nay họ sẽ sống dậy và thực thi quyền lực.
Rảo bước trên phố, đôi mắt hắn ánh lên đầy hiểm ác. Một trong những hội kín đáng sợ nhất trên đời này đã vời đến hắn.
Họ đã lựa chọn một cách khôn ngoan, hắn nghĩ. Danh tiếng về tài giết người và sự kín mồm kín miệng của hắn đã vang xa.
Cho đến tận bây giờ, hắn vẫn luôn nhiệt tình phục vụ họ. Hắn đã giết người và chuyển cho Janus thứ ông ta yêu cầu. Bây giờ Janus muốn đặt vật đó ở đâu là tuỳ ông ta.
Nơi đặt vật đó...
Tên sát nhân băn khoăn không hiểu làm thế nào Janus có thể giải quyết một việc khó khăn đến vậy. Người này rõ ràng có nội gián. Quyền lực của hội kín dường như vô tận.
Janus , kẻ giết người nghĩ. Rõ ràng đây là một bí danh . Hắn băn khoăn, liệu nó có ngụ ý chỉ vị thần hai mặt của người La Mã... hay để chỉ mặt trăng của thần Satuya không? Không khác nhau là mấy. Janus đang sở hữu quyền lực vô biên. Ông ta đã minh chứng điều này một cách hết sức thuyết phục.
Chân tiếp tục sải bước, tên sát thủ hình dung tổ tiên đang mỉm cười với hắn. Đêm nay, hắn sẽ chiến đấu cho cuộc chiến của họ, cho kẻ thù chung mà họ đã chiến đấu từ bao lâu nay, từ thế kỷ XI… khi những đội quân thập tự chinh lần đầu tiên hành quân đến vùng đất quê hương hắn, bắn giết và cưỡng bức dân lành, viện cớ rằng họ không thanh sạch, rồi làm ô uế các đền thờ và các vị thần của họ. Tổ tiên của hắn từng tạo ra một đội quân nhỏ nhưng tinh nhuệ để tự bảo vệ mình. Đội quân này trở nên nổi tiếng khắp nơi với vai trò người bảo vệ - những tay đao phủ thiện nghệ lang thang khắp các vùng và tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào họ bắt gặp.
Những người này nổi tiếng không chỉ bởi kiểu giết người man rợ mà còn bởi những trận say ma tuý mà họ tự thưởng cho mình sau mỗi lần giết chóc. Thứ thuốc mà họ thường dùng là một loại chất gây nghiện có tên gọi hashish . Từ khi trở nên nổi tiếng khắp nơi, những sát thủ chuyên nghiệp này được gọi bằng một cái tên chung - Hassasin - nghĩa là "những tông đồ của hashish ". - Cái tên Hassasin đồng nghĩa với sự chết chóc trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ngày nay, từ này vẫn được sứ dụng, kể cả trong tiếng Anh hiện dại… nhưng giống như những thủ thuật giết người, từ này cũng phát triển thêm.
Bây giờ người ta dùng thuật ngữ assasin - Sát thủ.
64 phút đã trôi qua kể từ khi Robert Langdon, với vẻ hoài nghi và say máy bay, bước từ cầu thang máy bay xuống dải đường băng ngập tràn ánh nắng mặt trời. Làn gió khô lạnh thổi qua, khiến chiếc áo jacket vải tuyt của anh bay lật phật. Khoảng không gian mở thật tuyệt vời. Anh dưa mắt quan sát khắp thung lũng xanh tươi với những đỉnh núi phủ đầy tuyết bao quanh.
Ta đang mơ, anh tự nhủ. Từ bây giờ ta sẽ phải tỉnh táo .
- Xin chào mừng ông đến với Thuỵ Sĩ. - Viên phi công nói, cố át tiếng gầm rú của động cơ HEDM từ chiếc X-33 đang nhả khói ngay sau lưng họ.
Langdon kiểm tra đồng hồ. 7 giờ 07 phút sáng.
- Ông vừa bay qua sáu múi giờ, - viên phi công nói - Bây giờ ở đây là hơn 1 giờ chiều rồi.
Langdon đặt lại đồng hồ.
- Ông thấy thế nào?
Anh lấy tay xoa bụng"
- Như thể tôi vừa ăn món bọt biển.
Viên phi công gật đầu"
- Say độ cao thôi. Chúng ta bay cách mặt đất hơn 18.000 mét. Ở trên đó, trọng lượng của ông nhẹ đi 30%. May mắn thay chúng ta mới chỉ thực hiện bước nhảy nhỏ. Nếu đi Tokyo, tôi phải nhảy xa nhiều hơn nữa - những 160km. Bấy giờ thì lục phủ ngũ tạng của ông sẽ lộn tùng phèo hết.
Langdon uể oải gật đầu, anh tự thấy mình vẫn còn may mắn. Như đã nói, chuyến bay rất suôn sẻ. Ngoại trừ cú xóc lúc tăng tốc cất cánh chuyền động của chiếc máy bay này giống hệt các máy bay bình thường khác - thỉnh thoảng rơi vào vùng xoáy, vài lần thay đổi áp suất do thay đổi độ cao, nhưng không hề có cảm giác bị va mạnh trong không gian khi máy bay chuyển động với vận tốc 17.600km/h.
Một số kỹ thuật viên đang chạy hối hả trên đường băng và tiến lại gần chiếc X-33. Viên phi công hộ tống Langdon đến chiếc Peugeot mui kín màu đen đang đỗ trong bãi đỗ xe bên cạnh tháp điều khiển. Một lát sau, họ đã lao nhanh trên con đường trải rộng tới chân thung lũng. Một khu nhà thấp thoáng nhô lên ở phía xa. Bên ngoài, những đồng cỏ lúc ẩn lúc hiện, rẽ sang hai bên.
Langdon sửng sốt khi thấy viên phi công chạy xe với tốc độ 170km/h - trên 100 dặm một giờ. Gã này làm sao thế nhỉ? Anh băn khoăn.
- Năm cây số nữa sẽ đến phòng thí nghiệm, - viên phi công nói - Hai phút nữa chúng ta sẽ có mặt ở đó.
Langdon đưa mắt tìm đai an toàn nhưng vô vọng. Sao không là 3 phút để mình còn có cơ sống sót nhỉ?
Chiếc xe tăng tốc.
- Ông có thích nhạc Reba không? - Viên phi công vừa hỏi vừa nhét cuốn băng cát-sét vào hộc.
Một giọng nữ cất lên. "Đó chỉ là nỗi sợ cô đơn…"
Không có nỗi sợ nào cả , Langdon lơ đễnh nghĩ. Một số nữ đồng nghiệp thường đùa anh rằng bộ sưu tập các hiện vật đáng trưng bày ở bảo tàng của anh chẳng qua là để lấp kín ngôi nhà trống trải, ngôi nhà mà họ khăng khăng cho rằng nó sẽ tuyệt vời hơn nếu có bàn tay chăm sóc của phụ nữ. Langdon thì thấy chuyện đó thật nực cười. Anh nhắc họ rằng anh có ba tình yêu lớn trong đời biểu tượng học, bóng nước Polo và thói quen độc thân - tình yêu cuối cùng này cho phép anh được tự do đi khắp nơi trên thế giới, ngủ nướng thêm bất cứ lúc nào anh muốn và hưởng những đêm yên tĩnh tại nhà với một chai rượu mạnh hay một cuốn sách hay.
- Khuôn viên chỗ chúng tôi không khác gì một thành phố thu nhỏ - viên phi công lên tiếng, kéo Langdon ra khỏi trạng thái mơ màng. - Không chỉ có phòng thí nghiệm, chúng tôi còn có cả siêu thị bệnh viện và rạp chiếu bóng.
Langdon lơ đễnh gật đầu và nhìn những loà nhà đang vụt qua trước mặt.
- Trên thực tế. - viên phi công nói tiếp. - chúng tôi sở hữu cỗ máy lớn nhất thế giới.
- Thật sao? - Langdon đưa mắt nhìn xung quanh.
- Ngồi trong xe thế này thì không trông thấy được đâu! - Anh ta mỉm cười. - Nó nằm ở rất sâu, cách mặt đất những sáu tầng nhà kia.
Langdon không còn thời gian để hỏi. Bất ngờ, viên phi công đạp phanh, chiếc xe trượt ngay vào điểm đỗ bên ngoài một chòi gác.
Langdon đọc tấm biển trước mặt. SECURITE. ARRESTEZ(1) .
Nhận ra nơi mình đang đặt chân tới, anh chợt thấy e ngại.
- Chúa ơi! Tôi không mang theo hộ chiếu!
- Không cần hộ chiếu, - người lái xe trấn an. - Chúng tôi đã có thoả thuận với chính quyền Thuỵ Sĩ.
Langdon im lặng quan sát người lái xe khi anh ta trình thẻ căn cước cho lính gác. Người lính gác dùng một thiết bị nhận dạng điện tử quét qua thẻ. Chiếc máy lập lòe ánh sáng màu xanh.
- Tên hành khách?
- Robert Langdon, - người lái xe đáp.
- Khách của ai?
- Giám đốc.
Người lính gác phướn mày. Anh ta quay lại và kiểm tra dữ liệu từ máy tính, đối chiếu thông tin trên màn hình, rồi quay ra cửa sổ và nói:
- Chúc vui vẻ, thưa ông Langdon.
Chiếc xe lại lao di chừng gần 200 mét quanh lối vòng lớn dẫn đến cửa chính của trung tâm. Hiện ngay trước mắt họ là một khu nhà bằng thuỷ tinh và thép hình chữ nhật cực kỳ hiện đại. Langdon kinh ngạc quan sát toà nhà trong suốt này. Anh luôn yêu thích các kiểu kiến trúc.
- Nhà thờ xây bằng kính. - Người hộ tống lên tiếng.
- Một nhà thờ?
- Ôi không. Nhà thờ là thứ chúng tôi không có. Vật lí là tín ngưỡng duy nhất ở đây. Ông có thể gọi tên Chúa mỗi khi cảm thấy tuyệt vọng, nếu ông muốn, - anh ta cười. - Nhưng đừng phỉ báng hạt quark hay meson(2) .
Langdon lặng người đi khi người lái xe lượn chiếc ô tô vòng quanh và dừng lại phía trước toà nhà kính. Hạt quark và meson? Không biên giới? Phản lực Mach 15(3) ? Câu trả lời nằm ở dòng chữ khắc trên tấm biển đá granite phía trước toà nhà viết:
CERN(4)
Collseil Européen pour la Recherchc Nuclcaire
"Nghiên cứu hạt nhân?" Không biết mình dịch có đúng không, Langdon cất tiếng hỏi.
Người lái xe không trả lời. Anh ta đang cúi người về phía trước điều chỉnh chiếc máy cát-sét trong xe tô.
- Đã đến nơi. Giám đốc sẽ gặp ông ngay ở cửa.
Langdon trông thấy một người đàn ông đang ngồi trên xe lăn, ngay lối vào toà nhà. Ông ta trạc 60 tuổi, khuôn mặt hốc hác, đầu hói, mặc chiếc áo phòng thí nghiệm trắng toát, đôi giày đặt chắc chắn trên bệ kê chân của chiếc xe lăn. Từ rất xa đã nhận thấy đôi mắt vô hồn của con người này - hai mắt như hai viên đá xám.
- Ông ta đấy phải không? - Langdon hỏi.
Người lái xe ngước lên.
- Ồ, đúng đấy. - Anh ta quay lại nhìn Langdon và nở nụ cười vẻ hăm doạ. - Nhắc đến Tào Tháo là Tào Tháo có mặt.
Không biết chắc điều gì sắp xảy ra, nhưng Langdon vẫn bước đến bên chiếc xe lăn..
Người đàn ông ngồi trên xe tiến về phía Langdon và chìa bàn tay ướt nhoẹt.
- Ông Langdon phải không? Chúng ta đã nói chuyện với nhau qua điện thoại. Tên tôi là Maximilian Kohler!

Chú thích:
(1) Securite. Arrestez (tiếng Pháp): An ninh. Dừng lại.
(2) Quark hay meson là tên của loại hạt cơ bản (thuật ngữ dùng trong vật lý học).
(3) Số Mach xuất phát từ tên gọi của nhà vật lý học người Australia, Emst Mach. Mach 1 là tốc độ âm thanh, xấp xỉ bằng 1.216 km/h ở mực nước biển.
(4) CERN: Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu.
 
Khi không có mặt Maximilian Kohler - Tổng Giám đốc CERN, người ta còn gọi ông là Konig - Ông vua. Danh hiệu này khiến mọi người cảm thấy sợ hãi hơn là tôn kính đối với một người cai trị đầy quyền lực ngồi trên ngai vàng - chiếc xe lăn. Mặc dù ít người được tiếp xúc riêng với ông ta, nhưng câu chuyện khủng khiếp vì sao ông ta tàn tật thì ai ở CERN cũng biết, và một số ít người cằn nhằn về tính khí gay gắt của ông… chứ không phải niềm đam mê khoa học thuần tuý.
Dù mới tiếp xúc với Kohler, Langdon nhận ra ngay, giám đốc Kohler luôn tự mình giữ khoảng cách. Anh phải đi rất nhanh mới theo kịp chiếc xe lăn chạy bằng điện của Kohler khi họ im lặng tiến đến cửa chính. Chiếc xe lăn này không giống bất cứ chiếc nào mà Langdon từng nhìn thấy - nó được trang bị nhiều thiết bị điện tử gồm hệ thống điện thoại đa đường dây, hệ thống nhắn tin, màn hình máy tính, thậm chí cả máy quay camera nhỏ có thể tháo rời. Nó thực sự là trung tâm chỉ huy di động của vua Kohler.
Langdon bước qua cánh cửa dẫn vào sảnh chính rộng lớn của CERN.
Nhà thờ kính , Langdon đăm chiêu, ngước mắt nhìn lên trời.
Phía trên, mái nhà kính màu xanh nhạt lấp lánh dưới ánh mặt trời ánh lên những tia nắng, tạo ra các tia có dạng hình học trong không gian, mang lại cảm giác về một gian đại sảnh kỳ vĩ. Những vệt tối góc cạnh buông thõng tựa như những đường vân cắt ngang bức tường ốp gạch trắng, rồi phủ xuống nền nhà lát đá cẩm thạch. Không khí sạch sẽ, thoáng mùi thuốc khử trùng. Một nhóm các nhà khoa học đang vội vã đi tới đi lui, bước chân họ dội vào khoảng không.
- Lối này, ông Langdon! - Tiếng ông ta vang lên như một chiếc máy, giọng nói cứng nhắc, khô khan y như vẻ ngoài nghiêm nghị của ông ta. Kohler húng hắng ho và lau miệng bằng chiếc khăn mùi xoa trắng, trong khi đôi mắt xám cô hồn nhìn chằm chặp vào Langdon.
- Nào, hãy nhanh chân lên. - Chiếc xe lăn dường như muốn lao vút đi trên sàn nhà ốp đá.
Langdon cứ bước theo ông ta, đi qua những dãy hành lang tưởng như vô tận. Mỗi dãy hành lang đều rất sống dộng. Các nhà khoa học trông thấy Kohler đều tỏ vẻ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn Langdon như muốn hỏi anh ta phải là người thế nào thì mới được ưu ái đến vậy.
- Tôi rất xấu hổ khi phải thú nhận rằng, - Langdon đánh bạo lên tiếng, cố gắng bắt chuyện. - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến CERN cả.
- Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, - Kohler đáp, câu trả lời gấp gáp của ông ta nghe có vẻ cay nghiệt - Đa số người Mỹ không xem châu Âu là cái nôi của những nghiên cứu khoa học. Họ chỉ coi chứng tôi là một khu vực buôn bán kỳ dị - một quan niệm kỳ quặc nếu ông nhìn lại quốc tịch của những người như Anhxtanh, Galieo hay Newton.
Langdon không biết phải trả lời ra sao. Anh lôi tờ fax từ trong túi áo ra.
- Người đàn ông trong tờ fax này, ông có thể…
Kohler vẫy tay ngắt lời anh:
- Thôi nào. Không phải ở đây. Tôi sẽ đưa ông đến chỗ ông ta ngay bây giờ. - Ông ta chìa tay ra - Có lẽ tôi nên lấy lại cái đó.
Langdon đưa cho ông ta tờ fax và im lặng bước theo.
Kohler đột ngột rẽ trái rồi đi vào một sảnh rộng treo đầy bằng khen và huy chương. Một tấm biển lớn chắn ngay lối vào.
Langdon chậm rãi đọc hàng chữ được khắc bằng đồng trên đó.
GIẢI THƯỞNG ARS ELECTRONICA
Vì những sáng tạo văn hoá trong thời kỳ kỹ thuật số
Trao cho Tim Berners Lee và CERN vì phát minh ra
MẠNG THÔNG TIN TOÀN CẦU
Ồ mình thật tệ , Langdon nghĩ thầm khi đọc những dòng chữ này. Ông ta không đùa tí nào . Anh cứ tưởng rằng người Mỹ phát minh ra Web. Và vốn kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở mấy trang web tải cuốn sách của anh hay thỉnh thoảng anh lên mạng tìm tài liệu về Bảo tàng Louvre hay El Prado bằng cái máy Macintosh cổ lỗ sĩ của mình.
- Mạng toàn cầu, - Kohler vừa nói vừa ho và lau miệng - Ban đầu, đây là một mạng kết nối các máy tính nội bộ . Nó cho phép các nhà khoa học từ nhiều bộ phận khác nhau chia sẻ những phát kiến của họ hàng ngày. Đương nhiên, cả thế giới đều cho rằng Web là công nghệ của Hoa Kỳ.
Langdon vẫn bước dọc hành lang.
- Sao không công bố chuyện này một cách công khai?
Kohler nhún vai, rõ rành không bận tâm.
- Một sự hiểu nhầm vặt vãnh về một công nghệ chẳng có gì to tát. CERN vĩ đại hơn rất nhiều so với việc nối mạng máy tính toàn cầu. Các nhà khoa học của tôi ngày nào cũng tạo ra những phép màu.
Langdon nhìn Kohler vẻ dò hỏi. Những phép màu ? - Từ phép màu chắc chắn không nằm trong vốn tử vựng của Harvard. Phép màu là để dành cho khoa thần học.
- Ông có vẻ hoài nghi? - Kohler nói - Tôi nghĩ ông là nhà nghiên cứu biểu tượng học tôn giáo. Chẳng lẽ ông không tin vào phép màu sao?
- Tôi không dám chắc về những phép màu. - Langdon nói - Nhất là những thứ diễn ra trong phòng thí nghiệm.
- Có lẽ dùng từ phép màu ở đây chưa đúng lắm. Tôi chỉ muốn nói bằng ngôn ngữ của đất nước các ông thôi.
- Ngôn ngữ của tôi? - Langdon đột nhiên cảm thấy không thoải mái.
- Tôi không muốn làm ông thất vọng, nhưng tôi nghiên cứu biểu tượng tôn giáo - Tôi là một học giả chứ không phải một linh mục.
Kohler đột ngột giảm tốc độ và quay lại, ánh mắt ông ta dịu đi đôi chút:
- Đương nhiên. Tôi cũng khá đơn giản. Người ta không cần chờ đến lúc bị ung thư rồi mới đem ra phân tích các triệu chứng.
Langdon chưa bao giờ thấy ai lập luận kiểu như vậy.
Khi họ đi dọc hành lang, Kohler gật đầu đồng tình:
- Chắc là tôi và ông sẽ hiểu nhau rất nhanh thôi, ông Langdon ạ.
Dù sao thì Langdon cũng nghi ngờ điều đó.
***
Khi hai người rảo bước nhanh hơn, Langdon bắt đầu thấy như có tiếng gõ trên đầu. Âm thanh càng ngày càng vang dội theo mỗi bước đi, vọng cả vào tường. Dường như nó phát ra từ phía cuối hành lang trước mặt họ.
- Cái gì vậy? - Cuối cùng Langdon cũng lớn tiếng hỏi. Anh cảm thấy như họ sắp đi vào chỗ có núi lửa đang hoạt động.
- Ông rơi tự do, - Kohler đáp, giọng nói ồm ồm của ông ta phá tan bầu không khí tẻ nhạt và ông không đưa ra thêm lời giải thích nào.
Langdon ngừng hỏi. Anh quá mệt mỏi, còn Maximilian Kohler thì dường như không muốn thể hiện lòng hiếu khách.
Langdon nhắc mình nhớ lại tại sao anh có mặt ở đây. Illuminati .
Anh chắc rằng ở đâu đó trong cái phòng thí nghiệm khổng lồ này có một xác chết… xác chết được đóng dấu biểu tượng mà anh phải bay gần 5.000 km tới để xem.
Khi họ đến cuối hành lang, tiếng động trở nên lo đến nỗi điếc cả tai, làm đế giày Langdon rung lên bần bật. Họ rẽ vào một lối ngoặt và nhìn thấy phòng trưng bày bên phải. Bốn cánh cửa dày gắn trên một bức tường cong, giống cửa sổ tàu ngầm. Langdon dừng lại và nhìn qua một trong những cái lỗ.
Giáo sư Langdon đã từng trông thấy nhiều thứ kỳ quặc trong đời nhưng đây là thứ kỳ lạ nhất. Anh chớp mắt mấy lần, băn khoăn không hiểu mình có bị ảo giác hay không. Anh nhìn chằm chằm vào căn phòng hình tròn khổng lồ. Bên trong là những người đang trôi bồng bềnh như không trọng lượng. Ba người tất cả. Một trong số họ vẫy chào và làm động tác nhào lộn trên không.
Chúa ơi, anh nghĩ. Mình đang ở vùng đất kỳ lạ của Oz .
Sàn nhà là một mạng lưới hỗn độn, giống như lưới chuồng gà. Những gì nhìn thấy được ở phía dưới chiếc lưới là ánh sáng kim loại lờ mờ của một cánh quạt lớn.
- Ông rơi tự do, - Kohler nói và dừng lại đợi anh. Trò chơi lộn nhào trên không trong nhà để xả stress. Đây là đường hầm quay theo chiều dọc.
Langdon nhìn với vẻ kinh ngạc. Một trong số những người lộn nhào là một phụ nữ béo phì đang tiến dần về phía cứa sổ. Bà ta đang bị dòng không khí đẩy đi nhưng vẫn cười tươi và giơ cao ngón tay cái với Langdon báo hiệu mọi việc tốt đẹp. Langdon mỉm cười yếu ớt, cũng đáp trả lại bằng cứ chỉ đó và băn khoăn không biết bà ta có biết rằng đấy là biểu tượng phồn thực cổ xưa, biểu trưng cho sức mạnh t.ình d.ục của đàn ông hay không.
Langdon nhận ra rằng bà béo đó là người duy nhất mang trên người một thứ trông giống như chiếc dù nhỏ xíu. Miếng vải quấn quanh người khiến bà ta trông chẳng khác gì một món đồ chơi.
- Cái dù bé của bà ta để làm gì vậy? - Langdon hỏi Kohler. - Nó có đường kính chưa đến 1 mét.
- Để ma sát, - Kohler nói - Làm giảm khí động lực học của bà ta, như thế cánh quạt ở dưới mới nhấc bà ta lên nổi. - Ông tiếp tục di chuyển dọc theo hành lang. - Mỗi mét vuông lực cản sẽ làm giảm trọng lượng rơi của cơ thể di gần 20%.
Langdon gật đầu lơ đễnh.
Anh không thể ngờ rằng vào đêm nay, ở một đất nước cách xa nơi đây hàng ngàn cây số, thông tin này sẽ cứu sống anh.
Cùng Kohler ra khỏi cổng hậu tổ hợp chính của CERN đứng ngắm ánh mặt trời Thuỵ Sĩ ảm đạm, Langdon thấy mình như được về nhà. Cảnh vật trước mắt anh trông giống như khu nội trú Ivy League(1) .
Một con dốc phủ đầy cỏ dẫn xuống lối đi rộng phía dưới, nơi những rặng cây maple(2) điểm xuyết bốn góc sân tiếp giáp với khu nhà ở xây bằng gạch và những lối mòn. Những con người trông có vẻ uyên bác, tay ôm hàng chồng sách đang nhộn nhịp ra vào toà nhà như góp phần làm tăng không khí của một trường đại học, hai nhân vật tóc dài ăn mặc kiểu hippy ném dĩa Frisbee(3) qua lại cho nhau trong khi đang thường thức bản Giao hưởng số bốn của Mahler phát ra từ cửa sổ khu nội trú.
- Đây là khu nhà ở của chúng tôi, - Kohler giải thích khi ông ta tăng tốc xe lăn tiến xuống đường mòn về phía toà nhà. - Chúng tôi có trên 3000 nhà vật lý học ở đây. Chỉ riêng CERN đã thu nạp hơn một nữa số nhà vật lí hạt cơ bản trên thế giới - những bộ óc thông minh nhất - người Đức, người Nhật, người Ý và Hà Lan. Các nhà vật lí này đại diện cho hơn 500 trường đại học và 60 quốc gia trên thế giới.
Langdon ngạc nhiên.
- Họ làm thế nào để giao tiếp được với nhau?
- Dĩ nhiên là họ dùng tiếng Anh. Đó là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học.
Langdon luôn nghe thấy người ta nói rằng Toán học mới là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học, nhưng anh quá mệt mỏi nên không muốn tranh luận. Anh ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống dưới đường.
Đi được nửa đường, họ gặp một thanh niên chạy bộ qua. Trên áo phông của anh ta có dòng chữ: KHÔNG GUT, KHÔNG VINH QUANG!
Langdon nhìn anh ta ngạc nhiên:
- Gut là gì?
- Thuyết thống nhất chung, Kohler châm biếm - Học thuyết về vạn vật.
- Tôi hiểu, - Langdon nói nhưng chẳng chú ý gì cả.
- Ông có biết vật lí hạt cơ bản(4) không, ông Langdon?
Langdon nhún vai:
- Tôi biết vật lí học đại cương - cơ thể rơi tự do, đại loại như thế. - Những năm tháng kinh nghiệm của môn nhảy cầu đã làm anh lưu tâm đặc biệt tới sức mạnh kinh ngạc của gia tốc rơi tự do. - Nghiên cứu vật lí hạt nguyên tử, đúng thế không?
Kohler lắc đầu:
- Nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với những gì chúng tôi nghiên cứu. Mối quan tâm của chúng tôi là hạt nhân nguyên tử kia - chỉ bằng một phần trăm kích cỡ của nguyên tử. - Ông ta lại ho, vẻ rất ốm yếu - Tất cả mọi người ở CERN đều đang tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi chung mà nhân loại đặt ra từ thuở sơ khai. Chúng ta xuất hiện từ đâu? Được tạo thành từ vật chất nào?
- Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm vật lí?
- Ông có vẻ ngạc nhiên.
- Đúng thế. Những câu hỏi này dường như mang nặng chất tâm linh.
- Ông Langdon, tất cả những câu hỏi này đã từng liên quan đến lĩnh vực tâm linh. Ngay từ thuở xa xưa, tâm linh và tôn giáo đã cùng nhau lấp chỗ trống mà khoa học chưa khám phá nổi. Việc mặt trời mọc và lặn cũng được gán cho thần Helios và cỗ chiến xa lửa thần kỳ. Động đất và sóng thần là do sự nổi giận của thần Poseidon . Khoa học ngày nay chứng minh rằng những vị thần này chỉ là hình mẫu giả tưởng. Sắp tới tất cả những vị thần sẽ được minh chứng là hình mẫu giả tưởng. Khoa học ngày nay đã giải đáp gần hết mọi câu hỏi của con người. Chỉ còn vài câu hỏi nữa và chúng là những câu bí truyền. Loài người xuất hiện từ đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Ý nghĩa của cuộc sống và vũ trụ là gì?
Langdon ngạc nhiên:
- Và đây là những câu hỏi mà CERN đang cố giải quyết?
- Sửa một chút. Đây là những câu hỏi mà chúng tôi đang tìm kiếm câu trả lời.
Langdon im lặng khi có hai người đàn ông đi lướt qua sân khu nhà ở. Langdon và Kohler đang đi thì một chiếc đĩa bay qua đầu và rơi ngay trước mặt họ. Kohler bỏ qua và đi tiếp.
Một giọng nói cất lên từ trong sân "S'il vous plalt!"(5)
Langdon nhìn quanh. Một người đàn ông luống tuổi tóc bạc mặc chiếc áo thể thao có in chữ College Paris trên ông tay đang vẫy anh. Langdon nhặt chiếc đĩa và ném lại cho ông ta một cách thành thạo. Ông già đó giơ một ngón tay chụp lấy và tung lên vài lần trước khi ném qua vai cho người bạn cùng chơi.
- Cám ơn! -Ông ta gọi với theo Langdon.
- Xin chúc mừng, - Kohler nói khi thấy anh bắt trúng cái đĩa. -Ông vừa chơi ném đĩa với một người từng giành giải Nobel, Georges Charpark đấy, người phát minh ra buồng tỉ lệ đa dây (Multi-vice Propotional Chamber).
Langdon gật đầu. Một ngày may mắn .
Phải mất ba phút nữa Langdon và Kohler mới đến đích, đó là một khu nhà lớn, gọn gàng và sạch sẽ nằm giữa rừng dương. So với những khu khác, toà nhà này có vẻ sang trọng hơn. Tấm biển khắc đá phía trước đề dòng chữ NHÀ C.
Một cái tên mang đầy tính tưởng tượng, Langdon nghĩ.
Mặc cho cái tên khô khan, toà nhà C thu hút sự chú ý của Langdon bởi lối kiến trúc rất bảo thủ và vững chắc, với mặt tiền màu gạch đỏ, hàng lan can trang trí và hàng rào chạm trổ cân xứng. Khi hai người đàn ông tiến xuống con đường đá dẫn đến lối vào họ băng qua cánh cổng được tạo bởi hai cột đá cẩm thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy nhắn trên một trong hai chiếc cột.
ĐÂY LÀ CỘT IONIC(6)
Dòng chữ nghịch ngợm của các nhà vật lí? Langdon trầm ngâm, mắt dán vào cột và tự mỉm cười một mình. "Tôi thở phào khi thấy chính những nhà vật lí lỗi lạc cũng mắc lỗi.
Kohler nhìn sang:
- Ý ông là gì?
- Người viết dòng chữ này mắc một sai lầm. Đó không phải là cột Ionic . Các cột Ionic đều có chiều rộng thống nhất. Cái kia có hình tháp nhọn: Nó được gọi là Doric - một bản sao của người Hy Lạp, rất nhiều người lầm lẫn kiểu này.
Kohler không buồn mỉm cười.
- Tác giả câu này muốn đùa một chút, ông Langdon ạ. Ionic có nghĩa hàm chứa i-ôn - các hạt tích điện. Đa số các vật thể đều chứa hạt này.
Langdon nhìn lại cây cột đó và rên lên.
Khi bước ra khỏi thang máy lên tầng trên cùng của toà nhà C, Langdon cảm thấy vốn kiến thức của mình thật ít ỏi. Anh theo Kohler đến một dãy hành lang được trang hoàng rất công phu. Lối trang trí tuyệt vời theo kiểu thuộc địa truyền thống của Pháp đi văng màu mận chín, lọ hoa bằng sứ, đồ gỗ chạm trồ.
- Chúng tôi muốn cuộc sống của các nhà khoa học nơi đây phải thật thoải mái. - Kohler giải thích.
Rõ rồi , Langdon thầm nghĩ. Anh hỏi.
- Vậy người đàn ông trong tờ fax cũng sống ở đây à? Có phải là một trong những nhân viên cấp cao của các ông không?
- Gần như vậy! - Kohler nói - Sáng nay ông ta bỏ lỡ một cuộc họp với tôi và không trả lời máy nhắn tin. Tôi lên đây để tìm và phát hiện ông ta đã chết trong phòng khách.
Langdon cảm thấy một luồng khí lạnh chạy qua khi biết rằng mình sắp nhìn thấy một xác chết. Anh chưa bao giờ gặp phải tình huống này. Hồi còn là sinh viên nghệ thuật, anh đã thấy nôn nao khi nghe giáo viên kể rằng Leonardo Da Vinci có được kinh nghiệm về giải phẫu cơ thể người là do đi khai quật những xác chết và mổ xẻ các cơ trên người họ.
Kohler dẫn đường đi tới cuối góc hành lang. Chỉ có một cánh cửa.
- Nhớ thông tầng, như chính các ông gọi. - Kohler tuyên bố, rồi thấm nhẹ những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.
Langdon đưa mắt dọc tấm biển trên cánh cửa gỗ sồi trước mặt.
Trên tấm biển viết:
LEONARDO VETRA
- Leonardo Vetra, - Kohler nói - Tuần sau ông ta sẽ tròn năm 58 tuổi, ông ta là một trong những nhà khoa học lỗi lạc nhất của thời đại này. Cái chết của ông ấy là một mất mát lớn cho khoa học.
Trong chốc lát, Langdon cảm nhận được sự xúc động trên khuôn mặt cứng đờ của Kohler. Nhưng cảm xúc đó ngay lập tức tan biến. Kohler lần túi và lôi ra một chùm chìa khoá to.
Langdon chợt thấy lạ lùng. Toà nhà này dường như rất vắng vẻ.
- Mọi người đâu rồ? - anh hỏi. Nơi đây vắng bóng các hoạt động mà anh thường nghĩ đến khi họ sắp bước vào hiện trường một vụ giết người.
- Những cư dân ở đây đang trong phòng thí nghiệm, - Kohler đáp tay vẫn mải tìm chìa khoá.
- Ý tôi là cảnh sát kia, - Langdon nói lại cho rõ. - Họ đã rời khỏi dây rồi à?
Đang tra dở khoá vào ổ, Kohler lập tức ngừng lại:
- Cảnh sát?
Langdon nhìn thẳng vào mắt vị giám đốc:
- Cảnh sát chứ sao.
- Ông gửi cho tôi một tờ fax về vụ giết người. Hẳn ông đã phải gọi cảnh sát rồi chứ?
- Không thể được.
- Cái gì?
Đôi mắt màu xám của Kohler quắc lên:
- Tình hình rất phức tạp ông Langdon ạ.
Langdon cảm thấy e ngại;
- Nhưng… thể nào chả có người biết chuyện này rồi!
- Có. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là nhà nghiên cứu vật lí của CERN. Hai cha con cô ấy cùng làm chung trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp của nhau. Tuần này cô Vetra đi nghiên cứu thực nghiệm. Tôi đã thông báo về cái chết của cha cô ấy và trong khi chúng ta nói chuyện ở đây, cô ấy đang trên đường trở về.
- Nhưng có một người bị giết…
- Một cuộc điều tra chính thức, sẽ được tiến hành. - Kohler nói, giọng chắc nịch. - Tất nhiên, chắc chắn người ta sẽ tiến hành khám xét phòng thí nghiệm của Vetra, nơi hai cha con họ muốn giữ bí mật. Vì vậy chúng ta phải đợi đến khi cô Vetra trở về. Tôi cho là cần phải thận trọng một chút.
Kohler xoay chìa khoá.
Cánh cửa mở ra, một luồng khí lạnh từ trong phòng phả thẳng vào mặt Langdon. Anh hoang mang lùi lại, nhìn qua ngưỡng cửa của một thế giới xa lạ. Căn hộ trước mặt anh chìm trong màn sương mù màu trắng dầy đặc. Làn khói màu trắng đục bao phủ căn phòng và cuộn xoáy xung quanh đồ đạc.
- Cái gì thế này? - Langdon lắp bắp.
- Hệ thống làm lạnh freon, - Kohler đáp. - Tôi phải giữ lạnh căn phòng để bảo quản xác.
Langdon cài nút áo khoác vải tuýt để đỡ lạnh. Mình lạc vào xứ sở Oz(7) anh nghĩ. Lại còn quên không mang theo đôi dép thần kỳ .

Chú thích:
(1) Ivy League: Nhóm 8 trường Đại học danh tiếng của Hoa Kỳ, trong đó có Harvard.
(2) Maple: Cây thích (biểu tượng của Canada).
(3) Frisbee: Một trò chơi ném đĩa phố biến của trẻ em Mỹ
(4) Vật lý hạt (particle physics): Là một ngành của vật lý, nghiên cứu về các hạt sơ cấp chứa trong vật chất và bức xạ, cùng với những tương tác giữa chúng.
(5) S'il vous plait (tiếng Pháp): Làm ơn.
(6) Cột Ionic: cột trụ tròn, thường dùng trang trí ở những nơi quan trọng như đền thờ. Là một trong ba kiểu cột đỡ theo kiến trúc cổ của người Hy Lạp. Hai kiểu cột kinh điển kia là Doric và Corinthian.
(7) Trích dẫn "Phù Thuỷ xứ Oz", khi Dorothy lạc vào xứ Oz cô bé có một đôi dép thần kỳ.
 
Xác chết trên sàn nhà trước mặt Langdon trông thật gớm ghiếc. Leonardo Vetra quá cố đang nằm ngửa, bị lột trần truồng, da xám xịt. Chỗ xương cổ bị gãy thò ra, đầu bị vặn ngược hoàn toàn. Mặt úp xuống sàn nhà, không nhìn thấy được. Người đàn ông này đang nằm trên đống nước tiểu đã đông cứng lại của chính mình, nhúm lông xung quanh bộ phận sinh dục của ông ta lấm tấm sương giá..
Cố kìm để không nôn oẹ, Langdon đưa mắt nhìn lên ngực nạn nhân. Dù Langdon có nhìn kỹ vết thương hình đối xứng trên tờ fax hàng chục lần, thì rõ ràng ở đây vết cháy trên thực tế vẫn tác động mạnh hơn nhiều. Chỗ thịt cháy sần sùi tạo thành… một biểu tượng hoàn chỉnh.

