- Tham gia
- 15/12/2011
- Bài viết
- 1.979
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, CÔNG VỤ
1. Khái niệm công vụ
- Công vụ là loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và phục vụ nhân dân của bộ phận nhân lực trong bộ máy nhà nước.Là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công chức trong các công sở nhằm giải quyết quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với công dân. Hoạt động công vụ bao gồm: tổ chức công sở, trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ, quan hệ trong công vụ, thủ tục hành chính[2].
- Ở nước ta, công vụ được xem là một loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, để thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống và để quản lý, sử dụng có hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước giao.
Hoạt động công vụ, do đó được định nghĩa là: "chức năng tổ chức và hoạt động quản lý nhằm ổn định và phát triển và đời sống nhân dân thông qua các công sở, đơn vị phục vụ và toàn thể cán bộ công nhân viên nhà nước. Theo nghĩa rộng, là toàn thể các công chức làm việc thường xuyên trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và các cơ quan chính quyền địa phương. Theo nghĩa hẹp, là toàn bộ các quy chế công chức”[3].
- Công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý, do đội ngũ công chức, sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong việc quản lý toàn diện các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của một quốc gia.
2. Nền công vụ
Công vụ là một phạm trù chung, quan niệm chung mang tính khái quát, còn nền công vụ là khái niệm cụ thể, bao gồm các yếu tố sau:
- Thể chế, chính sách về công vụ, công chức;
- Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
- Hệ thống tổ chức, quản lý công chức, công sở;
- Tổ chức công sở và hiện đại hóa công sở.
Như vậy, nền công vụ mang tính tổng hợp các bộ phận cấu thành, bao gồm cả về thể chế, về đội ngũ, về tổ chức và những điều kiện để thực thi công vụ.
Công vụ là hoạt động phục vụ nhà nước, được sử dụng quyền lực công, được đảm bảo bằng ngân sách Nhà nước, mang tính thường xuyên liên tục trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Nền công vụ là hệ thống những luật lệ, những qui tắc để đảm bảo cho hoạt động thực thi công vụ. Nền công vụ bao gồm các thể chế, hệ thống tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức và những điều kiện làm việc của cơ quan công quyền.
3. Cán bộ
Khái niệm “cán bộ” (cadres) được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội chủ nghĩa và bao hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực Nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Thuật ngữ khi đó thường dùng là “cán bộ, công nhân viên chức”, bao gồm tất cả những người làm công hưởng lương từ Nhà nước, từ những người đừng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ như lái xe, bảo vệ hay lao động tạp vụ. Sự đánh đồng như vậy dẫn tới việc không phân định rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ, không phân biệt rõ những người thực thi chức năng quản lý nhà nước và những người cung ứng dịch vụ công trong bộ máy nhà nước, thậm chí gây nhầm lẫn trong hoạt động cũng như hành xử công vụ. Thực tiễn cho thấy, ngay cả nhiều quy định về kỉ luật cán bộ cũng khó thực thi bởi chính sự mơ hồ và dễ gây lẫn lộn trong khái niệm này.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế; những thành tựu của sự phát triển kinh tế - xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác nhiều mặt với các nước; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại mà nội hàm “cán bộ’ cũng có thay đổi. Ở nước ta, khái niệm “cán bộ” cũng chưa được hiểu thống nhất và được sử dụng chung để ghép với “công chức” , “viên chức”. Theo Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 của nước ta (Điều 1), những người sau đây là cán bộ, công chức: … “là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, bao gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên , được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp ngạch vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
4. Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
5. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp”.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 mặc dù đã có sự thay đổi và phát triển rõ rệt so với những qui định cũ, song còn nhiều bất cập như có quá nhiều đối tượng có tính chất và hoạt động khác nhau cùng được điều chỉnh, đồng thời chưa làm rõ và phân tích được những đối tượng đó.
Đến năm 2003, với việc ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức đã phân định rõ hơn khái niệm công chức, viên chức. Theo đó, công chức là những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, viên chức đảm nhiệm những công việc chuyên môn và làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Đồng thời, Pháp lệnh cũng đã qui định chế độ công chức dự bị, công chức cấp xã cũng được đưa vào phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh.
Qua qui định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 sửa đổi, bổ sung năm 2000 và 2003, có thể xếp những người sau đây là cán bộ:
- Những người qua bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Cán bộ bầu cử tại xã, phường, thị trấn (ngoài số công chức cơ sở mới được bổ sung gần đây).
4. Công chức
Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy hành chính nhà nước thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến công vụ, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công chức. Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng như ở Pháp là bao gồm tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước, tất cả những người tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn như tại Anh, nơi công chức là những người thay mặt nhà nước giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ương, nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.
Lịch sử phát triển của đọi ngũ công chức Việt nam, có thể đưa ra khái niệm công chức là: “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên, làm việc trong một cơ quan nhà nước, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, trong biên chế nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, gồm:
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp ngạch vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp”.