Langdon băn khoăn không hiểu liệu có phải anh lạnh người đi là do điều hoà nhiệt độ hay vì sự ngạc nhiên đến tột cùng trước tầm quan trọng của thứ mà anh được nhìn tận mắt.
Tim anh đập thình thịch khi đi vòng quanh xác chết, đọc ngược, đọc xuôi, khẳng định lại tính xác thực của hình đối xứng. Biểu tượng này không thể là giả mạo.
- Ông Langdon?
Langdon không nghe thấy gì. Anh đang ở một thế giới khác… thế giới của riêng anh, nơi lịch sử, truyền thuyết và sự thật hoà quyện vào nhau, khiến tim anh tràn ngập cảm xúc. Tất cả như bị cuốn vào một guồng quay.
- Ông Langdon? - Kohler nhìn anh thăm dò, đầy vẻ hy vọng.
Langdon không ngẩng lên. Anh đang tập trung cao độ:
- Ông biết được gì rồi nào?
- Điều duy nhất tôi đọc được trên trang web của ông là từ Illuminati có nghĩa là "những người khai sáng" - Đây là tên một hội kín cổ xưa gì đó.
Langdon gật đầu:
- Ông đã nghe nói đến nguyên tử này bao giờ chưa?
- Chưa, cho đến khi tôi nhìn thấy nó được khắc trên người ồng Vetra.
- Vì vậy ông tìm một trang web nói về thứ này?
- Đúng.
- Và kết quả cho ra hàng trăm tài liệu tham khảo, tôi chắc là như vậy
- Hàng ngàn, - Kohler nói. Trang web của ông chứa những tài liệu tham khảo từ Harvard, Oxford, nhiều nhà xuất bản danh tiếng cũng như danh sách các ấn bản liên quan. Là một nhà khoa học, tôi nhận ra rằng thông tin cũng như nguồn dẫn đều có giá trị. Uy tín của ông có vẻ rất đáng tin cậy.
Langdon vẫn dán mắt vào xác chết.
Kohler không nói thêm lời nào. Ông ta chỉ nhìn, rõ ràng đang chờ Langdon đưa ra đầu mối cho cảnh tượng trước mắt họ.
Langdon ngước mắt lên, nhìn quanh căn hộ lạnh giá.
- Có lẽ là nên thảo luận vấn đề này ở nơi nào ấm hơn?
- Phòng này là được rồi. - Kohler dường như quên đi cái lạnh. - Chúng ta nói chuyện ở đây.
Langdon nhíu mày. Lịch sử của hội Illuminati không hề đơn giản. Mình sẽ chết cóng mất nếu giải thích mọi chuyện ở đây . Anh quay lại nhìn dấu sắt nung, lòng trào lên một nỗi sợ hãi khác.
Mặc dù biểu tượng Illuminati là huyền thoại đời với ngành biểu tượng học hiện đại, những chưa một học giả nào thực sự nhìn thấy nó. Các tài liệu có xưa gọi biểu tượng này là ambigram , biểu tượng hai chiều đối xứng - ambi có nghĩa là "hai" - nó đọc được theo hai chiều. Và mặc dù ambigram rất phổ biến - dấu thập ngoặc, hình âm dương, ngôi sao của người Do thai, dấu nhân chéo đơn giản - song ý tưởng cho rằng bất cứ chữ nào cũng có thể tạo thành hình biểu tượng hai chiều đối xứng có vẻ bất khả thi. Các nhà biểu tượng học hiện đại đã mất nhiều nắm nỗ lực để làm giả chữ "Illuminati" với tỉ lệ cân xứng đến hoàn hảo những đều thất bại. Đa số các học giả cho rằng, sự tồn tại của biểu tượng này là một huyền thoại.
- Vậy ai là hội viên của Illuminati? - Kohler hỏi.
Vâng , Langdon thầm nghĩ, thực sự họ là ai? Anh bắt đầu câu chuyện.
- Kể từ buổi đầu lịch sử, - Langdon giải thích, - Đã tồn tại mối bất đồng sâu sắc giữa khoa học và tôn giáo. Những nhà khoa học nổi bật như Copernicus…
- Đã bị giết chết, - Kohler xen ngang. - Bị nhà thờ ra lệnh hành hình vì dám cả gan tiết lộ những chân lý khoa học. Tôn giáo luôn khủng bố khoa học.
- Đúng. Nhưng vào thế kỷ 16, một nhóm người ở thành Rome đã chiến đấu chống lại nhà thờ. Một vài trong số những người khai sáng giỏi nhất ở Ý - các nhà vật lí, toán học, thiên văn học - bắt đầu nhóm họp một cách bí mật nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ đối với những tín điều không chính xác của nhà thờ. Họ sợ rằng sự độc quyền của nhà thờ về "chân lý" sẽ đe doạ quá trình khai sáng học thuật trên toan thế giới. Họ thành lập nhóm cố vấn khoa học đầu tiên trên thế giới, tự gọi ban than là "Những người khai sáng".
- Hội Illuminati.
- Đúng! - Langdon nói - Những bộ óc vĩ đại nhất ở châu Âu… hiện minh cho cuộc săn tìm chân lý khoa học.
Kohler im lặng.
- Đương nhiên, những thành viên của Illuminati bị Giáo hội Cơ đốc săn đuổi một cách tàn bạo. Nhờ có những chiêu thức giữ bí mật tuyệt đối, các nhà khoa học này mới được an toàn. Những lời truyền đạt của các học giả được truyền đi một cách bí mật, và hội Illuminati phát triển tới mức thu nạp được nhiều học giả ở khắp châu Âu. Các nhà khoa học thường xuyên gặp nhau ở một địa điểm cực kỳ bí mật có tên gọi là Nhà thờ ánh sáng .
Kohler húng hắng ho, rồi đổi tư thế ngồi.
- Rất nhiều thành viên của Illuminati. - Langdon tiếp tục, - muốn chiến đấu chống lại ách thống trị của nhà thờ bằng vũ lực, nhưng một thành viên được tôn kính nhất của hội đã thuyết phục họ không làm như vậy. Ông ta là một người theo phái ôn hoà và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất.
Langdon chắc Kohler biết cái tên đó. Thậm chí cả những người không thuộc giới khoa học cũng từng nghe nhắc đến nhà thiên văn học có số phận hẩm hiu, người từng bị nhà thờ bắt giữ và suýt bị hành quyết vì dám cho rằng mặt trời , chứ không phải trái đất, là trung tâm của Thái Dương hệ. Mặc dù các số liệu mà ông ta đưa ra không thể chối cãi được, nhà thiên văn học này vẫn bị trừng phạt rất nghiêm khắc vì ám chỉ rằng Chúa đặt loài người ở đâu đó chứ không phải trung tâm của vũ trụ.
- Tên ông ta là Galileo Galilei, - Langdon nói.
Kohler ngước mắt lên.
- Galileo?
- Đúng, Galileo là người của hội Illuminati. Và cũng là một con chiên Cơ đốc giáo mộ đạo. Ông đã cố gắng làm giảm nhẹ ảnh hưởng của nhà thờ lên khoa học bằng cách tuyên bố khoa học không phủ nhận sự hiện diện của Chúa mà chỉ khẳng định lại những chân lý của Người. Ông viết rằng một lần khi nhìn những hành tinh đang quay qua kính thiên văn, ông nghe thấy giọng nói của Chúa vang lên trong tiếng nhạc của các thiên cầu. Ông nói rằng khoa học và tôn giáo không phải là kẻ thù, mà là đồng minh dùng hai ngôn ngữ khác nhau để kể cùng một câu chuyện, câu chuyện về sự đối xứng và cân bằng… về thiên đường và địa ngục, ngày và đêm, nóng và lạnh, Chúa trời và quỷ Sa tăng. Cả khoa học và tôn giáo đều hãnh diện về sự cân đối của Chúa… cuộc đua bất tận giữa ánh sáng và bóng tối. - Langdon ngừng lại, giậm chân một lúc cho ấm người.
Kohler ngồi im trên chiếc xe lăn, ánh mắt đăm chiêu.
- Thật không may, - Langdon nói thêm, - Sự thống nhất giữa khoa học và tôn giáo là điều nhà thờ không hề mong muốn.
- Đương nhiên rồi, - Kohler ngắt lời. - Sự thống nhất này sẽ vô hiệu hoá những lời quyên bố của nhà thờ cho rằng mình là phương thức duy nhất giúp con người hiểu được Chúa. Họ gọi Galileo là kẻ dị giáo, nên đã kết tội và quản thúc ông tớ đến hết đời tôi biết rất rõ lịch sứ khoa học, ông Langdon. Nhưng chuyện này đã xảy ra cách đây hàng thế kỷ rồi. Nó có liên quan gì đến Leonardo Vetra?
Câu hỏi đáng giá triệu đô . Langdon cắt ngang lời:
- Việc bắt giữ Galileo đã đẩy Illuminati vào bước ngoặt mới. Họ bắt dầu sơ hở, và nhà thờ phát hiện thêm bốn thành viên khác, tất cả đều bị bắt giữ và điều tra. Nhưng bốn nhà khoa học này không để lộ điều gì… kể cả khi bị tra tấn.
- Tra tấn?
Langdon gật đầu.
- Họ đều bị khắc trên ngực dấu sắc nung với biểu tượng cây thánh giá khi còn sống.
Đôi mắt Kohler mở to, ông ta khó nhọc nhìn cơ thể Vetra.
- Sau đó, các nhà khoa học đều bị giết hại đã man, xác họ bị thả trên đường phố Rome như một lời cảnh báo mới những người đang nghĩ đến việc gia nhập Illuminati. Do bị nhà thờ truy lùng, những thành viên còn lại của Illuminati đã bỏ chạy khỏi Ý.
Langdon ngừng lại để nhấn mạnh những gì sắp nói. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt cô hồn của Kohler.
- Hội Illuminati chuyển sang hoạt động bí mật và bắt tay với những nhóm khác vốn vẫn phải trốn chạy khỏi sự thanh trừng của giáo hội Cơ đốc - hội thần bí, pháp sư, những nhà giả kim thuật, Hồi giáo, Do Thái giáo. Qua nhiều năm tháng, Illuminati bắt đầu kết nạp thêm thành viên mới. Một hội Illuminati mới nổi lên. Hội Illuminati đen tối. Một tổ chức kịch liệt chống lại Thiên Chúa giáo. Hội này ngày càng lớn mạnh, thực hiện các nghi lễ bí ẩn, những bí mật chết người, thề nguyện một ngày nào đó sẽ sống dậy và trả thù nhà thờ Cơ đốc giáo. Hội này mạnh tới mức bị nhà thờ coi là đội quân chống lại giáo hội Thiên Chúa nguy hiểm nhất trên thế giới.
Vatican gọi hội huynh đệ này là quỷ Shaitan.
- Shaitan?
- Một từ của đạo Hồi, nghĩa là "kẻ thù… kẻ thù của Chúa". Nhà thờ lấy tên này nguyên từ đạo Hồi vì họ cho rằng đây là thứ ngôn ngữ bẩn thỉu. - Langdon ngập ngừng. - Trong tiếng Anh, từ Sa-tăng bắt nguồn từ… Shaitan.
Vẻ khó chịu hiện lên lên khuôn mặt Kohler.
Giọng Langdon dứt khoát. - Ông Kohler, tôi không biết bằng cách nào dấu hiệu này lại xuất hiện lên ngực người đàn ông này… hoặc lại sao… nhưng ông đang được tận mắt nhìn thấy biểu tượng thất truyền của một nghi lễ sùng bái Sa-tăng lâu đời và quyền lực nhất.
Trong con hẻm hẹp và vắng vẻ, tên sát thủ sải những bước dài, đôi mắt đen của hắn sáng quắc lên những tia hy vọng. Khi gần đến đích, những lời nói của Janus lúc chia tay vang lên trong tâm trí hắn. Giai đoạn hai sẽ sớm bắt đầu thôi. Nghỉ ngơi đi đã.
Tên sát thủ cười khẩy. Hắn đã thức cả đêm rồi, nhưng giấc ngủ vẫn là thứ xa vời trong tâm trí hắn. Giấc ngủ chỉ làm hắn yếu đi. Hắn là một chiến binh, như tổ tiên của hắn và người dân của hắn không bao giờ ngủ một khi cuộc chiến đã nổ ra. Trận chiến này thực sự đã bắt đầu và hắn có vinh hạnh được ra tay đầu tiên. Còn bây giờ hắn có hai tiếng đồng hồ ăn mừng chiến thắng trước khi công việc tiếp theo bắt đầu.
Ngủ ử? Còn nhiều cách hay hơn để thư giãn …
Niềm đam mê kh.oái lạc là thứ mà tổ tiên đã gieo trồng con người hắn. Những bậc tiền bối của hắn đắm chìm trong chất gây nghiện hashish , còn hắn thì lại thích một phần thưởng khác. Hắn tự hào về cơ thể mình - một cỗ máy giết người được phối hợp nhịp nhàng mà hắn không bao giờ để nó bị nhiễm ma tuý. Hắn nghiện một thứ còn bổ dưỡng hơn thuốc phiện… một phần thưởng lành mạnh và thoả mãn hơn nhiều.
Một cảm giác đê m.ê quen thuộc trỗi lên trong người hắn. Tên sát thủ rảo bước về phía cuối con hẻm. Hắn đến bên một cánh cửa được nguỵ trang và ấn chuông. Ô cửa con quan sát hé mở, một đôi mắt màu nâu nhạt quan sát hắn một cách kỹ lưỡng. Rồi cánh cửa lớn mở ra.
- Mời vào, - người phụ nữ ăn mặc cầu kỳ lên tiếng. Bà ta dẫn hắn đến một phòng khách bày biện hoàn hảo dưới ánh đèn mờ mờ. Không gian tràn ngập mùi nước hoa và xạ hương.
- Bất cứ khi nào ngài sẵn sàng. - Bà ta đưa cho hắn một tập ảnh. - Hãy gọi cho tôi khi ngài đã chọn lựa xong. - Rồi bà ta biến mất.
Tên sát thủ mỉm cười.
Ngồi trên chiếc đi-văng sang trọng, đặt cuốn album lên đùi, tên sát thủ thấy cơn đói nhục dục đang trỗi dậy khắp cơ thể. Dù dân tộc hắn không có lễ Giáng sinh nhưng hắn vẫn có cảm giác của một đứa trẻ Công giáo ngồi trước đống quà Giáng sinh, háo hức khám phá điều thần kỳ ở bên trong. Hắn mở quyển album và xem xét kỹ các bức ảnh. Niềm đam mê dục vọng ánh lên trong mắt hắn.
Marisa . Nữ thần Italia. Thân hình bốc lửa. Một Sophia Loren trẻ.
Sachiko . Một Geisha Nhật Bản. Cơ thể mềm mại. Cực kỳ điêu luyện.
Kanara . Hình bóng sững sờ của Châu Phi. Dáng người cơ bắp. Vẻ đẹp kì lạ.
Hắn xem xét kỹ cuốn album hai lần, chọn lựa rồi đưa tay ấn nút trên bàn. Một phút sau, người phụ nữ ban đầu xuất hiện.
Hắn chỉ cô gái hắn chọn. Bà ta mỉm cười:
- Đi theo tôi.
Sau khi thoả thuận về tiền bạc, người phụ nữ im lặng nhấc máy. Bà ta chờ vài phút rồi dẫn hắn leo lên những bậc cầu thang đá hoa cương uốn lượn dẫn đến một hành lang sang trọng.
- Cánh cửa màu vàng ở cuối dãy. - Bà ta nói - Ngài quả là người sành sỏi.
Xứng đáng chứ , hắn nghĩ. Ta là kẻ sành sỏi mà .
Tên sát thủ nhẹ bước hết chiều dài hành lang như một con báo đã phải đợi bữa ăn quá lâu. Đến gần cánh cửa, hắn tự mỉm cười.
Cửa mở hé… đón chào hắn bước vào. Hắn đẩy nhẹ và cánh cửa mở ra không một tiếng động.
Nhìn thấy sự chọn lựa của mình, hắn biết là đã không nhầm.
Cô ta chính là người hắn yêu cầu… trần truồng, nằm ngửa, hai tay bị trói vào cột gi.ường bằng dây vải nhung.
Hắn tiến vào phòng và đưa tay lên vuốt ve thân hình ngọc ngà của cô ta. Đêm qua ta đã giết người, hắn nghĩ. Cô em là phần thưởng của ta.
Quỷ Sa-tăng? - Kohler lau miệng và khó chịu đổi tư thế. - đây là biểu tượng của nghi lễ sùng bái quỷ Sa-tăng à?
Langdon đi đi lại lại trong phòng cho ấm người.
- Hội Illuminati sùng bái Sa-tăng. Nhưng không phải theo quan niệm hiện tại.
Langdon nhanh chóng giải thích tại sao đa số mọi người hình dung tôn giáo thờ quỷ Sa-tăng là hội thờ quỷ dữ mặc dù trong quá khứ, hội Sa-tăng đều là những người có học nhưng chống lại nhà thờ. Shaitan. Lời đồn đại về lễ hiến tế các động vật mang tính tà thuật và ngôi sao năm cánh chỉ là những điều dối trá mà nhà thờ tuyên truyền nhằm chống lại những kẻ đối nghịch. Qua thời gian, những kẻ chống lại nhà thờ muốn ganh đua với Illuminati nên bắt đầu tin vào lời nói dối đó và thực thi các nghi lễ này. Vì vậy trò thờ cúng quỷ Sa-tăng kiểu hiện đại ra đời.
Kohler đột nhiên làu bàu:
- Đây chỉ là lịch sử xa xưa. Tôi muốn biết làm sao biểu tượng này lại ở đây.
Langdon thở dài:
- Biểu tượng này được một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati tạo ra để tôn vinh niềm say mê của Galileo đối với cấu trúc đối xứng - một biểu tượng thiêng liêng của Illuminati. Hội kín này giữ bí mật thiết kế của mình. Người ta cho rằng họ chỉ để lộ ra khi đã có đủ sức mạnh để trỗi dậy từ trong bóng tối và thực hiện mục tiêu tối thượng.
Kohler hoang mang:
- Vậy dấu hiệu này cho thấy hội Illuminati đang sống dậy?
Langdon nhíu mày:
- Không thể nào. Còn một chương trong lịch sử Illuminati tôi vẫn chưa giải thích hết.
Giọng Kohler đầy vẻ van lơn:
- Khai sáng cho tôi đi nào.
Langdon xoa hai bàn tay vào nhau, trong đầu đang lựa chọn từ hàng trăm nguồn tài liệu anh đã từng đọc hoặc viết về Illuminati.
- Những thành viên còn sống sót của Illuminati, - anh giải thích, chạy trốn khỏi Rome, đi khắp châu Âu, rồi tìm nơi an toàn để nhóm họp lại. Họ được một hội bí mật khác thu nhận… hội thợ thủ công khắc đá Bavanan giàu có hay còn gọi là hội Tam Điểm.
Kohler giật mình:
- Hội Tam Điểm?
Langdon gật đầu, không hề ngạc nhiên khi thấy Kohler đã từng nghe nói đến nhóm người đó. Hội Tam Điểm hiện có hơn 5 triệu thành viên trên khắp thế giới, một nửa đang cư trú tại Mỹ và trên 1 triệu người ở châu Âu.
- Có một điều chắc chắn: hội Tam Điểm không phải là nhóm tôn thờ Sa-tăng. - Kohler tuyên bố, dù không giấu nổi vẻ hoài nghi.
- Chắc chắn là không. Hội Tam Điểm là nạn nhân của chính lòng từ bi của họ. Sau khi giang tay đón tiếp những nhà khoa học đang bỏ chạy ở thế kỷ XVIII, hội này đã vô tình trở thành lá chắn cho Illuminati. Dưới sự che chở của hội Tam Điểm, Illuminati dần phát triển và từ từ thay thế quyền lực của những người lãnh đạo trong hội. Những người này âm thầm gây dựng lại hội Illuminati trong lòng Tam Điểm - một hội bí mật tồn tại trong một hội bí mật khác. Rồi các thành viên của Illuminati sử dụng những chi nhánh của hội Tam Điểm trên toàn thế giới để truyền bá ảnh hưởng của họ.
Langdon hít một hơi dài trước khi tiếp tục.
- Xoá sổ Cơ đốc giáo là lời thề của các thành viên hội Illuminati. Tín điều của hội này là nhà thờ là kẻ thù không đội trời chung của loài người. Họ sợ rằng nếu nhà thờ tiếp tục tuyên truyền các truyền thuyết tôn giáo như những chân lí và đà phát triển khoa học bị chặn lại thì con người sẽ rơi vào một tương lai u tối với những cuộc chiến tranh tôn giáo vô nghĩa.
- Giống như những gì chúng ta thấy ngày nay!
Langdon nhíu mày. Kohler nói đúng. Chiến tranh tôn giáo vẫn trở thành tiêu đề lớn trên các báo. Chúa của ta tốt đẹp hơn Chúa của các người . Dường như luôn có mối liên hệ giữa các tín đồ cuồng tín và số lượng các xác chết.
- Tiếp tục đi, - Kohler nói.
Langdon tập trung suy nghĩ và tiếp tục câu chuyện. - Illuminati ngày càng lớn mạnh ở châu Âu là bắt đầu hướng tới nước Mỹ, nơi có nhiều nhà lãnh đạo chính phủ là người của Tam Điểm - George Washington, Ben Franklin - những con chiên ngoan đạo không thể ngờ Illuminati lại thao túng hội Tam Điểm đến mức độ ấy.
Illuminati biết cách thâm nhập và thiết lập các ngân hàng, trường đại học, các ngành công nghiệp nhằm cung cấp tài chính cho mục đích tối cao của họ. - Langdon ngừng lại. - Tạo ra một thế giới không nhất phi tôn giáo - một trật tự thế giới mới trên thế gian.
Kohler không nhúc nhích.
- Một trật tự thế giới mới, - Langdon lặp lại, dựa trên công cuộc khai sáng khoa học. Họ gọi nó là Học thuyết Ma Vương. Nhà thờ cho rằng Ma Vương có liên hệ tới quỷ dữ, nhưng hội kín này khăng khăng khẳng định trong tiếng Latinh nó có nghĩa là người đem lại ánh sáng - hay Illuminator.
Kohler thở dài, giọng ông ta đột ngột trở nên trịnh trọng.
- Ông Langdon, xin mời ngồi.
Langdon dè dặt ngồi lên chiếc ghế lạnh giá.
Kohler lăn chiếc xe tới gần hơn.
Tôi không chắc tôi hiểu những gì ông vừa nói, nhưng tôi biết rõ điều này. Leonardo Vetra là một trong những tài sản quý giá nhất của CERN. Ông ta còn là một người bạn. Ông hãy giúp tôi tìm Illuminati.
Langdon không biết phải trả lời ra sao.
"Tìm Illuminati?" Ông ta đùa đấy à?
- Thưa ông, tôi e rằng điều đó hoàn toàn không thể được.
Kohler nhíu mày.
- Ý ông là gì? Ông không…
- Ông Kohler, - Langdon hướng người về phía chủ nhà, không biết giải thích thế nào cho ông ta hiểu những gì anh sắp nói -Tôi vẫn chưa nói xong câu chuyện. Mặc dù dấu nung này xuất hiện ở đây nhưng không thể chắc rằng đây là hành dộng của hội Illuminati. Không còn bằng chứng nào về sự tồn tại của hội này trong hơn nửa thế kỷ qua, đại đa số các học giả đều cho rằng hội Illuminati đã bị diệt vong từ nhiều năm nay rồi.
Những lời nói ấy rơi vào im lặng. Kohler nhìn đâu đó trong màn sương mù trước mắt với vẻ thảng thốt pha lẫn tức giận.
- Làm thế quái nào mà ông dám nói với tôi nhóm người này đã biến mất trong khi tên của họ được khắc lên người Vetra!
Langdon đã tự hỏi mình câu hỏi đó cả buổi sáng nay rồi. Sự xuất hiện của biểu tượng hai chiều đối xứng Illuminati thật kỳ lạ. Các nhà biểu tượng học trên khắp thế giới hẳn phải sững sờ kinh ngạc. Nhưng kiến thức học thuật của Langdon mách bảo anh rằng sự xuất hiện trở lại của dấu nung này không hề liên quan đến Illuminati.
- Biểu tượng này, - Langdon nói, - không hề khẳng định sự hiện diện của người tạo ra nó.
- Điều đó có nghĩa gì?
- Nó có nghĩa là một khi những tổ chức như Illuminati không còn tồn tại, biểu tượng của nó có thể bị… nhóm khác sử dụng. Đó là hiện tượng chuyển giao . Trong ngành biểu tượng học, chuyện này cực kỳ phổ biến. Phát-xít Đức lấy hình chữ thập ngoặc của người Hindu, người Thiên Chúa giáo lấy biểu tượng thập giá của Ai Cập, người…
- Sáng nay, - Kohler nói giọng thách thức, - khi tôi gõ chữ "Illuminati" trong máy tính, nó cho ra hàng ngàn trang web tham khảo. Rõ ràng có rất nhiều người nghĩ rằng nhóm này vẫn còn hoạt động.
- Đúng là những câu chuyện giật gân, - Langdon đáp. Anh thấy khó chịu với sự tràn ngập của các biện pháp câu khác trong nền văn hoá đại chúng hiện đại. Các phương tiện truyền thông tranh nhau đưa những tiêu đề vè ngày tận thế, tự cho mình là những "chuyên gia văn hoá" tìm cách kiếm chác bằng cách thổi phồng trước công chúng những câu chuyện thêu dệt rằng Illuminati còn tồn tại và đang chuẩn bị tổ chức lại trật tự thế giới mới. Gần đây, Thời báo New York còn đưa tin hội Tam Điểm kỳ quái có mối liên hệ với vô số nhân vật nổi tiếng - Sir Arthur Conan Doyle, Quận công xứ Kent, Peter Sellers, Irving Berlin, Hoang tử Phillip, Louis Armstrong cũng như lăng tẩm của những trùm tư bản nổi tiếng trong các lĩnh vực ngân hàng và công nghiệp hiện đại.
Kohler giận dữ chỉ vào xác Vetra:
- Nếu nhìn vào bằng chứng này, tôi thấy những câu chuyện giật gân câu khách đó là đúng.
- Tôi hiểu nó xuất hiện thế nào, - Langdon nói với cung cách của một nhà ngoại giao. - Nhưng cũng còn có một giả thuyết khả thi hơn rằng các tổ chức khác đang kiểm soát dấu nung của Illuminati và sử dụng cho mục đích riêng của họ.
- Mục đích nào? Vụ giết người này chứng minh được điều gì?
Câu hỏi hay lắm , Langdon nghĩ. Anh không thể tưởng tượng ra ai đó lại có thể lôi ra dấu nung Illuminati sau 400 năm cất giữ.
- Tất cả những gì tôi có thể nói với ông lúc này là nếu Illuminati còn hoạt động cho đến ngày nay, điều này tôi chắc chắn là không thể, thì hội này cũng không liên quan đến cái chết của Leonardo Vetra.
- Không ư?
- Không. Người ta cho rằng Illuminati có ý muốn xoá bỏ Thiên Chúa giáo, nhưng họ thường sử dụng sức mạnh chính trị và tài chính, không phải bằng biện pháp khủng bố. Hơn nữa, Illuminati có một quy định đạo đức ngặt nghèo về những người mà họ xem là kẻ thù. Thành viên của hội này thường là những người làm khoa học ở đẳng cấp cao nhất. Chẳng có lí gì mà họ lại sát hại một nhà khoa học, đống nghiệp của họ, như Leonardo Vetra.
Ánh mắt Kohler vô cùng lạnh lẽo.
- Có lẽ tôi chưa đề cập đến một chuyện, Leonardo Vetra không phải là một nhà nghiên cứu khoa học thuần tuý.
Langdon cố giữ kiên nhẫn.
- Ông Kohler, tôi chắc Leonardo Vetra xuất sắc trong nhiều lĩnh vực nhưng sự thật vẫn là…
Kohler đột ngột quay xe đi ra khỏi phòng khách, để lại một khoảng sương mù phảng phất khi ông ta biến mất vào lối sảnh.
Vì lòng kính Chúa! Langdon rên rỉ. Anh bước theo. Kohler đang đợi anh ở một góc tường nhỏ phía cuối sảnh.
- Đây là phòng nghiên cứu của Leonardo, - Kohler nói và chỉ tay vào cánh cửa kéo. - Có lẽ anh nên xem đi thì sẽ hiểu mọi chuyện khác thôi. - Vẻ khó xử, Kohler đẩy cửa mở ra.
Langdon nhìn một lượt căn phòng làm việc và ngay lập tức nổi da gà. Đức Mẹ của Chúa Giê-su , anh tự nhủ.
Ở một đất nước khác, một người lính gác trẻ đang ngồi kiên nhẫn trước hàng loạt màn hình video giám sát. Anh quan sát những hình ảnh lập lòe trước mắt - hình ảnh trực tiếp được truyền về từ hàng trăm chiếc camera không dây theo dõi trong cả khu tổ hợp rộng lớn. Những hình ảnh xuất hiện tưởng chừng vô tận.
Một đại sảnh trang trí đẹp mắt.
Một phòng làm việc riêng.
Một bếp ăn rộng.
Vừa nhìn những hình ảnh trước mắt, người lính vừa cố cưỡng lại cơn buồn ngủ. Cũng gần hết phiên gác rồi, nhưng vẫn cần phải hết sức cẩn thận. Được phụng sự nơi đây là một vinh hạnh. Một ngày nào đó, anh sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng.
Khi những dòng suy nghĩ ấy lướt qua trong tâm trí người lính, một hình ảnh phát tín hiệu báo động. Giật mình, anh đưa tay ấn nút trên bảng điều khiển. Màn hình trước mặt đứng lại.
Đầu ù đi anh nhoài người về phía màn hình để nhìn cho rõ.
Thông số trên màn hình cho biết hình ảnh này đang được truyền đi từ camera số 86 - chuyên giám sát một sảnh ra vào.
Nhưng hình ảnh trước mắt chắc chắn không phải sảnh ra vào.
 
Đứng trước phòng làm việc, Langdon ngơ ngác:
- Đây là nói nào? - Dù có luồng không khí ấm thổi vào mặt, anh vẫn run rẩy khi bước qua cửa.
Kohler không nói gì, chỉ đi theo Langdon vào trong.
Langdon đảo mắt nhìn khắp phòng, hoàn toàn không hiểu gì. Căn phòng chứa đầy những bảo vật kỳ lạ nhất mà anh từng chứng kiến. Ở phía góc tường chiếm hầu hết không gian trang trí là một cây thánh giá bằng gỗ lớn mà Langdon nghĩ phải từ thế kỷ XIV ở Tây Ban Nha. Phía trên cây thánh giá, một mô hình các hành tinh chuyển động quay quanh quỹ đạo bằng kim loại đang treo lơ lửng sát trần nhà. Bên trái là một bức tranh sơn dầu Đức Mẹ đồng trinh Maria, còn bên cạnh đó có gắn bảng các nguyên tố tuần hoàn. Trên gi.ường, hình hai cây thánh giá bằng đồng treo kèm hai bên bức ảnh Albert Anhxtanh cùng với câu trích nổi tiếng của nhà bác học lừng danh này: CHÚA KHÔNG ĐÁNH CƯỢC VỚI VŨ TRỤ.
Langdon bước vào bên trong, kinh ngạc nhìn quanh. Một cuốn Kinh thánh bìa bọc da được đặt trên bàn của Vetra, bên cạnh mô hình nguyên tử của Bohr và một phiên bản thu nhỏ bức tượng thần Moses của Michelangelo.
Tư tưởng khoáng đạt , Langdon thầm nghĩ. Ở đây dù rất ấm, nhưng không hiểu sao lối bài trí này khiến anh thấy ớn lạnh khắp người. Anh cảm giác mình đang được chứng kiến sự ra chạm của hai triết lý khống lồ… của những lực lượng đối lập. Anh nhìn tiêu đề trên giá sách:
Hạt nhân của Chúa
Lí thuyết của Đạo trong Vật lí .
Bằng chứng của Chúa trời
Một trong những giá kê sách có khắc câu nói:
KHOA HỌC THỰC SỰ KHÁM PHÁ CHÚA TRỜI
CÂU TRẢ LỜI NẰM SAU MỖI CÁNH CỬA
GIÁO HOÀNG PIUS XII
- Leonardo là một linh mục Cơ đốc giáo, - Kohler nói.
Langdon quay lại.
- Một linh mục? Tôi tưởng ông nói ông ấy là nhà vật lí?
- Là cả hai. Người của cả khoa học và tôn giáo không phải không có tiền lệ trong lịch sử. Leonardo là một trong số họ. Ông ấy quan niệm vật lí như "quy luật tự nhiên của Chúa", rằng kinh thánh có thể nhìn thấy ở những quy luật thiên nhiên xung quanh chúng ta. Thông qua khoa học, ông ấy muốn chứng minh sự hiện diện của Chúa trong hàng loạt những nghi ngờ của con người. Leonardo coi mình là một nhà vật lí lí thuyết!
Nhà vật lí lí thuyết ? Langdon thấy chuyện này không có gì mâu thuẫn cả.
- Lĩnh vực vật lí hạt, - Kohler nói, - gần đây có rất nhiều phát minh gây chấn động - những phát hiện có liên quan đến tôn giáo. Leonardo đã khám phá ra rất nhiều trong số đó.
Langdon quan sát ông giám đốc của CERN, cố gắng hiểu những điều kỳ lạ đó.
"Tôn giáo và vật lí?" - Langdon từng dành nhiều năm nghiên cứu lịch sử tôn giáo, nhưng cứ theo chu kỳ tuần hoàn, từ thuở xa xưa, tôn giáo và khoa học vẫn luôn như nước với lửa… hai kẻ thù không đội trời chung… không thể nào hoà hợp.
- Vetra đang tiến gần đến nghiên cứu vật lí hạt, - Kohler nói -Ông ấy muốn hợp nhất khoa học và tôn giáo… muốn chứng minh rằng chúng bổ trợ cho nhau theo một cách không ai ngờ tới. Ông ấy gọi lĩnh vực này là Vật lí mới - Kohler lôi từ giá sách ra một cuốn và đưa cho Langdon.
Langdon nhìn bìa ngoài cuốn sách. Chúa trời, Phép màu và Vật lí mới - tác giả Leonardo Vetra.
Đây chỉ là một lĩnh vực nhỏ, - Kohler nói tiếp, - Chúng nó mang lại câu trả lời mới cho một số vấn đề cũ - câu hỏi về nguồn gốc vũ trụ và lực liên kết giữa chúng ta. Leonardo tin rằng nghiên cứu của ông ấy sẽ giáo hoá cho hàng triệu người. Năm ngoái, ông ấy đã khẳng định một cách chắc chắn về sự tồn tại của một trường năng lượng thống nhất tất cả mọi người chúng ta. Ông ấy còn chứng minh rằng chúng ta đều có mối liên hệ vật lí… rằng các phân tử trong cơ thể anh luôn thu hút các phân tử trong cơ thể tôi… rằng có một đơn lực nào đó chuyển động xung quanh tất cả chúng ta.
Langdon thấy rối trí. Và sức mạnh của Chúa thống chúng ta. Ông Vetra thực sự đã tìm ra cách chứng minh các hạt có liên kết với nhau?
- Kết luận rõ ràng. Một bài báo gần đây trên tờ Khoa học Mỹ đã ca ngợi Vật lí mới như một con đường chắc chắn tiến tới Chúa trời chứ không phải tôn giáo.
Lời bình luận thuyết phục. Langdon đột nhiên nghĩ đến hội kín bài tôn giáo Illuminati. Anh miễn cưỡng nghĩ đến việc hớt tay trên của một thành tựu tri thức. Nếu thực sự hội Illuminati còn sống, liệu họ có giết Leonardo chỉ vì sợ ông đưa thông diệp về tôn giáo này tới dân chúng? Rồi anh gạt bỏ ngay suy nghĩ đó. Thật ngớ ngẩn! Illuminati chỉ là lịch sử xa xưa! Học giả nào mà chẳng biết điều đó!
- Vetra có vô khối kẻ thù trong giới khoa học, - Kohler nói tiếp -Nhiều nhà khoa học thuần tuý ghen ghét ông ta, kể cả ngay tại CERN này. Họ cho rằng sử dụng Vật lí phân tích để hậu thuẫn cho các nguyên lí tôn giáo là phản bội lại khoa học.
- Nhưng chẳng phải các nhà khoa học ngày nay ít bảo thủ hon nhà thờ sao?
Kohler càu nhàu vẻ ghê tởm:
- Tại sao chúng ta lại phải như vậy? Nhà thờ không còn thiêu sống các nhà khoa học nữa rồi, nhưng nếu ông nghĩ họ không còn thống trị khoa học, cứ tự hỏi mình xem tại sao một nữa số trường học ở đất nước các ông không cho phép dạy về thuyết tiến hoá. Hãy tự hỏi mình tại sao Nghiệp đoàn Công giáo lại có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất lên những tiến bộ khoa học trên thế giới. Trận chiến giữa khoa học và tôn giáo vẫn còn đang dữ dội lắm, ông Langdon ạ. Nó chuyển từ chiến trường sang giảng đường, nhưng vẫn còn rất quyết liệt.
Langdon phải công nhận Kohler nói đúng. Chỉ cách đây có một tuần, khoa Thần học của trường đại học Harvard còn diễu binh qua toà nhà của khoa Sinh vật, phản đối môn kỹ thuật gen được đưa vào chương trình đại học. - trưởng khoa Sinh vật, Richard Aaronian, một người nổi tiếng chuyên nghiên cứu về các loài chim, đã bảo vệ chương trình giảng dạy bằng cách treo một tấm băng rôn to tướng trên cửa sổ văn phòng ông ta. Tấm băng rôn vẽ hình một con cá Thiên Chúa giáo bị sửa thành cá bốn chân - mà theo Aaronian, là sự mô tả tiến hoá của những con cá thở bằng phối ở châu Phi khi di chuyển lên mặt đất. Phía dưới con cá, thay vì chữ "Giê-su" người ta đề chữ "DARWIN".
Một tiếng bíp sắc gọn vang lên và Langdon ngước mắt nhìn.
Kohler đưa tay với xuống hệ thống điện tử cài bên xe lăn. Ông ta lôi chiếc máy nhắn tin ra và đọc dòng chữ trên đó.
- Tốt lắm. Con gái của Leonardo Vetra. Cô Vetra sắp đến bãi đỗ trực thăng ngay bây giờ. Chúng ta sẽ gặp cô gái này ở đó. Tôi nghĩ tốt hơn hết không nên để cô ấy đến dây và nhìn thấy cha mình trong tình cảnh này.
Langdon đồng ý. Đây sẽ là một cú sốc mà không một người con nào muốn chứng kiến.
- Tôi sẽ đề nghị cô Vetra giải thích về dự án mà hai cha con họ đang tiến hành… có lẽ sẽ hé lộ ra vài manh mối tại sao ông ấy bị giết hại.
- Ông nghĩ rằng công trình nghiên cứu của Vetra khiến ông ấy bị giết à?
- Có thể lắm chứ. Leonardo nói với tôi ông ấy đang tìm ra một thứ gây chấn động. Đó là tất cả những gì ông ấy nói. Ông ấy giữ bí mật dự án. Vetra có phòng thí nghiệm riêng và yêu cầu được bảo mật, tôi dành cho ông ấy những quyền đó vì ông ấy là một nhà bác học thực sự lỗi lạc. Gần đây, công trình này tiêu tốn rất nhiều năng lượng điện nhưng tôi chưa muốn hỏi lý do. - Kohler quay về phía cửa phòng làm việc. -Tuy nhiên, còn một việc tôi muốn ông biết trước khi rời khỏi đây.
Langdon không chắc mình còn muốn nghe thêm nữa hay không.
- Kẻ giết người đã lấy đi một thứ của Vetra.
- Một thứ?
- Đi theo tôi.
Vị giám đốc chuyển bánh xe lăn vào phòng khách đang mù mịt sương khói. Langdon đi theo, không hiểu còn chuyện gì nữa.
Kohler tiến gần đến xác của Vetra và dừng lại. Ông ta ra hiệu Langdon cùng đến. Langdon miễn cưỡng di đến gần hơn, cổ họng muốn nôn mửa vì mùi nước tiểu đông cứng của nạn nhân.
- Nhìn vào mặt ông ta đi! - Kohler nói.
Nhìn vào mặt ông ta? Langdon nghĩ thầm. Tôi tưởng ông bảo chúng đánh cắp một vật gì cơ mà.
Langdon e ngại quỳ gối. Anh cố gắng nhìn khuôn mặt Vetra nhưng cái đầu đã bị vặn ngược 180 độ ra sau, mặt cắm xuống thảm.
Vất vả với thân hình què quặt, Kohler cúi xuống cẩn thận lật cái đầu đông cứng của Vetra lên. Khuôn mặt xác chết quay lại nghe kêu răng rắc, méo mó đau đớn. Kohler giữ nó trên tay một lát.
- Lạy Chúa tôi! - Langdon kêu lên sợ hãi, lập cập suýt ngã. Mặt Vetra đầy máu. Một con mắt màu lam nhạt vô hồn đang nhìn anh chằm chặp. Hốc mắt bên kia bị xé rách và trống trơn. - Chúng đã lấy đi con mắt của ông ấy sao?

Langdon bước khỏi toà nhà C, ra ngoài trời, vui mừng vì được thoát khỏi căn hộ của Vetra. ánh nắng mặt trời giúp anh gạt bỏ hình ảnh hốc mắt trống hoác khỏi tâm trí.
- Lối này, ông Langdon. - Kohler nói rồi quay lên một con dốc. Chiếc xe lăn nhẹ nhàng tăng tốc. - Cô Vetra sẽ về bất cứ lúc nào.
Langdon vội vã leo theo.
- Vậy thì, - Kohler hỏi. - Ông còn nghi ngờ về sự dính líu của Illuminati nữa không?
Langdon không biết phải nói thế nào. Các mối quan hệ tôn giáo của Vetra nhất định có vấn đề, nhưng Langdon cũng không thể từ bỏ những chứng cứ khoa học mà anh đã nghiên cứu. Bên cạnh đó, con mắt…
- Tôi vẫn cho rằng, - Langdon nói, giọng mạnh mẽ bất ngờ - Illuminati không thể chịu trách nhiệm trong chuyện này. Con mắt bị mất là một bằng chứng.
- Gì cơ?
- Lấy đi một bộ phận, - anh giải thích, - thật… không giống cung cách của Illuminati chút nào. Các nhà nghiên cứu nghi lễ tôn giáo đều cho rằng cách cắt rời một bộ phận làm biến dạng khuôn mặt là của những kẻ cực đoan non nớt "những kẻ cuồng tín tuỳ tiện hành động khủng bố", còn hội Illuminati vốn thận trọng hơn nhiều.
- Thận trọng ư? Phẫu thuật cắt bỏ nhãn cầu của ai đó mà là thận trọng?
- Hành động đó chẳng chuyển tải thông điệp gì cả, không phục vụ cho một mục đích cao cả nào hết.
Chiếc xe lăn của Kohler đột ngột dừng trên đỉnh đồi. Ông ta quay lại.
- Ông Langdon, tin tôi đi, con mắt bị mất tích đó thực sự được dùng cho một mục đích quan trọng hơn… quan trọng hơn rất nhiều.
Khi hai người đàn ông vượt qua bãi cỏ cao ngút, họ nghe thấy tiếng đập phành phạch của cánh quạt chiếc máy bay từ phía tây vọng lại. Một chiếc trực thăng xuất hiện, vòng quanh thung lũng rồi tiến về phía họ. Nó nghiêng mạnh, rồi từ từ lượn trên bãi đỗ được sơn vạch trên cỏ.
Langdon đứng tách ra ngắm nhìn, đầu óc anh quay cuồng y hệt như những cánh quạt máy bay, không hiểu liệu một đêm ngủ đẫy giấc có thể làm mớ suy nghĩ hỗn độn trong đầu anh sáng sủa hơn chút nào không. Dù sao thì một giấc ngủ lúc này cũng thật xa vời.
Khi máy bay hạ cánh, một viên phi công nhẩy xuống, bắt đầu dỡ các dụng cụ - những bộ đồ nghề, những túi nhựa dẻo còn ướt, bộ đồ lặn, và vô số thứ trông như những thiết bị công nghệ cao.
Langdon bối rối.
- Đấy là đồ nghề của cô Vetra à? - Anh gào lên át tiếng động cơ máy bay.
Kohler gật đầu và gào lại.
- Cô ta đang tiến hành nghiên cứu sinh học trên biển Balearic(1) .
- Tôi tưởng cô ấy là nhà vật lí cơ mà!
- Đúng đấy. Cô ấy là nhà vật lí sinh học, nghiên cứu mối liên hệ trong hệ sinh thái. Công việc của cô ấy liên quan chặt chẽ với công trình nghiên cứu vật lí hạt của Vetra. Gần đây, cô ấy đang phủ nhận một trong những học thuyết cơ bản của Anhxtanh bằng cách ghi lại sự phối hợp từ khi quan sát một đàn cá ngừ.
Langdon nhìn kỹ xem trên khuôn mặt chủ nhà có pha chút hài hước nào không. Anhxtanh và đàn cá ngừ? Anh bắt đầu băn khoăn liệu có phải chiếc X-33 đã thả nhầm anh lên một hành tinh khác không?
Một lúc sau, Vittoria Vetra mới ra khỏi máy bay. Robert Langdon phải thừa nhận rằng hôm nay là một ngày của hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vittoria Vetra bước xuống máy bay, mặc chiếc quần soóc vải ka ki và áo không tay màu trắng, không hề giống một nhà khoa học chỉ biết tối ngày chúi mũi vào sách vở như anh vẫn tưởng. Cô gái này cao ráo, làn da màu hạt dẻ, mái tóc đen dài bị luồng gió mạnh từ cánh quạt động cơ phả ra thổi tung lên, thật mềm mại và duyên dáng. Khuôn mặt của Vittoria mang nét đặc trưng Italia - không quá đẹp nhưng đầy đặn, một vẻ đẹp đầy trần tục, đến nỗi dù cách cô gần 20 mét, Langdon vẫn thấy xao xuyến. Luồng gió mạnh từ cánh quạt máy bay khiến cho bộ quần áo ép sát vào thân hình thon thả và bộ ngực nhỏ của cô gái trẻ.
Cô Vetra là một phụ nữ có sức mạnh phi thường, - Kohler nói, dường như dọc được thái độ đắm đuối của Langdon. - Cô ấy đã từng làm việc ở những khu vực sinh thái nguy hiểm suốt hàng tháng trời. Một người ăn kiêng nghiêm ngặt và chuyên gia Hatha Yoga(2) trong khu tập thể của CERN. Hatha Yoga ? Langdon cười thầm. Nghệ thuật thiền định cổ xưa của đạo Phật khó có thể phù hợp với con gái của một linh mục Cơ đốc giáo.
Langdon ngắm Vittoria khi cô tiến lại gần anh. Cô gái chắc đã khóc rất nhiều, và đôi mắt nâu lúc này tràn ngập những cảm xúc mà Langdon chưa thể gọi tên. Tuy nhiên, dáng điệu của Vittoria vẫn tỏ ra mạnh mẽ và kiên quyết. Làn da rám nắng của vùng Địa Trung Hải ánh lên trên đôi chân mạnh mẽ và săn chắc.
- Vittoria, - Kohler nói khi cô đến gần họ. - Tôi thành thật chia buồn. Đây là một tổn thất cực kỳ to lớn đối với khoa học… đối với tất cả chúng ta ở CERN.
Vittoria gật đầu vẻ biết ơn. Cô gái cất tiếng nói với một chất giọng thật du dương mượt mà:
- Đã tìm được hung thủ chưa?
- Chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm.
Cô gái quay sang Langdon, chìa cánh tay mánh mai về phía anh.
Tên tôi là Vittoria Vetra. Ông là người của Interpol, đúng không?
Langdon bắt tay cô gái, và ngay lập lức anh bị ánh mắt sâu thẳm nỗi buồn ấy hút mất hồn.
- Robert Langdon. - Anh không biết nên nói thêm gì nữa.
- Ông Langdon không phải là nhà chức trách, - Kohler giải thích. -Ông ấy là một chuyên gia đến từ nước Mỹ. Ông Langdon sẽ giúp chúng ta tìm ra kẻ đã gây ra chuyện này.
Vittoria có vẻ hoài nghi.
- Thế còn cảnh sát?
Kohler chỉ thở dài, không nói gì.
- Thi thể của cha tôi giờ ở đâu? - cô hỏi.
- Đang được chăm sóc cẩn thận.
Langdon ngạc nhiên trước lời nói dối trắng trợn này.
- Tôi muốn được ở bên ông ấy. - Vittoria nói.
- Vittoria, - Kohler vội vã. - Cha cô đã bị sát hại một cách dã man. Tốt hơn hết là cô hãy nhớ về ông ấy với những hình ảnh ngày xưa.
Vittoria định nói gì đấy nhưng bị ngắt lời.
- Xin chào, Vittoria! - xa xa có vài người gọi - Chào mừng trở về nhà!
Cô quay lại. Một nhóm các nhà khoa học đang đi đến gần bãi trực thăng. Họ vui vẻ vẫy chào.
- Cô còn phủ nhận thêm thuyết nào của Anhxtanh nữa không? - Một người gọi to.
Một người khác đế vào:
- Cha cô hẳn phải tự hào lắm!
Vittoria vụng về vẫy chào lại khi họ đi ngang qua. Rồi cô quay sang Kohler, mặt đầy vẻ khó hiểu.
- Không ai biết chuyện này sao.
- Tôi cho rằng sự thận trọng là thứ quan trọng nhất.
- Ông vẫn chưa nói với các nhân viên khác là cha tôi bị giết hại ? - Vẻ phẫn nộ bắt đầu lộ rõ trong âm giọng trầm trầm của cô gái trẻ.
Trong phút chốc Kohler trở nên cứng rắn.
- Có lẽ cô quên mất một điều, cô Vetra ạ, một khi tôi báo cáo về cái chết của cha cô, người ta sẽ tiến hành điều tra ở CERN. Toàn bộ phòng thí nghiệm của ông ấy sẽ bị khám xét. Tôi tôn trọng thế giới riêng của cha cô. Có hai việc cha cô từng nói với tôi về dự án đang thực hiện. Việc thứ nhất, dự án này sẽ đem đến cho CERN tiền triệu từ các loại hợp đồng trong thập kỷ tới. Và thứ hai, nó không nên được tiết lộ trước công chúng bởi vì đây vẫn là một công nghệ nguy hiểm. Sau khi suy nghĩ về hai điều này, tôi thấy tốt hơn hết là không nên để người lạ nhòm ngó phòng thí nghiệm của ông ấy cũng như ăn cắp công nghệ hoặc tự hại mình rồi đổ hết lên đầu CERN. Tôi diễn đạt như thế đã rõ chưa?
Vittoria nhìn lại, không thốt lên được lời nào. Rõ ràng là cô buộc phải tôn trọng và chấp nhận những lập luận hết sức lôgíc của Kohler.
- Trước khi chúng ta báo cho nhà chức trách, - Kohler nói, - Tôi cần biết hai cha con cô đã làm gì. Tôi muốn cô đưa chúng tôi tới phòng thí nghiệm.
- Chẳng có gì liên quan ở phòng thí nghiệm,, Vittoria nói.- Không ai biết cha con tôi đang làm gì. Thí nghiệm này không thể dính dáng tới cái chết của cha tôi.
Kohler thở dài não nề.
- Nhưng bằng chứng lại cho thấy điều ngược lại.
- Bằng chứng? Bằng chứng nào?
Langdon cũng thấy băn khoăn về điểm này.
Kohler đưa tay lên xoa miệng:
- Rồi cô sẽ tin tôi ngay thôi.
Ánh mắt đầy phẫn nộ của Vittoria cho thấy cô gái trẻ không hề tin những lời vừa nghe thấy.

Chú thích:
(1) Biển Balearic: Vùng biền nằm trong khu vực Địa Trung Hải, gần Tây Ban Nha, Pháp.
(2) Hatha Yoga: Nền tảng của các môn Yoga, ha (mặt trời) và tha (mặt trăng) là sự cân bằng khi thiền định, thư giãn và nghỉ ngơi (nguồn Wikipedia).
 
Langdon lặng lẽ sải bước theo sau Vittoria và Kohler khi cả ba quay trở lại nơi mà anh vừa phải chứng kiến cảnh tượng kinh khủng ấy. Bước chân Vittoria nhịp nhàng uyển chuyển - hệt như một vận động viên lặn đẳng cấp Olympic - dáng vẻ dẻo dai, theo như Langdon phỏng đoán, là biểu hiện của sự linh hoạt và hài hoà mà Yoga mang lại. Anh nhận thấy cô gái đang thở rất đều đặn và chậm rãi, như thể đang cố gắng kiềm chế nỗi đau.
Langdon muốn nói với cô gái một điều gì đó, những lời cảm thông, rằng anh cũng đã từng trải qua cảm giác trống vắng đến không chịu đựng nổi khi bất ngờ mất đi người cha yêu dấu. Anh nhớ nhất là ngày tang lễ. Đó là một ngày mưa sụt sùi, bầu trời u ám chỉ cách hai ngày sau sinh nhật lần thứ 12 của anh. Những đồng nghiệp của cha, tất cả đều vận quần áo màu xám, kéo đến chật nhà. Tất cả bọn họ đều nắm chặt tay anh và nhắc đi nhắc lại những từ như bệnh tim và stress . Nước mắt giàn giụa, mẹ anh đùa rằng chỉ cần cầm tay cha là bà đã cầm chắc phần thắng ở thị trường chứng khoán, vì mạch đập của ông chính là chiếc đồng hồ vạn năng đối với bà…
Một lần, khi cha còn sống, Langdon nghe thấy mẹ van nài cha "Hãy nghỉ ngơi một chút để thưởng thức vẻ đẹp của hoa hồng".
Năm đó, Langdon mua tặng cha một bông hồng ép trong bình thuỷ tinh nhân dịp Giáng sinh. Đó là bông hoa đẹp nhất mà anh từng trông thấy… những tia nắng mặt trời chiếu rọi vào chiếc bình đều hoá thành những dải sáng màu cầu vồng rực rỡ, chiếu rọi lên bức tường gần đó.
- Đẹp lắm! - cha nói khi mở gói giấy ra rồi hôn lên trán Langdon. - Cha con ta hãy tìm cho chiếc bình này một vị trí thích hợp nào!
Rồi ông cẩn thận cất chiếc bình trên một cái giá đầy bụi, trong góc tối nhất ở phòng khách. Vài ngày sau, Langdon bắc ghế đẩu để lấy chiếc bình xuống, đem trả lại cửa hàng. Cha anh không bao giờ biết rằng bông hoa đã biến mất.
Tiếng chuông thang máy kéo Langdon quay trở về thực tại. Cả Vittoria và Kohler đều đang đứng trước mặt anh, chuẩn bị bấm nút. Langdon vẫn đang ngập ngừng bên ngoài cánh cửa.
- Sao thế? - Kohler hỏi, với vẻ sốt ruột hơn là quan tâm.
- Không có gì, - Langdon trả lời, nặng nề bước vào thang máy chật hẹp. Anh chỉ sử dụng thang máy khi nào thực sự cần thiết, dù sao thì cầu thang bình thường vẫn thoáng đãng hơn nhiều.
- Phòng thí nghiệm của tiến sĩ Vetra nằm dưới tầng hầm. - Kohler nói.
Tuyệt vời , Langdon thầm nghĩ khi anh cảm nhận được luồng gió mát lạnh thổi lên từ sâu dưới hầm. Cánh cửa đóng lại và thang máy bắt đầu đi xuống.
- Sáu tầng nhà, - Giọng nói của Kohler nghe lạnh lẽo như được phát ra từ một cỗ máy.
Langdon hình dung ra bóng tối phủ đầy căn hầm trống phía dưới. Anh cố xua đuổi ý nghĩ ấy đi bằng cách nhìn chăm chăm vào bảng chỉ dẫn trên thang máy. Kỳ lạ thật, thang máy này chỉ hiển thị hai chặng đến là TẦNG HẦM VÀ LHC.
- LHC nghĩa là gì? - Langdon hỏi, cố không để cho giọng nói trở nên run rẩy.
- Máy gia tốc hạt Hadron, - Kohler nói - Một loại máy gia tốc hạt.
Máy gia tốc hạt? Langdon rất mơ hồ về khái niệm này. Lần đầu tiên anh nghe đến nó khi đang ăn tối với mấy ông bạn đồng nghiệp ở Dunster House thuộc Cambridge. Một người bạn, nhà vật lí Bob Brownell,, đã đến muộn, vẻ mặt đầy tức giận.
- Lũ khốn đó bác bỏ rồi! - Brownell lầm bầm chửi rủa.
- Bác bỏ cái gì? - tất cả đồng thanh hỏi.
- Là cái gì?
- Máy va đập siêu dẫn lớn!
Ai đó nhún vai.
- Tôi không hề biết là Harward đang tiến hành lắp đặt một cỗ máy như thế.
- Không phải của Harvard! - Anh ta kêu lên. - Của nước Mỹ! Nó sẽ là máy gia tốc hạt mạnh nhất trên thế giới! Một trong những dự án khoa học quan trọng nhất thế kỷ! Chi phí lên tới 2 tỷ đô la, và Thượng nghị viện vừa bác bỏ. Những kẻ vận động hành lang Công giáo bảo thủ đáng nguyền rủa!
Khi Brownell bình tĩnh trở lại, anh ta giải thích rằng máy gia tốc hạt là một ống hình trụ cực lớn, trong đó các hạt nhỏ hơn nguyên tử được gia tăng tốc độ. Từ trường bên trong ống sẽ liên tục tắt bật cực nhanh để quay các hạt cho đến khi chúng đạt đến siêu vận tốc. Các hạt khi quay trong ống sẽ đạt vận tốc tối đa trên 288.000 km/s.
- Như thế là gần bằng tốc độ ánh sáng rồi còn gì, - một trong những giáo sư có mặt ở đó lên tiếng.
- Thì đúng là thế mà lại, - Brownell nói. Anh ta tiếp tục giải thích thêm rằng nếu tăng tốc hai hạt từ hai hướng đối lập nhau trong ống và cho chúng va đập vào nhau, các nhà khoa học có thể xé nhỏ thành phần của chúng ra là có được thành phần cơ bản nhất của tự nhiên.
- Máy gia tốc hạt, - Brownell tuyên bốt - Cực kỳ quan trọng đối với lương lai của khoa học. Hiện tượng va chạm giữa các hạt là chìa khoá mở ra cả một kho kiến thức về các công trình trong vũ trụ.
Nhà thơ của khu nội trú Harvard , một người ít nói tên là Charles Pratt, tỏ ra không mấy quan tâm:
- Tôi nghĩ rằng, làm thế chẳng khác gì nghiên cứu khoa học theo phương pháp của người vượn Nê-an-đéc-tan… đem nghiền nát một cái đồng hồ để nghiên cứu các bộ phận bên trong.
Brownell ném đĩa xuống bàn rồi hằm hằm lao ra khỏi phòng.
Vậy ra CERN có máy gia tốc hạt? Langdon thầm nghĩ trong khi thang máy tiếp tục lao xuống dưới. Một cái ống tròn để nghiền nhỏ các hạt. Anh băn khoăn không hiểu tại sao lại phải chôn cỗ máy này dưới lòng đất.
Thang máy dừng lại, Langdon cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận ra mặt đất quen thuộc đang ở ngay dưới chân mình. Nhưng khi cánh cửa mở ra thì cảm giác ấy hoàn toàn tan biến. Lại một lần nữa, anh đang ở một thế giới hoàn toàn xa lạ.
Lối đi dường như kéo dài đến vô tận ra cả hai phía: bên phải và bên trái. Lối đi này hình ống, lát xi măng đủ rộng để một cỗ xe 18 bánh có thể di chuyển dễ dàng. Nơi họ đang đứng tràn ngập ánh sáng, nhưng hành lang phía dưới thì tối thui. Một luồng gió lạnh lẽo phả ra từ khu vực tối tăm đó, như muốn nhắc nhở mọi người rằng họ đang ở rất sâu trong lòng đất. Langdon gần như cảm nhận được sức nặng của lớp đất đá ngay trên đầu họ.
Trong thoáng chốc, anh bỗng thấy mình lại là một cậu bé 9 tuổi… bóng tối nơi này đang đẩy anh trở lại với năm giờ đồng hồ khủng khiếp phải vật lộn với bóng đêm đen kịt… năm giờ đồng hố ấy còn ám ảnh anh đến tận bây giờ. Siết chặt hai bàn tay, anh cố xua nỗi ám ảnh ấy khỏi tâm trí.
Vittoria lẳng lặng bước ra khỏi thang máy, rồi nhanh nhẹn tiến vào vùng bóng tối, chẳng cần chờ Kohler và anh đi cùng. Những bóng đèn huỳnh quang trên đầu tự động bật lên soi đường cho cô. Cảm giác thật bất an, Langdon thầm nghĩ như thể toàn bộ đường hầm đang dõi theo mỗi bước chân của cô gái. Langdon và Kohler đi theo, bóng họ đổ dài phía sau. Đèn tự động tắt phụt đi ngay sau lưng họ.
- Máy gia tốc hạt này dẫn đến đâu? - Langdon khẽ hỏi?
- Đến kia, - Kohler chỉ về bên trái, nơi một đường ống mạ crôm bóng loáng chạy dọc theo bức tường trong đường hầm.
Langdon bối rối ước lượng đường ống.
- Đây là máy gia tốc?
Chẳng giống như anh tưởng tượng chút nào. Cỗ máy này thẳng tắp, đường kính khoảng 0,9 mét, chạy dọc chiếu dài đường hầm cho đến khi biến mất vào bóng tối. Giống y hệt một cái ống cống công nghệ cao, Langdon nghĩ.
- Tôi tưởng máy gia tốc hạt hình tròn.
- Máy gia tốc này hình tròn, - Kohler nói - Trông có vẻ thẳng đấy nhưng chỉ là ảo giác quang học. Chu vi của đường ống này lớn đến nỗi người ta không thể nhận ra đường cong của nó - giống như trái đất.
Langdon lặng người kinh ngạc. Cái này hình tròn?
- Nhưng… hẳn nó phải lớn khủng khiếp!
LHC là cỗ máy lớn nhất trên thế giới.
Langdon nhớ lại một chuyện. Người phi công của CERN từng nói về một cỗ máy khổng lồ chôn sâu dưới mặt đất. Nhưng…
- Nó có đường kính trên 8 km… và dài 27 km.
Đầu óc Langdon quay cuồng.
- 27 km? - Anh nhìn ông giám đốc rồi quay sang nhìn khoảng tối trước mặt. - Đường hầm này dài 27 km? Trên… 16 dặm!
Kohler gật đầu. - Một hình tròn hoàn hảo. Nó kéo dài đến tận nước Pháp rồi uốn cong trở lại đến điểm này. Các hạt được tăng tốc tối đa sẽ di chuyển vòng quanh đường ống mười ngàn lần một giây trước khi va đập.
Langdon trân trối nhìn đường hầm khổng lồ, hai chân anh như nhũn ra.
- Ý ông muốn nói rằng CERN đã đào hàng triệu tấn đất chỉ để nghiền nhỏ các hạt?
Kohler nhún vai:
- Để tìm ra chân lí thì có khi phải dời non lấp bể.
Cách trung tâm nghiên cứu hạt nhân của Uỷ ban châu Âu (CERN) hàng trăm cây số, một giọng nói rè rè vang lên từ máy bộ đàm.
- Được rồi, tôi đang ở lối vào.
Người nhân viên kỹ thuật ấn nút trên máy bộ đàm:
- Các anh hãy tìm chiếc camera số 86. Đáng ra nó phải ở góc cuối kia cơ.
Máy bộ đàm câm lặng hồi lâu. Người kỹ thuật viên bắt đầu vã mồ hôi. Cuối cùng thì nó cũng bắt đầu nhận tín hiệu.
- Không thấy máy quay ở đây, - giọng nói ban nãy cất lên. - Tôi nhìn thấy giá treo, nhưng máy thì bị tháo mất rồi.
Người kỹ thuật viên thở hắt ra nặng nề:
- Cám ơn. Chờ chút đã nhé!
Anh thở dài, nhường sự chú ý đến dãy màn hình trước mặt.
Phần lớn khu liên hợp được mở cửa công khai, và những chiếc camera không dây vẫn thỉnh thoảng biến mất, thường là do những kẻ nghịch ngợm ăn trộm về làm kỷ niệm. Nhưng ngay khi camera bị tháo ra khỏi thiết bị, tín hiệu bị mất vì màn hình trở nên trống trơn, song thật kỳ lạ, nhân viên kỹ thuật dán mắt vào thiết bị điều khiển, một hình ảnh trong suốt như pha lê vẫn được camera số 86 truyền về.
Nếu chiếc camera đã bị đánh cắp , anh băn khoăn, tại sao vẫn có tín hiệu nhỉ? Tất nhiên, chỉ còn một lời giải thích. Chiếc camera vẫn nằm trong tổ hợp và có người đã mang nó đặt ở một vị trí khác. Nhung ai mới được chứ? Và để làm gì?
Nghiên cứu màn hình hồi lâu, cuối cùng anh nhấc máy bộ đàm.
- Ở chân cầu thang còn có căn phòng nhỏ nào không? Một cái tủ hay hốc tường nào đó?
Giọng nói đáp lại vẻ hoang mang.
- Không. Sao vậy?
Người kỹ thuật viên nhíu mày:
- Không sao. Cám ơn sự giúp đỡ của anh! - Anh tắt máy bộ đàm, mím chặt môi.
Xem xét kích cỡ nhỏ bé của chiếc camera không dây, anh biết rằng hình ảnh ghi được ở camera số 86 có thể được chuyển về bất cứ chỗ nào trong phạm vi hệ thống được canh gác cẩn mật - một tổ hợp 32 toà nhà trong bán kính gần một cây số. Đầu mối duy nhất là dường như nó được đặt ở một góc tối. Dĩ nhiên, điều này chẳng giúp ích gì nhiều. Tồ hợp này có vô khối những chỗ tối - hộp kỹ thuật, ống dẫn nhiệt, kho chứa đồ, tủ đựng quần áo, thậm chí cả đường dẫn nước trong hầm ngầm. Phải mất hàng tuần mới xác định được vị trí của camera số 86.
Nhung đấy mới chỉ là vấn đề nhỏ nhất , anh nghĩ. Dù cho khâu xác định lại vị trí có thể gặp nhiều khó khăn, nhưng trước mắt còn có một vấn đề khác trầm trọng hơn nhiều.
Người kỹ thuật viên chăm chú nhìn hình ảnh truyền về từ chiếc camera bị mất tích. Đó là một vật thể bất động, trông lạ hoắc.
Anh quan sát kỹ những ánh chớp nhấp nháy dưới đáy của nó. Dù đã được rèn luyện kỹ càng để đối phó với những tình huống căng thẳng, người lính gác vẫn thấy mạch đập thình thình.
Anh tự nhắc mình không được sợ hãi. Chắc chắn phải có ai giải thích cho sự việc này. Vật thể này trông rất bé nhỏ, chắc không thể gây ra nguy hiềm gì đáng kể. Thế nhưng, sự hiện hữu của nó trong tổ hợp này vẫn là mối rắc rối lớn.
Lại vào đúng ngay hôm nay cơ chứ, anh thầm nghĩ.
An ninh luôn được xem là ưu tiên hàng đầu đối với chỉ huy của anh. Và hôm nay , hơn bất cứ ngày nào khác trong suốt 12 năm qua, an ninh lại càng có tầm quan trọng đặc biệt. Người kỹ thuật viên quan sát vật thể trên màn hình hồi lâu, linh tính mách bảo anh rằng một cơn bão khủng khiếp đang hình thành.
Mồ hôi vã ra như tắm, anh quay số gọi cấp trên.
Rất hiếm khi bọn trẻ nhớ được ngày đầu tiên chúng gặp cha, nhưng Vittoria thì luôn nhớ như in giây phút ấy. Lúc đó cô bé mới lên 8 tuổi. Không một lần được gặp cha mẹ mình, Vittoria là đứa trẻ bị bỏ rơi, và từ bé được nuôi dạy ở Orfanotrofio di Siena, một trại trẻ mồ côi của giáo hội Cơ đốc gần Florence. Hôm ấy trời mưa rả rích. Đã hai lần các xơ gọi đi ăn tối, nhưng cô bé cứ tảng lờ như không nghe thấy gì. Cô bé nằm ngoài sân, nhìn từng hạt mưa rơi, cảm nhận những giọt nước ấy đang quất vào người… và đoán xem hạt tiếp theo sẽ chạm vào chỗ nào trên cơ thể. Các xơ lại gọi lần một nữa, doạ rằng một đứa trẻ đã yếu ớt lại còn cứng đầu như cô bé thì chắc chắn sẽ bị viêm phổi, và sẽ chẳng còn cơ hội mà khám phá thiên nhiên.
Con có nghe thấy các xơ gọi đâu , Vittoria thầm nghĩ.
Khi cô bé đã ướt sũng thì một vị thầy tu trẻ tuổi tiến lại gần.
Vittoria chưa gặp ông bao giờ, một người hoàn toàn xa lạ. Vittoria tưởng con người xa lạ này sẽ túm cổ mình và lôi vào trong.
Nhưng không. Thay vào đó, cô bé ngạc nhiên thấy vị linh mục này cũng nằm xoài ra đất ngay cạnh mình, khiến cho tấm áo thầy tu mặc trên người ông cũng ướt sũng luôn.
- Các xơ nói rằng con rất hay vặn hỏi, - Ông lên tiếng.
Vittoria phản đối:
- Hỏi thì có gì là xấu?
Vị linh mục bật cười:
- Thế thì quả là các xơ nói đúng đấy.
- Cha tới đây làm gì vậy?
- Như con thôi… ta đang thắc mắc tại sao lại có mưa.
- Con không băn khoăn về điều đó! Con biết rồi!
Vị linh mục nhìn cô bé, vẻ ngạc nhiên:
- Con biết rồi ư?
- Xơ Francisca nói hạt mưa là những giọt nước mắt của các thiên thần rơi xuống để gột sạch tội lỗi của chúng ta.
- Ôi trời! - Vị thầy tu làm bộ kinh ngạc - Hoá ra là thế.
- Không phải đâu! - cô bé đáp ngay. - Mưa rơi vì tất cả mọi thứ đều rơi! Mọi thứ đều rơi! Không chỉ có mỗi mưa!
Vị linh mục gãi đầu, vẻ bối rối.
- Con biết không, cô bé, con nói đúng đấy. Mọi thứ đều rơi. Đó là do trọng lực.
- Đó là gì cơ"
- Ông lại nhìn cô bé ngạc nhiên. con chưa từng nghe nói đến trọng lực bao giờ à?
- Chưa ạ.
Vị linh mục buồn bã nhún vai.
- Tệ quá. Trọng lực là lời giải thích cho rất nhiều câu hỏi đấy.
Vittoria ngồi dậy.
- Trọng lực là gì ạ? Cha hãy nói cho con biết đi!
Vị linh mục nháy mắt:
- Câu hỏi này ta sẽ trà lời trong bữa tối.
Vị linh mục trẻ đó chính là Leonardo Vetra. Mặc dù đã từng giành giải thưởng khi còn học đại học, nhưng ông đã nghe theo một tiếng gọi khác và vào trường dòng. Leonardo và Vittoria đã trở thành người bạn vô cùng thân thiết trong thế giới cô đơn và tẻ nhạt của những tu sĩ và phép tắc. Vittoria khiến Leonardo phải bật cười, và ông giang tay che chở, rồi giảng giải cho cô bé những điều tuyệt vời như cầu vồng hay những dòng sông. Ông giảng giải cho cô về ánh sáng, về các hành tinh, các vì sao và các hiện tượng thiên nhiên theo quan điểm của cả Chúa trời lẫn khoa học. Trí thông minh thiên bẩm cộng với sự tò mò đã biến cô bé trở thành một học sinh tài năng. Leonardo bảo vệ Vittoria như thể cô bé chính là con gái của ông vậy.
Vittoria cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Cô bé chưa bao giờ được hưởng niềm hạnh phúc có cha. Khác hẳn những người lớn khác, chỉ trả lời những câu hỏi của cô bé theo kiểu an ủi, cha Leonardo đã dành hàng giờ đồng hồ để mở sách cho cô xem. Thậm chí ông còn hỏi xem ý kiến của cô bé thế nào. Vittoria cầu mong sao cha Leonardo sẽ ở mãi bên mình. Thế rồi một ngày, cơn ác mộng kinh hoàng nhất đời cô bé đã xảy ra. Cha Leonardo nói ông sẽ rời xa trại trẻ mồ côi.
- Cha sắp đi Thuỵ Sĩ, - Leonardo nói - Cha giành được học bổng ngành vật lí tại trường đại học Geneva.
- Ngành vật lí? - Vittoria khóc - Con tưởng cha yêu Chúa cơ mà!
- Ta yêu Chúa chứ, rất yêu là đằng khác. Đó là lí do tại sao ta muốn nghiên cứu những quy luật thiêng liêng của Chúa. Các định luật vật lí chính là tấm vải toan mà Chúa trải ra để vẽ nên kiệt tác của Người.
Vittoria cảm thấy vô cùng đau khổ. Nhưng cha Leonardo còn có một thông tin khác nữa. Ông nói với Vittoria rằng ông đã xin phép bề trên nhận Vittoria làm con nuôi, và đã được chấp nhận.
- Con có muốn làm con nuôi của ta không? - Leonardo hỏi.
- Con nuôi là thế nào ạ? - Vittoria nói.
Nghe cha Leonardo giải thích, Vittoria ôm ghì lấy ông đến năm phút, những giọt nước mắt sung sướng lăn trên gò má.
- Ôi vâng! Vâng!
Leonardo dặn dò cô bé rằng ông phải đi vắng một thời gian để chuẩn bị nhà mới cho hai cha con ở Thuỵ Sĩ; nhưng ông hứa sau 6 tháng sẽ quay lại đón cô bé. Đó là khoảng thời gian chờ đợi dài nhất trong cuộc đời Vittoria. Leonardo đã giữ lời hứa. Năm hôm trước ngày sinh nhật lần thứ 9 của mình, Vittoria được đến Geneva. Ban ngày cô bé học tại trường Quốc tế Geneva, còn ban đêm thì được cha nuôi dạy dỗ.
Ba năm sau, Leonardo được nhận vào làm việc tại CERN.
Vittoria và Leonardo chuyển đến một nơi ở tuyệt vời, một nơi mà cô gái bé bỏng Vittoria chưa bao giờ dám mơ tới.
***
Sải bước trong đường hầm LHC, Vittoria thấy lòng tê tái. Nhìn bóng dáng câm lặng của mình phản chiếu trên tường, cô gái càng nhớ thương cha. Bình thường thì trong cô luôn có một cảm giác bình an và hài hoà với thế giới xung quanh. Nhưng giờ đây, tất thảy bỗng chốc bị đảo lộn. Ba tiếng đồng hồ vừa trôi qua như một giấc mơ.
Lúc đó là 10 giờ sáng trên quần đảo Balearic khi Vittoria nhận điện thoại của Kohler. "Cha cô đã bị sát hại. Về nhà ngay đi ". Trên boong tàu ngầm rất nóng nực, nhưng những lời nói đó khiến cô gái thấy lạnh đến tận xương sống. Cô đau đớn vì thông tin kinh hoàng ấy, và cũng vì cả giọng nói lạnh lùng vô cảm của Kohler.
Giờ thì Vittoria đã về đến nhà. Nhưng nhà là gì chứ? CERN, thế giới của cô từ năm 12 tuổi, đột nhiên trở nên xa lạ. Người cha thân yêu, người đã biến nơi này thành xứ sở thần tiên, giờ đây không còn nữa.
Hít thở sâu , cô gái tự nhủ, nhưng tâm trí vẫn chẳng dịu đi chút nào. Bao nhiêu câu hỏi cứ xoay đảo trong đầu. Ai giết cha? Và tại sao? Cái anh chàng "chuyên gia" người Mỹ này là ai? Tại sao Kohler lại khăng khăng đòi xem phòng thí nghiệm?
Kohler nói rằng có bằng chứng cho thấy vụ sát hại cha cô liên quan đến dự án đang tiến hành. Bằng chứng nào? Không ai biết chúng tôi đang làm gì! Cho dù có biết đi chăng nữa thì giết cha tôi để làm gì ?
Sải bước dọc theo đường hầm LHC, xuống gần đến phòng thí nghiệm của cha, Vittoria nhận ra rằng mình sắp công bố thành tựu lớn nhất đời của cha, còn cha thì không thể có mặt ở đây được nữa. Trong trí tưởng tượng của Vittoria, khoảnh khắc này đáng ra phải hoàn toàn khác. Cô gái đã mường tượng cảnh cha mình mời những nhà khoa học hàng đầu của CERN đến phòng thí nghiệm, cho họ xem phát minh của hai cha con, và quan sát vẻ mặt kinh ngạc của họ. Rồi cha sẽ nở một nụ cười rạng rỡ, và ôn tồn giải thích rằng nhờ có ý tưởng của Vittoria nên cha đã có thể biến dự án thành này hiện thực… rằng con gái của cha là một phần không thể tách rời trong những phát minh mang tính đột phá này. Vittoria thấy cổ họng mình tắc nghẹn. Đáng ra mình phải được chia sẻ khoảnh khắc này với cha. Nhưng giờ đây chỉ có một mình Vittoria. Không đồng nghiệp. Không có những khuôn mặt rạng rỡ. Chỉ có một anh chàng người Mỹ xa lạ và Maximilian Kohler.
Maximilian Kohler.
Từ thuở bé, Vittoria đã không thích người đàn ông này. Dù sau này cô gái có ngưỡng mộ trí thông minh kiệt xuất của ông ta, thì lối cư xử vô tình và lạnh lẽo của Kohler vẫn luôn đối lập hoàn toàn với thái độ nồng hậu của cha cô. Kohler theo đuổi khoa học vì tính lôgíc thuần khiết của nó… còn cha cô lại vì những trăn trở tâm linh. Vậy mà kỳ lạ thay, hai người lại luôn luôn kính trọng nhau, dù không ai nói thành lời. Thiên tài, có người đã giải thích với cô, thường chấp nhận tài năng một cách vô điều kiện.
Thiên tài , cô thầm nghĩ. Cha… Cha đã mất rồi.
Lối vào phòng thí nghiệm của Leonardo Vetra là một hành lang dài được khử trùng, lát toàn đá trắng. Langdon cảm tưởng như đang bước vào một nhà thương điên dưới lòng đất. Nối giữa các hành lang là hàng chục bức ảnh đen trắng được đóng khung.
Dù nghề của Langdon là nghiên cứu hình ảnh, nhưng anh vẫn thấy những bức ảnh này cực kỳ lạ lẫm, trông như những đoạn phim âm bản lộn xộn ngổn ngang những hình xoáy và kẻ sọc ngẫu nhiên. Nghệ thuật hiện đại? Anh đăm chiêu. Liều thuốc kích thích của Jackson Pollockl?
- Gieo hạt trên những khoảnh đất, - Vittoria nói, rõ ràng là đã nhận thấy mối bận tâm của Langdon. - Máy tính thể hiện sự va đập của các hạt. Đó là các hạt Z - Vittoria chỉ vào một vệt mờ hầu như rất khó nhận ra trong mớ hỗn độn đó. - Cha tôi phát hiện ra nó 5 năm trước đây. Năng lượng thuần tuý - hoàn toàn không trọng lượng. Có lẽ nó là khối vật chất tự tạo nhỏ nhất trong tự nhiên. Vật chất không trọng lượng, nhưng lưu giữ năng lượng..
Vật chất là năng lượng? Langdon ngẩng đầu lên. Nghe hơi giống Thiền. Anh nhìn kỹ vào vệt sọc nhỏ bé trong bức ảnh và băn khoăn không biết mấy ông bạn thân của mình ở khoa vật lí tại Trường đại học Harvard sẽ nói gì khi nghe anh kể lại rằng ông bạn của họ đã có hàng tuần tha thẩn trong một cỗ máy gia tốc hạt (LHC) để chiêm ngưỡng các hạt Z.
- Vittoria, - Kohler lên tiếng khi họ tiến gần đến cánh cửa thép lớn của phòng thí nghiệm:
- Tôi nên nói cho cô biết rằng sáng nay tôi đã xuống đây tìm cha cô.
Vittoria hơi đỏ mặt.
- Ông ư?
- Đúng. Và hãy tưởng tượng tôi ngạc nhiên thế nào khi phát hiện ra rằng ông ấy đã thay thế phím an ninh chuẩn của CERN bằng một thứ khác. - Kohler chỉ tay vào một thiết bị điện tử phức tạp được treo bên cạnh cửa.
- Tôi xin lỗi, - cô nói - Ông biết đấy, cha tôi có ý định giữ bí mật. Ông ấy không muốn ai ngoài hai chúng tôi có thể tiếp cận phòng thí nghiệm.
Kohler nói:
- Được rồi. Mở cửa ra đi.
Vittoria đứng một lúc lâu. Rồi hít một hơi dài, cô bước đến cái máy trên tường.
Langdon không hề đoán được điều gì sắp xảy ra.
Vittoria bước lên gần thiết bị và cẩn thận hướng mắt phải tới ống kính nhô ra như kính viễn vọng. Rồi cô ấn nút. Trong máy phát ra tiếng lách cách nhẹ. Một luồng sáng lia vòng quanh để quét hình hình nhãn cầu, tựa như máy photocopy.
- Đây là máy quét võng mạc. - Cô nói - An toàn và chính xác. Nó chỉ chấp nhận hai cầu hình võng mạc thôi. Của tôi và cha tôi!
Robert Langdon đứng đó, vẻ thảng thốt. Hình ảnh Leonardo Vetra trở lại trong tâm trí với từng chi tiết rùng rợn: khuôn mặt đầy máu, ánh mắt màu lam nhạt đơn độc trợn trừng, còn hốc mắt bên kia thì trống trơn. Anh cố quên đi hình ảnh ấy, nhưng nó cứ hiện lên… phía dưới máy quét, trên nền đá lát màu trắng… những giọt máu đỏ mờ mờ. Máu đã khô.
Ơn trời, Vittoria không để ý thấy.
Cánh cửa thép mở ra, và cô gái bước vào.
Kohler chặn Langdon bằng ánh mắt sắc lạnh. Thông điệp của ông ta rất rõ ràng: Như tôi đã nói… con mắt bị mất dùng cho một mục đích cao hơn.

Chú thích:
(1) Jackson Pollock: Một nghệ sĩ người Mỹ (1912-1956), đứng đầu trường phái ấn tượng, dùng phong cách "nghệ thuật hành động". Ông thường dùng sơn vẩy lên tấm vải lớn để tạo những bức tranh.
 
Hai cổ tay bị trói chặt của cô gái giờ đã sưng vù lên, tím bầm lại do bị cọ xát nhiều. Gã sát thủ có nước da sẫm màu đang nằm bên cạnh, sờ mó, chiêm ngưỡng phần thưởng đã bị lột trần truồng của mình. Hắn tự hỏi liệu có phải giấc ngủ của cô ta chỉ là một trò lừa gạt, một mánh khóe để khỏi phải phục vụ hắn thêm nữa hay không.
Hắn không cần biết. Hắn đã tận hưởng xong phần thưởng của mình. Sau khi cơn khát dục vọng được thoả mãn, kẻ giết người ngồi dậy.
Ở nước hắn, đàn bà chỉ là vật sở hữu. Yếu ớt. Là công cụ mua vui Là thứ đồ để mua bán chẳng khác gì gia súc. Và họ rất biết thân biết phận. Nhưng ở đây, trên đất châu Âu, đàn bà luôn làm ra bộ mạnh mẽ và độc lập cũng chính vì thế mà hắn thấy thích thú và phấn khích. Buộc họ phải phục tùng mình về thể xác là thứ kh.oái lạc mà hắn luôn thèm khát.
Sau khi h.am m.uốn nhục dục được thoả mãn, tên sát thủ bắt đầu cảm nhận một dục vọng khác đang lớn dần lên trong hắn.
Đêm qua hắn đã giết người một cách dã man. Đối với hắn, giết chóc đã trở thành một loại ma tuý gây nghiện, mỗi phi vụ chỉ có thể nhất thời xoa dịu dục vọng ấy, để rồi sau đó nó càng trở nên thôi thúc hơn. Cảm giác đê m.ê kh.oái lạc tiêu tan. Cảm giác thèm thuồng muốn giết chóc quay trở lại.
Hắn quan sát kỹ cô gái đang nằm ngủ bên cạnh mình. Luồn tay quanh cổ cô, hắn biết chắc rằng chỉ cần một tích tắc cũng đủ để kết liễu mạng sống này. Nhưng nhỡ xảy ra hậu quả thì sao?
Cô ta chỉ là phường hạ đẳng, là thứ công cụ để mua vui. Những ngón tay mạnh mẽ của hắn vờn quanh cổ cô gái, áp vào động mạch, rồi cảm nhận từng nhịp đập nhẹ nhàng, đều đặn. Cố cưỡng lại bản năng giết chóc, hắn rụt tay lại. Còn có những việc khác cần phải làm. Sứ mệnh của hắn lúc này cao cả hơn kh.oái lạc gấp bội lần.
Bước ra khỏi gi.ường, niềm vinh hạnh được tham gia vào sứ mạng sắp tới choán đầy tâm trí tên sát thủ. Hắn chưa thể đánh giá được hết ảnh hưởng của người đàn ông mang tên Janus và hội kín mà hắn mới được gia nhập. Thật tuyệt vời, hắn được chọn! Không hiểu bằng cách nào mà hội biết được mối thù trong lòng hắn, và cả khả năng của hắn. Hắn sẽ chẳng bao giờ hiểu được Hội có chân rết ở khắp mọi nơi.
Giờ đây niềm vinh hạnh tột đỉnh đó đã được ban cho hắn.
Hắn sẽ hành động, và thay mặt hội để phát ngôn. Hắn sẽ giết người, và truyền bá thông điệp của hội. Ở đất nước của hắn, những người như thế được gọi là Malk al-hag - Thần Chân lý.

Phòng thí nghiệm của Vetra trông hệt như một cảnh trong phim viễn tưởng.
Toàn bộ hệ thống máy tính và các thiết bị điện tử chuyên biệt đều cùng một màu trắng ảm đạm, chẳng khác gì phòng mổ trong bệnh viện. Langdon băn khoăn không hiểu bí mật được lưu giữ ở nơi này ghê gớm đến mức nào mà người ta phải nhẫn tâm móc mắt người khác để vào bằng được.
Cùng họ bước vào phòng, Kohler có vẻ không được thoải mái. Ông ta đưa mắt nhìn khắp phòng một lượt, như thể muốn tìm dấu vết của kẻ đã đột nhập vào đây. Nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy người nào. Vittoria bước từng bước chậm chạp… như thể căn phòng này đã trờ nên vô cùng xa lạ từ khi cha cô không còn trên cõi đời này nữa.
ASnh mắt Langdon lập tức đúng lại giữa phòng. Anh thấy một dãy cột nhô lên trên sàn, giống như phiên bản của những phiến đá Stonehenge, khoảng một chục cây cột bằng thép bóng loáng xếp thành hình vòng tròn chính giữa phòng. Những cây cột này cao khoảng gần 1 mét, gợi nhớ tới một bảo tàng trưng bày đá quý nào đó. Nhưng không hề có đá quý. Trên mỗi cột là một hộp nhỏ, đầy dặn, trong suốt, to bằng hộp bóng tennis. Tất cả những cái hộp này hình như đều trống không.
Kohler bối rối đưa mắt nhìn những hộp nhỏ ấy. Nhưng rõ ràng là ông ta chưa muốn đả động đến chúng ngay lúc này. Ông giám đốc quay sang hỏi Vittoria:
- Có mất cái gì không?
- Mất cái gì? Làm sao mà mất được? - Cô phản đối - Máy quét võng mạc chỉ cho phép hai cha con tôi vào được thôi.
- Quan sát kỹ đi đã.
Vittoria thở dài và tìm kiếm xung quanh phòng một lúc. Cô nhún vai. - Mọi thứ vẫn như cha tôi sắp xếp. Hỗn độn một cách có trật tự.
Langdon nhận thấy Kohler đang cân nhắc điều gì đó, có lẽ ông ta đang nghĩ xem có nên ép Vittoria hay không… và nên để cho cô gái biết bao nhiêu phần sự thật. Rõ ràng là ông ta không muốn chờ đợi lâu hơn nữa. Điều khiển cho xe lăn di chuyển ra giữa phòng, Kohler chăm chú quan sát những cái hộp.
Cuối cùng ông ta lên tiếng:
- Bí mật là một thứ xa xỉ đối với chúng ta trong hoàn cảnh này.
Vittoria gật đầu đồng tình. Bất chợt cô gái có vẻ xúc động, có lẽ những kỷ niệm về người cha đang ùa về trong tâm trí.
Cho cô ấy thêm một phút nữa đi, Langdon nghĩ.
Như thể muốn chuẩn bị tinh thần để nói ra những điều vô cùng quan trọng, Vittoria nhắm nghiền mắt lại, hít thở sâu. Thở ra, hít vào, lặp đi lặp lại…
Theo dõi từng biểu hiện của cô gái, Langdon bỗng thấy lo lắng. Vittoria có làm sao không ? Anh quay sang nhìn Kohler. Ông ta vẫn hoàn toàn bình thản, rõ ràng đã quá quen với những cảnh này. Mười giây trôi qua, Vittoria mở mắt.
Langdon không ngờ cô gái lại có thể thay đổi nhanh đến thế.
Vittoria đã hoàn toàn khác hẳn. Đôi môi không còn mím chặt nữa, vai rũ hẳn xuống, ánh mắt yếu đuối đầy vẻ cam chịu. Như thể cô gái đã sắp xếp lại toàn bộ hệ cơ trong th.ân thể mình để thích nghi với tình thế bất ngờ này. Vẻ căm hờn vì đau khổ đã được thay thế bằng dáng vẻ điềm nhiên tự tại.
- Tôi nên bắt đầu từ đâu nhỉ… - cô lên tiếng, giọng điềm tĩnh.
- Từ đầu đi, - Kohler nói - Hãy cho chúng tôi biết về thí nghiệm của cha cô.
- Dùng khoa học để chứng minh tôn giáo là giấc mơ cả đời của cha tôi, - Vittoria nói - Cha tôi hy vọng có thể chứng minh được rằng tôn giáo và khoa học là hai lĩnh vực rất tương đồng - hai cách thức tuy khác nhau, nhưng đều dẫn đến cùng một chân lý.
Vittoria dừng lại một lúc, như thể không tin vào những gì mình sắp nói ra.
- Và gần đây, ông ấy đã tìm ra cách để chứng minh điều đó.
Kohler không nói gì.
- Cha tôi đã làm một thí nghiệm, một thí nghiệm chắc chắn sẽ gây ra những xung đột gay gắt chưa từng thấy trong lịch sứ khoa học và tôn giáo.
Langdon băn khoăn không hiểu Vittoria muốn nhắc tới xung đột gì. Trong suốt quá trình lịch sử, người ta đã tranh cãi quá nhiều.
- Liên quan tới thuyết nói rằng Chúa đã tạo ra thế giới, - Vittoria tuyên bố. - Những tranh cãi về sự hình thành của vũ trụ.
Ôi, Langdon thầm nghĩ. Cuộc tranh cãi này.
- Theo kinh thánh thì dĩ nhiên vũ trụ là do Chúa tạo ra, - cô gái giải thích. - Chúa nói phải có ánh sáng, - và thế là từ một khoảng không vĩ đại, mọi thứ hiện ra. Thật không may, một trong những định luật vật lí cơ bản lại cho rằng vật chất không thể tự nhiên sinh ra.
Langdon đã từng nghe nói về chuyện này. Ý tưởng cho rằng Chúa tạo ra "mọi thứ từ hư vô" hoàn toàn đối lập với những định luật vật lí hiện đại đã được công nhận. Vì vậy, các nhà khoa học cho rằng học thuyết Chúa sáng tạo ra thế giới là hoàn toàn lố bịch về mặt khoa học.
- Ông Langdon, - Vittoria quay sang anh - Ông đang nghĩ đến thuyết Big Bang phải không?
Langdon nhún vai:
- Đại loại như vậy.
- Anh biết rằng Big Bang hiện là học thuyết được đông đảo các nhà khoa học chấp nhận về sự hình thành nên vũ trụ. Nhận thức của anh cũng không được sâu sắc lắm, nhưng theo thuyết này thì một khối vật chất ban đầu chứa đựng một nguồn năng lượng cực lớn đã nổ tung, các mành nhỏ của nó văng ra khắp mọi hướng, tạo thành vũ trụ ngày nay.
- Đại thể là thế.
Vittoria nói tiếp:
- Khi Giáo hội Thiên Chúa giáo lần đầu tiên đưa ra học thuyết Big Bang vào năm 1927 thì…
- Cái gì cơ? - Không thể tự kiềm chế, Langdon ngắt lời cô gái - Cô nói thuyết Big Bang là ý tưởng của Giáo hội?
Câu hỏi của anh khiến Vittoria ngạc nhiên.
- Đương nhiên. Một tu sĩ Thiên Chúa giáo tên là Georges Lemaltre đã đưa ra giả thuyết này năm 1927.
- Tôi tưởng là…, - Anh ngập ngừng - Chẳng lẽ thuyết Big Bang không phải do Edwin Hubble, nhà thiên văn học của Harvard đề xuất sao?
Kohler trừng mắt:
- Lại nữa rồi, sự ngạo mạn của giới khoa học Mỹ. Hubble công bố năm 1929, hai năm sau Lemaltre.
Langdon trừng mắt.
- Người ta gọi là kính viễn vọng Hubble, thưa ngài - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến kính viễn vọng Lemaltre!
- Ông Kohler nói đúng đấy, - Vittoria lên tiếng:
- Ý tưởng đó thuộc về Lemaltre. Hubble chỉ khẳng định lại điều đó bằng cách thu thập bằng chứng để chứng minh rằng vụ nổ Big Bang là có căn cứ khoa học.
- Ồ, - Langdon thốt lên, băn khoăn không hiểu những kẻ vốn ngưỡng mộ Hubble đến mức mê cuồng ở khoa thiên văn của trường Harvard đã bao giờ đề cập đến Lemaltre trong các bài giảng của họ hay chưa.
- Lần đầu tiên khi Lemaltre đưa ra thuyết Big Bang, - Vittoria nói tiếp, - Các nhà khoa học cho rằng học thuyết này hoàn toàn lố bịch. Họ nói vật chất không thể được tạo ra từ con số không. Vì vậy khi Hubble làm chấn động cả thế giới bằng cách cung cấp những bằng chứng khoa học để chứng minh Big Bang, nhà thờ tuyên bố thắng cuộc và cho đây là một minh chứng cho rằng Kinh thánh chính xác về mặt khoa học. Là chân lí thần thánh.
Langdon gật đầu, chăm chú lắng nghe.
Lẽ dĩ nhiên là các nhà khoa học không hưởng ứng việc giáo hội sử dụng các phát minh khoa học để truyền bá tôn giáo, vì vậy họ ngay lập tức toán học hoá học thuyết Big Bang, gỡ bỏ những gì dính đến tôn giáo, và tuyên bố rằng phát minh này là của họ. Thật không may cho khoa học cho đến tận ngày nay, những phương trình của họ vẫn còn một thiếu sót lớn mà giáo hội muốn chỉ ra.
Kohler lầu bầu:
Đơn thức, - Ông ta nhấn mạnh từng chữ như thể sự tồn tại của mình sắp sụp đổ.
- Vâng, đơn thức, - Vittoria nói - Khoảnh khắc chính xác của tạo hoá. Điểm khởi đầu của thời gian. - Cô gái nhìn Langdon. - Thậm chí ngày nay khoa học vẫn chưa thể nắm bắt được thời điểm khởi đầu của sự hình thành vũ trụ. Các phương trình của chúng ta giải thích thời kì sơ khai của vũ trụ rất tốt, nhưng khi ta lùi thời gian lại tiến đến điểm số không thì các tính toàn lại không thống nhất, và mọi thứ dường như trở nên vô nghĩa.
- Rất đúng, - Kohler nói, giọng bực bội, - Và nhà thờ đã coi khiếm khuyết này là bằng chứng của sự tham gia màu nhiệm của Chúa. Bây giờ cô hãy nói vào vấn đề đi.
Giọng Vittoria bỗng trở nên xa xăm:
- Vấn đề là ở chỗ cha tôi vẫn luôn tin rằng có sự tham gia của Chúa vào vụ nổ Big Bang. Mặc dù giờ dây khoa học vẫn chưa thể nào lý giải được khoảnh khắc kỳ diệu của tạo hoá, nhưng ông ấy vẫn tin rằng một ngày nào đó khoa học sẽ làm được điều đó. - Cô buồn bã chỉ vào những tờ ghi nhớ dán khắp nơi trong khu vực làm việc của cha mình. - Cha tôi thường giơ những tờ giấy này ra trước mặt tôi mỗi khi tôi tỏ ra hoài nghi.
Langdon đọc dòng chữ in trên tờ giấy:
KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO KHÔNG HỀ XUNG ĐỘT NHAU.
ĐƠN GIẢN LÀ KHOA HỌC CÒN QUÁ NON TRẺ NÊN CHƯA LÝ GIẢI ĐƯỢC TẤT CẢ.
- Cha tôi muốn nâng khoa học lên một tầm cao mới, để khoa học chứng minh được sự tồn tại của Chúa - Vittoria nói và buồn bã vuốt mái tóc dài của mình. - Và cha tôi đã bắt tay tiến hành một việc mà chưa nhà khoa học nào nghĩ tới. Điều mà chưa ai đủ sức mạnh về công nghệ để tiến hành. - Cô gái ngừng lại, như thể chưa chọn được những ngôn từ thích hợp. - Ông đã tiến hành một thí nghiệm để chứng minh rằng thuyết Chúa sáng tạo ra vạn vật là chính xác.
Chứng minh rằng Chúa sáng tạo ra thế giới ? - Langdon băn khoăn. Phải có ánh sáng? Vật chất hình thành từ hư vô?
Đôi mắt lạnh lẽo của Kohler lia một lượt khắp gian phòng.
- Cô vừa nói cái gì?
- Cha tôi tạo một vũ trụ… từ con số không.
Kohler ngẩng phắt lên:
- Cái gì?
- Nói một cách chính xác thì ông ấy đã tái tạo vụ nổ Big Bang.
Kohler trông như thể sắp nhảy dựng lên.
Langdon hoàn toàn rối trí. Tạo ra một vũ trụ? Mô phỏng vụ nổ Big Bang?
- Đương nhiên, đây là sự mô phỏng trên quy mô nhỏ hơn.
Những lời nói của Vittoria mỗi lúc một trở nên gấp gáp:
- Quá trình này cực kỳ đơn giản. Cha tôi tăng tốc độ của hai hạt siêu mỏng từ hai hướng đối lập nhau trong ống gia tốc. Hai hạt này va đập ở vận tốc cực lớn, đâm xuyên vào nhau và nén toàn bộ năng lượng của chúng vào một điểm đơn nhất. Cha tôi đã tạo ra được tỷ trọng năng lượng cực đại.
Cô gái bắt đầu dùng đến hàng loạt thuật ngữ chuyên ngành, còn ông giám đốc thì tròn mắt kinh ngạc.
Langdon cố hiểu những điều cô gái nói. Vậy là Leonardo Vetra đang mô phỏng điểm năng lượng nén đã sinh ra vũ trụ ngày nay.
- Kết quả cực kỳ hấp dẫn. - Vittoria nói - Khi được công bố, thí nghiệm này sẽ làm rung chuyển toàn bộ ngành vật lý đương đại.
Cô gái nói chậm lại, như thể muốn tăng trọng lượng cho câu nói tiếp theo:
- Không hề sắp đặt trước, trong mỗi ống gia tốc, từ điểm tập trung năng lượng cực lớn này, các hạt vật chất xuất hiện từ hư không.
Kohler ngồi im như trời trống, hai mắt nhìn trân trối.
- Vật chất , - Vittoria lặp lại, - được sinh ra từ hư không. Một cuộc trưng bày pháo hoa ngoạn mục của các hạt nhỏ hơn nguyên tử. Một mô hình vũ trụ đang hình thành. Ông ấy muốn chứng minh không chỉ vật chất được tạo ra từ hư không mà cả vụ nổ Big Bang lẫn sự kiện Chúa sáng tạo thế giới có thể được giải thích đơn giản bầng cách chấp nhận sự hiện diện của một nguồn năng lượng khổng lồ.
- Ý cô là Chúa? - Kohler hỏi.
- Chúa Trời, Đức Phật, Đấng Tối Linh, Thánh Yahweh (Vị thánh của người Do Thái), đơn thức, điểm đơn nhất - bất cứ cái tên nào cũng được - kết quả vẫn là thế. Cả tôn giáo lẫn khoa học cùng tôn sùng một chân lí - năng lượng thuần tuý chính là cha đẻ của tạo hoá.
Cuối cùng thì Kohler cũng lên tiếng, giọng yếu ớt:
- Vittoria, tôi vẫn chưa hiểu. Hình như cô vừa nói rằng cha cô tạo ra vật chất… từ hư không?
- Vâng. - Vittoria chỉ về phía những chiếc hộp - Và đây là bằng chứng. Trong những chiếc hộp này là mẫu các vật chất mà cha tôi tạo ra.
Miệng húng hắng ho, Kohler tiến lại gần những chiếc hộp như một con thú đang thận trọng lượn quanh những thứ mà bản năng của nó mách bảo rằng có vấn đế.
- Có một điều tôi vẫn chưa hiểu. - Ông ta nói tiếp - Làm sao mọi người có thể tin được rằng những cái hộp này chứa các hạt vật chất mà cha cô thực sự tạo ra? Chúng có thể là những hạt lấy được từ bất cứ chỗ nào.
- Chắc chắn họ sẽ phải tin. - Vittoria nói bằng giọng tự tin. - Đây là những hạt độc nhất vô nhị. Chúng là một dạng vật chất chưa từng tồn tại ở bất cứ nơi nào trên trái đất… do đó chúng chỉ có thể được tạo ra.
Kohler càng tỏ ra hoài nghi:
- Vittoria, cô nói đến một dạng vật chất nhất định nghĩa là sao? Chỉ có một dạng vật chất duy nhất, và Kohler đột ngột ngừng bặt.
Giọng Vittoria đầy đắc thắng:
- Ông chẳng vừa tự nói ra đó sao, thưa giám đốc. Vũ trụ bao gồm hai loại vật chất. Sự thật khoa học đấy. - Vittoria quay sang Langdon - Ông Langdon, Kinh thánh nói thế nào về sự sáng tạo nhỉ? Chúa tạo ra gì?
Langdon cảm thấy ngượng, không hiểu tại sao cô gái lại hỏi mình điều đó.
- Ừm, Chúa tạo ra… ánh sáng và bóng đêm, thiên đường và địa ngục…
- Chính xác, - Vittoria nói - Người tạo ra vạn vật theo cặp đối lập Rất đối xứng và cực kỳ cân bằng. - Cô quay sang Kohler - Thưa giám đốc, khoa học cũng khẳng định như vậy, rằng vụ nổ Big Bang tạo ra vạn vật trong vũ trụ theo những cặp đối lập.
- Kể cả chính vật chất, - Kohler thì thầm, như thể đang tự nói với mình.
Vittoria gật đầu.
- Và trong thí nghiệm của cha tôi, quả thực là hai loại vật chất đã hình thành.
Langdon băn khoăn không hiểu. Leonardo Vetra tạo ra cái đối lập với vật chất?
Kohler có vẻ giận dữ:
- Thứ vật chất mà cô đề cập đến chỉ tồn tại đâu đó trong vũ trụ. Chắc chắn không ở trên trái đất, thậm chí không hiện diện trong thiên hà của chúng ta.
- Chính xác, - Vittoria đáp, - Điều đó là bằng chứng cho thấy những hạt trong hộp này là nhân tạo.
Mặt Kohler khó đăm đăm:
- Vittoria, cô có chắc những hộp này chứa mẫu thật không?
- Chắc chứ. - Cô tự hào nhìn những chiếc hộp - Trước mắt giám đốc là những mẫu phản vật chất đầu tiên trên thế giới.
Giai đoạn hai đây , tên sát thủ nghĩ thầm trong khi sải bước vào đoạn đường hầm tối om.
Ngọn đuốc hắn đang cầm trong tay sẽ trở nên vô cùng lợi hại.
Hắn biết điều đó. Phải thế mới được việc. Hiệu quả chính là điều quan trọng nhất. Tên sát thủ biết. rằng nỗi sợ hãi luôn là đồng minh cửa hắn. Cảm giác sợ hãi lan nhanh hơn bất cứ loại vũ khí nào khác.
Trong đường hầm không có tấm gương nào để tên sát thủ tự chiêm ngưỡng tài hoá trang của hắn, nhưng nhìn vào bóng chiếc áo thầy tu trải dài trên lối đi, hắn biết rằng khâu hoá trang của hắn vô cùng hoàn hảo. Đóng giả là một phần trong kế hoạch… một phần của điệp vụ. Tên sát thủ chưa bao giờ dám mơ đến một niềm vinh hạnh nhường này, kể cả trong những giấc mơ điên khùng nhất.
Hai tuần trước đây, hắn đã cho rằng nhiệm vụ mà hắn sắp thực hiện ở đầu kia của đường hầm là không khả thi. Làm thế chẳng khác nào tự sát. Tay không dẫn xác vào hang hùm. Nhưng Janus đã làm thay đổi định nghĩa của cụm từ bất khả thi.
Chỉ trong vòng hai tuần vừa rồi, Janus đã tiết lộ với tên sát thủ không biết bao nhiêu điều bí mật… đường hầm này chỉ là một trong số ấy. Quả là cũ kỹ, nhưng vẫn còn tốt.
Cần đến sào huyệt của kẻ thù, kẻ giết người băn khoăn không hiểu mọi sự có suôn sẻ và dễ dàng đúng như lời hứa của Janus hay không. Janus đã nói chắc như đinh đóng cột rằng một nội gián trong toà thánh đã sắp xếp hết mọi thứ cần thiết. Có kẻ nội gián bên trong . Thật không tin nổi . Càng nghĩ, hắn càng thấy chuyện này giống hệt trò trẻ con.
Wahad… tintain… thalatha… arabaa, hắn tự nhủ bằng tiếng Ả-rập khi tiến gần đến cuối đường hầm. Một… hai… ba… bốn…
- Hình như ông đã từng nghe nói đến phản vật chất, phải thế không ông Langdon? - Vittoria đang nhìn anh chăm chú. Nước da màu nâu sẫm của cô gái tạo nên một sự lương phản đầy ấn tượng với màu trắng của phòng thí nghiệm.
Langdon ngước mắt lên. Đội nhiên anh trở nên ấp úng:
- À… Ừm… đại loại như thế.
Cô gái thoáng mỉm cười:
- Tức là anh đã xem bộ phim Star Trek .
Langdon đỏ mặt:
- Ừ…, tại lũ sinh viên của tôi thích… - Anh nhíu mày - Không phải phản vật chất là thứ cung cấp nhiên liệu cho U.S.S Enterprise đấy chứ?
Cô gật đầu.
- Khoa học viễn tưởng thường bắt nguồn từ khoa học chính thống.
- Vậy phản vật chất là có thật?
- Chân lí của tự nhiên. Mọi thứ đều tồn lại song song với một thứ đối lập với nó. Có hạt proton thì phải có electron. Có hạt quark trên tất phải có hạt quark dưới. Có sự đối xứng trong vũ trụ ở mức độ tiểu nguyên tử. Phản vật chất là âm so với vật chất là dương . Nó cân bằng phương trình vật lí.
Langdon nghĩ đến quan điểm đối ngẫu của Galileo.
- Từ năm 1918, các nhà khoa học biết rằng, - Vittoria nói, - hai loại vật chất được tạo ra trong vụ nổ Big Bang. Loại vật chất thứ nhất ta thấy hiện diện trên trái đất, tạo thành núi đá, cây cối, con người. Loại vật chất kia ngược lại với loại thứ nhất - giống nhau mọi khía cạnh trừ điện tích trái dấu.
Kohler nói như thể vừa tỉnh cơn mộng. Giọng nói của ông ta đột nhiên mất hẳn tự tin:
- Nhưng có những rào cản kỹ thuật thực sự lớn đối với khâu lưu giữ phản vật chất. Thế còn chất trung lập thì sao?
- Cha tôi đã xây dựng một ống chân không phân cực đảo chiều để kéo các pozitron của phản vật chất ra khỏi máy gia tốc trước khi chúng bị phân huỷ.
Kohler giận dữ.
- Nhưng một ống chân không cũng sẽ kéo các vật chất ra ngoài. Sẽ không thể tách các hạt ra được.
- Cha tôi sử dụng từ trường. Vật chất tạo thành cung lửa điện ở bên phải, còn phản vật chất tạo ra cung lửa điện ở bên trái. Chúng ở hai cực đối nhau.
Đến lúc này, những nghi ngờ của Kohler dường như đã bị đập tan. Ông ta ngước nhìn Vittoria với vẻ ngạc nhiên tột độ, rồi đột nhiên ho rũ rượi:
- Thật… không…tin nổi… - Ông ta nói, tay quệt ngang miệng, - Nếu… - Dường như lối lập luận lôgíc vẫn chưa hoàn toàn bị chinh phục - Nhưng dù cho ống chân không có làm được điều đó đi nữa thì vẫn phải dùng đến vật chất để tạo ra những chiếc hộp này. Phản vật chất không thể được lưu trữ trong những chiếc hộp bằng vật chất. Phản vật chất sẽ ngay lập tức phản ứng với…
- Mẫu vật này không chạm vào thành hộp. - Vittoria nói, rõ ràng đã đoán trước câu hỏi. - Phản vật chất bị treo lơ lửng. Hai cha con tôi gọi những cái hộp này là "bẫy phản vật chất", bởi chúng giữ cho phản vật chất lơ lửng ở giữa, ở một cự ly an toàn so với các thành hộp và đáy hộp.
- Treo lơ lửng? Nhưng… làm thế nào?
- Giữa hai từ trường đan xen vào nhau. Đây, ông nhìn đi.
Vittoria bước qua căn phòng và lấy một bộ dụng cụ điện tử lớn. Chiếc máy kỳ lạ đó khiến Langdon nhớ đến một loại súng bắn tia chùm nào đó trong các phim hoạt hình - một nòng súng kiểu canon có ống ngắm trên đầu và một mớ dây điện loằng ngoằng phía dưới. Vittoria hướng ống ngắm vào một trong những chiếc hộp, ghé mắt vào ống kính và kiểm tra vài nút vặn. Rồi cô lùi lại đưa cho Kohler xem.
Kohler bối rối.
- Cô thu thập được cả lượng hữu hình?
- 5000 nanogram, - Vittoria nói - Một lượng plasma lỏng chứa hàng triệu pozitron(1) .
Hàng triệu? Nhưng người ta chỉ phát hiện tất cả có vài hạt ở… khắp nơi.
- Chất xenon. - Vittoria bình thản nói - Cha tôi đã tăng tốc các tia hạt xuyên qua một tia xenon, tách bỏ các hạt electron. Cha tôi muốn giữ bí mật quy trình này, nhưng nó liên quan đến việc đồng thời bơm thêm các hạt electron thô vào máy gia tốc.
Langdon chẳng hiểu gì, anh tự hỏi không biết có đúng là hai người này vẫn đang nói chuyện bằng tiếng Anh hay không.
Kohler dừng lại, nhíu mày, rồi đột nhiên thở hắt ra. Ông ta bất thần sụp xuống như thể vừa bị trúng đạn.
- Xét về kỹ thuật, điều này sẽ để lại…
Vittoria gật đầu.
- Đúng thế. Rất nhiều là đằng khác.
Kohler quay lại nhìn chiếc hộp trước mặt với vẻ hoài nghi. Ông nhấc người khỏi xe lăn, đưa ống nhòm lên gần mắt rồi ghé nhìn vào bên trong. Kohler im lặng chăm chú quan sát hồi lâu. Cuối cùng ông ta cũng ngồi xuống, mồ hôi vã ra, những nếp nhăn trên trán giãn hết ra, ông giám đốc gần như thì thào:
- Chúa ơi cô thực sự đã làm được điều đó?
Vittoria gật đầu:
- Cha tôi đã làm được điều đó.
- Tôi… tôi không biết phải nói gì.
Vittoria quay sang Langdon:
- Ông có muốn xem không? - Cô chỉ tay về phía thiết bị quan sát.
Không biết chắc điều gì đang chờ mình, nhưng Langdon vẫn bước về phía trước. Cách anh khoảng nửa mét, chiếc hộp dường như trống rỗng. Dù có bất cứ thứ gì ở bên trong thì chắc chắn cũng phải có kích thước vô cùng nhỏ bé. Langdon ghé mắt nhìn vào ống nhòm. Phải mất một lúc anh mới xác định được hình ảnh trước mắt mình.
Và anh đã nhận ra.
Vật thể đó không nằm dưới đáy hộp như anh tưởng, nó trôi bống bềnh ở giữa - một giọt trông giống hệt như thuỷ ngân đang lấp lánh. Như thể có phép màu, chất lỏng đó bay lượn, nhào lộn trong không trung. Những giọt sóng kim loại gợn lăn tăn trên bề mặt của nó. Thứ chất lỏng treo lơ lửng này làm Langdon nhớ đến một bộ phim anh đã từng xem về một giọt nước trong zero. Mặc dù biết giọt chất đó cực nhỏ, anh vẫn có thể nhìn thấy từng khe nhỏ đang chuyển động và dập dờn như quả cầu plasma chầm chậm cuộn mình trong không trung.
- Nó đang… bập bềnh, - anh nói.
- Tốt nhất là nên như vậy, - Vittoria đáp. - Phản vật chất cực kỳ không ổn định. Xét về mặt năng lượng, phản vật chất là hình ảnh phản chiếu của vật chất, vì vậy chúng sẽ ngay lập tức huỷ diệt lẫn nhau nếu tiếp xúc với nhau. Tất nhiên, giữ cho phản vật chất tách biệt khỏi vật chất là một thách thức lớn, vì mọi thứ trên trái đất này đều làm bằng vật chất. Những mẫu này phải được cất giữ ở những nơi nó không bao giờ được chạm vào bất cứ cái gì - kể cả không khí.
Langdon kinh ngạc. Trong môi trường chân không ư?
Những cái bẫy phản vật chất này…, - Kohler đột ngột ngắt lời, mặt đầy vẻ ngạc nhiên khi ông ta lướt ngón tay xanh xao của mình quanh đế hộp - đều do cha cô thiết kế à?
- Sự thật thì chúng do tôi thiết kế, cô gái đáp.
Kohler ngước nhìn lên.
Giọng nói của Vittoria vẻ đầy khiêm tốn:
- Cha tôi tạo ra những hạt phản vật chất đầu tiên nhưng lại lúng túng không biết nên lưu giữ chúng thế nào. Tôi đã nảy ra ý tưởng về những cái hộp này. Những vỏ hộp bằng công nghệ nano tổng hợp kín khí với các nam châm điện ngược chiều ở hai đầu.
- Có lẽ tài năng của cô vượt trội hơn ông ấy rồi đấy.
- Không hẳn đâu. Tôi lấy ý tưởng này từ thiên nhiên. Những con sứa Bồ Đào Nha thường bẫy cá giữa các xúc tu của chúng, dùng tế bào điện châm. Tôi cũng dùng nguyên tắc tương tự. Mỗi hộp có hai nam châm điện, mỗi đầu một cái. Từ trường ngược chiều nhau đan xen ở giữa và giữ các phàn vật chất lơ lửng giữa chân không.
Langdon nhìn lại chiếc hộp. Phản vật chất đang trôi bồng bềnh trong chân không, không chạm vào bất cứ thứ gì. Kohler nói đúng. Quả là thiên tài.
- Thế còn nguồn năng lượng cho những nam châm thì lấy ở đâu? - Kohler thắc mắc.
Vittoria chỉ tay:
- Trong cột, dưới cái bẫy. Những cái hộp này được bắt vít vào một chân đế liên tục nạp điện, cho nên nguồn năng lượng cho những thỏi nam châm này không bao giờ cạn.
- Còn nếu như năng lượng cạn kiệt thì sao?
Hiển nhiên là phản vật chất sẽ thoát khỏi tình trạng bị treo lơ lửng, rơi xuống đáy hộp, và chúng ta sẽ thấy sự huỷ diệt.
Langdon căng tai nghe ngóng:
- Sự huỷ diệt? - Anh không thích nghe từ đó chút nào.
Vittoria dường như không để ý.
- Vâng. Nếu phản vật chất tiếp xúc với vật chất, cả hai sẽ bị phá huỷ ngay tức khắc. Các nhà vật lí gọi đây là quá trình "huỷ diệt".
Langdon gật gù:
- À, ra thế.
- Đó là phản ứng đơn giản nhất trong tự nhiên. Một hạt vật chất và một hạt phản vật chất kết hợp lại với nhau tạo ra hai hạt mới - gọi là photon. Một photon chỉ là một luồng ánh sáng nhỏ li ti.
Langdon đã từng đọc về photon - các hạt ánh sáng - dạng thuần khiết nhất của năng lượng. Anh cố kiềm chế không hỏi chi tiết thuyền trưởng Kirk sử dụng ngư lôi photon trong việc chống lại quân Klingons(2) .
- Vậy nếu phản vật chất rơi xuống, chúng ta sẽ nhìn thấy một luồng sáng nhỏ?
Vittoria nhún vai:
- Còn phải xem anh định nghĩa thế nào là nhỏ. Lại đây, tôi sẽ cho anh xem. - Cô với lấy một cái hộp và bắt đầu mở vít, tháo hộp khỏi bục sạc điện.
Bất ngờ, Kohler hét lên kinh hoàng và nhào tới, dập vào lay cô gái:
- Vittoria! Cô điên rồi!

Chú thích:
(1) Pozitron: Phản rất nhỏ của vật chất có điện tích dương và có cùng khối lượng với electron.
(2) Thuyền trưởng Kirk và quân Klingons là những nhân vật nổi tiếng trong bộ phim truyện giả tưởng Star Trek.
 
Đột nhiên Kohler vùng đứng dậy, bất chấp đôi chân èo uột của ông ta. Mặt trắng bệch sợ hãi.
- Vittoria! Không được tháo rời cái bẫy ra thế!
Langdon hoang mang nhìn vẻ mặt kinh hoàng của ông giám đốc.
- 500 nanogram! - Kohler nói - Nếu cô phá hỏng từ trường…
- Thưa giám đốc, - Vittoria khẳng định, - Nó cực kỳ an toàn: Mỗi cái bẫy có một nguồn điện dự phòng, có pin hỗ trợ đề phòng nó bị tháo ra khỏi đế sạc. Mẫu vật vẫn được treo lơ lửng kế cả khi bị tháo rời khỏi hộp.
Kohler hình như vẫn chưa tin hẳn. Rồi sau đó, vẻ rất miễn cưỡng, ông ta ngồi xuống ghế.
- Pin này được kích hoạt tự động khi chúng ta tháo rời bẫy khỏi đế sạc, Vittoria nói:
- Chúng sẽ hoạt động trong vòng 24 tiếng đồng hồ như một bình gas dự trữ. - Cô quay sang Langdon, như thể cảm nhận được sự bất an của anh. - Phản vật chất có vài đặc tính rất khác lạ, thưa ông Langdon. Vì thế nên rất nguy hiểm. Một mẫu vật nặng 10 miligram - bằng kích cỡ một hạt cát - về mặt lí thuyết, có sức mạnh bằng 200 tấn khối nhiên liệu tên lửa thông thường.
Langdon lại thấy đầu óc bắt đầu quay cuồng chao đảo.
- Đây là nguồn năng lượng của tương lai. Mạnh gấp 1000 lần năng lượng hạt nhân. Hiệu quả cao gấp 100 lần. Không sản phẩm phụ. Không phóng xạ. Không gây ô nhiễm. Chỉ cần vài gram cũng đủ cung cấp năng lượng cho cả một thành phố lớn trong suốt một tuần.
- Vài gram? Đầy e ngại, Langdon tránh xa bục sạc.
- Đừng lo, - Vittoria nói - Những mẫu này chỉ là phần rất nhỏ của một gram - mấy phần triệu nên gần như vô hại. - Cô với lấy cái hộp và tháo ra khỏi bục sạc.
Kohler co rúm lại, nhưng vẫn không can thiệp. Khi chiếc bẫy được tháo rời ra, một tiếng kêu bíp sắc gọn vang lên, đèn điện tử gần đáy bẫy được kích hoạt. Những con số điện tử màu đỏ nhấp nháy, hiển thị số đếm ngược từ 24 giờ.
24:00:00…
23:59:58…
Langdon quan sát kỹ chiếc đồng hồ đếm ngược và nhận thấy rằng trông cái bẫy này chẳng khác gì một quả bom hẹn giờ.
Pin sẽ chạy trong vòng 24 tiếng cho đến khi cạn sạch. Nó có thể được nạp bằng cách đặt trở lại vào bục. Nó được thiết kế không chỉ vì lí do an toàn mà còn để cho dễ di chuyển.
- Di chuyển được? - Kohler có vẻ sửng sốt. - Cô mang thứ này ra khỏi phòng thí nghiệm à?
- Dĩ nhiên là không, Vittoria nói:
- Nhưng chúng tôi phải tính đến cả đặc tính cơ động của nó chứ.
Vittoria dẫn Langdon và Kohler tới một góc phòng. Cô gái kéo tấm rèm sang bên, để lộ ra một khung cửa sổ, bên ngoài là một Phòng lớn. Tường, sàn và trần đều được phủ một lớp thép. Căn phòng gợi cho Langdon nhớ đến khoang chứa đầu của tầu siêu trọng tải mà anh từng được xem khi đến Papua New Guinea để nghiên cứu hình vẽ trên cơ thể của trường phái Hanta .
- Đây là khoang huỷ diệt. - Vittoria tuyên bố.
Kohler ngước nhìn cô:
- Cô đã thực sự nhìn thấy sự huỷ diệt?
- Cha tôi rất quan tâm đến cơ sở vật lí của Big Bang - một lượng lớn năng lượng tạo ra từ những lõi vật chất cực nhỏ.
Vittoria mở một ngăn kéo thép phía dưới cửa sổ, đặt chiếc bẫy vào trong và đóng lại. Rồi cô kéo cần gạt bên cạnh ngăn kéo.
Ngay sau đó, chiếc bẫy xuất hiện phía bên kia bức tường kính, từ từ lăn nhẹ qua căn phòng thép rộng hình vòng cung cho đến khi dừng hẳn ở gần giữa phòng.
Vittoria thoáng cười.
- Đây sẽ là lần đầu tiên các ông được chứng kiến sự huỷ diệt giữa vật chất và phản vật chất. Chỉ là vài phần triệu của một gram. Mẫu vật này vô cùng nhỏ!
Langdon quay sang nhìn cái bẫy phản vật chất nằm trơ trọi trên sàn thép. Kohler cũng hướng sang nhìn cửa sổ, đầy vẻ hoài nghi.
- Thông thường, - Vittoria giải thích, - chúng ta phải đợi đủ 24 tiếng đồng hồ cho đến khi cạn pin, sàn của căn phòng này có chứa điện từ. Nó có thể vượt qua chiếc bẫy, kéo phản vật chất ra khỏi trạng thái lơ lửng. Và khi phản vật chất chạm vào vật chất thì…
- Sự huỷ diệt, - Kohler thì thầm.
- Còn một điều nữa, - Vittoria nói - phản vật chất chỉ tạo ra năng lượng thuần khiết. Nó chuyền hoá 100% khối lượng thành lượng tử ánh sáng (photon). Vì vậy đừng nhìn thẳng vào mẫu vật. Các ông hãy bịt mắt lại.
Dù thấy hơi lo lắng, nhưng Langdon vẫn cho rằng Vittoria đang quan trọng hoá vấn đề. Không được nhìn thẳng vào chiếc hộp ư? Thiết bị này cách anh những gần 30 mét, nằm sau bức tường cực dầy phủ plexiglas dẻo. Hơn nữa, đốm bụi trong hộp lại quá nhỏ bé, gần như vô hình. Phải che mắt ư? Langdon nghĩ. Liệu cái đốm bụi đó có thể aản sinh ra bao nhiêu năng lượng.
Vittoria bấm nút.
Ngay lập tức, Langdon loá mắt. Một điểm sáng rực rỡ bửng lên bên trong hộp, rồi những luồng sáng cực mạnh bung ra khắp mọi hướng, ập vào khung cửa sổ trước mắt với sức mạnh của sấm sét. Anh loạng choạng khi vụ nổ lan nhanh lên mái vòm.
Vầng sáng ấy rực lên một hồi, nhưng chỉ trong giây lát, nó tự thu nhỏ dần vào bên trong cho đến khi chỉ còn là một đốm bụi nhỏ xíu và biến mất không còn lại dấu vết gì. Langdon chớp mắt đau đớn, đợi cho thị lực dần phục hồi lại. Anh nheo mắt nhìn căn phòng bằng thép nóng rực. Cái hộp lên sàn nhà đã biến mất, như thể nó đã tâm thành không khí và không để lại bất kỳ dấu vết nào… Anh tròn mắt kinh ngạc:
- Ch… Chúa ơi!
Vittoria buồn bã gật đầu:
- Đây chính xác là điều cha tôi đã nói.
Kohler sững sờ nhìn căn buồng huỷ diệt, những gì vừa được chứng kiến khiến ông ta kinh ngạc đến tột độ. Robert Langdon đứng ngay cạnh đó, còn kinh ngạc hơn thế.
- Tôi muốn được nhìn mặt cha tôi, - Vittoria yêu cầu. - Tôi đã cho các ông xem phòng thí nghiệm, bây giờ tôi muốn được trông thấy cha tôi.
Kohler chậm chạp quay lại, rõ ràng là không nghe thấy những lời nói vừa rồi của cô gái.
- Sao hai cha con lại phải đợi lâu như vậy, Vittoria? Đáng nhẽ phải lập tức thông báo với tôi về phát minh này chứ?
Vittoria chằm chằm nhìn ông ta. Ông mới nghe bao nhiêu lí do đây?
- Thưa giám đốc, chúng ta sẽ nói chuyện này sau. Còn ngay bây giờ tôi muốn được nhìn thấy cha tôi.
- Cô biết công nghệ này có ý nghĩa thế nào không?
- Dĩ nhiên là có chứ, - Vittoria đối đáp. - Lợi nhuận cho CERN. Nhiều lắm. Bây giờ tôi muốn…
- Đó có phải là lí do thật không? - Kohler lục vấn, rõ ràng muốn tìm nguyên nhân thực sự. - Bởi vì cô sợ ban giám đốc sẽ bỏ phiếu không cấp phép cho công trình này chứ gì?
- Công trình này cần được cấp phép. - Vittoria đáp ngay, dù biết rằng Kohler đang cố tình lôi cô vào cuộc tranh luận này. - Phản vật chất là một công nghệ quan trọng. Nhưng cũng rất nguy hiểm. Cha tôi và tôi muốn có thêm thời gian hoàn thiện các quy trình để cho nó trở nên an toàn.
- Nói cách khác, cả hai không tin rằng ban giám đốc sẽ đặt sự thận trọng của khoa học lên trên thói hám lợi?
Vittoria ngạc nhiên trước vẻ lạnh lùng trong giọng nói của Kohler.
- Cũng còn vài vấn đề khác nữa, - cô nói - Cha tôi muốn có thời gian để giới thiệu phản chất với một cách thức phù hợp.
- Nghĩa là gì?
Thế ông hiểu ý tôi nói là gì?
- Vật chất được tạo từ năng lượng? Chẳng lẽ từ hư vô? Trên thực tế nó là bằng chứng cho thấy học thuyết cho rằng vạn vật đều do Chúa tạo ra là có cơ sở về mặt khoa học.
- Vì vậy ông ấy không muốn những hàm ý tôn giáo của phát minh này bị nhấn chìm trước sự tấn công dữ dội của quá trình thương mại hoá chứ gì?
- Trong chừng mực nào đó thì đúng là như vậy.
- Thế còn cô?
Điều mỉa mai là ở chỗ mối quan tâm của Vittoria lại gần như hoàn toàn ngược lại. Thương mại hoá luôn là mấu chốt cho sự thành công của bất cứ nguồn năng lượng mới nào. Mặc dù Công nghệ phản vật chất ẩn chứa nhiều tiềm năng vì nó sản sinh ra một nguồn năng lượng hữu ích mà không gây ô nhiễm - nhúng nếu được công bố quá sớm, nó có nguy cơ bị các chính trị gia gièm pha, và có thể thất bại như năng lượng hạt nhân và năng lượng mặt trời. Người ta phổ biến năng lượng hạt nhân trước khi nó được đảm bảo an toàn, nên đã có nhiều vụ tai nạn. Người ta công bố năng lượng mặt trời trước khi nó được đảm bảo hiệu quả nên nhiều người bị tổn hao tiền bạc. Cả hai công nghệ này đã lần lượt chịu nhiều tai tiếng, và cuối cùng chết yểu.
- Mối quan tâm của tôi, - Vittoria nói, - Không cao cả như khát vọng hợp nhất khoa học và tôn giáo.
- Môi trường, - Kohler đánh bạo khẳng định.
- Nguồn năng lượng vô hạn. Không bao giờ cạn kiệt. Không ô nhiễm. Không phóng xạ. Công nghệ phản vật chất sẽ là cứu cánh cho toàn bộ hành tinh của chúng ta.
- Và cũng sẽ huỷ diệt nó. - Kohler châm chọc. - Còn phụ thuộc vào việc ai sử dụng nó và vì mục đích gì. - Vittoria cảm giác hơi lạnh đang toả ra từ thân hình què quặt của Kohler. - Còn ai biết chuyện này nữa không?, - Ông ta hỏi.
- Không. - Vittoria nói - Tôi chỉ nói với các ông điều đó.
- Vậy theo cô thì tại sao cha cô lại bị sát hại?
Toàn thân Vittoria co cứng lại:
- Tôi không biết. Cha tôi có kẻ thù ở CERN, ông biết rồi đấy, nhưng cũng rất có thể phản vật chất không phải là lý do của vụ việc này. Hai cha con tôi đã thề giữ kín công trình này trong vài tháng nữa, cho đến khi sẵn sàng.
- Và cô có chắc là cha cô không vi phạm lời thề không?
Vittoria như sắp phát điên đến nơi:
- Có những lời thề khác còn lớn lao hơn nhiều, và cha tôi không phải là kẻ bội ước?
- Thế cô không nói cho ai biết đấy chứ?
- Đương nhiên là không!
Kohler thở hắt ra. Ông ta ngừng lời, như thể đang lựa chọn từ ngữ cho thích hợp.
- Giả sử có người đã biết về phát kiến này. Vớ giả sử kẻ đó đã vào được phòng thí nghiệm này. Theo cô thì hắn muốn tìm kiếm cái gì? Cha cô có ghi chép lại gì ở đây không? Tài liệu về quá trình thí nghiệm ấy?
- Thưa giám đốc, tôi đã rất kiên nhẫn và muốn nghe câu trả lời ngay bây giờ. Ông cứ nghĩ mãi đến khả năng có người đột nhập làm gì. Ông nhìn thấy máy quét võng mạc rồi đấy. Cha tôi rất thận trọng về mặt an ninh và bảo mật.
- Tôi đùa ấy mà. - Kohler ngắt lời khiến cô giật mình. - Thế có bị mất gì không?
- Tôi không biết,, Vittoria giận dữ đảo mắt khắp phòng. Tất cả các mẫu vật vẫn còn đầy đủ. Khu vực làm việc của cha cô vẫn có vẻ ngăn nắp. - Chẳng có ai vào đây cả. - Cô tuyên bố. - Mọi thứ ở trên này vẫn ổn.
Kohler ngạc nhiên:
- Ở trên này ?
Vittoria nói theo bản năng:
- Vâng. Đây là phòng thí nghiệm bên trên.
- Cô còn dùng cả phòng thí nghiệm bên dưới?
- Để lưu trữ.
Kohler trợn mắt nhìn cô gái, rồi lại ho rũ rượi. cô dùng phòng Haz-mat để cất giữ ư? Cất giữ cái gì vậy?
- Vật chất nguy hiểm (Haz-mat) chứ còn gì nữa ! - Vittoria không còn bình tĩnh được nữa. - Phản vật chất.
Kohler dùng tay đu người lên thành xe lăn.
- Còn có các mẫu vật khác nữa ư? Sao cô không nói cho tôi biết chuyện chết tiệt này luôn đi!
- Lúc nãy tôi đã định nói rồi, - Vittoria đốp lại. - Nhưng ông có cho tôi cơ hội đâu!
- Chúng ta phải kiểm tra những mẫu vật đó ngay bây giờ! - Kohler nói.
- Một mẫu vật thôi. - Vittoria chữa lại. - Chỉ có một mẫu vật duy nhất. Không sao đâu. Không ai có thể…
- Chỉ một thôi ư? - Kohler ngập ngừng. - Sao không để nó ở trên này?
- Cha tôi muốn đặt nó dưới nền đá để đề phòng. Nó lớn hơn những mẫu vật kia.
Những ánh mắt đầy lo ngại mà Kohler và Langdon trao đổi cho nhau không qua nổi cặp mắt của Vittoria. Kohler lại ngước lên nhìn Vittoria.
- Hai người đã tạo ra một mẫu vật lớn hơn 500 nanogram sao?
- Việc này là rất cần thiết. - Vittoria biện bạch. - Cần phải chứng minh rằng phản vật chất mang lại hiệu quả sử dụng cao hơn chi phí để tạo ra nó.
Vittoria biết rằng vấn đề then chốt đối với bất kỳ nguồn năng lượng mới nào cũng là mối tương quan giữa chi phí sản xuất và hiệu quả sử dụng - phải chi ra bao nhiêu tiền để có được nguồn năng lượng đó. Xây cả một giàn khoan chỉ để thu về một thùng dầu duy nhất thì dĩ nhiên là phải chịu lỗ. Tuy nhiên, vẫn với giàn khoan đó, nếu chỉ cần thêm một khoản chi nhỏ mà khai thác được hàng triệu thùng dầu thì mới gọi là kinh doanh. Phản vật chất cũng vậy. Bắn phá hạt cơ bản trong một đường ống điện từ dài 16 dặm chỉ để tạo ra một mẫu phản vật chất bé tí tẹo thì chẳng mang lại ích lợi gì. Để chứng minh rằng phản vật chất có hiệu quả và để đảm bảo rằng nó sẽ tồn tại được cần phải tạo ra những mẫu lớn hơn rất nhiều.
Cha của Vittoria đã rất lưỡng lự về vấn đề tạo ra mẫu vật lớn, nhưng Vittoria đã hối thúc ông. Cô lập luận rằng nếu muốn phản vật chất được xem trọng thì phải chứng minh được hai điều.
Trước hết, phải tạo được hiệu quả và giảm chi phí. Thứ hai là những mẫu vật này phải có chỗ lưu giữ an toàn. Cuối cùng thì cô gái đã thắng, và cha cô đã từ bỏ những lý lẽ của chính mình. Tuy nhiên, bảo mật và quyền tiếp cận là hai yếu tố cực kỳ quan trọng. Cha cô kiên quyết yêu cầu phải lưu giữ phản vật chất trong Haz-mat - một hốc đá granit nhỏ nằm cách mặt đất 22,5 mét. Mẫu vật này là điều bí mật của hai cha con. Và cũng chỉ hai cha con tiếp cận được nó.
- Cô Vittoria, - Kohler nói tiếp, giọng căng thẳng. - Mẫu vật hai cha con cô tạo ra lớn đến mức nào?
Vittoria cảm thấy trong lòng dâng trào một niềm hoan hỉ pha chút giễu cợt. Cô gái biết rằng kể cả Maximilian Kohler vĩ đại cũng sẽ bị chấn động trước khối lượng này. Cô gái mường tượng trong đầu hộp vật chất ở tầng dưới. Thật khó tin. Nó đang lơ lửng bên trong bẫy, có thể dễ dàng quan sát bằng mắt thường, một khối phản vật chất hình cầu nhỏ đang nhảy múa. Không phải một đốm bụi siêu nhỏ, mà là một giọt to bằng con ốc vặn.
Vittoria hít một hơi dài.
- Chẵn một phần tư gram!
Mặt Kohler cắt không còn giọt máu.
- Cái gì? - Ông ta ho sù sụ.
- 0,25 gram? Nó tương đương với… gần 5 kiloton!
Kiloton . Vittoria ghét cách dùng từ đó. Cha cô và cô không bao giờ dùng đơn vị đo ấy. Một kiloton bằng khoảng một tấn khối thuốc nổ TNT. Kiloton là đơn vị đo sức mạnh của vũ khí. Một lượng chất nổ. Sức mạnh huỷ diệt. Vittoria và cha chỉ dùng Volt và Jun - những đơn vị mà người ta vẫn dùng để đo nguồn năng lượng hữu ích.
- Trên lý thuyết thì lượng phản vật chất đó đủ để làm cho mọi thứ trong vòng bán kính gần 800 mét chảy hết ra! - Kohler thốt lên.
- Đúng, nó sẽ ngay lập tức huỷ diệt mọi thứ, - Vittoria đối đáp. - Đó là việc chưa một ai dám làm!
- Trừ những kẻ hoàn toàn không có chút hiểu biết nào. Nhỡ ra nguồn điện bị ngắt thì sao! - Kohler bắt đầu tiến về phía thang máy.
- Đó là lí do tại sao cha tôi cất nó ở Haz-mat bằng nguồn điện dự phòng và hệ thống an ninh vô cùng rườm rà.
Kohler quay đầu lại, vẻ đầy hy vọng:
- Cô có dùng hệ thống an ninh tăng cường cho Haz-mat không?
- Có. Máy quét võng mạc lần hai.
Kohler chỉ thét lên hai câu cộc lốc:
- Xuống dưới. Ngay bây giờ.
Chiếc thang máy chở hàng lao xuống như một tảng đá đang rơi tự do.
Họ đi tới căn phòng cách mặt đất 22,5 mét.
Vittoria biết chắc chắn rằng hai người đàn ông kia đang cảm thấy sợ hãi khi chiếc thang máy xuống sâu hơn. Khuôn mặt vốn thường vô cảm của Kohler như căng ra. Tôi hiểu , Vittoria nghĩ, mẫu vật này quá lớn, nhưng chúng tôi đã rất thận trọng …
Họ đã xuống tới nơi.
Cánh cửa thang máy mở ra, và Vittoria dẫn hai người đàn ông vào dãy hành lang sáng mờ. Cuối hành lang là một cánh cửa thép khổng lồ. HAZ-MAT . Thiết bị quét võng mạc nằm ngay bên cửa giống như ở trên tầng. Cô gái tiến đến gần, rồi cẩn thận đưa mắt quét qua ống kính.
Vittoria lùi lại. Có điều gì đó bất thường. Ống kính vốn trong suốt nay… bê bết một thứ gì trông giống như… máu. Vẻ bối rối, cô quay sang nhìn hai người đàn ông, nhưng chỉ thấy những khuôn mặt trắng bệch. Cả hai mặt cắt không còn giọt máu, và đều đang nhìn xuống sàn nhà, ngay dưới chân Vittoria.
Cô gái đưa mắt nhìn theo họ… nhìn xuống sàn.
- Đừng! - Langdon kêu lên, vội đỡ lấy cô gái. Nhưng đã quá muộn.
Vittoria nhìn trân trân vào vật thể trên sàn nhà. Nó hoàn toàn xa lạ, nhưng cũng vô cùng thân thuộc.
Chỉ trong một khoảng khắc ngắn ngủi, Vittoria đã hiểu ra và kinh hoàng đến tột độ. Dưới sàn nhà là một nhãn cầu đang trừng trừng nhìn cô, nó đã bị vứt bỏ như một mẩu rác. Màu lam nhat này thì dù có ở đâu cô gái cũng nhận ra ngay.
Người kỹ thuật viên nín thở khi Chỉ huy nhoài người qua vai anh và xăm soi dãy màn hình an ninh trước mặt. Một phút trôi qua.
Thái độ im lặng của chỉ huy cũng chẳng có gì lạ thường, người nhân viên kỹ thuật tự nhủ. Ông ta vốn thuộc mẫu người cứng nhắc Nếu cứ lau chau nói xong rồi mới nghĩ thì làm sao ông ấy có thể thăng tiến lên đến chức Tổng Tư lệnh của một trọng những lực lượng an ninh danh giá nhất thế giới cơ chứ.
Nhưng chỉ huy đang nghĩ gì nhỉ?
Vật thể họ đang quan sát lên màn hình trông giống như một cái hộp - một cái hộp nhỏ bốn phía trong suốt. Nhưng đó mới là phần dễ nhận ra. Phần bên trong mới là khó.
Bên trong chiếc hộp, dường như nhờ có một loại hiệu ứng đặc biệt nào đó, một giọt chất lỏng trông giống kim loại đang lơ lửng giữa không trung. Giọt chất lỏng đó cứ xuất hiện rồi lại biến mất trong ánh đèn đỏ nhấp nháy của chiếc đồng hồ kỹ thuật số đang đếm ngược, khiến cho người kỹ thuật viên thấy sởn da gà.
- Này, cậu có thể tăng độ sáng lên không? - Câu nói bất ngờ của chỉ huy khiến người nhân viên kỹ thuật giật mình.
Theo đúng mệnh lệnh, anh tăng thêm độ sáng cho hình ảnh.
Chỉ huy nhoài hẳn người về phía trước, dí sát mắt vào màn hình để nhìn cho rõ những hình ảnh mới hiện ra ở dưới đáy hộp.
Người nhân viên kỹ thuật cũng hướng theo ánh mắt của chỉ huy. Một cái tên được viết tắt ngay cạnh đèn điện tử, rất mờ. Bốn chứ cái viết hoa lúc ẩn lúc hiện trong nguồn sáng đang liên tục bật rọi lại tắt.
- Cậu ở nguyên đây, - người chỉ huy ra lệnh. - Không được nói gì với bất kỳ ai. Tôi sẽ giải quyết việc này.
Haz-mat . Cách mặt đất 50 mét.
Vittoria Vetra chới với, suýt nữa ngã vào máy quét võng mạc.
Cô thấy người Mỹ kia lao tới ôm lấy và đỡ cho cô khỏi ngã. Dưới sàn nhà, ngay cạnh chân Vittoria, mắt của cha đang nhìn trừng trừng. Cô gái thấy hai lá phổi bỗng chốc cạn sạch dưỡng khí. Hắn đã móc mắt của cha ! Mọi thứ xung quanh Vittoria quay cuồng.
Kohler cho xe lăn đến sát bên cô, và nói điều gì đó. Còn Langdon thì dẫn cô đi. Như người mộng du, cô gái thấy mình đang nhìn vào máy quét võng mạc. Rồi tiếng bíp vang lên.
Cánh cửa mở ra.
Dù vẫn thấy con mắt của cha như đang trừng trừng nhìn vào tận đáy tim mình, Vittoria biết ngay rằng một điều khác nữa, kinh khủng hơn thế nhiều, đang đợi sẵn ở trong phòng.
Hốt hoảng đưa mắt quan sát một lượt khắp phòng, cô gái nhận ra một cơn ác mộng nữa đã bắt đầu. Trước mắt cô, bục sạc duy nhất trong phòng hoàn toàn trống không.
Cái hộp đã biến mất. Chúng móc mắt cha để đánh cắp cái hộp. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, Vittoria chưa thể xác định hết được những hậu quả hãi hùng của sự kiện này. Gậy ông lại đập lưng ông. Mẫu vật nhằm chứng minh rằng phản vật chất là nguồn năng lượng an toàn và có khả năng tồn tại đã bị đánh cắp. Làm gì có ai biết đến sự tồn tại của mẫu vật này! Nhưng làm sao có thể phủ nhận được sự thực đang bày ra trước mắt. Có kẻ đã biết điều bí mật này. Vittoria không thể hình dung nổi kẻ đó là ai. Kể cả Kohler, người biết tất cả mọi chuyện ở CERN, cũng không được biết một tí gì về công trình này.
- Cha cô đã chết. Đã bị sát hại bởi chính tài năng của ông ấy.
Đau đớn vì mất đi người cha yêu dấu Vittoria đồng thời còn bị giày vò bởi một tâm trạng khác đáng sợ hơn nhiều nỗi đau mất cha. Vò xé trong lòng. Nghiền nát tâm can. Cảm giác tội lỗi. Cảm giác ân hận. Vittoria biết rằng chính cô là người đã thuyết phục cha tạo ra mẫu vật này, trong khi cha không hề muốn. Và giờ thì chính vì mẫu vật này mà cha bị sát hại.
Một phần tư gram…
Giống như bất cứ thành tựu nào khác của khoa học kỹ thuật - pháo, thuốc súng hay động cơ đốt trong - phản vật chất sẽ trở thành công cụ giết người cực kỳ nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ xấu. Phản vật chất là một loại vũ khí giết người hàng loạt, có sức công phá lớn kinh khủng, và không gì ngăn chặn được. Một khi bị tháo khỏi bục sạc tại CERN, chiếc hộp sẽ đếm ngược thời gian, không thể ngăn lại được.
Và khi khoảng thời gian ấy chấm dứt thì…
Một luồng sáng chói loà. Một tiếng nổ vang rền. Tất cả mọi thứ sẽ trở thành tro bụi. Một luồng chớp lóe lên… và một cái hố khổng lồ, trống hoác.
Nghĩ đến chuyện tài năng và nhân cách đức độ của cha bị biến thành một loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt, Vittoria đau đến xé lòng. Phản vật chất là thứ vũ khí khủng bố ghê rợn chưa từng thấy. Nó không chứa kim loại để có thể tìm được bằng máy dò, không có hoá chất để có thể dùng đến chó nghiệp vụ, và cũng không có ngòi nổ để tháo nếu nhà chức trách xác định được vị trí của nó. Đồng hồ đếm ngược đã bắt đầu hoạt động…
Chẳng biết làm gì khác, Langdon rút khăn tay ra, phủ lên con mắt của Leonardo Vetra vẫn nằm nguyên lên sàn. Vittoria đang đứng ngay ở cửa phòng Haz-mat trong tâm trạng trống rỗng, đau đớn và kinh hãi. Theo bản năng, anh định đến bên cô gái, nhưng bị Kohler ngăn lại.
- Ông Langdon này - Vẫn giữ nguyên vẻ mặt vô cảm, ông ta ra hiệu bảo Langdon tránh ra ngoài tầm nghe của cô gái. Langdon miễn cưỡng làm theo và để Vittoria đứng đó một mình. - Ông là chuyên gia, - Kohler thì thào. - Ông hãy cho tôi biết những thành viên khốn nạn của hội Illuminati sẽ dùng mẫu vật này làm gì.
Langdon cố tập trung suy nghĩ. Bất chấp những sự kiện khủng khiếp vừa xảy ra, phản ứng của anh vẫn đầy lí trí. Anh không chấp nhận về mặt học thuật. Kohler vẫn đang tiếp tục đoán già đoán non, những phỏng đoán hết sức phi lý.
- Hội Illuminati không còn tồn tại nữa, ông Kohler ạ. Tôi tin chắc chắn là thế. Hung thủ có thể là bất cứ kẻ nào - thậm chí có thể là một nhân viên của CERN, kẻ đó phát hiện ra công trình có tính đột phá này, và cho rằng dự án này quá nguy hiểm nên không muốn thấy nó được tiếp tục tiến hành.
Kohler có vẻ ngạc nhiên.
- Ông cho rằng đây là loại tội phạm có lương tâm sao, ông Langdon? Thật ngớ ngẩn. Bất kể là ai thì hung thủ cũng chỉ cần có một thứ mà thôi - mẫu phản vật chất. Và chắc chắn là hắn phải có kế hoạch từ trước.
- Ông muốn nói tới bọn khủng bố?
- Hiển nhiên rồi.
- Nhưng Illuminati không phải là một tổ chức khủng bố.
- Ông hãy làm cho Leonardo Vetra sống dậy mà nói với ông ấy điều đó!
Langdon không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên này.
Quả thực là hung thủ đã khắc biểu tượng của Illuminati lên người Leonardo Vetra. Dấu khắc nung này từ đâu ra? Nó có vẻ như một trò chơi hóc búa đối với những người muốn chuyền hướng điều tra sang những đối tượng nghi vấn khác. Nhất định phải có một cách lý giải khác.
Một lần nữa, Langdon buộc mình phải xem xét lại một giả thuyết mà ngay từ đầu anh đã thấy không hợp lý. Giả sử hội kín Illuminati vẫn còn hoạt động, và nếu đúng là Hội này ăn cắp phản vật chất, thì họ định làm gì? Mục tiêu của Illuminati là gì? Câu trả lời nảy ra ngay trong đầu anh. Nhưng Langdon lập tức gạt đi. Đúng là hội Illuminati đã xác định rõ ràng kẻ thù của họ là ai, nhưng kiểu tấn công khủng bố chống lại kẻ thù trên diện rộng thì không giống với tôn chỉ của họ. Cung cách này không giống Illuminati chút nào. Đúng, Illuminati đã từng giết người, nhưng là những cá nhân, sau khi đã suy xét thận trọng. Giết người hàng loạt có vẻ là kiểu hành động quá nặng tay so với Illuminati. Langdon chợt ngừng lại. Cũng có thể hội kín này đang thực hiện một mục đích vô cùng to lớn nào đó - phản vật chất, thành tựu chói lọi nhất của khoa học, đang được sử dụng để huỷ diệt…
Langdon thấy lập luận này phi lý và không thể chấp nhận được.
- Có lẽ là… - anh đột ngột lên tiếng, - Có một lời giải thích hợp lí hơn so với giả thuyết về khủng bố.
Kohler nhìn anh chằm chằm, rõ ràng là đang đợi câu trả lời.
Langdon cố sắp xếp những ý nghĩ trong đầu cho rành mạch. Hội Illuminati luôn sử dụng sức mạnh to lớn của họ thông qua các phương tiện tài chính. Họ kiểm soát các nhà băng, sở hữu hàng đống vàng, thậm chí người ta còn đồn đại rằng họ đang nắm giữ viên ngọc quý giá nhất trên thế giới - viên kim cương ánh sáng, một viên kim cương khổng lồ không tì vết.
- Tiền, - Langdon nói - Phản vật chất có thể bị đánh cắp chỉ vì tiền.
Kohler nhìn anh vẻ hoài nghi.
- Chỉ vì tiền? Liệu có thể mang phản vật chất đến nơi nào để mà bán đây?
- Không phải mẫu vật, - Langdon phản bác. - Mà là công nghệ. Công nghệ phản vật chất mới là nguồn tiền vô tận. Có lẽ kẻ đó lấy cắp mẫu vật để phân tích và nghiên cứu.
- Gián điệp công nghiệp? Nhưng pin của chiếc hộp đó sẽ cạn trong vòng 24 tiếng. Những kẻ nghiên cứu sẽ nổ tung thành từng mảnh trước khi chúng phát hiện ra bất cứ điều gì.
- Chúng có thể nạp lại pin trước khi nó kịp nổ. Chúng cũng có thể tạo bục sạc tương thích như ở CERN.
- Trong vòng 24 tiếng sao? - Kohler tỏ vẻ thách thức. - Kể cả trong trường hợp chúng đánh cắp được cơ chế hoạt động thì một bục sạc như vậy cũng phải mất hàng tháng mới chế tạo được, chứ đừng nói hàng giờ!
- Ông ấy nói đúng đấy. - Vittoria yếu ớt lên tiếng.
Cả hai người đàn ông cùng quay lại. Vittoria đang tiến về phía họ dáng đi cũng run rẩy, hệt như giọng nói.
- Ông ấy nói đúng đấy… Không ai có thể chế tạo được một cái đế sạc trong vòng 24 giờ. Riêng khâu chế tạo giao diện cũng đã mất vài tuần. Bộ lọc từ thông, dây cuộn phụ, hợp kim làm mát, tất cả phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng mức năng lượng cụ thể.
Langdon nhíu mày. Vấn đề đã rõ ràng. Bẫy phản vật chất không phải là thứ người ta chỉ cần nhét phích vào ổ cắm là xong. Một khi bị đưa ra khỏi CERNT chiếc hộp sẽ lập tức bắt đầu cuộc hành trình kéo dài 24 giờ để đi tới huỷ diệt.
Tức là chỉ còn lại một kết luận duy nhất, một kết luận thật đáng sợ.
- Chúng ta phải gọi cho Interpol, - Vittoria nói, cảm tưởng như giọng nói vừa vang lên không phải là của chính mình. - Chúng ta phải gọi cho chính quyền ngay lập tức.
Kohler lắc đầu:
- Không thể được.
Cô gái sững sờ:
- Không ư? Thế nghĩa là sao?
- Hai cha con nhà cô đã đẩy tôi vào một lình thế vô cùng khó xử.
- Thưa giám đốc, chúng ta thực sự cần trợ giúp. Chúng ta phải tìm lại bẫy phản vật chất và đặt nó trở lại bục sạc trước khi thương vong xảy ra. Chúng ta phải có trách nhiệm chứ?
- Chúng ta có trách nhiệm phải suy nghĩ, - Kohler nói, giọng đanh lại. - Chuyện này có thể gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho CERN.
- Giám đốc lo lắng cho danh tiếng của CERN? Ông có biết rằng cái hộp đó có thể gây ra chuyện gì cho cả một khu đô thị không? Nó có sức công phá trong vòng bán kính 800 mét! Chín toà nhà cao tầng!
- Đáng lẽ cô và cha cô nên cân nhắc kỹ càng trước khi tạo ra mẫu vật đó.
Vittoria cảm thấy như bị đâm thẳng vào tim:
- Nhưng… chúng tôi đã tiến hành mọi biện pháp đề phòng rồi mà.
- Rõ ràng là như thế vẫn chưa đủ.
- Nhưng không ai biết về phản vật chất cả. - Rồi cô gái lập tức nhận ra rằng lập luận của mình thật ngớ ngẩn - … Đương nhiên phải có người biết. Một kẻ nào đó đã biết.
Vittoria không nói với ai cả. Chỉ còn hai cách giải thích. Một là cha cô đã nói với một người nào đó mà ông tin cậy, và chưa kịp cho Vittoria biết; mà điều này thì rất vô lí, vì cha cô đã thề giữ bí mật. Hai là cả hai cha con bị theo dõi. Có lẽ trên điện thoại chăng? Vittoria nhớ lại đã vài lần cô nói chuyện với cha trên điện thoại khi đi xa. Liệu mình có để lộ ra điều gì không nhỉ? Có thể lắm. Lại còn thư điện tử nữa chứ. Nhưng cả hai cha con dâu kín đáo đúng không nhỉ? Hay tại hệ thống an ninh của CERN? Hay là họ đã bí mật theo dõi? Nhưng tất cả đều đã trở nên vô nghĩa.
- Cái gì đến đã đến rồi. Cha đã bị sát hại.
Suy nghĩ đó nhắc cô gái nhớ rằng cần phải hành động ngay lập tức Vittoria rút điện thoại d động trong túi ra.
Kohler lao tới chỗ Vittoria, ho như xé phổi, mắt lóe lửa:
- Cô định gọi… ai thế?
- Tổng đài của CERN. Họ sẽ nối máy với Interpol.
- Cô phải suy nghĩ đã chứ! - Kohler gần như nghẹn thở, chiếc xe lăn của ông ta dừng phắt lại ngay trước mặt Vittoria. - Sao cô lại ngây thơ đến thế nhỉ! Cái hộp đó bây giờ có thể ở bất cứ chỗ nào trên trái đất này. Không một cơ quan tình báo nào trên thế giới có thể huy động kịp người để tìm ra nó.
- Vậy ta không làm gì hay sao? - Vittoria thấy hơi ân hận vì thách thức một người trong tình trạng sức khỏe yếu ớt như vậy, nhưng hôm nay ông giám đốc đã đổi khác hoàn toàn khiến cô không còn nhận ra ông ta nữa.
- Việc cần làm bây giờ là phải hành động một cách thông minh - Kohler nói - Chúng ta không thể mạo hiểm danh tiếng của CERN bằng cách lôi các cơ quan chức năng vào cuộc một cách vô ích. Giờ chưa được làm thế. Phải cân nhắc cho kỹ rồi mới được hành động.
Vittoria thấy lập luận của Kohler cũng phần nào có lí. Nhưng trong lôgíc của Kohler không hề có chút đạo đức nào hết. Cha cô đã sống cả một đời đức độ - thái độ cẩn trọng trong khoa học, ý thức trách nhiệm, niềm tin vững chắc vào bản chất tối đẹp của mỗi con người. Vittoria cũng tin vào những điều đó, nhưng cô nhìn nhận vấn đề theo quan điểm của thuyết nhân quả nghiệp báo. Quay lưng về phía Kohler, cô gái bật điện thoại.
- Tôi không cho phép cô làm thế! - Ông ta kêu lên.
- Cứ thử ngăn tôi xem.
Kohler chẳng thèm nhúc nhích.
Ngay lập tức, Vittoria hiểu ra. Ở tít sâu dưới lòng đất thế này, điện thoại không bắt được sóng.
Cô gái tức giận lao về phía thang máy.
 
Tên sát thủ đang đứng cuối đường hầm. Ngọn đuốc vẫn cháy sáng rực, mùi khói lẫn với mùi rêu mốc khiến bầu không khí như đặc quánh lại. Sự tĩnh mịch bao trùm không gian. Cánh cửa sắt ở cuối đường hầm bí mật này trông cũng cũ kỹ hệt như đường hầm, rỉ ngoèn, nhưng vẫn vững chắc. Hắn đợi trong bóng lối, đầy tin tưởng.
Sắp đến giờ hẹn.
Janus đã hứa là sẽ có người đợi sẵn bên trong để mở cửa.
Đáng lẽ phải chờ suốt đêm bên cạnh cánh cửa đó để thực hiện nhiệm vụ, nhưng hắn nghĩ rằng như thế là không cần thiết. Hắn đang giúp việc cho những nhân vật cực kỳ quyết đoán.
Vài phút sau đó, đúng giờ hẹn, có tiếng chìa khoá lách cách bên kia cánh cửa. Tiếng kim loại va vào kim loại khi những ổ khoá lần lượt được mở ra. Lần lượt, ba thanh chốt khổng lồ được kéo ra. Chúng kêu rin rít như thể hình thế kỷ nay không ai đụng đến. Cuối cùng thì cả ba ổ khoá đều mở bung ra.
Lại lạ sự tĩnh mịch.
Tên sát thủ kiên nhẫn chờ thêm 5 phút nữa, đúng như đã giao ước Rồi nhanh như cắt, hắn xô mạnh khiến cánh cửa lớn bật tung ra
- Vittoria, tôi không cho phép điều đó! - Hơi thở của mỗi lúc một nặng nề và khó nhọc hơn khi thang máy phòng Haz-mat đưa cả ba người lên trên.
Vittoria chẳng thèm để ý đến ông ta. Cô gái muốn có một nơi để ẩn náu, nhưng phòng thí nghiệm này giờ đây không còn là tổ ấm nữa. Mà quả thật đây đâu phải là nhà của Vittoria. Giờ là lúc phải nuốt nước mắt và hành động. Phải kiếm một chiếc điện thoại đã .
Robert Langdon đang đứng cạnh cô, vẫn tiếp tục im lặng.
Vittoria thôi không còn băn khoăn về con người này nữa. Ông ta là một chuyên gia? Chẳng lẽ Kohler không còn cách nói nào khác? Ông Langdon có thể giúp chúng ta tìm ra kẻ đã giết cha cô . Langdon chẳng giúp được gì. Vẻ thân thiện và tử tế của ông ta quả là rất thật, nhưng rõ ràng con người này đang giấu giếm một điều gì đó. Cả hai đang giấu cô.
Kohler lại quay sang Vittoria:
- Với tư cách là giám đốc của CERN, tôi có trách nhiệm với tương lai của khoa học. Nếu cô làm rùm beng lên và biến chuyện này thành một vụ tai tiếng tầm cỡ quốc tế thì CERN sẽ phải chịu…
- Tương lai của khoa học? - Vittoria đối mặt với ông ta. - Chẳng lẽ ông thực sự định trốn tránh trách nhiệm bằng cách không bao giờ thừa nhận rằng phản vật chất là từ CERN mà ra à? Chẳng lẽ ông định mặc kệ những người vô tội sắp sửa vì chúng ta mà gặp nguy hiểm hay sao?
- Không phải chúng ta, - Kohler phản kháng. - Chính các người. Là hai cha con nhà cô.
Vittoria quay mặt đi.
- Nếu nói về những sinh mạng đang gặp hiểm nguy, - Kohler nói, - thì thực ra cuộc sống vẫn đang diễn ra y như thường lệ. Cô biết rằng công nghệ phản vật chất có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc sống trên hành tinh này. Nếu CERN bị phá sản hay bị giải thể sau vụ tai tiếng này, tất cả mọi người đều phải chịu thiệt. Tương lai nhân loại đang nằm trong tay những tổ chức như CERN, các nhà khoa học như cô và cha cô, cùng nghiên cứu để giải quyết những vấn đề của ngày mai.
Vittoria đã từng nhiều lần nghe Kohler thuyết giảng về khoa học -chính là Chúa Trời, nhưng cô chưa bao giờ để tâm. Chính khoa học cũng gây ra đến phân nửa các vấn đề mà giờ đây khoa học đang tìm cách giải quyết hậu quả. Sự tiến bộ hoá ra lại chính là cái bẫy chết người của chính Mẹ Trái Đất.
- Các tiến bộ khoa học luôn song hành với những hiểm hoạ, - Kohler lập luận. - Lúc nào cũng vậy. Các chương trình không gian, những nghiên cứu về gen, y học - tất cả đều có thể mắc sai lầm. Khoa học cần vượt qua những vấp váp của chính nó, bằng mọi giá. Vì lợi ích của toàn thể nhân loại.
Vittoria ngạc nhiên khi thấy Kohler đem đặt những giá trị đạo đức lên bàn cân để so sánh với khoa học. Trí tuệ của con người này tồn tại hoàn toàn biệt lập với nội tâm.
- Ông cho rằng vì CERN giữ vai trò quyết định đối với tương lai trái đất nên chúng ta được quyền miễn trừ về đạo đức sao?
- Đừng có tranh luận về đạo đức với tôi. Các người đã đi quá giới hạn khi tạo ra mẫu vật đó, hai cha con cô đã đặt toàn bộ viện nghiên cứu này vào tình trạng nguy hiểm. Tôi đang cố sức bảo vệ không chỉ công ăn việc làm của 3000 nhà khoa học ở đây mà còn cả danh tiếng của cha cô. Hãy nghĩ cho ông ấy . Một người như cha cô không đáng bị người đời nhớ đến như kẻ đã tạo ra vũ khí huỷ diệt hàng loạt.
Vittoria cảm thấy ngọn giáo của ông ta đã đâm trúng đích. Mình chính là người đã thuyết phục cha tạo ra mẫu vật đó. Lỗi là ở mình!
Khi cánh cửa mở ra, Kohler vẫn đang tiếp tục thao thao bất tuyệt Vittoria bước khỏi thang máy, lôi điện thoại ra và thử gọi lần nữa.
Vẫn không có tín hiệu. Chết tiệt ! Cô phăm phăm lao ra cửa.
- Vittoria, đừng lại. - Giọng Kohler như đang lên cơn hen khi chiếc xe lăn tăng tốc tiến sát đến bên cô gái. - Từ từ đã. Chúng ta cần bàn bạc đã.
- Basta di parlare !(1)
- Hãy nghĩ đến cha cô, - Kohler hối thúc. - Nếu còn sống thì ông ấy sẽ xứ lý tình huống này thế nào?
Vittoria vẫn bước tiếp.
- Vittoria, tôi vẫn chưa nói hết toàn bộ sự thật.
Vittoria bước chậm lại.
- Tôi cũng không biết mình đang nghĩ gì nữa, - Kohler nói - Tôi chỉ đang tìm cách bảo vệ hai cha con cô thôi. Hãy nói cho tôi biết cô muốn gì. Chúng ta cần phải hợp tác với nhau thật chặt chẽ.
Vittoria dừng lại ngay giữa phòng thí nghiệm, nhưng cô không ngoái đầu lại.
- Tôi muốn tìm phản vật chất. Và tôi muốn biết kẻ nào đã sát hại cha tôi. - Cô gái đứng im chờ đợi.
Kohler thở dài:
- Vittoria, chúng tôi biết kẻ đã sát hại ông ấy. Tôi xin lỗi!
Lúc này Vittoria quay đầu lại.
- Ông nói gì?
- Tôi không biết phải nói với cô thế nào. Rất khó…
- Ông đã xác định được hung thủ rồi?
- Đúng, chúng tôi có một manh mối. Kẻ giết người đã để lại một thứ giống như tấm các điện thoại. Đó là lí do tại sao tôi mời ông Langdon đến đây. Ông Langdon chuyên nghiên cứu về tổ chức đã đứng ra nhận trách nhiệm về vụ giết người này!
- Tổ chức? Một nhóm khủng bố à?
- Vittoria, chúng đánh cắp một phần tư gram phản vật chất.
Vittoria nhìn Robert Langdon. Cô gái bắt đầu hiểu ra. Sự có mặt của ông ta ở đây chính là lời giải thích cho một cô điều bí ẩn . Sao Vittoria không nghĩ ra từ nãy nhỉ? Suy cho cùng thì Kohler đã tìm kiếm trợ giúp từ bên ngoài. Từ người này sao ? Bây giờ thì mọi sự đã sáng tỏ. Robert Langdon là người Mỹ, bảnh bao, báo thủ, chắc là thông minh sắc sảo. Còn có thể nhờ ai khác được đây? Đáng lẽ Vittoria phải đoán ra điều này ngay từ đầu mới phải. Một tia hy vọng bừng lên trong tâm trí, cô gái quay sang Langdon.
- Thưa ông Langdon, tôi muốn biết kẻ nào đã sát hại cha tôi. Và tôi muốn biết liệu cơ quan của ông có thể tìm ra phản vật chất được không?
Langdon thoáng bối rối.
- Cơ quan của tôi?
- Tôi đoán ông là người của Cục tình báo Mỹ.
- Thực ra thì… không phải thế.
Kohler nói chen vào:
- Ông Langdon là giáo sư lịch sử nghệ thuật thuộc trường Đại học Harvard.
Vittoria như bị dội một gáo nước lạnh:
- Giảng viên nghệ thuật?
- Ông ấy là chuyên gia của ngành biểu tượng học tôn giáo. - Kohler thở dài. - Vittoria, chúng tôi tin rằng cha cô bị giết bới một nhóm tà đạo.
Những âm thanh ấy dội vào trong tâm trí Vittoria, nhưng cô không thể nào hiểu nổi. Một nhóm tà đạo?
- Nhóm người tự nhận trách nhiệm về vụ này là hội Illuminati!
Vittoria hết quay sang nhìn Kohler rồi lại nhìn Langdon băn khoăn không hiểu liệu đây có phải là một trò đùa quá đáng hay không.
- Hội Illuminati? - cô hỏi lại, - Như trong Bavarian Illuminati?
Kohler vẻ ngạc nhiên.
- Cô đã nghe nói đến họ rồi à?
Vittoria cảm thấy sự phẫn nộ của mình sắp sửa bùng lên:
Bavarian Illuminati: Trật tự thế giới mới . Trò chơi điện tử của Steve Jackson. Một nửa số kỹ thuật viên ở đây đều chơi trò đó trên Internet. Giọng cô vớ oà:
- Nhưng tôi không hiểu…
Kohler bối rối nhìn Langdon.
Langdon gật đầu.
- Trò chơi này rất phổ biến. Hội kín Illuminati thống trị thế giới. Một trò chơi dã sử. Tôi không biết rằng trò này cũng được ưa chuộng ở châu Âu.
Vittoria bối rối.
- Ông đang nói về cái gì vậy? Hội Illuminati? Đó chỉ là trò chơi trên máy tính thôi!
- Vittoria này! - Kohler nói, - Illuminati chính là nhóm đã nhận trách nhiệm về cái chết của cha cô.
Vittoria lấy hết can đảm để kiềm chế nước mắt. Cô gái tự bắt mình phải tiếp cận vấn đề một cách lôgíc. Nhưng càng tập trung suy nghĩ thì cô càng không hiểu nổi. Cha cô bị giết hại.
Hệ thống an ninh của CERN bị chọc thủng. Một quả bom đang đếm ngược thời gian ở đâu đó và chính cô là người phải chịu trách nhiệm. Còn ông giám đốc thì mời một giảng viên nghệ thuật đến để giúp họ tìm ra nhóm tà đạo bí hiểm kia.
Vittoria chợt cảm thấy vô cùng đơn độc. Cô định quay đi nhưng Kohler ngăn lại. Ông ta lục tìm trong túi và lôi ra một bản fax nhàu nhĩ rồi đưa cho cô.
Vittoria chao đảo sợ hãi khi mắt cô đập vào hình ảnh trên đó.
- Chúng đã đóng dấu sắt nung lên người ông ấy, - Kohler nói - Chúng đã đóng cái dấu chết tiệt ấy lên ngực Leonardo.

Chú thích:
(1) Tiếng Tây Ban Nha: im đi.
 
Thư ký Sylvie Baudeloque cảm thấy sợ hãi. Chị đang đi đi lại lại bên ngoài phòng làm việc vắng tanh của ông giám đốc. Ông ấy đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? Mình phải làm gì bây giờ?
Một ngày làm việc kỳ lạ. Đương nhiên, đã làm việc cho Maximilian Kohler thì bất kỳ ngày nào cũng có thể trở thành một ngày lạ lùng. Nhưng hôm nay Kohler có vẻ khác hẳn mọi khi.
- Tìm cho tôi Leonardo Vetra! - Sáng nay ông ta ra lệnh khi Sylvie vừa đến nơi.
Theo mệnh lệnh, Sylvie nhắn tin, gọi điện và gửi thư điện tử cho Leonardo Vetra.
Bặt vô âm tín.
Vì vậy Kohler vội vàng lao đi, chắc chắn là tự đi tìm Vetra.
Cách đây mấy giờ đồng hồ, khi quay lại văn phòng, trông giám đốc có vẻ không khoẻ… thường thì giám đốc cũng chẳng bao giờ khoẻ, nhưng hôm nay sắc diện ông ấy xấu hơn mọi khi rất nhiều.
Kohler tự giam mình trong văn phòng, và Sylvie nghe thấy tiếng modem, điện thoại, fax và tiếng nói chuyện. Rồi Kohler lại lăn xe ra ngoài. Và kể từ lúc đó đến giờ chưa quay về.
Sylvie quyết định không để ý đến những chi tiết ngớ ngẩn đó, vì Kohler là người hay quan trọng hoá vấn đề; nhưng rồi chị lại bắt đầu lo lắng, không hiểu có phải là giám đốc đã không thể quay về để tiêm thuốc như thường lệ hay không. Bệnh tình của giám đốc đòi hỏi phải được điều trị thường xuyên, và mỗi khi ông ấy bỏ lỡ một lần điều trị thì hậu quả thật là tồi tệ - chỉ cần một cú sốc hô hấp, một cơn ho của Kohler cũng đủ để các nhân viên trạm xá thót tim. Đôi khi Sylvie nghĩ rằng Maximilian Kohler mong muốn được chết lắm rồi.
Sylvie định nhắn tin để nhắc Kohler, nhưng lại nhớ ra rằng con người này luôn cảm thấy bị xúc phạm khi người khác tỏ ra thương hại mình. Tuần trước, khi một nhà khoa học đến thăm viện và bảy tỏ sự thương hại không đúng lúc, giám đốc đã tức phát điên và ném cái cặp tài liệu vào đầu ông ta. Vua Kohler có thể cực kỳ nhanh nhẹn khi ông ta lên cơn.
Tuy nhiên lúc này sức khỏe của giám đốc không phải là nguyên nhân chính khiến Sylvie lo lắng… mà vì một tình huống khác khó khăn hơn nhiều. Tổng đài của CERN vừa gọi về 5 phút trước đây, nói riêng có một cuộc gọi khẩn cho giám đốc.
- Ông ấy giờ không có đây. - Sylvie trả lời.
Nhân viên tổng đài nói tên người đang ở đầu đây bên kia.
Sylvie cười phá lên.
- Cô không đùa đấy chứ?
Chị lắng nghe, đầy vẻ nghi ngờ. Và người gọi đã khẳng định danh tính… Sylvie nhíu mày.
- Tôi hiểu. Được rồi. Cô có thể hỏi xem có chuyện gì… - Sylvie thở dài. - Không. Ổn thôi. Bảo người đó hãy giữ máy. Tôi sẽ tìm giám đốc ngay. Vâng, tôi hiểu. Tôi đi tìm ngay đây.
Nhưng Sylvie không thể tìm được giám đốc. Chị gọi vào máy di động của Kohler ba lần và lần nào cũng đều nhận được câu trả lời: "Số máy quý khách đang gọi hiện ở ngoài vùng phủ sóng". - Ngoài vùng phủ sóng ông ấy có thể đi đâu được nhỉ ? Vì thế Sylvie gọi vào máy nhắn tin hai lần nhưng cũng không có tín hiệu trả lời. Thật chẳng giống cung cách của Kohler chút nào. Chị còn gửi cả thư điện tử vào máy tính xách tay của giám đốc. Không thấy gì. Cứ như thể con người này đã biến mất khỏi mặt đất.
Mình nên làm gì đây? Sylvie băn khoăn.
Sau khi đã tự mình tìm kiếm trong toàn bộ tổ hợp của CERN, Sylvie biết chỉ còn một cách duy nhất để thu hút sự chú ý của giám đốc. Ông ấy hẳn sẽ không hài lòng, nhưng người đang đợi giám đốc ở đầu dây bên kia không phải là loại người chịu đợi lâu. Mà nghe cung cách của ông ta thì chị cũng không thể nào trả lời vào máy là không tìm thấy giám đốc. Tự ngạc nhiên trước quyết định táo bạo của mình, Sylvie hành động. Chị bước vào văn phòng của Kohler, đi thẳng đến chiếc hộp kim loại trên tường ngay sau bàn làm việc, mở nắp hộp ra, nhìn vào bảng điều khiển và tìm đúng nút.
Sau khi hít một hơi thật sâu, chị chộp lấy chiếc micro.
Vittoria không nhớ nổi họ đã vào thang máy như thế nào, nhưng ba người đều đang ở trong thang máy. Đi lên. Sau lưng cô, Kohler đang thở khò khè một cách khó nhọc. Ánh mắt lo lắng của Langdon hướng sang phía Vittoria. Anh rút tờ fax trong tay cô gái và đút vào túi áo jackel để hình ảnh ghê rợn ấy khỏi đập vào mắt Vittoria. Nhưng những hình ảnh ấy vẫn thiêu đốt tâm trí cô.
Thang máy vẫn tiếp lục đi lên, xung quanh Vittoria, thế giới trở nên tối tăm, quay cuồng và chao đảo. Cha ơi! Những kỷ niệm với cha ùa về. Lúc này, trong ốc đảo ký ức của mình, Vittoria đang ở bên cha. Ngày đó, Vittoria mới lên 9 tuổi, đang lăn từ trên sườn dồi xuống, đè lên những bông hoa nhung tuyết; tít trên cao, bầu trời Thuỵ Sĩ cũng đang quay.
- Cha! Cha ơi!
Bên cạnh Vittoria, Leonardo Vetra đang cười, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc.
- Chuyện gì vậy, thiên thần của cha?
- Cha, - Cô cười khúc khích, xà vào lòng ông. - Cha hỏi con xem có chuyện gì đi!
- Nhưng trông con hạnh phúc lắm, con yêu ạ. - Tại sao ta phải hỏi con câu đó?
- Thì cha cứ hỏi con xem nào.
Ông nhún vai.
- Chuyện gì vậy?
Cô bé lập tức phá lên cười. - Vật chất là gì?(1) Mọi thứ đều là vật chất! Đất đá! Cây cối! Nguyên tử! Thậm chí cả thú ăn kiến nữa! Mọi thứ đều là vật chất!
Ông cười.
- Con tự nghĩ ra câu chuyện cười này đấy à?
- Thông minh phải không cha?
- Anhxtanh bé nhỏ của cha.
Cô bé chau mày.
- Ông ấy có mái tóc thật ngớ ngẩn. Con nhìn thấy ảnh Anhxtanh rồi.
- Nhưng ông ấy có cái đầu thông minh. Cha đã kể cho con nghe về những gì ông ấy chứng minh được, phải thế không?
Cô bé tròn mắt sợ hãi.
- Cha! Không. Cha hứa rồi mà!
- E=mc2! - cha thọc lét Vittoria. - E=mc2!
- Đừng nhắc đến toàn học! Con đã nói rồi mà! Con ghét môn toán!
- Thế thì cha mừng lắm. Vì con gái không được phép theo đuổi toán học.
Vittoria đột ngột ngừng lời:
- Con gái không được học toán?
- Đương nhiên rồi. Ai cũng biết điều đó. Con gái chỉ chơi với búp bê thôi, còn con trai học toán. Con gái thì bị cấm không được học toán. Thậm chí cha còn không được phép nói chuyện với các cô bé về toán nữa kia.
- Gì cơ! Điều đó không công bằng!
- Nguyên tắc là nguyên tắc. Đã là con gái thì không được học toán.
Vittoria thẫn thờ:
- Nhưng chơi búp bê chán chết đi được!
- Cha rất tiếc, - Ông nói - Cha có thể giảng giải cho con về toán học, nhưng nhớ bị bắt gặp… - Ông nhìn những quả đồi vắng vẻ xung quanh với vẻ đầy lo lắng.
Vittoria cũng đưa mắt nhìn một lượt:
- Thôi được, - cô bé thì thầm, - Thế thì cha nói thầm cho con nghe vậy.
Chuyển động của thang máy làm cô gái giật mình. Vittoria mở choàng mắt. Cha đã biến mất.
Thực tại ập tới, những móng vuốt buốt giá của nó quắp lấy cô gái. Cô nhìn sang Langdon. Thái độ quan tâm đầy chân thành trong ánh mắt anh khiến cô gái cảm thấy ấm áp như đang được một thiên thần che chở, đặc biệt là khi phải ở gần một con người lạnh lẽo như Kohler.
Một ý nghĩ bắt đầu thiêu đốt tâm trí Vittoria.
Phản vật chất đang ở đâu ?
Chỉ một tích tắc sau, họ đã có câu trả lời, một câu trả lời thật đáng sợ.

Chú thích:
(1) What's the matter ? - ở đây Vittoria chơi chữ. Trong tiếng Anh What's the matter? vừa mang nghĩa Có chuyện gì vậy? Vừa mang nghĩa Vật chất là gì? (matter: vật chất).
 
- Maximilian Kohler. Xin ông vui lòng gọi về văn phòng ngay lập tức!
Ánh nắng mặt trời rực rỡ hắt thẳng vào mắt Langdon khi cánh cửa thang máy mở ra ngay ở lối vào chính. Tiếng loa chứa kịp tắt thì các thiết bị điện tử trong xe lăn của Kohler đã đồng loạt nhấp nháy và kêu bíp bíp. Máy nhắn tin. Điện thoại. Thư điện tử.
Kohler ngỡ ngàng đưa mắt nhìn những ánh đèn đang chớp nháy liên tục. Giám đốc đã xuất hiện trở lại, và giờ đã ở trong vùng phủ sóng.
- Giám đốc Kohler, xin hãy gọi ngay về văn phòng.
Nghe tên mình được xướng lên trên hệ thống hỗ trợ thiết bị cá nhân, Kohler giật mình.
- Ông ta ngẩng lên nhìn với vẻ bực bội, rồi lập tức chuyển sang lo lắng. Kohler bắt gặp ánh mắt của Langdon, và của cả Vittoria.
Cả ba đều sững sờ trong giây lát. Bầu không khí căng thẳng giữa họ lập tức bị xua tan bởi một mối lo chung.
Kohler rút điện thoại di động ở tay ghế ra. Ông ta quay số nội bộ và cố kìm một cơn ho khác. Vittoria và Langdon cùng chờ đợi.
- Giám đốc… Kohler đây! - ông vừa nói vừa điều khiển xe lăn - Đúng rồi. Tôi ở dưới lòng đất, ngoài vùng phủ sóng. - Ông ta lắng nghe, đôi mắt màu xám mở to. - Ai thế? Được, nối máy đi.
Im lặng một lúc.
- Xin chào. Tôi là Maximilian Kohler, giám đốc của CERN. Tôi đang nói chuyện với ai đây?
Vittoria và Langdon đứng im trong khi Kohler nghe điện thoại.
- Thật không khôn ngoan khi đề cập chuyện này trên điện thoại. - cuối cùng Kohler cất giọng. - Tôi sẽ đến đó ngay lập tức.
Ông ta ho rũ rượi.
- Gặp tôi… tại sân bay Leonardo Da Vinci. 40 phút nữa. - Hơi thở của Kohler có vẻ yếu dần. Ông ta giảm dần cơn ho và gần như cố gắng lắm mới thốt ra mấy từ - Tìm cái hộp ngay đi… tôi đang đến đây. - Rồi ông ta tắt máy.
Vittoria chạy đến bên Kohler, nhưng Kohler không thể nói được nữa. Langdon đứng nhìn Vittoria rút máy điện thoại cầm tay ra để gọi cho trạm xá của CERN. Langdon thấy mình giống một con tàu đang ở vùng ngoại vi của cơn bão… chao đảo, tròng trành nhưng hoàn toàn vô cảm.
Gặp tôi… tại sân bay Leonardo Da Vinci . Lời nói của Kohler vẳng lại.
Những bóng ma của hồ nghi lởn vởn trong đầu Langdon suốt buổi sáng hôm nay bỗng biến thành một hình ảnh rõ nét. Giữa dòng xoáy mịt mùng của những sự kiện rối rắm này, anh thấy một cánh cửa vừa hé ra trong tâm trí… như thể một ngưỡng cửa bí mật nào đó vừa được chạm đến. Biểu tượng hai chiều đối xứng. Nhà khoa học/ linh mục bị giết hại. Phản vật chất. Và bây giờ… là mục tiêu Sân bay Leonardo Da Vinci có thể là một đầu mối . Trong phút chốc, Langdon hiểu ra vấn đề. Anh đã tin chắc, không còn chút hồ nghi nào nữa.
5 kiloton Phải có ánh sáng...
Hai nhân viên y tế được trang bị đầy đủ, mặc quần áo bờ-lu chạy vào. Họ quỳ xuống bên Kohler, chụp mặt nạ ôxy lên mặt ông ta. Các nhà khoa học trong hành lang lùi cả lại.
Kohler hít hai hơi dài rồi kéo mặt nạ sang bên, và dù đang hổn hển vẫn ngước lên nhìn Vittoria và Langdon.
- Rome!
- Rome? - Vittoria hỏi lại. - Phản vật chất đang ở Rome? Ai gọi vậy?
Khuôn mặt Kohler méo xệch, đôi mắt xám giàn giụa nước mắt.
- Lính gác Thuỵ… - Chưa nói hết câu, ông giám đốc đã nghẹn thở, và nhân viên y tế lập tức chụp mặt nạ lên mặt Kohler. Khi hai nhân viên y tế chuẩn bị đẩy cáng đi, Kohler với lấy cánh tay Langdon.
Langdon gật đầu. Anh hiểu.
- Đi đi, Kohler khò khè thở dưới mặt nạ. - Đi đi… gọi cho tôi…
Hai nhân viên y tế đẩy ông ta đi.
Vittoria đứng đó, sững sờ nhìn giám đốc của CERN đang được hai nhân viên y tế đưa đi. Rồi cô quay sang nhìn Langdon.
- Rome ư, Nhưng… liên quan đến lính gác Thuỵ Sĩ nghĩa là sao?
Langdon đặt tay lên vai cô gái, gần như thì thào.
- Lính gác Thuỵ Sĩ - Anh nói - Những người đã thề sẽ bảo vệ toà thánh Vatican.
Chiếc máy bay X-33 gầm rú rồi cất cánh, nhằm thẳng về phía thành Rome. Trong máy bay, Langdon ngồi im lặng. 15 phút vừa qua quả là hỗn độn. Giờ đây, sau khi đã giảng giải sơ qua cho Vittoria về hội Illuminati và mục tiêu chống giáo hội của họ, anh bắt đầu nhận thức rõ mức độ trầm trọng của tình hình.
Mình đang làm cái quái quỷ gì thế nhỉ? Langdon băn khoăn. Đáng lẽ lúc này thấy có cơ hội thì phải quay về nhà ngay mới phải chứ? Tuy nhiên, anh biết chẳng có cơ hội nào cả.
Lí trí của Langdon đang giục giã, thôi thúc anh quay về Boston. Nhưng sự tò mò mang tính học thuật đã lấn át thói quen cẩn trọng trong anh. Tất cả những gì anh vốn tin tưởng về sự tan rã của hội Illuminati bỗng chốc đều sai toét. Một phần, anh muốn đi tìm bằng chứng để khẳng định cho chắc chắn. Và còn cả lương tâm nữa. Kohler thì ốm yếu, Vittoria thì đơn thương độc mã.
Langdon biết rằng kiến thức của anh về hội Illuminati có thể giúp họ phần nào. Và trách nhiệm đạo đức không cho phép anh rời khỏi nơi này.
Còn có một lý do nữa. Dù Langdon thấy xấu hổ vì phải thừa nhận điều này, nhưng khi nghe nói đến vị trí của phản vật chất, mối quan tâm trước nhất của anh không phải là sự bình an của những cư dân thành Vatican, mà là một thứ khác.
Nghệ thuật .
Cái nôi của những kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới đang bị đe doạ bởi một quả bom hẹn giờ. Bảo tàng Vatican chứa trên 60.000 hiện vật vô giá trong 1.407 căn phòng - những tác phẩm của Michelangelo, Da Vinci, Bernini, Botticelli. Langdon băn khoăn không hiểu người ta có kịp sơ tán những kiệt tác này không. Anh biết điều đó là không thể. Có nhiều hiện vật điêu khắc nặng hàng tấn. Đấy là chưa kể đến nhũng công trình kiến trúc vô cùng quý giá - nhà nguyện Sistine, đại thánh đường St. Peter, những dãy cầu thang xoáy nổi tiếng của Michelangelo dẫn tới viện bảo tàng Vaticano - những bằng chứng vô giá về tài năng sáng tạo của con người. Langdon tự hỏi không biết còn bao lâu nữa thì cái hộp sẽ nổ tung.
- Cám ơn ông đã đi cùng tôi, - Vittoria khẽ nói.
Tạm ngắt dòng suy nghĩ miên man của mình, anh ngước mắt lên. Vittoria đang ngồi đối diện anh, ở dãy ghế bên kia lối đi.
Mặc dù dưới ánh sáng nhợt nhạt của đèn huỳnh quang trong khoang máy bay, cô gái vẫn toát lên vẻ điềm tĩnh - một vẻ đẹp dịu dàng đầy quyến rũ. Hơi thở của cô lúc này đã trở nên sâu hơn, dường như khả năng chế ngự bản thân đã trở lại trong Vittoria… tình thương cha đã biến thành nỗi khao khát muốn báo thù và giành lại công lý.
Không có thời gian để thay quần áo, Vittoria vẫn mặc nguyên quần soóc và chiếc áo không tay. Đôi chân rám nắng của cô đang nổi da gà vì lạnh. Theo bản năng, Langdon cởi áo khoác và đưa cho Vittoria.
- Hiệp sĩ theo phong cách Mỹ? - Cô đón lấy chiếc áo, đôi mắt ánh lên vẻ biết ơn.
Máy bay xóc nẩy lên khi vượt qua một vùng không bằng phẳng, khiến Langdon thoáng cảm thấy e sợ. Không có cửa sổ, bên trong cabin thật ngột ngạt. Langdon cố gắng tưởng tượng rằng mình đang ở trên một cánh đồng rộng thênh thang. Rồi anh nhận thấy rằng ý nghĩ ấy thật nực cười. Bóng tối đặc quánh.
Langdon cố xua những ký ức ấy ra khỏi tâm trí. Đã lâu lắm rồi.
Vittoria nhìn anh.
- Ông có tin vào Chúa không, ông Langdon?
Câu hỏi khiến anh giật mình. Vẻ chân thật trong giọng nói của cô gái còn tác động mạnh mẽ hơn bản thân câu hỏi. Mình có tin vào Chúa không nhỉ? Anh đã hy vọng rằng câu chuyện để giết thời gian trong chuyến bay này sẽ xoay quanh một chủ đề khác nhẹ nhàng hơn.
Một sự thách đố về tâm linh , Langdon thầm nghĩ. Đó là biệt danh mà bạn bè đặt cho an h. Mặc dù đã rất nhiều năm Langdon nghiên cứu về tôn giáo, nhưng anh không theo bất kỳ tín ngưỡng nào.
Anh tôn trọng sức mạnh của đức tin, tính hướng thiện của các giáo hội, sức mạnh mà tôn giáo mang lại cho con người… Nhưng trong anh, sự hoài nghi về mặt học thuật vẫn còn rất lớn, và niềm tin thực ra lại là một trở ngại đối với những lập luận lôgíc.
- Tôi muốn tin lắm chứ, - anh đáp.
Câu trả lời của Vittoria không hề có hàm ý đánh giá hay thách thức:
- Vậy tại sao ông lại không tin ?
Anh khẽ cười:
- Ôi, tin được cũng không phải dễ. Để có đức tin thì người ta phải tin vào rất nhiều thứ, phải tin đủ loại phép màu - ví dụ như sự Thụ thai trinh tiết và sự can thiệp của Chúa trời. Lại còn phải tuân theo vô số thứ chuẩn mực. Kinh thánh, Kinh Koran, Kinh Phật… tất cả đều có những tín điều gần giống nhau - và cả những hình phạt cũng giống nhau. Theo tất cả những loại kinh đó thì tôi sẽ bị đày xuống địa ngục nếu không chịu tuân thủ những tín điều ấy. Tôi không thể tưởng tượng được rằng lại có một vị Chúa nào muốn hành xử kiểu đó.
- Tôi hy vọng là ông sẽ không cho phép sinh viên của mình né tránh câu hỏi một cách tai quái như thế.
Lời nhận xét này khiến Langdon ngỡ ngàng:
- Gì cơ?
- Ông Langdon, tôi không hỏi là ông có tin vào những gì mà con người nói về Chúa hay không. Tôi chỉ hỏi là ông có tin rằng có Chúa hay không thôi, hai câu hỏi này khác nhau đấy. Kinh thánh là những câu chuyện… là những truyền thuyết và những nỗ lực của nhân loại để thoả mãn niềm khát khao hiểu biết về ý nghĩa của cuộc sống. Tôi không yêu cầu ông nhận xét những thứ đó. Tôi chỉ muốn biết ông có tin là có Chúa hay không thôi. Khi nằm dưới bầu trời đầy sao, ống có bao giờ cảm nhận được sự hiện điện của đấng tối linh không? Lúc ấy thâm tâm ông có mách bảo ông rằng bầu trời này là do chính tay Chúa tạo ra hay không?
Langdon đắn đo suy nghĩ một lúc.
- Tôi hơi tọc mạch, - Vittoria xin lỗi.
- Không, tôi chỉ…
- Chắc chắn là ông đã từng thảo luận vấn đề đức tin trong các giờ dạy của mình.
- Rất thường xuyên.
- Và ông đóng vai người phản biện, tôi nghĩ vậy. Luôn luôn khơi gợi để sinh viên tiếp tục tranh luận.
Langdon mỉm cười.
- Hẳn cô cũng là giáo viên.
- Không, nhưng tôi học được từ một người thầy. Cha tôi có đủ lập luận để cho rằng Mobius Strip có hai mặt.
Langdon bật cười, hình dung tác phẩm tài tình của Mobius Strip - một vòng tròn xoắn bằng giấy, về mặt kỹ thuật chỉ có một mặt. Lần đầu tiên Langdon nhìn thấy hình ảnh đơn diện ấy trong tác phẩm của M. C. Escher.
- Tôi có thể hỏi cô một câu không, thưa cô Vetra?
- Hãy gọi tôi là Vittoria. Gọi là cô Vetra nghe già quá.
Anh thở dài, đột nhiên cảm thấy mình già:
- Vittoria, tên tôi là Robert.
- Ông đang định đưa ra một câu hỏi.
- Đúng thế. Là một nhà khoa học, và là con gái của một linh mục Cơ đốc giáo, cô nghĩ gì về tôn giáo?
Vittoria ngừng lại, đưa tay gạt một lọn tóc đang xoà vào mắt:
Tôn giáo cũng như ngôn ngữ và quần áo. Chúng ta bị cuốn hút bởi những nghi thức do chính chúng ta tự đặt ra. Cuối cùng, chúng ta đều tuyên bố một điều, rằng cuộc sống có ý nghĩa, rằng chúng ta phải biết ơn nguồn sức mạnh đã tạo ra chúng ta.
Langdon nghi ngờ.
- Vậy ý của cô là tuỳ thuộc vào nơi sinh mà người ta sẽ trở thành tín đồ Hồi Giáo hay Thiên Chúa giáo?
- Chẳng phải đó là điều hiển nhiên hay sao? Hãy nghĩ đến việc truyền giáo trên thế giới mà xem.
- Vậy đức tin là ngẫu nhiên?
- Không hề. Đức tin có tính toàn cầu. Và mỗi chúng ta có những cách hiểu khác nhau mà thôi. Một số người cầu nguyện chúa Giê-su, một số thì hành hương đến thánh địa Mecca, còn những người khác thì lại nghiên cứu các hạt nhỏ hơn nguyên tử. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều tìm đến với chân lý, chân lý đó lớn lao hơn chúng ta rất nhiều.
Langdon thầm ước ao, giá sinh viên của anh cũng có thể diễn đạt gẫy gọn như vậy. Quỷ thật, ước gì chính anh cũng có khả năng diễn đạt rõ ràng như thế.
- Thế còn Chúa? - Anh hỏi. - Cô có tin vào Chúa không?
Vittoria im lặng hồi lâu.
- Khoa học cho tôi biết rằng Chúa chắc chắn tồn tại. Trí tuệ thì mách bảo tôi rằng tôi sẽ không bao giờ hiểu hết được Chúa. Còn trái tim tôi mách bảo rằng không cần phải cố gắng tìm hiểu để làm gì.
Thế có nghĩa là sao? Anh thầm băn khoăn:
- Vậy cô tin rằng quả thật là có Chúa, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được ông ta?
- Bà ta chứ, - cô gái mỉm cười. - Những người thồ dân Mỹ nói đúng đấy.
Langdon cười tủm tỉm:
- Mẹ Trái Đất.
- Đúng thế đấy . Hành tinh này là một thực thể sống. Tất cả chúng ta là những tế bào với những mục đích khác nhau. Và chúng ta tương tác với nhau, phục vụ lẫn nhau, phục vụ cho một tổng thể.
Nhìn Vittoria, Langdon thấy trong lòng dâng trào một niềm xao xuyến, một cảm giác đã từ lâu lắm rồi không xuất hiện trong trái tim anh. Đôi mắt cô gái ánh lên vẻ tinh anh láu lỉnh… và giọng nói thật thuần khiết khiến anh bị cuốn hút.
- Ông Langdon, tôi có thể hỏi ông một câu khác được không?
- Robert, - anh nói. Gọi là ông Langdon nghe già quá. Má mình già thật rồi!.
- Xin lỗi vì câu hỏi của tôi có vẻ hơi tọc mạch. Robert này, vì sao anh lại nghiên cứu về Illuminati?
Langdon đăm chiêu.
- Thực ra là vì tiền.
Vittoria lộ vẻ thất vọng.
- Tiền ư? Anh muốn nói đến thù lao tư vấn?
Langdon bật cười, cô gái đã hiểu nhầm.
- Không. Tiền là tờ tiền một mặt ấy! - Anh thò tay vào túi quần và lôi ra một ít tiền, tìm tờ 1 đô la. - Tôi bị cuốn hút bởi hội kín này khi biết rằng trên tờ tiền giấy của nước Mỹ có biểu tượng của hội Illuminati.
Mắt Vittoria nheo lại, rõ ràng là đang suy xét xem câu trả lời này có nghiêm túc hay không.
Langdon đưa cho cô tờ tiền.
- Hãy xem mặt sau. Xem dấu triện lớn bên trái.
Vittoria lật tờ bạc 1 đô la.
- Anh muốn nói đến hình Kim tự tháp?
- Kim tự tháp. Cô có biết Kim tự tháp có ý nghĩa gì trong lịch sử nước Mỹ không?
Vittoria nhún vai.
- Chính xác, - Langdon nói - Hoàn toàn chẳng có nghĩa gì.
Vittoria nhíu mày.
- Vậy tại sao nó lại là biểu tượng trung tâm của Dấu triện lớn?
- Một bí ẩn của lịch sứ. - Langdon nói - Kim tự tháp là một biểu tượng huyền bí đại diện cho sự hội tụ hướng lên trên, về phía cội nguồn của Sự tỏa sáng. Cô có nhìn thấy gì ở trên đỉnh Kim tự tháp không?
Vittoria ngắm kỹ tờ tiền giấy trên tay:
- Một con mắt bên trong hình tam giác.
- Nó được gọi là hình ba cạnh. Cô đã từng nhìn thấy hình con mắt bên trong tam giác ở đâu chưa?
Vittoria im lặng một lúc.
- Thực sự là rồi, nhưng tôi không dám chắc…
- Biểu tượng này được được trang trí tại tất cả các tụ điểm của hội Tam Điểm trên khắp thế giới.
- Biểu tượng này là của hội Tam Điểm?
- Thực ra thì không phải thế. Đó là hội Illuminati. Họ gọi biểu tượng này là "Tam giác toả sáng". Đó chính là tôn chỉ về một cuộc khai sáng mà họ muốn thực hiện. Con mắt biểu thị khả năng thâm nhập và quan sát của Illuminati. Tam giác lấp lánh đại diện cho sự khai sáng. Và hình tam giác cũng là một chữ cái Hy Lạp có tên gọi là Delta, - biểu tượng toán học của…
- Sự đổi thay. Sự chuyển dịch.
Langdon mỉm cười.
- Tôi quên mất rằng mình đang nói chuyện với một nhà khoa học.
- Vậy anh nói dấu triện lớn của nước Mỹ biểu trưng cho lời kêu gọi của phong trào khai sáng?
- Một vài người gọi đó là Trật tự thế giới mới.
Vittoria giật mình. Cô nhìn kỹ lại tờ tiền giấy:
- Chữ viết dưới hình Kim tự tháp nói rằng Novus… Ordo…
- Novus Ordo Seclorum, - Langdon ngắt lời. - Nghĩa là Trật tự trần thế mới.
- Trần thế gắn với phi tôn giáo?
- Phi tôn giáo. Cụm từ này không những miêu tả rõ ràng mục tiêu của Illuminati, mà còn trắng trợn đối lập với cụm từ bên cạnh. Chúng ta tin vào Chúa.
Vittoria có vẻ bối rối.
- Nhưng làm thế nào mà tất cả những biểu tượng này lại xuất hiện trên đồng tiền mạnh nhất thế giới được?
- Đa số các học giả cho rằng đó là do Phó Tổng thống Henry Wallace. Ông ta là một nhân vật cấp cao trong hội Tam Điểm và chắc chắn có liên quan đến hội Illuminati. Chưa ai có thể khẳng định rằng ông ta cũng là một thành viên hay chỉ vô tình chịu ảnh hưởng của Illuminati. Nhưng chính Wallace là người đã bán thiết kế dấu triện lớn cho tổng thống.
- Bằng cách nào vậy? Tại sao Tổng thống lại đồng ý…
Tổng thống lúc bấy giờ là Franklin D. Roosevelt. Wallace nói đơn giản với ông ta rằng Novus Ordo Seclorum nghĩa là "Công cuộc cải cách mới"(1) .
Vittoria càng nghi ngờ:
- Và Roosevelt không để ai khác xem lại biểu tượng trước khi đưa Bộ Tài chính in?
- Không cần thiết. Ông ta và Wallace như anh em trong nhà.
- Anh em?
Xem lại sách lịch sử đi, - Langdon vừa cười vừa nói - Franklin D. Roosevelt là một nhân vật nổi tiếng của hội Tam Điểm.

Chú thích:
(1) New Deal (Thời kỳ cải cách mới): Chương trình cải cách kinh tế xã hội vào những năm 1930 nhằm chấm dứt cuộc Đại suy thoái do Tổng thống Franklin D. Roosevelt đưa ra.
 
Langdon nín thở khi chiếc X-33 lượn vòng trên sân bay Leonardo Da Vinci ở Rome. Vittoria ngồi đối diện anh, mắt nhắm nghiền như thể đang cố gắng chế ngự bản thân. Chiếc máy bay hạ cánh và đi vào ga ra.
- Rất lấy làm tiếc vì chuyến bay bị chậm trễ. - Viên phi công xin lỗi và nhô người lên từ khoang lái. - Tôi phải sửa lại máy bay, theo quy định về tiếng ồn ở khu vực đông dân cư.
Langdon kiểm tra đồng hồ. Họ đã ở trên không 37 phút.
Viên phi công xuất hiện ở cửa ngoài.
- Các vị có thể cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra không?
Cả Vittoria lẫn Langdon không ai nói gì.
- Thôi được, - anh ta vươn vai, - Tôi sẽ ở trong khoang lái, bật điều hoà và nghe nhạc. Chỉ có mình tôi và Garth.
Bên ngoài nhà chứa máy bay, ánh nắng hoàng hôn thật rực rỡ.
Langdon vắt chiếc áo khoác bằng vải tuýt qua vai. Vittoria ngẩng đầu ngước nhìn bầu trời và hít thở sâu, như thể những tia nắng mặt trời đang truyền cho cô một nguồn năng lượng tái sinh kỳ bí nào đó.
Địa Trung Hải, Langdon thầm nghĩ. Anh bắt đầu toát mồ hôi.
- Anh đã qua tuổi xem phim hoạt hình rồi cơ mà? - Vittoria hỏi, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Gì cơ?
- Đồng hồ của anh đấy. Tôi trông thấy từ trên máy bay.
Langdon thoáng đỏ mặt. Anh đã rất nhiều lần phải thanh minh về chiếc đồng hồ đeo tay này. Chiếc đồng hồ có hình chuột Mickey này là một món quà của cha mẹ anh từ thủa thiếu thời. Dù trên mặt đồng hồ chỉ có duy nhất hình chú chuột Mickey ngớ ngẩn, méo mó đang đang tay chỉ giờ, nó vẫn là chiếc đồng hồ duy nhất trong đời anh. Chống thấm nước và phát sáng vào buổi tối nó là thứ vật dụng tuyệt vời mỗi khi đi bơi hay đi dạo trên những con đường thiếu ánh sáng ở truờng đại học. Mỗi khi có sinh viên nào thắc mắc về khiếu thẩm mĩ của mình, anh thường đáp rằng phải đeo Mickey hàng ngày vì nó luôn nhắc anh nhớ giữ cho trái tim được trẻ trung.
- 6 giờ rồi. - Anh nói.
Vittoria gật đầu, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Hình như người ta đang đến đón chúng ta.
Langdon nghe có tiếng động cơ rì rầm từ xa vọng lại, anh ngước lên nhìn, thấy lòng trĩu nặng. Một chiếc trực thăng đang tiến lại từ phía Bắc, là là bay sát đường băng. Langdon đã từng một lần đi trực thăng hồi còn ở thung lũng Andean Palpa để chiêm ngưỡng những bức hoạ bằng cát Nazca, và không hề thấy thích chút nào. Một chiếc hộp đựng giày biệt bay. Sau một buổi sáng ngồi trên máy bay, Langdon đã hy vọng rằng Vatican sẽ cho ôtô ra đón.
Nhưng không phải vậy.
Chiếc máy bay lên thẳng bay chậm lại, lượn một vòng trên không rồi hạ cánh xuống đường băng, ngay trước mặt hai người.
Chiếc phản lực này được sơn màu trắng, hai bên có hình phù hiệu của toà thánh - hình hai chiếc chìa khoá bắt chéo trên một tấm khiên và vương miện giáo hoàng. Anh biết rất rõ biểu tượng này.
Đó là dấu ấn truyền thống của Vatican - biểu tượng thiêng liêng của Toà thánh Vatican hay "ghế thánh" của chính phủ, chiếc ghế này đúng ra là ngai vàng của thánh Peter.
Máy bay của toà thánh, Langdon vừa nhìn chiếc phi cơ hạ cánh vừa rên rỉ. Anh quên mất rằng Vatican sở hữu chiếc máy bay này để đưa Giáo hoàng ra sân bay, đi hội họp hay tới cung điện mùa hè ở Gandolfo. Nhưng bản thân Langdon thì chỉ thích đi ôtô mà thôi.
Viên phi công trèo ra khỏi buồng lái và sải bước qua đường băng trải nhựa, tiến về phía họ.
Bây giờ thì đến lượt Vittoria cảm thấy không thoải mái.
- Đấy là phi công của chúng ta?
Langdon chia sẻ sự lo ngại của cô gái:
- Vấn đề là bay hay không bay đây.
Viên phi công trông chẳng khác gì một diễn viên đang đeo vòng hoa và hoá thân vào một vở kịch nào đó của Shakespeare. Chiếc áo kẻ sọc phồng lên, màu vàng xanh rực rỡ. Anh ta mặc chiếc quần chẽn cùng màu và đeo xà cạp. Dưới chân anh ta là dôi giày bệt màu đen trông giống như dép lê, còn trên đầu chễm chệ một cái mũ nồi cũng màu đen.
- Trang phục truyền thống của đội lính gác Thuỵ Sĩ đấy! Langdon giải thích. - Do đích thân Michelangelo thiết kế.
Khi anh ta tiến đến gần hơn, Langdon cau mày.
- Phải thừa nhận rằng đây không phải là ý tưởng hay nhất của Michelangelo.
Bất chấp bộ trang phục lòe loẹt mặc trên người, viên phi công tỏ ra rất chuyên nghiệp. Anh ta tiến về phía họ, dáng nghiêm chỉnh và trang trọng hệt như một sĩ quan hải quân Mỹ. Langdon đã nhiều lần đọc về những quy định khắt khe mà người ta phải tuân thủ nếu muốn trở thành nhân viên của đội lính gác tinh nhuệ Thuỵ Sĩ. Được tuyển chọn từ một trong bốn bang theo đạo Thiên Chúa giáo của Thuỵ Sĩ, các ứng viên phải là công dân nam người Thuỵ Sĩ, tuổi từ 19 đến 30, chiều cao tối thiểu 1,68m, được quân đội Thuỵ Sĩ đào tạo và chưa lập gia đình. Đội quân siêu hạng này của toà thánh đã khiến chính phủ nhiều nước phải ghen tị - đây là lực lượng an ninh trung thành và tinh nhuệ nhất trên thế giới.
- Quý vị là người của CERN? - Người lính tiến đến trước mặt họ và hỏi bằng giọng rắn rỏi.
- Vâng, đúng thế, - Langdon trả lời.
- Quý vị đến rất đúng giờ. - Anh ta nói, mắt nhìn chăm chăm đầy bí ẩn vào chiếc X-33. Anh ta quay sang Vittoria. - Thưa cô, cô có bộ quần áo nào khác không?
- Ông nói gì ạ?
Anh ta chỉ đôi chân trần của cô gái:
- Mặc quần soóc như thế thì không được vào trong thành Vatican.
Langdon nhìn xuống chân của Vittoria, nhíu mày. Anh quên mất điều này. Vatican có những quy định ngặt nghèo đối với những ai để chân trần trên đầu gối - cả nam lẫn nữ. Quy định này nhằm tôn trọng sự thiêng liêng trong thành phố của Chúa.
- Tôi chẳng có bộ nào khác cả, - cô nói - Chúng tôi đi quá vội.
Người lính gác gật đầu, vẻ không hài lòng. Anh ta quay sang Langdon. - Ngài có mang theo vũ khí không?
Vũ khí ? Langdon thầm nghĩ. Mình thậm chí còn không mang cả quần lót để mà thay ấy chứ! Anh lắc đầu.
Người lính cúi xuống và vỗ vỗ dọc hai cẳng chân của anh để tìm vũ khí. Tin người gớm , Langdon thầm nghĩ. Bàn tay mạnh mẽ của anh ta lần dần lên trên, rụt rè tiến dần đến háng Langdon. Cuối cùng, anh ta khám xét ngực và hai vai. Hiển nhiên là trên người Langdon chẳng có gì. Anh là quay sang Vittoria, đưa mắt nhìn một lượt từ chân lên đầu cô gái.
Vittoria quắc mắt.
- Không đời nào tôi để anh khám xét đâu.
Anh ta từ mắt nhìn Vittoria như muốn ra oai. Nhưng cô gái không hề nao núng.
- Cái gì đây? - Anh ta hỏi, tay chỉ vào vật hình vuông hơi phồng lên trong túi quần của cô gái.
Vittoria lôi ra một chiếc điện thoại siêu mỏng. Anh ta cầm lấy, bật lên, đợi tín hiệu và rồi hài lòng vì đó chỉ là một máy điện thoại thông thường. Anh ta đưa trả lại, Vittoria gập máy rồi đút vào túi quần.
Làm ơn quay đằng sau, anh ta nói tiếp.
Vittoria tuân lệnh, giơ hai tay ra và quay một vòng đủ 360 độ.
Người lính này săm soi khắp thân thề Vittoria. Langdon cho rằng bộ quần áo bó sát người cô gái chỉ phồng lên ở những chỗ mà hiển nhiên nó phải phồng lên. Cuối cùng thì người lính gác cũng đi đến kết luận giống như vậy.
- Cám ơn. Xin mời đi theo lối này.
Chiếc máy bay của đội lính gác Thuỵ Sĩ đang hoạt động ở chế độ chờ khi Langdon và Vittoria tiến lại gần. Vittoria leo lên trước, vô cùng thành thạo, thậm chí không phải cúi người khi đi dưới cánh quạt đang quay. Langdon do dự lùi lại.
- Không thể đi bằng ôtô được hay sao? - Anh rên rỉ, nửa đùa nửa thật với người lính gác Thuỵ Sĩ lúc này đang leo lên ghế phi công.
Anh ta không trả lời.
Langdon biết rằng với những tay lái xe điên khùng ở Rome, đi bằng máy bay có lẽ vẫn là cách an toàn hơn cả. Anh hít một hơi dài rồi leo lên khoang, thận trọng cúi người khi đi dưới cánh quạt đang quay.
Khi máy bay chuẩn bị cất cánh, Vittoria hỏi to:
- Các ông đã xác định được vị trí chiếc hộp chưa?
Anh ta quay lại nhìn, vẻ bối rối.
- Xác định vị trí cái gì?
- Cái hộp. Các ông gọi cho CERN về cái hộp đó mà?
Người phi công nhún vai:
- Tôi không biết cô đang nói về cái gì. Hôm nay chúng tôi rất bận. Chỉ huy lệnh cho tôi đến đón quý vị. Và tôi chỉ biết có thể thôi.
Vittoria và Langdon nhìn nhau lo lắng.
- Xin hãy thắt dây an toàn, - viên phi công nói khi máy bay bắt đầu tăng tốc.
Langdon với tay lấy thắt lưng và tự thắt quanh người. Khoang máy bay chật hẹp dường như đang co thêm vào. Chiếc phi cơ gầm rú lao thẳng về hướng Bắc, về phía thành Rome.
Rome… cái nôi của văn minh , nơi Caesar đã từng trị vì, nơi thánh Peter bị đóng đinh. Cái nôi của nền văn minh hiện đại. Và giờ đây ngay giữa lòng thành phố… là một quả bom hẹn giờ.
Nhìn từ trên cao xuống, thành Rome giống như một mê cung một trận đồ bát quái với những đường phố cổ lượn ngoằn ngoèo xung quanh các toà nhà, những tháp nước và cả những di tích đổ nát.
Chiếc máy bay của Vatican hạ thấp xuống khi nó chuyển sang hướng Tây Bắc, bay xuyên qua tầng khói bụi mù mịt do thành phố đông đúc này xả lên. Langdon nhìn những chiếc xe máy, xe buýt tham quan và cả một đội quân những chiếc xe Fiat mui kín thu nhỏ đang lượn quanh các bùng binh theo khắp mọi hướng.. Koyaanisqatsi , anh nghĩ. Đây là một từ của thổ dân Hopi(1) nghĩa là cuộc sống mất cân bằng.
Vittoria ngồi lặng im ở ghế bên.
Chiếc máy bay nặng nề đáp xuống mặt đất.
Cảm thấy nôn nao trong dạ, Langdon đưa mắt nhìn ra xa. Anh trông thấy cảnh đồ nát của Đại hý trường La Mã. Langdon vẫn thường cho rằng Đại hý trường là một trong những địa danh lịch sử nực cười nhất. Còn bây giờ thì nó là biểu trưng cho sự thăng hoa của văn hoá và văn minh nhân loại. Đấu trường này xưa kia được xây dựng để phục vụ cho những sự kiện man rợ suốt nhiều thế kỷ. Chính tại nơi này, những con sư tử đói đã xé xác các tù nhân, hàng đoàn nô lệ đã phải đánh nhau đến chết, những nữ tù binh bị bắt về từ những hòn đảo xa xôi đã bị cưỡng hiếp tập thể, và những vụ xử trảm đã được tiến hành công khai. Thật mỉa mai, Langdon thầm nghĩ, nhưng cũng vô cùng thích hợp, Đại hý trường chính là nguyên mẫu của bản thiết kế Đấu trường Harvard - một sân bóng nơi mà cứ đến mùa thu là người ta lại mô phỏng lại những tập tục man rợ cổ… những người hâm mộ điên cuồng gào thét đòi được thấy máu đổ mỗi khi trường Harvard thi đấu với trường Yale.
Chiếc máy bay tiếp tục hướng về phía Bắc, và Langdon quan sát quảng trường La Mã - trái tim của Rome trước thời Chúa Giê-su. Những cây cột mục nát trông như những tấm bia mộ lung lay trong một khu nghĩa trang cổ đã may mắn không bị cuộc sống đô thị náo nhiệt nuốt chửng.
Ở phía Tây, vùng lòng chảo của dòng sông Tiber là những nhánh sông hình vòng cung chảy qua thành phố. Dù đang ở trên cao, Langdon cũng có thể thấy rằng con sông này rất sâu. Dòng nước màu nâu nặng phù sa đang sùi bọt sau những trận mưa lớn.
- Phía trước kia kìa, - viên phi công nói và cho máy bay lên cao hơn nữa.
Langdon và Vittoria cùng nhìn ra ngoài và thấy một toà lâu đài khổng lồ lờ mờ hiện ra trước mắt như một ngọn núi đang dần nhô lên từ đám sương mù: Đại thánh đường St. Peter.
- Đây mới chính là tác phẩm có giá trị của Michelangelo. - Langdon nói với Vittoria.
Langdon chưa bao giờ được chiêm ngưỡng Đại thánh đường St. Peter từ trên cao. Mặt tiền lát đá hoa cương đang lấp lánh như một vầng lửa trong ánh nắng hoàng hôn. Được tô điểm bởi 140 bức tượng các vị thánh, vị anh hùng và các thiên thần, thánh đường thờ thần Hercule rộng gấp đôi, và dài gấp 6 lần một sân bóng bình thường. Thánh đường rộng mênh mông này có thể chứa 60.000 con chiên… gấp 100 lần dân số của Vatican, quốc gia nhỏ bé nhất thế giới.
Nhưng cũng thật đáng kinh ngạc, tầm vóc đồ sộ của Đại thánh đường này không hề làm lu mờ vẻ mỹ lệ của quảng trường trước mặt nó. Quảng trường St. Peter lát đá granite rộng thênh thang là một không gian mở ngay giữa trung tâm thành phố chật chội và đông đúc, hệt như một công viên trung tâm được thiết kế theo trường phái cổ điển. Ngay trước mặt tiến của Đại thánh đường, 284 cây cột xếp thành bốn cung tròn đồng tâm bọc lấy quảng trường hình e-líp, lối kiến trúc trompe l'oeit(2) một loại hình nghệ thuật hội hoạ cực kỳ đặc sắc, khiến cho quảng trường rộng lớn cỏ vẻ như cao hơn.
Đăm chiêu nhìn quang cảnh trước mặt, Langdon thầm hỏi không hiểu thánh Peter sẽ nghĩ gì nếu ngài có mặt ở đây lúc này. Bị đóng đinh treo ngược trên giá ở chính địa điểm này, thánh Peter đã chết trong đau đớn. Giờ đây, ngài đang an nghỉ trong một mộ phần cực kỳ thiêng liêng, cách mặt đất năm tầng nhà, ngay dưới mái vòm trung tâm của Đại thánh đường.
- Thành phố Vatican chào mừng quý vị. - Viên phi công lên tiếng, thái độ chẳng hiểu khách chút nào.
Langdon nhìn những toà tháp xây bằng đá đồ sộ hiện ra trước mắt - những thành trì bất khả xâm phạm bao quanh thành phố… một phương thức tự vệ mang tính trần tục nhằm đảm bảo an ninh cho một thế giới tâm linh đầy quyền năng và cũng đầy bí hiểm.
- Nhìn kìa! - Vittoria đột nhiên nắm lấy cánh tay Langdon. Cô hối hả chỉ tay xuống quảng trường St. Peter ngay bên dưới.
Langdon quay ra cửa sổ và nhìn theo.
- Kia kìa, cô chỉ tay.
Langdon đưa mắt nhìn. Phía cuối quảng trường trông chẳng khác gì một bãi đỗ xe với hàng chục chiếc xe thùng. Tất cả những chiếc xe này đều có chảo ăng ten trên nóc. Những cái tên quen thuộc được viết bên trong lòng chảo:
TELEVIOR EUROPEA(3)
VLDEO ITALIA(4)
BBC(5)
UNITED PRESS LNTERNATIONAL(6)
Langdon chợt thấy băn khoăn, không hiểu thông tin về phản vật chất đã bị rò rỉ hay chưa.
Vittoria dường như cũng cảm thấy lo lắng:
- Sao giới truyền thông lại có mặt ở đây? Chuyện gì vậy?
Viên phi công quay lại nhìn cô gái, vẻ ngạc nhiên:
- Chuyện gì ư? Cô không biết à?
- Không hề. - Cô gái trả lời với giọng khàn và mạnh mẽ.
- II Conclave(7) - anh ta nói - Sẽ bắt đầu trong vòng một giờ nữa. Cả thế giới đang chờ đợi.
Il Conclave .
Hai từ ấy tác động mạnh vào trí não Langdon, và khiến anh bỗng thấy lòng trĩu nặng. Il Conclave, Mật nghị Hồng y . Sao anh lại quên được cơ chứ? Gần đây báo chí đưa tin rầm rộ về chuyện đó cơ mà.
15 ngày trước đây, Giáo hoàng đã băng hà sau 12 năm tại vị. Báo chí khắp thế giới đều đưa tin về một cơn đột quỵ khi Người đang trong giấc ngủ - một cái chết bất ngờ đến nỗi không ít người xì xào và nghi hoặc. Hôm nay, theo đúng truyền thống cửa Thiên Chúa giáo, 15 ngày sau khi Giáo hoàng tạ thế, Vatican phải tổ chức Mật nghị Hồng y - một nghi lễ thiêng liêng với sự hiện diện của 165 Hồng y Giáo chủ từ khắp nơi trên thế giới, những nhân vật quyền thế nhất trong giáo hội, để bầu ra Giáo hoàng mới.
Tất cả các Hồng y Giáo chủ trên thế giới đều đang có mặt tại đây. Langdon thầm nghĩ khi chiếc máy bay lướt qua Đại thánh đường St. Peter. Thành Vatican rộng mênh mông trải dài dưới cánh máy bay. Toàn thể bộ máy quyền lực của giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đang ở trên một quả bom hẹn giờ.

Chú thích:
(1) Hopi: Thổ dân da đỏ ở Mỹ, tập trung ở vùng Đông Bắc bang Arizona.
(2) Trompe l'oeil (tiếng Pháp): Đánh lừa cảm giác.
(3) Hãng truyền thông châu Âu.
(4) Hãng phim Italia.
(5) Hãng thông tấn BBC.
(6) Liên hiệp báo chí Quốc tế.
(7) Il Conclave (tiếng Ý): Họp kín.
 
Hồng y Mortati ngước nhìn lên trần nhà nguyện Sistine, cố tìm một khoảnh khắc yên tĩnh. Những bức tường được trang trí bằng các bức bích hoạ dội lại tiếng nói của các vị Hồng y từ mọi quốc gia trên thế giới. Những vị thầy tu này đang tụ tập bên hòm đựng bánh thánh chan hoà ánh nến, náo nức thì thầm, trao đồi với nhau bằng đủ mọi ngôn ngữ, trong đó sử dụng nhiều nhất vẫn là tiếng Anh, Ý và tiếng Tây Ban Nha.
Thường thì ánh sáng trong nhà nguyện vẫn mang màu vàng nhạt - những tia nắng mặt trời rọi vào trong đại sảnh, hệt như những tia sáng từ thiên đàng rọi xuống. Nhưng hôm nay thì khác. Theo lệ, người ta đã treo vải nhung đen để che kín tất cả các ô cửa sổ của nhà nguyện nhằm đảm bảo bí mật. Cách thức này đảm bảo rằng không một ai trong nhà nguyện có thể dùng ngôn ngữ cử chỉ để liên hệ với bên ngoài. Vậy là nhà nguyện tối như bưng, chỉ có nến là nguồn sáng duy nhất… Trong thứ ánh sáng lung linh này, tất cả mọi người bỗng có vẻ thanh khiết hơn, và huyền bí hơn… như những vị thánh.
Mình thật là may mắn, Hồng y Mortati thầm nghĩ, khi được giám sát toàn bộ sự kiện linh thiêng này.
Những vị Hồng y trên 80 tuổi được xem như quá già không đủ tiêu chuẩn ngồi vào bầu chọn và không tham dự Mật nghị Hồng y, nhưng ở tuổi 79, Mortati là vị Hồng y cao niên nhất ở đây và được chỉ định giám sát toàn bộ các nghi thức.
Theo truyền thống, các Hồng y sẽ có mặt trước buổi họp hai tiếng đồng hồ để gặp gỡ và thảo luận với nhau lần cuối cùng.
- Đúng 7 giờ tối, - thị thần của cố Giáo hoàng sẽ bước vào đọc lời cầu nguyện để khai mạc Mật nghị Hồng y, rồi ra khỏi nhà nguyện. Tiếp đó, hội lính gác Thuỵ Sĩ sẽ niêm phong cánh cửa và khoá Hội đồng Hồng y ở bên trong. Đây chính là lúc nghi lễ chính trị bí mật và cổ xưa nhất trên thế giới bắt đầu được tiến hành. Các Hồng y sẽ không được phép ra ngoài cho đến khi Hội đồng chọn được một người để đảm nhiệm chức vụ Giáo hoàng.
Mật nghị Hồng y . Chỉ nghe tên gọi không thôi cũng đã thấy đầy bí hiểm. Theo nghĩa đen Conclave nghĩa là "khoá bằng một chiếc chìa". Các vị Hồng y không được phép liên lạc với bên ngoài. Không điện thoại. Không tin nhắn. Không thì thầm qua khe cửa. Mật nghị Hồng y phải hoàn toàn độc lập với những tác động từ bên ngoài. Thể thức này nhằm đảm bảo rằng Hội đồng Hồng y có thể giữ được Solum Dum prae osculis … chỉ thấy duy nhất Chúa trước mắt họ.
Bên ngoài những bức tường của nhà nguyện, đương nhiên là giới truyền thông đang theo dõi là chờ đợi, họ đoán già đoán non xem thành viên nào của Hội đồng Hồng y sẽ trở thành người lãnh đạo tinh thần của một tỉ tín đồ Thiên Chúa giáo trên khắp thế giới. Những cuộc họp kín kiểu này thường tạo ra không khí căng thẳng, thấm đẫm màu sắc chính trị, và sau nhiều thế kỷ, nó đã trở thành những sự kiện rùng rợn: những vụ đầu độc, những vụ ẩu đả là thậm chí giết người cũng đã xảy ra bên trong bốn bức tường thiêng liêng này. Đó chỉ là lịch sử xa xưa , Hồng y Mortati thầm nghĩ. Buổi họp tối nay sẽ thống nhất, vui vẻ và nhất là sẽ vô cùng… ngắn gọn.
Hay ít ra thì đó cũng là những ước đoán của cá nhân ông.
Giờ đây, một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Bốn vị Hồng y bỗng dưng vắng mặt một cách đầy bí ẩn. Hồng y Mortati biết rằng tất cả các lối ra vào toà thánh Vatican đều được canh gác cẩn mật, và những người mất tích không thể đi đâu xa, nhưng chỉ còn chưa đến một tiếng đồng hồ nữa là giờ cầu nguyện sẽ bắt đầu.
Hồng y không thể giữ nổi bình tĩnh. Vấn đề là ở chỗ bốn vị này không phải những vị Hồng y bình thường. Họ là những vị Hồng y quan trọng nhất.
Họ là bốn người được lựa chọn.
Là người giám sát cuộc bầu chọn, Hồng y Mortati đã báo cho đội lính gác Thuỵ Sĩ về sự vắng mặt của bốn vị này. Đức cha biết rằng những vị Hồng y khác đã để ý đến sự vắng mặt bất thường này. Những lời xì xào lo lắng bắt đầu nổi lên. So với toàn thể Hội đồng Hồng y, bốn vị này phải đúng giờ nhất mới phải! Hồng y Mortati bắt đầu lo ngại rằng một đêm dài đang chờ đợi toàn bộ Hội đồng Hồng y.
Đức cha không thể hiểu nổi.
Vì lí do an toàn và để tránh tiếng ồn, sân bay của Vatican phải ở bên rìa phía Tây Bắc của thành phố, càng xa Đại thánh đường St. Peter càng tốt.
- Tiếp đất, - viên phi công thông báo khi họ đã hạ cánh. Anh ta háo hức mở cánh cửa trượt cho Langdon và Vittoria.
Langdon trèo ra khỏi chiếc máy bay và quay sang định đỡ Vittoria xuống, nhưng cô gái đã nhẹ nhàng xuống gần đến mặt đất. Tất cả sức mạnh trên người cô dường như đã được huy động tối đa cho mục tiêu trước mắt - tìm ra phản vật chất trước khi nó gây ra những hậu quả khủng khiếp.
Sau khi phủ tấm vải dầu chống nắng lên cửa sồ khoang lái, viên phi công dẫn họ đến chiếc xe điện cỡ lớn đang đợi sẵn gần chỗ đậu máy bay. Chiếc xe nhẹ nhàng lăn bánh dọc theo biên giới phía Tây của quốc gia này - một bức tường xi măng dày, cao khoảng 15 mét, đủ để tránh được những cuộc tấn công, kể cả bằng xe tăng. Bên trong, cứ cách 15m lại có một lính gác Thuỵ Sĩ đứng nghiêm canh gác. Chiếc xe đột ngột rẽ phải vào trạm quan sát. Các biển báo chỉ về khắp mọi hướng:
PALAZZO GOVERNATORATO(1)
COLLEGIO ETHIOPIANA(2)
BASILICA SAN PIETRO(3)
CAPELLA SISTINA(4)
Họ tăng tốc trên con đường được chăm sóc rất cẩn thận, qua một toà nhà thấp đề hàng chữ RADIO VATICANA(5) . Langdon kinh ngạc nhận ra trụ sở của làn sóng phát thanh có nhiều thính giả nhất thế giới - Radio Vatican - nơi truyền bá những lời của Chúa đến với hàng triệu con chiên trên khắp thế giới.
- Attenzione(6) - người phi công nói rồi đội ngột rẽ ngoặt vào một con đường hình vòng cung.
Khi chiếc xe quay vòng, Langdon hầu như không thể tin vào những gì mà chính mắt anh đang nhìn thấy. Giardini Vaticani(7) , anh thầm nghĩ. Trái tim của Vatican. Ngay trước mặt họ là phía sau của Đại thánh đường St. Peter - một khung cảnh rất ít người được chiêm ngưỡng. Bên tay phải là Cung pháp đình, nơi ở của Giáo hoàng - một công trình được trang trí theo phong cách oroco lộng lẫy y như cung điện Versailles. Sau lưng họ là toà nhà chính phủ với dáng vẻ uy nghi đường bệ - đại bản doanh của chính quyền thành phố Vatican. Bên trái, trước mặt họ là toà nhà hình chữ nhật đồ sộ - Bảo tàng Vatican. Langdon biết rằng trong chuyến đi này, anh sẽ chẳng có thời gian để vào thăm bảo tàng.
- Mọi người đâu cả rồi. - Vittoria hỏi, đưa mắt nhìn khắp những bãi cỏ và lối đi vắng tanh vắng ngắt.
Người lính gác nhìn chiếc đồng hồ đeo lay màu đen kiểu nhà binh - một vật lỗi thời kỳ dị mà anh đang đeo bên trong ống tay áo phồng của mình.
- Hội đồng Hồng y đã tập trung trong nhà nguyện Sistine. Chưa đầy một giờ đồng hồ nữa, Mật nghị Hồng y sẽ bắt đầu.
Langdon gật đầu, láng máng nhớ lại trước khi Mật nghị Hồng y khai mạc, Hội đồng Hồng y thường dành hai giờ đồng hồ trong nhà nguyện Sistine để suy ngẫm và thăm hỏi những vị Hồng y khác từ khắp nơi trên thế giới. Khoảng thời gian này được dành cho việc gặp gỡ và ôn lại kỷ niệm giữa những người bạn cũ nhằm giảm bớt căng thẳng cho tiến trình bầu cử.
- Thế còn tất cả những cư dân khác và những người phục vụ?
- Họ bị cấm vào thành phố cho đến khi cuộc họp kết thúc, vì lí do bảo mật và an ninh.
- Và khi nào cuộc họp kết thúc?
Người lính gác nhún vai:
- Chỉ có Chúa mới biết.
Sau khi xe dừng lại trên bãi cỏ rộng ngay sau lưng Đại thánh đường St. Peter, người lính gác hộ tống Langdon và Vittoria leo lên một đoạn dốc rải sỏi, tới một đại sảnh xây bằng đá hoa cương ở phía sau Đại thánh đường. Vượt qua công trình này, họ tiến tới bức tường phía sau Đại thánh đường, men theo tường, đi qua một khoảnh sân hình tam giác, rồi đi qua Via Belvedere tới một loạt các toà nhà xây sát vào nhau. Chuyên nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật nên Langdon biết chút ít tiếng Ý đủ để hiểu những bảng chỉ dẫn như Phòng in ấn Vatican, Phòng Phục chế thảm trang trí, Phòng quản lí Bưu điện và Nhà thờ thánh Ann. Họ băng qua một quảng trường nhỏ nữa và đến đích.
Sở chỉ huy của đội lính gác Thuỵ Sĩ nằm ngay sát phòng tình báo, chếch về hướng Đông Bắc so với Đại thánh đường St. Peter.
Văn phòng này là một toà nhà thấp lè tè xây bằng đá. Hai bên lối vào có hai người lính đứng gác, tưởng y như hai bức tượng đá.
Langdon phải thừa nhận rằng trang phục của những người lính này trông không đến nỗi nào. Mặc dù họ cũng mặc bộ đồng phục màu xanh vàng, mỗi người cầm một "thanh kiếm Vatican" truyền thống - thanh gươm dài gần 2,5 mét, đầu nhọt hoắt. Theo truyền thuyết kể lại thì những thanh gươm này đã chặt đầu vô số tín đồ Hồi giáo trong cuộc Thập tự chinh thế kỷ XV.
Thấy Langdon và Vittoria tiến vào, hai người lính gác bước lên một bước, bắt chéo hai thanh gươm, chắn lối vào. Một trong hai người lúng túng nhìn viên phi công.
- Pantaloni(8) , - anh ta vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc quần soóc của Vittoria.
Người phi công phẩy tay nói:
- Il comandante vuole vederli subito(9)
Hai người lính nhíu mày, nhưng vẫn miễn cưỡng đứng lùi sang hai bên.
Bên trong sở chỉ huy thật mát mẻ, khác xa so với những gì Langdon tưởng tượng về một sở chỉ huy quân đội. Căn phòng được trang trí rất cầu kỳ và tỉ mỉ, còn ngoài hành lang thì treo đầy những bức tranh mà chắc chắn nhiều viện bảo tàng lớn trên thế giới sẽ trân trọng treo trong phòng tranh chính.
Người phi công chỉ một cầu thang dẫn xuống dưới.
- Xin mời xuống dưới này.
Lần bước theo những bậc thang bằng đá hoa cương trắng, Langdon và Vittoria đi giữa hai hàng tượng chạm khắc hình các chàng trai khoả thân. Mỗi chàng trai chỉ có một thứ trang phục duy nhất: một chiếc lá vả khá sáng màu, sáng hơn so với phần d.a thịt trên cơ thể họ.
Đại hoạn quan , Langdon nghĩ thầm.
Đây là một trong những tấn bi kịch thê thảm nhất của nghệ thuật thời kỳ Phục Hưng. Năm 1857, Giáo hoàng Pius IX cho rằng bộ phận sinh dục nam giới được khắc hoạ quá rõ nét có thể khơi gợi lên những ham thích nhục dục ở Vatican. Thế là vị Giáo hoàng này đã đích thân cầm búa đẽo bỏ bộ phận sinh dục trên tất cả các bức tượng nam giới trong toà thánh. Kết quả là các tác phẩm của Michelangelo, Bramante và Bernini đều bị biến dạng.
Những chiếc lá vả bằng nhựa dẻo này giờ đây được dùng để đậy kín những phần bị đục đẽo đó. Hàng trăm bức tượng bị thiến.
Langdon đã mấy lần tự hỏi, không hiểu cả đống d.ương v.ật bằng đá kia giờ đang ở chỗ nào.
- Đây rồi! - người lính gác lên tiếng.
Họ đã tới chân cầu thang và đang đứng trước một cánh cửa bằng thép nặng nề. Người lính gác gõ mã số, cánh cửa mở ra. Langdon và Vittoria cùng bước vào.
Đằng sau cánh cửa là cả một sự hỗn độn.

Chú thích:
(1) Cung điện chính phủ
(2) Cung điện
(3) Nhà thờ thánh Peter.
(4) Nhà nguyện Sistine.
(5) Đài phát thanh Vantican.
(6) Attenzione (tiếng Ý): Chú ý.
(7) Giardini Vaticani: Vườn Vatican.
(8) Pantaloni (tiếng Ý): Quần soóc bó chẽn
(9) Il comandante vuole vederli subito (tiếng Ý): Tư lệnh muốn gặp người này ngay bây giờ.
 
Sở chỉ huy của đội lính gác Thuỵ Sĩ.
Đứng ở ngay lối vào, Langdon quan sát sự tương phản giữa các thời đại khác nhau đang bày ra trước mắt. Đủ mọi loại phương tiện liên lạc. Căn phòng là một thư viện được trang trí theo kiểu Phục hưng với những giá sách chìm trong tường, những tấm thảm phương đông treo tường, và những tấm thảm trải sàn màu sắc sặc sỡ. Trong phòng ngồn ngộn những thiết bị công nghệ cao, nào là máy tính, máy fax , bản đồ điện tử của lổ hợp Vatican, lại còn có cả một màn hình ti-vi đang mở kênh CNN. Những người đàn ông mặc bộ đồng phục sặc sỡ đang miệt mài gõ máy tính, trên đầu họ đeo loại tai nghe cực kỳ hiện đại.
- Các vị hãy đợi ở đây, - người lính gác nói.
Langdon và Vittoria đứng chờ, còn người lính gác tới gần một người đàn ông cao ráo, rắn rỏi, mặc bộ quân phục màu xanh sẫm. Ông ta đang nói chuyện bằng điện thoại cầm tay và đứng nghiêm đến nỗi gần như ngả người về đằng sau. Người lính gác nói điều gì đó, thế là ông ta đưa mắt nhìn Langdon và Vittoria. Ông ta gật đầu rồi quay lưng về phía họ, tiếp tục cuộc điện thoại.
Người lính gác quay lại.
- Tư lệnh Olivetti sẽ đến gặp các vị ngay.
- Cám ơn.
Anh ta leo lên cầu thang và ra ngoài.
Langdon quan sát Tổng Tư lệnh Olivetti đang đứng ở góc đối diện. Ông ta đúng là Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang của toàn bộ quốc gia này. Vittoria và Langdon cùng chờ đợi và quan sát những hoạt động diễn ra trước mặt họ. Những người lính gác mặc bộ quân phục sáng màu đang tíu tít bận rộn, và họ liên tục đưa ra những mệnh lệnh bằng tiếng Ý.
- Continue! a ccrcare(1) ! - Một người nói lớn trên điện thoại.
- Ha Provato al museo?(2) - Một người khác hỏi.
Langdon không cần phải thạo tiếng Ý cũng có thể biết được rằng trung tâm an ninh đang trong tình trạng tìm kiếm tích cực. Đây là tin tốt lành. Tin xấu là họ chưa tìm thấy phán vật chất.
- Cô không sao chứ? - Langdon hỏi Vittoria.
Cô gái nhún vai, mỉm cười mệt mỏi.
Cuối cùng thì viên Tổng Tư lệnh cũng tắt máy điện thoại và tiến về phía họ, càng đến gần càng thấy ông ta cao lênh khênh.
Bản thân Langdon là người cao lớn và không quen nhìn lên khi nói chuyện với người khác, nhưng lần này anh phải làm thế với Tổng Tư lệnh Olivetti. Viên chỉ huy này thuộc kiểu người dầm mưa dãi nắng, khuôn mặt khỏe mạnh và rắn chắc. Mái tóc đen được cắt ngắn theo kiểu nhà binh, còn ánh mắt của ông ta thì rực lên một ý chí sắt đá chỉ có thể có được sau nhiều năm rèn luyện miệt mài. Bước đi vững chãi và chuẩn xác, tai nghe bí mật giấu sau một vành tai, Olivetti trông giống một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ hơn là chỉ huy của dội lính gác Thuỵ Sĩ.
Viên tư lệnh chào họ bằng tiếng Anh. Trái ngược với thân hình đồ sộ giọng nói của ông ta trầm và bé đến mức Langdon thấy ngạc nhiên. Olivetti gần như thì thầm, với vẻ chỉn chu, chuẩn xác kiểu nhà binh:
- Xin chào. Tôi là Tư lệnh Olivetti - Comandante Principale(3) của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Tôi là người đã gọi cho giám đốc của các vị.
Vittoria ngước lên.
- Cám ơn ông đã gặp chúng tôi.
Viên Tổng Tư lệnh không nói gì. Ông ta ra hiệu bảo họ đi theo và dẫn họ qua một đống các thiết bị điện tử chất ngổn ngang, đến trước một cánh cửa.
- Vào đi, - Ông ta nói và giữ cửa cho hai người.
Langdon và Vittoria bước vào trong. Đó là một phòng điều khiển mờ mờ tối, trên tường treo đầy những màn hình giám sát đang truyền về những hình ảnh đen trắng từ khắp mọi nơi trong tổ hợp. Một người lính trẻ đang chăm chú theo dõi những hình ảnh ấy.
- Fuori(4) , - Olivetti nói.
Người lính gác thu dọn và đi ra.
Olivetti bước đến và chỉ tay vào một màn hình. Rồi ông quay sang những vị khách của mình:
- Hình ảnh này được truyền về từ một camera điều khiển từ xa giấu ở đâu đó trong thành Vatican. Tôi muốn có lời giải thích.
Langdon và Vittoria nhìn vào màn hình và cùng thở phào. Hình ảnh rất rõ ràng. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là hộp phản vật chất của CERN. Bên trong, một giọt kim loại lấp lánh đang treo lơ lửng trong không trung, ánh sáng nhấp nháy theo từng nhịp của đống hồ điện tử LED. Thật kỳ lạ, khu vực bao quanh chiếc hộp hoàn toàn tối, như thể cái hộp đang ở một hốc trong tủ hay phòng tối nào đó. Phía trên màn hình lấp lóe dòng chữ: TRUYỀN TRỰC TIẾP - CAMERA số 86.
Vittoria nhìn thời gian còn lại ở bảng báo hiệu trên hộp.
- Còn chưa đến 6 tiếng đồng hồ nữa, - cô thì thầm với Langdon, khuôn mặt lộ vẻ căng thẳng.
Langdon kiểm tra lại đồng hồ.
- Vậy chúng ta còn… - Anh chợt ngừng lời, ruột gan như thắt lại.
- Nửa đêm, - Vittoria nói với vẻ mệt mỏi.
Nửa đêm , Langdon nghĩ. Tình hình trở nên phức tạp rồi đây.
Rõ ràng là đêm qua kẻ ăn cắp chiếc hộp đã tính toán một cách kỹ lưỡng. Langdon cảm thấy bất an khi thấy mình đang có mặt tại điểm zero.
Giọng nói thì thào của Olivetti lúc này càng trở nên khó nghe hơn:
- Cái vật này thuộc về trung tâm của các vị hả?
Vittoria gật đầu.
- Vâng, thưa ông. Nó đã bị đánh cắp. Cái hộp này chứa một chất nổ cực mạnh có tên là phản vật chất.
Olivetti trợn mắt:
- Tôi không lạ gì các chất nổ, thưa cô Vetra. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói đến phản vật chất.
- Đây là một công nghệ mới. Chúng ta phải xác định vị trí của nó ngay lập tức, nếu không sẽ phải sơ tán toàn bộ những người có mặt trong thành Vatican.
Olivetti từ từ nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, như thể đang hi vọng rằng Vittoria sẽ cải chính lại những điều vừa nói.
- Sơ tán à? Các vị có biết chuyện gì sẽ diễn ra trong toà thánh tối nay không?
- Chúng tôi biết, thưa ông. Nhưng tính mạng các vị Hồng y Giáo chủ đang bị đe doạ. Chúng ta chỉ còn khoảng 6 tiếng đồng hồ nữa. Các ông đã tìm được đầu mối nào để xác định vị trí của cái hộp chưa?
Olivetti lắc đầu.
- Chúng tôi vẫn chưa bắt đầu tìm kiếm.
Vittoria nghẹn lời:
- Cái gì? Nhưng chúng tôi nghe thấy những người lính gác nói về việc tìm kiếm…
- Tìm kiếm, thì đúng là thế. - Olivetti nói, - nhưng không phải cái hộp đó. Người của chúng tôi đang tìm kiếm một thứ không liên quan gì tới các vị.
Giọng Vittoria như vỡ ra:
- Các ông vẫn chưa bắt đầu tìm kiếm cái hộp sao?
Hai tròng mắt của Olivetti như tụt hẳn vào trong hốc mắt, trông vô cảm, hệt như mắt của côn trùng.
- Thế sao? Cô Vetra? Để tôi giải thích cho cô hiểu nhé. Trên điện thoại, ông giám đốc của cô nhất định không chịu cho tôi biết những thông tin chi tiết về vật thể này. Ông ta một mực yêu cầu tôi phải tổ chức tìm kiếm ngay tức khắc. Chúng tôi cực kỳ bận rộn, và cũng không thừa thãi nhân lực để làm những công việc tù mù thế này.
- Vào thời điểm này thì chúng tôi chỉ có thể thông báo với ông một thông tin thôi, thưa ông chỉ huy, - Vittoria nói, - Trong vòng 6 tiếng đồng hồ nữa, thiết bị đó sẽ khiến cho toàn bộ khu vực này tan thành mây khói.
Olivetti đứng im như trời trồng:
- Cô Vetra, có một điều cô nên biết. - Giọng ông ta đầy vẻ kẻ cả - Mặc dù nhìn từ bên ngoài thì thành phố Vatican có vẻ cổ kính, nhưng trên từng lối đi, cả ở nơi công cộng lẫn khu vực riêng, đều được gắn các thiết bị cảm biến tối tân. Nếu có kẻ muốn mang bất kỳ loại chất nổ nào đột nhập vào đây, hắn sẽ bị phát hiện ngay lập tức. Chúng tôi có máy quét chất phóng xạ đồng vị, những máy lọc mùi do các chuyên gia của DEA(5) ở Mỹ thiết kế nhằm phát hiện dấu hiệu nhỏ nhất của những chất cháy nổ và gây độc. Chúng tôi cũng sử dụng những máy dò kim loại và máy quét tia X-quang tân tiến nhất.
- Rất ấn tượng, - Vittoria nói, cũng lạnh lùng không kém - Thậm không may, phản vật chất không phải chất phóng xạ, ký hiệu hoá học của nó chỉ đơn thuần là hydro, và cái hộp thì được làm bằng nhựa. Không một thiết bị nào ở đây có thể phát hiện ra nó.
- Nhưng thiết bị đó có nguồn năng lượng lớn, - Olivetti nói, tay chỉ vào ánh đèn điện tử LED(6) đang nhấp nháy. - Thậm chí chỉ cần một dấu vết nhỏ của hợp chất Niken- Cadmi(7) cũng có thể…
- Nhưng pin của nó cũng bằng nhựa.
Sự kiên nhẫn của Olivetti rõ ràng là đang mất dần đi.
- Pin bằng nhựa?
- Chất lỏng điện phân polyme kết hợp với Teflon.
Olivetti khom lưng xuống, như thể muốn nhấn mạnh lợi thế chiều cao của mình.
- Xin thưa với quý cô, mỗi tháng Vatican là mục tiêu của hàng chục vụ uy hiếp bằng bom. Đích thân tôi đã đào tạo từng người trong đội lính gác Thuỵ Sĩ về các kỹ thuật gây nổ hiện đại. Theo như tôi được biết thì trên thế giới này chưa có một loại chất nổ nào có sức mạnh như cô miêu tả, trừ khi cô muốn đề cập đến một đầu đạn hạt nhân có lõi bé bằng quả bóng chày.
Vittoria bực bội nhìn ông ta:
- Thiên nhiên còn nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá lắm.
Olivetti cúi xuống thấp hơn nữa:
- Tôi xin hỏi cô là ai? Vị trí cửa cô ở CERN là gì?
- Tôi là thành viên cấp cao trong hội đồng nghiên cứu và được chỉ định tới Vatican để giải quyết vụ khủng hoảng này.
- Xin lỗi vì sự thô lỗ của tôi, nhưng nếu thực sự có một cuộc khủng hoảng như thế thì tại sao tôi phải làm việc với cô chứ không phải giám đốc của cô? Và tại sao cô bất kính đến nỗi mặc quần cộc để vào trong toà thánh?
Langdon muốn rên lên. Không thể tin nổi, trong tình cảnh này mà ông ta vẫn còn tâm trí để mà lo chuyện quần áo. Nhưng rồi anh lại nhớ ra rằng nếu những d.ương v.ật bằng đá mà còn bị xem là dâm ô thì quần soóc của Vittoria hẳn phải là một mối đe doạ đối với an ninh quốc gia.
- Thưa Tổng Tư lệnh Olivetti, - Langdon can thiệp, cố gắng tháo ngòi quả bom nổ chậm thứ hai. - Tên tôi là Robert Langdon. Tôi là giáo sư nghiên cứu tôn giáo ở Mỹ và không có mối quan hệ nào với CERN. Tôi từng được chứng kiến vụ thử phản vật chất và xác nhận rằng những lời của cô Vetra là đúng, phản vật chất cực kỳ nguy hiểm. Chúng tôi có đủ mọi lí do để tin rằng một tổ chức chống tôn giáo đã đem vật đó vào đặt trong khu vực của các ông nhằm mục đích phá hoại Mật nghị Hồng y .
Olivetti quay phắt lại, chăm chú nhìn Langdon:
- Một phụ nữ mặc quần soóc nói với tôi rằng một giọt chất lỏng sắp làm nổ tung cả thành Vatican, rồi lại còn một vị giáo sư người Mỹ nói rằng chúng tôi là mục tiêu của một tổ chức bài tôn giáo. Nói trắng ra thì các vị muốn tôi làm gì?
- Tìm cái hộp, - Vittoria nói, - Ngay bây giờ.
- Không thể được. Thiết bị này có thể ở bất kỳ chỗ nào trong tổ hợp. Vatican rất rộng lớn.
- Hệ thống camera của toà thánh không có bộ phận định vị toàn cầu sao?
- Bình thường chúng không mấy khi bị đánh cắp. Phải mất vài ngày mới xác định được vị trí của chiếc camera mất tích.
- Chúng tôi không có vài ngày. - Vittoria nói một cách cương quyết Chúng tôi chỉ có 6 tiếng đồng hồ.
- Sau 6 tiếng thì sao, cô Vetra? - Olivetti đột ngột lớn tiếng. Ông ta chỉ vào hình ảnh trên màn hình. - Sau khi những con số này đếm ngược đến 0 sao? Thành Vatican biến mất sao? Các vị nghe đây, tôi không thể tử tế với những người đem hệ thống an ninh của chúng tôi ra làm trò đùa. Và tôi cũng chẳng thích thú gì khi cái hộp xuất hiện một cách bí ẩn bên trong khu tổ hợp này. Nhưng tôi quả thật có lo lắng. Phận sự của tôi là thế. Nhưng những gì quý vị vừa nói thì không thể chấp nhận được.
Không kiềm chế thêm được nữa, Langdon lên tiếng:
- Ông đã bao giờ nghe nói đến hội Illuminati chưa?
Vẻ lạnh lùng của ông Tổng tư lệnh lập tức tan biến. Mắt ông ta trợn ngược lên như thể sắp bị cá mập tấn công.
- Tôi cảnh cáo các vị! Tôi không có thời gian cho những trò đùa kiểu này.
- Vậy là ông đã nghe nói đến hội Illuminati rồi phải không?
Hai tròng mắt của Olivetti tưởng như sắp lồi hẳn ra ngoài:
- Tôi đã thề sẽ bảo vệ giáo hội Thiên Chúa. Đương nhiên là tôi phải biết đến hội Illuminati. Chúng đã bị đập tan từ nhiều thập kỷ nay rồi.
Langdon thò tay vào túi áo lôi ra bản fax có hình ảnh cơ thể Leonardo Vetra bị đóng dấu sắt nung rồi đưa cho Olivetti.
- Tôi là một học giả chuyên nghiên cứu về Illuminati, - Langdon nói trong khi Olivetti đang xem xét bức ảnh. - Phải hết sức khó khăn tôi mới dám chấp nhận rằng hội Illuminati vẫn còn hoạt động, vì sự xuất hiện của dấu hiệu này và cũng vì lời nguyền sẽ tiêu diệt thành Vatican của họ, tôi đã thay đối ý kiến.
- Một lò lửa đảo bằng kỹ thuật vi tính. - Olivetti đưa trả tờ fax lại cho Langdon.
Langdon trợn tròn mắt, không tin vào mắt mình:
- Trò bịp là thế nào? Ông hãy nhìn hình đối xứng này đi! Đáng lẽ ông phải là người đầu tiên nhận ra tính xác thực của…
- Tính xác thực là thứ đầu tiên các vị thiếu. Có lẽ cô Vetra chưa cho ông biết đấy thôi, từ hàng chục năm nay, các nhà khoa học của CERN lúc nào cũng chỉ trích các chính sách của Vatican. Họ liên tục yêu cầu chúng tôi tự phủ nhận thuyết Sáng tạo, chính thức xin lỗi Galileo và Copernicus, rút lại những lời chỉ trích của chúng tôi về các công trình khoa học nguy hiểm hoặc vô đạo đức Theo các vị thì giả thuyết nào đúng hơn: Một là một nhóm tà giáo đã diệt vong từ cách đây 400 năm bây giờ bỗng nhiên trỗi dậy và sở hữu một loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt vô cùng hiện đại. Hai là một số kẻ đùa dai ở CERN đang bày ra một trò xảo trá nhằm phá hoại một sự kiện vô cùng thiêng liêng ở thành Vatican. Giả thuyết nào đây?
- Người trong bức ảnh đó, - Vittoria nói, giọng cô gái sùng sục như một dòng nham thạch đang sôi, - chính là cha tôi. Người vừa bị sát hại. Ông tưởng là tôi nói đùa đấy à?
- Tôi không biết, thưa cô Vetra. Tôi chỉ biết rằng khi nào được nghe một lời giải thích hợp lí thì tôi mới phát lệnh báo động. Cảnh giác và thận trọng là phận sự của tôi… đối với những vấn đề tôn giáo kiểu này thì luôn phải giữ cho đầu óc thật sáng suốt. Nhất là trong ngày hôm nay.
Langdon nói:
- Ít ra thì cũng phải cho hoãn Mật nghị Hồng y lại chứ.
- Hoãn? - Olivetti há hốc mồm. - Thật là ngông cuồng. Mật nghị Hồng y không phải là trận đấu bóng chày ở Mỹ để mà tạm hoãn chỉ vì trời mưa. Đây là một sự kiện thiêng liêng với những quy định và thủ tục nghiêm ngặt. Chưa kể đến một tỉ tín đồ Thiên Chúa giáo trên thế giới đang chờ đợi một vị lãnh tụ tinh thần mới, và chưa tính đến các nhà báo đang chầu chực ở ngoài kia, thì bản thân Mật nghị Hồng y cũng đã vô cùng thiêng liêng rồi - không thể thay đổi được. Kể từ năm 1179, tất cả Mật nghị Hồng y đều được tiến hành đúng theo quy định, bất chấp cả động đất, nạn đói, thậm chí cả đại dịch. Các vị nghe đây, không thể nào huỷ bỏ Mật nghị Hồng y chỉ vì một nhà khoa học bị ám sát và một giọt chất mà chỉ có Chúa mới biết đó là cái gì.
- Đưa tôi đến gặp người có thẩm quyền, - Vittoria yêu cầu.
Olivetti gầm lên:
- Cô đang nói chuyện với người đó đây.
- Không, - cô nói - Một người trong giới tăng lữ kia.
Những tia máu trên trán Olivetti bắt đầu vằn lên:
- Tất cả giới tăng lữ đã ra khỏi thành phố. Ngoài đội lính gác Thuỵ Sĩ ra, những người duy nhất có mặt ở đây lúc này là Hồng y đoàn. Và họ đang ở trong nhà nguyện Sistine.
- Thế còn Giáo chủ Thị thần? - Langdon nói nhẹ như không.
- Ai?
- Thị thần của cố Giáo hoàng. - Langdon vừa lặp lại từ đó một cách tự tin vừa thầm mong rằng mình không nhớ nhầm. Anh đã từng đọc tài liệu về cách sắp xếp thứ tự quyền lực ở Vatican sau khi Giáo hoàng tạ thế. Nếu Langdon nhớ không nhầm, trong khi chờ Giáo hoàng mới được bầu, quyền lực tuyệt đối tạm thời thuộc về trợ lí riêng của cố Giáo hoàng - viên thị thần của Người - thư ký thuộc hạ của Người, người giám sát tiến trình của Mật nghị Hồng y, cho đến khi một Giáo hoàng mới được bầu chọn xong.
- Tôi tin rằng lúc này thì Giáo chủ Thị thần là người có thầm quyền.
- Il camerlengo?(8) - Olivetti cáu kỉnh - Giáo chủ Thị thần là vị thầy tu duy nhất tại đây. Ngài là người giúp việc của cố Giáo hoàng!
- Nhưng Giáo chủ Thị thần đang có mặt ở đây. Thế mà ông lại đứng ra giải quyết thay ông ấy sao?
Olivetti khoanh tay trước ngực:
- Thưa ông Langdon, đúng là theo quy định ở Vatican thì Giáo chủ Thị thần là người điều hành chính trong thời gian diễn ra Mật nghị Hồng y , nhưng lý do duy nhất là vì vị thầy tu này không đủ điều kiện để được đề cử làm Giáo hoàng tiếp theo nên sẽ không thể làm thiên lệch kết quả của cuộc bỏ phiếu. Cũng như trong trường hợp tổng thống của các vị từ trần, một trong những trợ lí của ông ta sẽ tạm thời ngồi thay trong phòng nghị sự. Vị Giáo chủ Thị thần này còn khá trẻ, và sự hiểu biết của người về mặt an ninh, hay bất cứ vấn đề gì khác liên quan đều rất hạn chế. Trên thực tế, tôi là người chịu trách nhiệm chính ở đây.
- Đưa tôi đến chỗ Giáo chủ Thị thần. - Vittoria nói.
- Không được. Mật nghị Hồng y sẽ bắt đầu trong vòng 40 phút nữa. Giáo chủ Thị thần đang ở trong Văn phòng của Giáo hoàng để chuẩn bị. Tôi không có ý định làm phiền ngài về những vấn đề an ninh.
Vittoria mở miệng định nói tiếp nhưng đột nhiên có tiếng gõ cửa. Olivetti ra mở cửa.
Một người lính mặc lễ phục chỉnh lề đứng bên ngoài chỉ tay vào đồng hồ: É I'ora, comandante(9) .
Olivetti nhìn đồng hồ và gật đầu. Ông ta quay lại nhìn Langdon và Vittoria như thể một vị quan toà đang chuẩn bị đưa ra phán quyết về sinh mạng của họ.
- Đi theo tôi.
Ông ta đưa hai người ra khỏi phòng điều hành, qua trung tâm an ninh, đến một phòng nhỏ có tường bằng kính trong suốt sát mảng tường phía sau:
- Văn phòng của tôi. - Ông ta đẫn họ vào trong. Căn phòng không có gì đặc biệt - bàn làm việc bừa bãi, ngăn đựng tài liệu, ghế gấp, bình lọc nước. - Tôi sẽ quay trở lại đây sau 10 phút nữa. Tôi đề nghị hai vị dành khoảng thời gian này để nghĩ cho kỹ xem các vị muốn gì.
Vittoria mất bình tĩnh:
- Ông không được bỏ đi như thế! Cái hộp đó…
- Tôi không có thời gian, - Olivetti cáu kỉnh. - Có lẽ tôi nên tạm giữ cô cho đến khi cuộc bầu chọn kết thúc, lúc đó thì tôi sẽ có thời gian.
- Signore(10) - người lính thúc giục, chỉ tay vào đồng hồ lần nữa.
- Spazzare la cappella !(11)
Olivetti gật đầu và chuẩn bị đi.
Spazzare la cappella ? - Vittoria hỏi lại - Các ông định đi rà soát nhà nguyện sao?
Olivelti quay lại, ánh mắt sắc như dao nhìn xoáy vào cô gái:
- Chúng tôi rà soát để tìm bọ điện tủ, cô Vetra ạ - cẩn tắc vô áy náy. - Ông ta chỉ vào chân Vittoria: "Tôi nghĩ rằng chuyện này thì cô không hiểu nổi đâu.
Ông ta đóng sầm cánh cửa tấm kính rung lên bần bật. Trong cơn tức giận, ông ta rút chìa khoá ra, tra vào ổ và vặn. Chốt khoá nặng nề bật ra.
- Idiota !(12) - Vittoria rên lên. - Ông không được nhốt chúng tôi ở đây!
Nhìn xuyên qua cửa kính, Langdon thấy Olivetti nói gì đó với người lính gác. Anh ta gật đầu. Khi Olivetti sải bước ra khỏi phòng, anh ta xoay lại đứng đối diện với họ qua lớp kính, hai tay khoanh trước ngực, vũ khí kè kè sát bên hông.
Hoàn hảo , Langdon thầm nghĩ. Hoàn hảo chết người.

Chú thích:
(1) Continua a cercare (tiếng Ý): Tiếp tục tìm kiếm.
(2) Ha provato al museo (tiếng Ý): Có thể ở viện bảo tàng.
(3) Comandante Principale (tiếng Ý): Tổng Tư lệnh.
(4) Fuori (tiếng Ý): Ra ngoài.
(5) DEA (Drug Eníorcement Adminitration): Cục quản lí được phẩm Hoa Kỳ.
(6) LED (Light - emitting diode): đi-ốt phát sáng.
(7) Cadmi: Là một nguyên tố hoá học trong bảng tuần hoàn các nguyên tố, có ký hiệu là Cd.
(8) Il camerlengo (tiếng Ý): Giao chủ Thị thần.
(9) E l'ora, comandante (tiếng Ý): Đến giờ rồi, thưa tư lệnh.
(10) Signore (tiếng Ý): Quý ông, thưa ngài.
(11) Spazzare la cappella (tiếng Ý): Dọn nhà thờ.
(12) Idiota (tiếng Ý): Khốn kiếp.
 
Vittoria chăm chăm nhìn người lính gác Thuỵ Sĩ đang đứng bên ngoài cánh cửa đã bị khoá. Người lính gác cũng chòng chọc nhìn lại hai người, bộ quần áo sặc sỡ tương phản với vẻ mặt hằm hằm của anh ta.
Che fiasco(1), Vittoria nghĩ. Giam giữ con tin bằng một người trang bị đầy đủ vũ khí nhưng lại mặc piiama.
Langdon không nói gì, Vittoria hy vọng anh chàng Harvard này sẽ vận dụng trí thông minh của mình để tìm ra cách giải quyết vấn đề. Nhưng nhìn nét mặt của anh, cô biết anh vẫn còn đang sốc và chưa kịp suy nghĩ bất cứ điều gì. Cô cảm thấy ân hận vì đã lôi Langdon vào cuộc.
Theo bản năng, Vittoria rút điện thoại di động và gọi cho Kohler, nhưng cô chợt nhận ra mình thật ngớ ngẩn. Trước hết, người lính gác có thể đi vào và tước mất điện thoại của cô. Thứ hai, nếu Kohler được cấp cứu kịp thời, ông ta chắc vẫn đang nằm liệt một chỗ. Mà nếu có đi được chăng nữa… thì lúc này Olivetti cũng chẳng thèm đếm xỉa đến lời nói của bất cứ ai.
Phải nhớ lại ! Cô tự nhủ. Hãy nhớ lại giải pháp cho phép thử này!
Lục lại trí nhớ là phương pháp của một triết gia theo đạo Phật.
Thay vì đặt câu hỏi cho trí não để tìm giải pháp cho một vấn đề tưởng như vô vọng, Vittoria chỉ cần yêu cầu trí não của mình nhớ lại vấn đề. Giả thuyết là một khi người ta biết câu trả lời nằm trong đầu thì câu trả lời đó ắt hẳn phải tồn tại… vì vậy sẽ loại bỏ được những ý nghĩ tuyệt vọng. Vittoria thường sử dụng cách này để giải những bài toán hóc búa trong khoa học… những thách thức mà đa số người cho rằng không thể giải quyết nổi.
Nhưng giờ đây, phương pháp này chẳng mang lại kết quả gì.
Thế là cô cân nhắc các sự lựa chọn… những điều cần làm. Cần phải cảnh báo một người nào đó. Một nhân vật nào đó của toà thánh phải nghiêm túc lắng nghe ý kiến của cô. Nhưng người đó là ai? Giáo chủ Thị thần? Nhưng bằng cách nào? Khi cô đang bị nhốt trong một cái hộp kính chỉ có một cửa ra duy nhất.
Công cụ, cô tự nhủ. Công cụ lúc nào cũng sẵn có. Phải xem xét mọi thứ xung quanh.
Theo bản năng, Vittoria thả lỏng hai vai, mắt nhắm lại thư giãn, hít thở sâu ba lần. Cô cảm thấy trái tim mình đang đập chậm dần lại, các cơ bắt đầu mềm ra. Cảm giác kinh hoàng trong lòng tan biến. Được rồi , cô gái thầm nghĩ, hãy để cho đầu óc được thư thái. Những yếu tố tích cực trong tình huống này là gì? Mình đang có những gì?
Một khi đã bình tĩnh trở lại, khả năng phân tích của Vittoria trở nên cực kỳ mạnh mẽ. Trong vòng vài giây, cô gái nhận ra rằng chính tình cảnh bị giam giữ nơi đây lại là chìa khoá giúp họ trốn thoát.
- Tôi sẽ gọi điện thoại, - cô bất chợt lên tiếng.
Langdon ngước mắt lên:
- Tôi cũng định nhắc cô gọi cho Kohler nhưng…
- Không phải Kohler. Một người khác.
- Giáo chủ Thị thần.
Langdon hoàn toàn không hiểu gì cả.
- Cô định gọi cho Giáo chủ Thị thần? Nhưng bằng cách nào?
- Olivetti nói rằng Giáo chủ Thị thần đang ở trong văn phòng của Giáo hoàng.
- Được rồi. Thế cô có biết số điện thoại riêng của Giáo hoàng không?
- Không. Nhưng tôi không gọi bằng điện thoại của tôi . - Cô gật đầu chỉ về phía hệ thống điện thoại công nghệ cao trên bàn của Olivetti. Hệ thống này dày đặc những nút gọi nhanh. - Người đứng đầu của cơ quan an ninh phải có đường dây liên lạc trực tiếp với văn phòng của Giáo hoàng.
- Ông ta cũng đã bố trí một vận động viên cử tạ được trang bị đầy đủ vũ khí đứng cách chúng ta có 1,8 mét.
- Và chúng ta bị khoá bên trong.
- Tôi biết rất rõ điều đó.
- Ý tôi là người lính gác kia bị khoá ở phía ngoài. Đây là phòng riêng của Olivetti. Tôi nghĩ không ai khác có chìa khoá.
Langdon nhìn người lính gác:
- Lớp kính này tương đối mỏng còn khẩu súng thì khá lớn.
- Thế anh ta sẽ làm gì, chẳng lẽ lại bắn chúng ta chỉ vì tội gọi điện thoại?
- Có trời mới biết! Đây là một nơi kỳ lạ, và mọi thứ đều sắp…
- Chỉ có một trong hai giải pháp, - Vittoria nói - Nếu không làm thế thì chúng ta sẽ ở trong nhà tù của Vatican trong vòng 5 giờ 48 phút nữa. Ít ra thì chúng ta sẽ ngồi ngay hàng ghế đầu, khi phản vật chất phát nổ.
Mặt Langdon tái đi:
- Nhưng người lính kia sẽ gọi cho Olivetti ngay khi cô nhấc máy. Ngoài ra, có những 20 nút bấm trên máy điện thoại. Và tôi cũng chẳng thấy có chú thích nào cả. Cô định bấm thử tất cả các nút rồi cầu may hay sao?
- Không. - Cô nói và sải bước đến bên máy điện thoại. - Chỉ một nút thôi. - Vittoria nhấc máy lên và ấn nút trên cùng.
- Số 1. Tôi cá những đồng đô la Mỹ mang biểu tượng của Illuminati trong túi anh đấy. Đây là số văn phòng của Giáo hoàng. Đối với tư lệnh của đội lính gác Thuỵ Sĩ thì còn có gì quan trọng hơn số máy này?
Langdon không còn thời gian để phản đối. Người lính gác bên ngoài lấy báng súng gõ nhẹ vào lớp kính. Anh ta ra hiệu cho cô đặt máy xuống.
Vittoria nháy mắt với anh ta, thế là người lính gác bắt đầu nổi cơn thịnh nộ.
Langdon lùi xa khỏi cánh cửa và quay về đứng cạnh Vittoria.
- Hi vọng là cô đoán không sai, anh chàng ngoài kia có vẻ chẳng hài lòng chút nào!.
- Chết tiệt! - Cô gái nói trong khi nghe tín hiệu. - Vớ phải máy ghi âm rồi.
- Ghi âm? - Langdon hỏi lại. - Giáo hoàng dùng máy ghi âm để trả lời điện thoại?
- Đấy không phải là văn phòng của Giáo hoàng, - Vittoria nói rồi gác máy. - Đó là thực đơn hàng tuần chết tiệt dành cho nhà bếp của Vatican.
Langdon cười gượng với người lính gác bên ngoài cửa kính.
Anh ta đang giận dữ nhìn qua tấm kính, tay rút máy bộ đàm và gọi cho Olivetti.

Chú thích:
(1) Che fiasco (tiếng Ý): Thất bại.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tổng đài Vatican được bố trí trong phòng thông tin phía sau bưu điện Vatican. Đây là một căn phòng nhỏ chứa hệ thống tổng đài điện thoại Corelco 141 gồm 8 đường dây. Văn phòng này mỗi ngày tiếp nhận trên 2000 cuộc gọi, đa số được tự động chuyển vào hệ thống ghi âm điện thoại.
Tối nay, nhân viên thông tin trực ban đang một mình ngồi nhấm nháp tách trà ướp cà phê, lòng cảm thấy tự hào là người duy nhất được phép ở lại Vatican đêm nay. Tất nhiên, niềm vinh dự này thỉnh thoảng bị phá hỏng bởi sự hiện diện của những người lính canh Thuỵ Sĩ cứ lượn lờ ngoài cửa. Được hộ tông tới tận nhà vệ sinh , người trực ban thầm nghĩ. Thế đấy, phải chịu khổ sở vì Mật nghị Hồng y thần thánh.
May mắn là những cuộc điện thoại tối nay đều rất nhẹ nhàng. Hay có lẽ đây chính là điều không may, anh ta nghĩ. Trong vài năm vừa qua, sự quan tâm của thế giới đối với những sự kiện ở Vatican đang giảm dần. Những cuộc gọi của giới báo chí cũng ít dần, và thậm chí những kẻ cuồng tín cũng không hay gọi đến quấy nhiễu nữa. Văn phòng báo chí đã hy vọng rằng sự kiện tối nay sẽ vui như hội. Nhưng buồn thay, dù cho xe hòm của giới truyền thông đỗ chật quảng trường St. Peter, thì cũng chỉ toàn thấy các hãng thông tấn của Italia và châu Âu. Chỉ thấy lác đác vài hãng tin lớn phủ sóng toàn cầu… và rõ ràng là những hãng này cũng chỉ cử đến đây toàn những phóng viên hạng hai .
Người nhân viên trực tổng đài với lấy cốc trà. Thầm băn khoăn không hiểu đêm nay Mật nghị Hồng y sẽ kéo dài bao lâu . Có lẽ đến nửa đêm hoặc muộn hơn , anh ta ước đoán. Ngày nay, trước khi cuộc bầu chọn bắt đầu, những người trong cuộc đều đã biết trước ai được ưu ái và có khả năng trở thành Giáo hoàng. Vì vậy Mật nghị Hồng y chỉ còn là một nghi lễ kéo dài khoảng ba đến bốn giờ đồng hồ, chứ không phải là cuộc bầu chọn thực sự như xưa.
Đương nhiên là những bất đồng giữa các thành viên của Hồng y đoàn có thể khiến cho Mật nghị Hồng y kéo dài, có thể đến rạng sáng hoặc… lâu hơn nữa. Mật nghị Hồng y năm 1831 kéo dài 54 ngày. Đừng có là đêm nay, anh ta tự nhủ; nghe đồn rằng Mật nghị Hồng y đêm nay chẳng qua chỉ là "hình thức" mà thôi.
Dòng suy nghĩ của người trực tổng đài bất chợt bị cắt ngang bởi tiếng chuông phát ra từ đường dây nội bộ trong tổng đài.
Anh ta nhìn ánh đèn đỏ nhấp nháy và gãi đầu. Kỳ lạ thật , anh ta nghĩ thầm. Đường dây số 0. Ai ở trong khu vực tin gọi tổng đài vào tối nay nhỉ? Ai mà giờ này vẫn còn ở trong toà thánh ?
- Citta del Vaticano, prego(1) ? - Anh ta nhấc máy lên.
Người ở đầu dây nói tiếng Ý rất nhanh. Nhân viên trực tổng đài lờ mờ nhận ra giọng nói này, đó là kiểu nói của những người lính gác Thuỵ Sĩ - một thứ tiếng Ý trôi chảy pha chút âm điệu của người Thuỵ Sĩ gốc Pháp. Tuy nhiên, người gọi điện này chắc chắn không phải là một lính gác Thuỵ Sĩ.
Khi nghe thấy giọng phụ nữ trong máy, người trực tổng đài sững lại, suýt làm đổ cốc trà. Anh ta nhìn đường dây một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn. Số nội bộ. Cuộc gọi này là từ bên trong thành Vatican. Chắc chắn là có sự nhầm lẫn! Anh ta thầm nghĩ. Một phụ nữ ở trong thành Vatican? Tối hôm nay?
Người phụ nữ đó nói rất nhanh và có vẻ giận dữ. Sau nhiều năm trực tổng đài, người nhân viên đã có kinh nghiệm và biết phải làm thế nào để đối phó với một kẻ điên khùng. Nhưng giọng nói của người này không hề điên khùng chút nào. Khẩn cấp nhưng có ý thức. Bình tĩnh và rõ ràng. Anh ta lắng nghe yêu cầu của người đang gọi đến và bối rối.
- Il camerlengo?(2) - người trực ban hỏi lại, anh ta đang cố tìm xem cuộc gọi quỷ quái này từ đâu đến. - Tôi không thể nối máy… vâng, tôi biết Giáo chủ Thị thần đang ở trong văn phòng của Giáo hoàng nhưng… cô là ai, và cô muốn cảnh báo ngài về chuyện… - Anh ta lắng nghe, mỗi lúc một thêm mất bình tĩnh. Mọi người đang gặp nguy hiểm? Sao cơ? Và cô đang gọi từ đâu? Có lẽ tôi nên liên lạc với đội cận vệ Thuỵ Sĩ… - Người trực ban ngừng đột ngột. - Cô nói cô đang ở đâu? ở đâu?
Anh ta lắng nghe, vẻ kinh ngạc, rồi quyết định:
- Xin hãy giữ máy, anh ta nói rồi tạm gác máy trước khi người phụ nữ kịp trả lời. Rồi anh ta lại gọi trực tiếp cho tư lệnh Olivetti. Người phụ nữ đó không thể nào…
Phía bên kia đường dây ngay lập tức có người trả lời.
- Per l'amore di Dio!(3) - người phụ nữ ấy lập tức hét toáng lên. - Hãy nối máy đi!.
Cánh cửa văn phòng đội Cận vệ Thuỵ Sĩ bật mở. Người lính gác đứng tránh sang một bên và Tổng Tư lệnh Olivetti lao vào phòng. Những gì người lính gác nói với ông ta trên máy bộ đàm không hề sai chút nào. Vittoria Vetra đang đứng cạnh bàn làm việc sử dụng điện thoại riêng của Olivetti.
Che coglioni che hả questaz !(4) Olivetti thầm nghĩ. Nhanh thật!
Nhanh như cắt, ông ta sải bước đến bên cánh cửa, tra mạnh chìa khoá vào ổ. Olivetti giật cánh cửa ra và hỏi:
- Các người đang làm cái gì thế?
Vittoria làm như không nghe thấy gì.
- Vâng, - cô vẫn tiếp tục nói trên điện thoại. - Và tôi phải cảnh báo…
Olivetti giật phắt chiếc điện thoại từ tay cô gái rồi đưa lên ngang tai. - Gã nào đang nói chuyện đấy!
Trong phút chốc, thân hình cứng ngắc của Olivetti sụp xuống.
- Vâng, thưa Giáo chủ Thị thần… - Ông ta nói - Đúng thế, thưa cha… nhưng yêu cầu của bộ phận an ninh… dĩ nhiên là không ạ… con đang giữ cô ấy ở đây vì… được ạ, nhưng mà… - Ông ta lắng nghe. - Vâng, thưa cha. - Cuối cùng ông ta thốt lên. - Con sẽ đưa họ lên ngay lập tức.

Chú thích:
(1) Città del Vaticano, prego (tiếng Ý): Xin chào, đây là thành phố Vatican
(2) Il camerlengo (tiếng Ý): Giáo chủ Thị thần.
(3) Per l'amore di Dio (tiếng Ý): Vì tình yêu của Chúa.
(4) Che coglioni che hả questaz (tiếng Ý): Một câu chửi thế (nghĩa bậy).
 
Cung điện của Giáo hoàng gồm một tổ hợp những khối nhà nằm ngay bên cạnh nhà nguyện Sistine, về phía Đông Bắc của thành Vatican. Mặt trước của cung điện hướng ra quảng trường St. Peter, và cả khu ở lẫn văn phòng của Giáo hoàng đều được bố trí bên trong công trình tráng lệ này.
Vittoria và Langdon im lặng đi theo Tổng Tư lệnh Olivetti, qua những hành lang dài trang trí hoa văn cầu kỳ theo kiểu rococo. Olivetti tức tối đến nỗi chùm cơ trên cổ ông ta nổi gồ hẳn lên. Sau khi leo hết ba tầng cầu thang, họ tiến vào một hành lang rộng rãi, sáng mờ.
Langdon sững sờ trước những kiệt tác nghệ thuật treo đầy trên tường - những bức tượng bán thân mới tinh, những tấm thảm thêu, những cây cột trụ - những tác phẩm trị giá hàng trăm ngàn đô la. Một đài phun nước bằng thạch cao tuyết hoa kéo dài hai phần ba dãy hành lang. Olivetti rẽ trái rồi bước tới bên một khung cửa rộng chưa từng thấy.
- L' ufficio del Papa!(1) - Vị Tổng Tư lệnh tuyên bố và quắc mắt nhìn Vittoria một cách đầy bực tức. Cô gái không hề nao núng, bước qua Olivetti và gõ mạnh vào cánh cửa.
Văn phòng của Giáo hoàng , Langdon thầm nghĩ, anh không dám tin rằng mình đang đứng ngay trước cửa một trong những căn phòng thiêng liêng nhất của mọi tôn giáo trên thế giới.
- Avanti!(2) - có người từ bên trong nói vọng ra.
Khi cánh cửa mở ra, Langdon phải lấy tay che mắt. Ánh nắng mặt trời thật chói chang. Dần dần, quang cảnh trước mắt anh trở nên rõ nét.
Văn phòng của Giáo hoàng trông giống phòng đại tiệc hơn là phòng làm việc, bàn đá hoa cương đỏ, tường được trang trí bằng những bức bích hoạ. Một cây đèn chùm khổng lồ treo trên trần, và những ô cửa sổ hình vòm. Quảng trường St. Peter trong ánh nắng chiếu hiện ra đẹp đến sững sờ.
- Chúa ơi , Langdon thầm nghĩ. Đứng đây mà ngắm cảnh mới tuyệt làm sao!
Ở phía cuối phòng, bên một cái bàn chạm trố rất cầu kỳ, một người đàn ông đang viết lách gì đó, vẻ giận dữ.
- Avanti! - người này nhắc lại một lần nữa, rồi đặt bút xuống và vẫy họ lại gần.
Với những bước đi chắc nịch kiểu nhà binh, Olivetti dẫn đầu.
- Signore(3) - Ông ta nói vẻ biết lỗi. Non ho potuto(4) ….
Người đàn ông đó ngắt lời Olivetti, rồi đứng dậy quan sát hai vị khách.
Giáo chủ Thị thần trông không giống những ông già yếu ớt và hiền lành mà Langdon vẫn thường mường tượng. Vị thầy tu này không đeo tràng hạt hay dây thánh giá, cũng không mặc tấm áo chùng nặng nề. Thay vào đó, ngài mặc bộ áo thầy tu màu đen nhẹ nhàng, khiến cho thân hình săn chắc nổi bật hẳn lên. Trạc 40 tuổi Giáo chủ Thị thần thực ra chỉ là một đứa trẻ so với độ tuổi trung bình của một thị thần ở Vatican. Ngài có khuôn mặt đẹp đến kinh ngạc, mái tóc dày màu nâu gợn sóng, đôi mắt xanh sáng long lanh như thể được truyền sức mạnh từ vô vàn những bí ẩn của vũ trụ. Tuy nhiên, khi Giáo chủ Thị thần đến gần, Langdon nhận thấy trong đôi mắt xanh ấy vẻ mệt mỏi kiệt quệ - giống như một linh hồn vừa trải qua 15 ngày khó khăn nhất trong cuộc đời của mình.
- Ta là Carlo Ventresca, - vị thầy tu này nói tiếng Anh cực kỳ trôi chảy - Thị thần của cố Giáo hoàng. - Giọng nói của ngài chỉ pha một chút âm sắc của tiếng Ý, toát lên vẻ khiêm tốn và nhân từ.
- Vittoria Vetra, - cô gái bước lên phía trước và chìa tay ra. - Cám ơn cha đã cho chúng con được gặp mặt.
Olivetti co rúm người khi nhìn thấy Giáo chủ Thị thần bắt tay Vittoria.
- Đây là ông Robert Langdon, - Vittoria nói - Nhà nghiên cứu sử học tôn giáo thuộc trường Đại học Harvard.
- Padre(5) , - Langdon cố gắng phát âm tiếng Ý thật chuẩn. Anh cúi đầu và chìa tay ra.
- Không, không, - Giáo chủ Thị thần đỡ Langdon dậy. - Đứng trong văn phòng của Giáo hoàng không khiến cho ta trở thành Giáo hoàng. Ta chỉ là một thầy tu bình thường - một kẻ tôi tớ của Người.
Langdon đứng im.
- Xin mời, - Giáo chủ Thị thần nói, - mời tất cả mọi người ngồi xuống. - Ngài kéo vài chiếc ghế xung quanh bàn làm việc.
Langdon và Vittoria cùng ngồi xuống. Còn Olivetti thì rõ ràng là muốn đứng.
Giáo chủ Thị thần ngồi xuống bên bàn làm việc của mình, khoanh tay thở dài rồi nhìn từng vị khách.
- Thưa cha, - Olivetti nói, - Trang phục của người phụ nữ này là do sơ suất của con. Con…
- Trang phục của cô ấy không phải là thứ khiến ta bận tâm, - Giáo chủ Thị thần uể oải đáp, dường như ngài đã quá mệt mỏi nên cũng không để tâm đến chi tiết đó. - Nhân viên trực tổng đài của toà thánh điện cho ta nửa tiếng trước giờ khai mạc Mật nghị Hồng y và nói rằng có một phụ nữ đang gọi từ phòng làm việc của ông để cảnh báo về một mối đe doạ lớn mà ta chưa được biết, đó mới chính là điều khiến ta phải bận tâm.
Olivetti đứng như trời trồng, lưng chùng xuống, y như một người lính đang phải trải qua một kỳ sát hạch gắt gao.
Langdon như bị thôi miên trước sự hiện diện của Giáo chủ Thị thần. Dù còn rất trẻ và có vẻ mỏi mệt, vị thầy tu này vẫn thể hiện phong thái của một anh hùng bí ẩn với dáng vẻ quyền uy và sức hút mạnh mẽ.
- Thưa cha, - Olivetti nói, giọng có vẻ hối lỗi, nhưng vẫn rất cứng nhắc - Cha không cần phải bận tâm về những vấn đề an ninh. Cha còn có những trọng trách khác.
- Ta biết rõ những phận sự của mình. Ta cũng hiểu rằng ở cương vị của một người phụ trách lâm thời, ta có trách nhiệm đảm bảo cho tất cả những thành viên của Hồng y đoàn được bình an vô sự. Đã xảy ra chuyện gì?
- Con vẫn đang kiểm soát được tình hình.
- Rõ ràng là không.
- Thưa cha, - Langdon ngắt lời, anh lôi ra tờ fax nhàu nhĩ rồi đưa cho Giáo chủ Thị thần. - Cha hãy xem đi.
Tống Tư lệnh Olivetti bước lên, định can thiệp.
- Thưa cha, xin đừng bận tâm về…
Giáo chủ Thị thần cầm lấy tờ fax , chẳng thèm để ý đến Olivetti. Ngài nhìn bức ảnh chụp Leonardo Vetra bị sát hại rồi thở dài.
- Gì thế này?
- Đó là cha của con, - Vittoria nói, giọng run rẩy. - Ông ấy là một linh mục và một nhà khoa học. Đêm qua, cha của con đã bị sát hại.
Vẻ mặt của vị thầy tu trẻ ngay lập tức dịu lại. Ngài quay sang nhìn Vittoria:
- Con của ta, ta rất lấy làm tiếc. - Giáo chủ Thị thần làm dấu thánh rồi lại tiếp tục nhìn tấm hình, ánh mắt của ngài lộ vẻ kinh hãi. - Kẻ nào đã… và vết bỏng trên… - Giáo chủ Thị thần ngừng lời, nheo mắt nhìn kỹ tấm hình.
- Đó là biểu tượng của Illuminati, - Langdon nói - Chắc cha không lạ gì cái tên đó.
Giáo chủ Thị thần thoáng ngỡ ngàng.
- Ta đã từng nghe thấy cái tên đó, đúng thế, nhưng mà…
- Illuminati đã sát hại Leonardo Vetra để đánh cắp công nghệ mới mà ông ấy đang…
- Thưa cha, - Olivetti xen vào. - Câu chuyện này thật lố bịch. Hội Illuminati ư? Rõ ràng đây là một trò lừa bịp có tính toán.
Giáo chủ Thị thần dường như đang cân nhắc những lời nói của Olivetti. Rồi ngài quay sang và nhìn Langdon kỹ đến nỗi anh cảm thấy nghẹt thở.
- Ông Langdon, ta cống hiến cả đời mình cho giáo hội, cho nên ta không lạ gì những lời đồn đại về Illuminati… và truyền thuyết về những dấu sắc nung. Nhưng xin ông nhớ rằng ta là người của thực tại. Chưa cần dựng lại nhũng bóng ma này thì Thiên Chúa giáo đã có nhiều kẻ thù lắm rồi.
- Biểu tượng này là thực, - Langdon có ý bảo vệ quan điểm của mình. Anh với lấy tờ fax và xoay ngược lại cho Giáo chủ Thị thần xem.
Vị thầy tu trẻ tuổi im bặt khi nhìn thấy biểu tượng đối xứng hai chiều đó.
- Kể cả công nghệ máy tính hiện đại, - Langdon nói thêm, cũng không thể làm giả biểu tượng đối xứng hai chiều này.
Khoanh tay trước ngực và im lặng hồi lâu, cuối cùng Giáo chủ Thị thần cũng lên tiếng:
- Hội Illuminati đã diệt vong. Từ lâu lắm rồi. Đó là một sự thật lịch sử.
Langdon gật đầu.
- Con cũng nghĩ như cha, cho đến tận ngày hôm qua.
- Ngày hôm qua?
- Trước khi một loạt sự kiện xảy ra trong ngày hôm nay. Con tin rằng hội Illuminati đã sống dậy để thực hiện những mục đích xa xưa của họ.
- Tha lỗi cho ta. Kiến thức lịch sử của ta không được tốt cho lắm. Mục đích gì vậy?
Langdon hỏi một hơi thật sâu:
- Phá huỷ thành Vatican.
- Phá huỷ thành Vatican? - Giáo chủ Thị thần có vẻ bối rối nhưng không hề hoảng hốt. - Điều đó là không thể.
Vittoria lắc đầu:
- Sợ rằng chúng con còn có vài tin xấu khác.

Chú thích:
(1) L' ufficio del Papa (tiếng Ý): Văn phòng Giáo hoàng.
(2) Avanti (tiếng Ý): Vào đi.
(3) Signore (tiếng Ý): Thưa ngài.
(4) Non ho potuto (tiếng Ý): Tôi không thể.
(5) Padre (tiếng Ý): Đức cha.
 
Có đúng như thế không? - Giáo chủ Thị thần kinh ngạc hỏi lại, hết quay sang Vittoria lại đến Olivetti.
- Thưa cha, - Olivetti trấn an, - Con phải thừa nhận rằng chúng ta đang có một bằng chứng. Một camera giám sát đang truyền về hình ảnh của nó, nhưng khi cô Vetra nói về sức mạnh của vật này thì con không thể…
- Khoan đã nào, - Giáo chủ Thị thần nói - Ông có thể nhìn thấy thứ đó à?
- Vâng, thưa cha. Trên camera không dây số 86.
- Thế tại sao không thu hồi vật đó? - Giáo chủ Thị thần có vẻ giận dữ.
- Rất khó, thưa cha. - Trong tư thế đứng nghiêm, Olivetti giải thích tình hình.
Giáo chủ Thị thần lắng nghe và Vittoria nhận thấy vị thầy tu này mỗi lúc một thêm lo lắng.
- Ông có chắc (hắn là camera đó vẫn còn ở trong thành Vatican hay không? Biết đâu có kẻ đã đem chiếc camera đó ra ngoài và truyền hình ảnh từ nơi khác về thì sao.
- Không thể nào, Olivetti nói - Các bức tường ngoài của chúng ta được trang bị hàng rào điện tử để bảo vệ hệ thống viễn thông ở bên trong. Tín hiệu này chỉ có thể được truyền đi từ bên trong toà thánh, nếu không chúng ta không thể nhận được tín hiệu!
- Và theo phán đoán của ta thì các ông đang huy động toàn bộ lực lượng để tìm kiếm chiếc camera mất tích đó? - Giáo chủ Thị thần hỏi.
Olivetti lắc đầu:
- Không, thưa cha. Phải mất hàng trăm giờ đống hồ tìm kiếm mới có thể xác định được vị trí của nó. Lúc này thì chứng con còn phải quan tâm đến một số vấn đế an ninh khác, và theo lời của cô Vetra đây thì giọt chất đó rất nhỏ, nó không thể nào gây ra vụ nổ lớn như cô ấy nói được ạ.
Vittoria không thể kiên nhẫn thêm được nữa:
- Giọt chất đó đủ sức san phẳng toàn bộ thành Vatican đấy! Ông không hiểu những gì tôi nói hay sao?
- Thưa cô, - Olivetti nói, giọng đanh như thép. - Tôi rất hiểu biết về chất nổ.
- Kiến thức của ông đã lỗi thời rồi, - cô phản bác lại không kém phần cứng rắn. - Tôi biết là bộ quần áo này của tôi khiến ông cảm thấy vô cùng khó chịu, nhưng xin nói để ông biết, tôi là một nhà vật lý học cao cấp chuyên nghiên cứu về lượng tử ở một viện nghiên cứu tiếng tăm nhất thế giới. Chính bản thân tôi là người đã thiết kế cái bẫy phản vật chất để giữ cho mẫu vật đó không san phẳng tất cả mọi thử ngay bây giờ. Và tôi cũng xin báo trước với ông là phải tìm chiếc hộp trong vòng 6 tiếng nữa, nếu không thì những người lính gác của ông sẽ chẳng còn gì để bảo vệ trong thế kỷ sau, trừ một cái hố toang hoác trên mặt đất.
Olivetti lao tới bên Giáo chủ Thị thần, cặp mắt vô hồn của ông ta bừng bừng giận dữ.
- Thưa cha, lương tâm của con không cho phép chuyện này đi xa hơn nữa. Những kẻ quấy rối này đang làm lãng phí thời gian quý báu của cha. Hội Illuminati ư? Một giọt chất mà huỷ diệt được tất cả chúng ta hay sao?
- Đủ rồi, - Giáo chủ Thị thần tuyên bố. Dù cho Thị thần của Giáo hoàng chỉ nói rất khẽ, nhưng âm thanh ấy như vang vọng khắp căn phòng. sau đó chỉ còn sự im lặng. Ngài nói tiếp bằng một giọng như đang thì thầm:
- Dù có nguy hiểm hay không, dù có phải là hội Illuminati hay không, dù vật đó là gì đi chăng nữa thì cũng không nên để nó ở trong thành Vatican… nhất là lại vào đúng thời điểm diễn ra Mật nghị Hồng y . Ta yêu cầu các ông phải tìm cho ra và mang nó đi. Hãy tổ chức tìm kiếm ngay lập tức.
Olivetti vẫn khăng khăng:
- Thưa cha, nếu như có sử dụng tất cả lực lượng tìm kiếm trong khu vực thì cũng phải mất vài ngày mới am được chiếc camera đó. Sau khi nói chuyện với cô Vetra, con đã yêu cầu một lính gác Thuỵ Sĩ kiểm tra lại thông tin về các loại tên lửa đạn đạo, nhưng chẳng hề thấy bất kỳ thông tin nào về phản vật chất. Chưa có trang web nào đề cập đến nó. Chưa hề.
- A con lừa vênh váo , Vittoria nghĩ thầm. Tên lửa đạn đạo? Ông tìm trong từ điển bách khoa toàn thư chứ gì? Phải tìm ở vần A chứ?
Olivetti vẫn tiếp tục nói thao thao:
- Thưa cha, nếu cha nghĩ rằng chúng con nên tìm kiếm bằng mắt trần toàn bộ khu vực Vatican thì con kịch liệt phản đối.
- Ông chỉ huy. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần như sôi lên:
- Xin nhắc cho ông nhớ, nói chuyện với ta tức là nói chuyện với ngôi vị Giáo hoàng. Ta nhận thấy rằng ông không hề tỏ ra phục tùng bề trên của mình - tuy nhiên, theo luật thánh, ta là người chịu trách nhiệm ở đây. Nếu ta không nhầm thì toàn bộ Hồng y đoàn đang an toàn trong nhà nguyện Sistine, và từ giờ cho đến khi Mật nghị Hồng y kết thúc thì công việc của ông chẳng có gì là bận rộn cả. Ta không hiểu tại sao ông lại lưỡng lự không muốn tìm kiếm thiết bị đó. Nếu ta không nhầm thì ông đang cố tình đặt Mật nghị Hồng y vào vòng nguy hiểm.
Olivetti tỏ vẻ khinh bỉ:
- Cha lại nói thế hay sao! Tôi đã phục vụ Giáo hoàng của ngài suốt 12 năm! Và cả đời Giáo hoàng trước đó 14 năm! Kể từ năm 1438, đội lính gác Thuỵ Sĩ đã từng…I
Chiếc máy bộ đàm bên hông Olivetti ré lên, ngắt lời ông ta.
- Thưa Tổng tư lệnh?
Olivetti bật nắp và ấn nút:
- Tôi đang bận, có chuyện gì!
- Xin lỗi, - một người lính gác Thuỵ Sĩ nói - Sĩ quan thông tin báo cáo. Báo cáo Tổng Tư lệnh, chúng ta vừa bị đe doạ đánh bom.
Olivetti chẳng hề quan tâm.
- Vậy các anh tự giải quyết đi! Tiến hành rà soát như thường lệ rồi báo cáo lên cho tôi.
- Chúng tôi đã tiến hành rồi, thưa chỉ huy, nhưng kẻ gọi điện đến… - Người lính ngừng lại. - Tôi sẽ không gọi cho chỉ huy thế này nếu hắn ta không đề cập đến thứ mà chỉ huy đã lệnh cho chúng tôi tìm kiếm. Phản vật chất.
Mọi người trong phòng kinh ngạc nhìn nhau.
- Hắn ta nói gì? - Olivetti lắp bắp.
- Phản vật chất, thưa chỉ huy. Trong khi rà soát tìm bom thì chúng tôi cũng tiện thể tìm luôn thứ mà hắn đe doạ. - Thông tin về phản vật chất thì… thành thật mà nói là rất đáng lo ngại.
- Sao nãy anh bảo rằng trong những hướng dẫn về đạn dạo không nhắc gì đến phản vật chất?
- Tôi tìm thấy thông tin trên mạng.
Alleluia(1) , Vittoria thầm nghĩ.
- Vật chất đó dường như có sức nổ khá lớn, - người lính ấy nói tiếp - Khó có thể tin được rằng những thông tin này là chính xác. Nhưng theo tài liệu tôi vừa đọc thì phản vật chất có sức công phá gấp 100 lần so với đầu đạn hạt nhân.
Olivetti sụp xuống. Ý như một ngọn núi bỗng dưng đổ sập xuống. Cảm giác đắc thắng trong lòng Vittoria nhanh chóng bị xoá sạch bởi vẻ mặt kinh hãi của Giáo chủ Thị thần.
- Đã xác định được kẻ nào gọi đến chưa? - Olivetti lắp bắp.
- Vô vọng. Điện thoại di động, sóng khoá mã. Đường dây liên lạc từ vệ tinh đang rối loạn nên chúng ta đã bị mất tín hiệu phân vùng tam giác. Tần sóng IF cho thấy hắn ta đang ở đâu đó trong thành Rome, nhưng không có cách nào tìm được hắn.
- Hắn có yêu cầu gì không? - Olivetti khẽ hỏi.
- Không, thưa chỉ huy. Hắn chỉ cảnh báo rằng có phản vật chất đặt trong khu vực toà thánh. Hắn rất ngạc nhiên khi thấy tôi chưa biết gì. Hắn hỏi tôi đã nhìn thấy phản vật chất chưa. Vì ban nãy chỉ huy có hỏi tôi về phản vật chất nên tôi quyết định gọi ngài để xin ý kiến.
- Anh làm thế là đúng, - Olivetti nói - Tôi sẽ xuống đó trong vòng một phút nữa. Báo cho tôi ngay nếu hắn gọi tới.
Người trong máy bộ đàm thoáng ngập ngừng:
- Kẻ gọi đến vẫn đang giữ máy, thưa chỉ huy.
Olivetti trông như bị điện giật:
- Hắn vẫn đang giữ máy?
- Vâng. Trong vòng 10 phút vừa qua chúng tôi đã cố gắng lần theo dấu vết của hắn, nhưng chỉ càng rối thêm. Hắn biết chúng ta không thể tìm được hắn nên khăng khăng đòi nói chuyện với Giáo chủ Thị thần. Hắn nhất định không chịu gác máy.
- Nối máy cho hắn đi, - Giáo chủ Thị thần ra lệnh. - Ngay lập tức!
Olivetti thương lượng.
- Thưa cha, đừng làm thế. Việc này nên để cho một người lính gác Thuỵ Sĩ được đào tạo bài bản xứ lý thì tốt hơn ạ.
- Ngay lập tức !
Olivetti đành tuân lệnh.
Một lát sau, điện thoại trên bàn Giáo chủ Thị thần Ventresca đố chuông. Giáo chủ Thị thần nhấn nút bật loa ngoài.
- Nhân danh Chúa, anh là ai?

Chú thích:
(1) Alleluia: Lạy Chúa cứu thế - Messiah (Bài hát ca ngợi Chúa).
 
Giọng nói phát ra từ máy điện thoại của Giáo chủ Thị thần nghe vừa sắc lạnh vừa ngạo mạn. Mọi người trong phòng đều lắng nghe.
Langdon cố xác định ngữ điệu của anh ta, vùng Trung Đông, có lẽ thế chăng?
- Ta là sứ giả của một hội kín cổ xưa, - anh ta nói giọng lơ lớ của người ngoại quốc. - Hội kín mà bao thế kỷ nay các người đã tìm cách tiêu diệt. Ta là sứ giả của Illuminati!
Langdon nhận thấy các cơ trên người anh co cứng lại, những nghi ngờ cuối cùng tan biến. Trong thoáng chốc, anh nhớ cảm giác kinh hoàng và ghê sợ trước cảnh giết chóc sáng sớm hôm nay, lúc mới trông thấy biểu tượng hai chiều đối xứng.
- Các người muốn gì? - Giáo chủ Thị thần hỏi.
- Ta đại diện cho các nhà khoa học. Những người cũng đang đi tìm chân lý giống như các người. Những người đang đi tìm câu trả lời về số phận của con người, về mục đích của cuộc sống, và về tạo hoá.
- Cho dù ngươi là ai đi chăng nữa thì ta…, - Giáo chủ Thị thần đáp Im đi. Tốt nhất là ngươi nên lặng im mà nghe cho hết. Trong suốt hai thiên niên kỷ qua, giáo hội của các ngươi đã tỏ ra độc đoán đối với những nỗ lực tìm kiếm chân lý. Các người đã đàn áp những ai không cùng chính kiến với các người bằng những lời dối trá và doạ nạt. Các người đã bóp méo chân lý để phục vụ cho mục đích của các người, và sát hại tất cả những ai có phát minh không phục vụ cho ý đồ chính trị của các người. Ngươi có ngạc nhiên không, khi trở thành mục tiêu của những người khai sáng trên toàn thế giới? Những người khai sáng không dùng đến biện pháp tống tiền để thực hiện mục đích của họ.
- Tống tiền ư? - Kẻ gọi điện đến cười phá lên. - Đây không phải là tống tiền. Chúng ta không đòi hỏi gì hết. Xoá sổ Vatican không còn là chuyện để bàn cãi nữa. Chúng ta đã đợi ngày này 400 năm nay rồi. Đúng nửa đêm, toàn bộ toà thánh của các ngươi sẽ bị san phẳng. Các ngươi sẽ không kịp trở tay.
Olivetti lao tới bên máy điện thoại:
- Các người không thể lọt vào trong toà thánh được! Không có chuyện các người cài được chất nổ vào đây!
- Lời lẽ của ngươi nghe có vẻ tận tuỵ và vô cùng ngu độn của bọn lính gác Thuỵ Sĩ, có khi người còn là sĩ quan ấy chứ? Chắc chắn ngươi phải biết rằng suốt bao thế kỷ qua, Hội Illuminati đã thâm nhập được vào những tổ chức danh giá nhất trên thế giới. Ngươi tưởng rằng Vatican tránh được điều đó hay sao?
Chúa ơi , Langdon thầm nghĩ, chúng cài người làm nội gián .
Mọi người đều biết rằng khả năng thâm nhập chính là thế mạnh của Illuminati. Những thành viên của hội này luồn sâu vào hội Tam Điểm, vào hệ thống các ngân hàng lớn, các cơ quan chính phủ trên thế giới. Trên thực tế, đã có lần Thủ tướng Churchill nói với các phóng viên rằng, nếu tình báo Anh xâm nhập được vào hàng ngũ của Đức quốc xã ở mức độ mà hội Illuminati đã luồn lách được vào Nghị viện Anh thì chắc chắn chiến tranh sẽ kết thúc chỉ trong vòng một tháng.
- Bịp bợm, - Olivetti ngắt lời hắn. - Ảnh hưởng của các người không thể sâu như vậy.
- Sao lại không? Bởi vì lũ lính gác Thuỵ Sĩ các ngươi lúc nào cũng thận trọng ư? Bởi vì bọn họ lục lọi kỹ từng ngóc ngách trong toà thánh ư? Thế còn chính bản thân những người lính gác Thuỵ Sĩ thì sao? Họ không phải là người chắc? Các người có thực sự tin rằng họ sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng của mình chỉ vì câu chuyện tào lao về một người có khả năng bước đi trên mặt nước hay không? Hãy tự hỏi mình xem, làm thế nào mà cái hộp có thể vào được bên trong thành phố của các người. Và hãy tự hỏi mình xem bằng cách nào mà chiều nay bốn nhân vật quan trọng nhất của các người đã biến mất.
- Nhân vật quan trọng nhất? - Olivetti giận dữ. - Ý ngươi muốn nói gì?
- Một, hai, ba, bốn. Bây giờ các người vẫn chưa biết là họ đã mất tích hay sao?
- Ngươi đang nói chuyện quái quỷ gì thế. - Olivetti đột ngột dừng lại, hai mắt ông ta trợn ngược lên như thể vừa bị đấm một đòn chí mạng vào giữa bụng.
- Hay đấy, - kẻ gọi điện nói -Ta đọc tên bốn người này lên cho mà nghe nhé?
- Chuyện gì thế này? - Giáo chủ Thị thần hỏi, vẻ sững sờ.
Kẻ đang nói ở đầu dây bên kia cười hô hố:
- Thuộc hạ của ngươi chưa chịu báo cáo lên à? Thế thì hơi tệ đấy. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Các người vốn ngạo mạn lắm mà. Chắc chắn là bọn chúng sẽ cảm thấy vô cùng nhục nhã khi phải báo cho ngươi biết sự thật… rằng bốn vị Hồng y mà ngươi thề phải bảo vệ đã biến mất…
Olivetti nhảy dựng lên.
- Ngươi lấy thông tin đó từ đâu?
- Này Giáo chủ Thị thần, - kẻ gọi điện tỏ ra vô cùng hả hê - Hãy hỏi gã chỉ huy kia xem có phải tất cả các vị Hồng y đang có mặt trong nhà nguyện Sistine không.
Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn Olivetti, đôi mắt xanh của ngài như đang đòi hỏi một lời giải thích.
- Thưa cha, - Olivetti thì thầm vào tai Giáo chủ Thị thần:
- Đúng là chưa thấy bốn vị Hồng y đó đến nhà nguyện Sistine, nhưng không cần thiết phải báo động. Sáng hôm nay, tất cả bốn vị ấy đều đã nhận phòng ở, vì vậy chắc chắn là họ vẫn an toàn, và đang ở bên trong phạm vi thành Vatican. Chính cha cũng vừa dùng trà với họ cách đây vài tiếng đồng hồ. Họ chỉ chưa đến gặp mặt bạn bè thân hữu trước giờ khai mạc Mật nghị Hồng y thôi ạ. Chúng con đang tìm kiếm, chắc là bốn vị ấy mải đi ngắm cảnh đến nỗi quên cả thời gian thôi mà.
- Đang mải ngắm cảnh là thế nào? - Giáo chủ Thị thần không còn giữ được bình tĩnh nữa. - Đáng ra bốn vị ấy phải có mặt trong nhà nguyện từ cách đây một tiếng đồng hồ rồi chứ!
Langdon sửng sốt quay sang nhìn Vittoria. Bốn vị Hồng y bị mất tích? Có phải vì thế mà ở dưới kia người ta đang bổ đi tìm?
- Những thông tin của ta chắc chắn sẽ khiến cho các người phải tâm phục khẩu phục. - Kẻ gọi điện tuyên bố. - Hồng y Lamassé đến từ Paris, Hồng y Guidera đến từ Barcelona, Hồng y Ebner đến từ Frankfurt…
Olivetti co rúm người lại khi tên của từng vị bị xướng lên.
Kẻ gọi điện ngừng lại, như thể đang rất khoái trá vì được đọc lên cái tên cuối cùng.
- Và từ Italy… Hồng y Baggia.
Giáo chủ Thị thần thõng người xuống như một con tàu lớn đang hạ buồm đi vào vùng biển chết. Chiếc áo thầy tu phồng lên, rồi ngài ngồi sụp xuống ghế.
- I preferiti(1) , - vị thầy tu trẻ tuổi thì thào - Bốn vị được ưu ái… cả Baggia nữa… là người có nhiều khả năng kế thừa ngôi vị Giáo hoàng… sao chuyện này lại có thể xảy ra được kia chứ?
Langdon đã từng đọc rất nhiều về những cuộc bầu chọn Giáo hoàng hiện đại, đủ để hiểu nỗi tuyệt vọng đang hằn lên khuôn mặt của Giáo chủ Thị thần. Mặc dù theo luật thánh thì bất cứ Hồng y nào dưới 80 tuổi cũng có thể trở thành Giáo hoàng, nhưng chỉ có vài người đức cao vọng trọng mới có thể giành được hai phần ba số phiếu trong cuộc bỏ phiếu hết sức khốc liệt này. Họ được gọi là các preferiti . Bây giờ tất cả đều đã biến mất.
Những giọt mồ hôi lăn trên trán Giáo chủ Thị thần.
- Các người định làm gì với những vị Hồng y đó?
- Thế theo ngươi thì ta sẽ làm gì? Ta là hậu duệ của Hassassin đây,
Langdon rùng mình. Anh biết rất rõ cái tên đó. Sau nhiều thế kỷ tồn tại, giáo hội đã có rất nhiều kẻ thù - nhóm Hassassin , các hiệp sĩ Đền Thờ, những đội quân từng bị Vatican phản bội hoặc săn đuổi.
- Hãy thả những vị Hồng y đó ra, - Giáo chủ Thị thần nói -Chẳng lẽ đe doạ san phẳng toàn bộ toà thánh vẫn còn chưa đủ hay sao?
- Quên bốn vị Hồng y đó đi. Các người đã để mất họ rồi. Nhưng chắc chắn là cái chết của họ sẽ được… hàng triệu người ghi nhớ. Niềm mơ ước của những con chiên tử vì đạo đấy. Ta sẽ khiến cho họ trở thành tâm điểm chú ý của giới truyền thông. Từng người một. Đúng vào lúc nửa đêm hôm nay, tất cả mọi người sẽ phải chú ý đến hội Illuminati. Nếu chẳng ai biết đấy là đâu thì tại sao phải thay đối thế giới? Giết người ở nơi công cộng mới thực sự kinh hoàng, phải thế không nhỉ? Các người từng chứng minh điều đó từ lâu lắm rồi… toà án dị giáo, cuộc hành hình các hiệp sĩ Đền Thờ, các cuộc Thập tự chinh. - Hắn ngừng một lát - Và đương nhiên, la purga(2) nữa.
Giáo chủ Thị thần im lặng.
- Chẳng lẽ nhà ngươi không còn nhớ la purga hay sao? - Kẻ gọi điện hỏi. - Đương nhiên là không rồi. Vì ngươi vẫn còn trẻ lắm. Dù sao thì các linh mục thường cũng chẳng mấy hiểu biết về lịch sử Hay là tại lịch sử khiến họ cảm thấy hổ thẹn?
- La purga , - Langdon lên tiếng. - Năm 1668, Giáo hội đã đóng dấu sắc nung hình cây thánh giá lên người bốn nhà khoa học của Illuminati, để thanh lọc tội lỗi của họ.
- Ai đang nói đấy? - Kẻ gọi điện hỏi, có vẻ nghi ngờ hơn là lo lắng. - Còn có ai ở đó nữa thế?
Langdon run lên.
- Tên tôi là gì cũng được, anh nói, cố giữ giọng mình khỏi run. Nói chuyện với một thành viên còn sống của Illuminati làm anh cảm thấy mất phương hướng… như thể đang nói chuyện với George Washington. - Tôi là một học giả chuyên nghiên cứu về lịch sứ tồn tại của Illuminati.
- Tuyệt, - giọng nói đó đáp lại. - Ta rất mừng là người thời nay vẫn còn nhớ những tội ác chống lại chúng ta.
- Đa số chúng tôi nghĩ rằng hội Illuminati đã diệt vong rồi.
- Hoàn toàn sai lầm. Những người anh em của ta đã nỗ lực hết mình để phát triển. Ngươi có biết gì thêm về vụ thanh trừng không?
Langdon ngập ngừng.
- Tôi còn biết gì nữa ư? Rằng toàn bộ chuyện này là sự điên khùng đấy là tất cả những gì tôi biết! Sau vụ đóng dấu sắt nung đó, các nhà khoa học bị sát hại, rồi bị phơi thây ở những địa điểm công cộng quanh thành Rome để cảnh báo những nhà khoa học khác không nên gia nhập hội Illuminati.
- Đúng thế. Và chúng tao cũng sẽ làm tương tự như vậy. Quid pro quo(3) . Để báo thù cho những huynh đệ của chúng ta đã bị các người giết hại dã man.. Bốn Hồng y giáo chủ của các ngươi sẽ chết, mỗi giờ một người bắt đầu từ 8 giờ. Đến nửa đêm thì cả thế giới sẽ phải kinh sợ.
Langdon tiến lại bên máy điện thoại:
- Các ông định đóng dấu sắt nung lên người bốn vị đó và giết họ sao?
- Lịch sử lặp lại, tại sao không? Đương nhiên, chúng ta sẽ lịch sự hơn, và cũng liều lĩnh hơn Giáo hội. Các người bí mật giết người, rồi nhân lúc không ai nhìn thấy thì đem xác họ ném đi. Hèn hạ quá.
- Ông nói gì? - Langdon hỏi lại. - Các ông định đóng dấu sắt nung và giết người công khai hay sao?
- Tốt lắm, nhưng thế nào là công khai thì còn tuỳ thuộc vào quan niệm của các người. Ta thấy rằng ngày càng ít người đi lễ nhà thờ.
Langdon hỏi dò:
- Các ông định giết họ trong nhà thờ sao?
- Một cử chỉ cao đẹp đấy. Để cho linh hồn họ được mau chóng về bên Chúa. Được đấy chứ. Ta tin là giới báo chí sẽ vô cùng thích thú.
- Đừng có khoác lác, - Olivetti nói, giọng nói của viên Tổng Tư lệnh đã điềm tĩnh trở lại. - Nếu giết người trong nhà thờ thì các người sẽ không thể thoát thân được.
- Khoác lác là thế nào? Chúng tao di chuyển như ma quỷ ngay trước mắt bọn lính gác Thuỵ Sĩ, đem bốn Hồng y của các người ra khỏi địa phận toà thánh, đặt chất nổ cực mạnh ở chính nơi linh thiêng nhất trong thành Vatican mà nhà ngươi vẫn còn bảo là khoác lác hay sao? Sau khi chúng tao giết người xong, khi phát hiện thấy xác chết, giới truyền thông sẽ đổ xô đến. Đến nửa đêm thì cả thế giới sẽ biết động cơ hành động của Illuminati.
- Nhưng nếu chúng tao cắm chốt gác ở mọi nhà thờ thì sao? - Olivetti nói.
Hắn cười phá lên:
- Ta e rằng vì thói khoa trương của giáo hội nên các người sẽ không thể làm nổi việc đó. Thế gần đây ngươi không đếm lại hay sao? Có đến hơn 400 nhà thờ Thiên Chúa giáo nằm rải rác khắp thành Rome. Nhà thờ, nhà nguyện, đền thờ, tu viện, trường dòng, viện nữ tu…
Vẻ mặt của Olivetti vẫn rất cứng rắn.
- Sau 90 phút nữa mọi việc sẽ bắt đầu, - kẻ gọi điện thoại nói một cách dứt khoát. - Cứ mỗi tiếng đồng hồ thì sẽ có một người bị giết. Bây giờ ta phải đi đây.
- Đợi đã! Langdon yêu cầu. - Hãy nói cho tôi biết dấu sắt nung các ông định sử dụng.
Kẻ giết người có vẻ thích thú:
- Ta cho rằng ngươi đã biết đó là những dấu nào. Hay ngươi vẫn còn nghi ngờ? Ngươi sẽ sớm được trông thấy thôi mà. Để chứng minh rằng những truyền thuyết cổ xưa là có thực.
Langdon thấy đầu óc choáng váng. Anh hiểu gã này muốn nói gì. Langdon mường tượng ra dấu sắt nung trên ngực Leonardo Vetra. Theo những truyền thuyết về Illuminati thì có đến năm dấu sắt nung cả thảy. Còn bốn dấu nữa, Langdon thầm nghĩ, là có bốn vị Hồng y mết tích.
- Ta thề, - Giáo chủ Thị thần lên tiếng - Sẽ có một Giáo hoàng mới trong đêm nay. Thề có Chúa chứng giám.
- Này Giáo chủ Thị thần, - kẻ gọi điện nói - Thế giới này chẳng cần Giáo hoàng mới làm gì đâu. Sau đêm nay thì Giáo hoàng sẽ chẳng còn gì để mà trị vì, ngoài một đống gạch vụn. Giáo hội Thiên Chúa sẽ bị diệt vong. Sự hiện diện của các người trên thế gian này sẽ chấm dứt.
Im lặng kéo dài.
Giáo chủ Thị thần có vẻ vô cùng buồn bã.
- Ngươi nhầm rồi. Gạch và vữa không làm nên nhà thờ. Ngươi không thể dễ dàng tiêu diệt một đức tin đã tồn tại hơn 2000 năm… Bất cứ đức tin nào cũng thế. Nếu chỉ tìm cách tiêu huỷ những gì tồn tại trên mặt đất thì các người không thể phá vỡ được đức tin. Giáo hội Thiên Chúa giáo sẽ trường tồn, dù cho thành Vatican có còn tồn tại hay không.
- Nói dối nghe hay ho gớm. Nhưng vẫn chỉ là dối trá thôi. Cả ngươi và ta đều biết sự thật. Hãy nói cho ta nghe, tại sao Vatican lúc nào cũng là một thành trì kiên cố có bốn bức tường bao quanh?
- Những người con của Chúa phải sống trong một thế giới đầy rẫy những hiểm nguy. - Giáo chủ Thị thần đáp.
- Ngươi bao nhiêu tuổi rồi? - Vatican là một pháo đài bởi vì giáo hội Thiên Chúa tích trữ đến phân nửa tài sản của nó trong bốn bức tường đó. Những tác phẩm hội hoạ và điêu khắc quý giá, những đồ trang sức và những cuốn sách vô giá… rồi còn những nén vàng và những khế ước bất động sản đang nằm trong Ngân hàng Vatican. Ước chừng giá trị tài sản bên trong thành Vatican là 48,5 tỉ đô la. Các ngươi đang nằm trên quả trứng vàng. Nhưng ngày mai sẽ chỉ còn lại tro tàn, mọi thứ sẽ tan thành mây khói. Các ngươi sẽ phá sản. Sẽ chẳng còn ai làm việc không công cho các người.
Vẻ mặt sững sờ của cả Olivetti lẫn Giáo chủ Thị thần cho thấy những thông tin mà kẻ gọi điện kia vừa nói là hoàn toàn chính xác.
Giáo hội có những ngần ấy tiền, mà không hiểu bằng cách nào mà Illuminati lại biết được thông tin này. Langdon phân vân không biết trong hai thông tin đó thì sự thật nào gây sốc nhiều hơn.
Giáo chủ Thị thần thở dài não nề:
- Không phải tiền, mà là đức tin đã tạo nên nền tảng cho giáo hội của chúng tôi.
- Lại một lời giả dối nữa, - kẻ gọi điện nói tiếp - Năm ngoái các ngươi đã chi 183 triệu đô la để hậu thuẫn cho những giáo khu của các ngươi trên khắp thế giới. Số người đi lễ nhà thờ giảm chưa từng thấy - giảm 46% trong vòng 10 năm vừa qua. Tiền quyên tặng cũng giảm một nửa so với 7 năm trước đây. Càng ngày càng ít người theo học trong các trường dòng. Dù cho các ngươi không chịu thừa nhận, nhưng giáo hội Cơ đốc đang chết dần chết mòn. Hãy xem như đây là một cơ hội để được chết một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng.
Olivetti bước lên, ông ta đã bớt vẻ hung hăng, như thể đã cảm nhận được thực tại trước mắt. Dường như vị Tổng Tư lệnh đang tin cách giải quyết vấn đề. Bất cứ cách nào.
- Thế nếu một phần số vàng đó được dùng đề tài trợ cho tổ chức của các người thì sao?
- Đừng có lăng mạ cả hai bên.
- Chúng tôi có tiền.
- Chúng tao cũng vậy. Nhiều hơn chúng mày tưởng kia.
Langdon điểm qua số tài sản mà người ta ước đoán Illuminati đang sở hữu: những ngôi nhà cổ bằng đá Bavarian, gia tài của dòng họ Rothschild, dòng họ Bilderbergers, những viên kim cương huyền thoại của Illuminati.
- Những người được chọn lựa, - Giáo chủ Thị thần thay đổi chủ đề, giọng van lơn - Hãy tha cho họ. Họ già rồi. Họ…
- Họ là những vật hiến tế trinh tiết. - Kẻ gọi điện cười lớn. - Hãy nói ta nghe xem nào, ngươi có nghĩ rằng họ thực sự trinh tiết không? Liệu những con chiên nhỏ bé ấy có kêu thét lên trước khi bị hành quyết không nhỉ? Sacrifici vergini nell' altare đi scienza(4) .
Giáo chủ Thị thần im lặng hồi lâu.
- Họ là những người của đức tin, - cuối cùng vị thầy tu trẻ tuổi cũng thốt lên. - Họ không sợ chết đâu.
Kẻ gọi điện mỉa mai:
- Leonardo Vetra là người có đức tin, nhưng đêm qua ta đã thấy vẻ kinh hãi trong mắt hắn. Và ta đã chấm dứt nỗi kinh hãi ấy.
Vittoria từ đầu đến giờ vẫn im lặng, vụt đứng phắt dậy, toàn thân cô gái như căng lên, đầy căm thù:
- Asino(5) ! ông ấy là cha ta.
Tiếng lục khục vọng ra từ máy điện thoại.
- Cha cô em à? Gì thế này? Vetra có một đứa con gái sao? Cô em nên biết rằng vào phút cuối, cha cô đã run sợ y như một đứa con nít. Thật đáng thương ông già tội nghiệp.
Vittoria loạng choạng, như thể bị những lời lẽ kia giáng cho một đòn chí mạng. Langdon nhoài sang định đỡ Vittoria khỏi ngã, nhưng cô gái đã lấy lại được thăng bằng, và đôi mắt đen nhìn xoáy vào chiếc điện thoại. - Ta thề rằng trước khi đêm nay kết thúc, ta sẽ tìm ra ngươi. - Giọng cô sắc lạnh như dao. - Và lúc đó thì…
Kẻ gọi điện cười khả ố:
- Một cô gái có ý chí mạnh mẽ đây. - ra thích cô em đấy. Có lẽ trước khi đêm nay kết thúc, ta sẽ tìm cô em. Và lúc đó thì…
Những lời nói thật đểu giả. Rồi hắn gác máy.

chú thích:
(1) I preferiti (tiếng Ý): Những người được chọn lựa.
(2) La purga (tiếng Ý): Vụ thanh trừng.
(3) Quid pro quo (tiếng Ý): Ăn miếng trả miếng, máu phải trả nợ máu
(4) Sacrifici vergini nell' altare di scienza (tiếng Ý): Vật hiến tế trinh tiết trước bàn thờ khoa học.
(5) Asino (tiếng Ý): Đồ con lừa.
 
×
Quay lại
Top