xuanhung_xd9

Thành viên cấp 2
Thành viên thân thiết
Tham gia
15/12/2011
Bài viết
1.979
Phần thứ ba

NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NĂM 1998 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT

I. NHỮNG ĐIỂM MỚI SO VỚI PHÁP LỆNH CÁN BỘ CÔNG CHỨC NĂM 1998

Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII thông qua Luật Cán bộ, công chức thay thế Pháp lệnh Cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với xu hướng chuyển đổi sang nền hành chính phục vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Luật Cán bộ, công chức được ban hành với các quan điểm chỉ đạo là: thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; hoàn thiện chế độ công vụ và quản lý cán bộ, công chức phải bảo đảm sự đồng bộ với các nội dung đổi mới hệ thống chính trị trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm tính minh bạch, công khai và tính tự chịu trách nhiệm trong hoạt động công vụ; bảo đảm tính kế thừa và phát triển của các quy định hiện hành về công vụ và cán bộ, công chức vừa phù hợp với thể chế chính trị và các giá trị văn hóa của Việt Nam, vừa tiếp cận được với các thành tựu của các nền công vụ trên thế giới.

Tuân thủ các quan điểm chỉ đạo nêu trên, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã thể hiện nhiều nội dung mới và tiến bộ, mang tính cải cách mạnh mẽ so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức ban hành năm 1998, bao gồm các nội dung cơ bản sau:

1. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh

1.1. Thu hẹp đối tượng, phạm vi điều chỉnh

Luật Cán bộ, công chức đã thu hẹp đối tượng áp dụng so với Pháp lệnh Cán bộ, công chức gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Theo đó, đội ngũ viên chức làm việc trong khu vực sự nghiệp công lập chiếm số lượng rất lớn (khoảng trên 1,4 triệu người), do đặc điểm và tính chất hoạt động của họ không mang tính quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước nên đối tượng này không thuộc phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật. Đây là một bước tiến mới về nhận thức trong quá trình tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức. Khi tách đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp ra khỏi Luật Cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp, góp phần đẩy mạnh quá trình xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức, nâng cao chất lượng phục vụ người dân của các đơn vị sự nghiệp. Trước đây, với việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003, Nhà nước đã bước đầu phân định khu vực hành chính nhà nước với khu vực sự nghiệp, tạo cơ sở cho việc xây dựng cơ chế quản lý phù hợp đối với đội ngũ viên chức sự nghiệp.

Sau 5 năm thực hiện việc phân định này, đội ngũ viên chức không còn là đối tượng điều chỉnh của Luật
Cán bộ, công chức và sẽ được Luật viên chức sau này điều chỉnh. Việc xác định các nhóm công chức về cơ bản vẫn kế thừa các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Các đơn vị sự nghiệp công hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, nghiên cứu khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao... là các tổ chức được Nhà nước thành lập và uỷ quyền để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.

Hiện nay, trong lĩnh vực giáo dục, Nhà nước đang tiến hành soạn thảo Dự án Luật giáo viên; ở lĩnh vực y tế, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân... Các văn bản Luật, pháp lệnh này có xu hướng sẽ điều chỉnh đối với những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp cả khu vực công và khu vực tư. Vì vậy, đối với các đơn vị sự nghiệp công chỉ quy định công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm để giữ các chức vụ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý.

1.2. Phân định tương đối rõ cán bộ, công chức

Song song với việc thu hẹp đối tượng điều chỉnh, Luật Cán bộ, công chức đã phân định tương đối rõ ai là cán bộ, ai là công chức. Cả một thời kỳ dài trước đây, do điều kiện chiến tranh và thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tất cả những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, của Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, kể cả trong các doanh nghiệp, lâm nông trường... đều được gọi chung trong cụm từ là "cán bộ công nhân viên chức" mà chưa có sự phân định rõ ràng, cụ thể. Đến năm 1993, khi thực hiện cải cách tiền lương, mới bước đầu phân định cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp với những người làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh. Đây là tiền đề để Nhà nước ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 điều chỉnh Cán bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp (gồm các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội) nhưng vẫn sử dụng chung cụm từ "cán bộ, công chức", chưa xử lý được vấn đề tách cán bộ với công chức. Qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, do chưa phân định được rõ ràng ai là cán bộ, ai là công chức nên cơ chế quản lý và chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành vẫn còn những hạn chế, chưa hoàn toàn phù hợp với từng nhóm đối tượng. Điều này ảnh hưởng đến quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ và đội ngũ công chức vốn có những đặc điểm hoạt động và công tác đặc thù riêng.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã quy định tiêu chí phân định ai là cán bộ, ai là công chức. Theo đó, cán bộ gắn với tiêu chí được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; công chức gắn với tiêu chí được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Bên cạnh đó, cụm từ “cán bộ, công chức cấp xã” đã được tách ra thành cán bộ cấp xã (gắn với cơ chế bầu cử) và công chức cấp xã (gắn với cơ chế tuyển dụng). Luật quy định cụ thể về chức danh, chức vụ của cán bộ, công chức cấp xã (Điều 61). Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý. Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức cấp xã ( Điều 62) Bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã (Điều 63). Đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Việc đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm, thôi việc, nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện theo quy định tương ứng của Luật này đối với cán bộ, công chức cấp tỉnh và huyện.

1.3. Thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã
Bên cạnh những quy định áp dụng chung đối với cán bộ, công chức, để có những quy định phù hợp với đặc thù hoạt động và thực thi công vụ của cán bộ, công chức và cán bộ cấp xã, công chức cấp xã, Luật Cán bộ, công chức có 3 chương riêng biệt: chương cán bộ ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; chương cán bộ, công chức cấp xã. Qua đó đã thể hiện bước tiến mới trong việc phân biệt một số nội dung quản lý cán bộ với quản lý công chức và cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt, việc thực hiện điều động, luân chuyển cán bộ, công chức trong hệ thống các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đã được thể chế hóa trong các chương này của Luật. Khắc phục xu hướng “hành chính hóa” và “phình” biên chế ở cơ sở, cán bộ cấp xã và công chức cấp xã được quy định cụ thể theo những chức vụ bầu cử và chức danh chuyên môn cần thiết.

Việc quy định các đối tượng áp dụng nêu trên của Luật có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc quy định các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ, công tác sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cũng như xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp với đội ngũ cán bộ, đội ngũ công chức và cán bộ, công chức cấp xã.
 
2. Về chế độ công vụ và cán bộ, công chức
2.1. Thống nhất cách hiểu về hoạt động công vụ và quy định rõ các nguyên tắc trong thi hành công vụ
Luật Cán bộ, công chức thống nhất cách hiểu về hoạt động công vụ và quy định rõ các nguyên tắc trong thi hành công vụ. Đây là cơ sở và nền móng để xây dựng một nền công vụ phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam mà vẫn tiếp cận và bắt nhịp được với xu thế phát triển của các nền công vụ trên thế giới. Qua đó, bảo đảm mọi hoạt động công vụ do cán bộ, công chức thực hiện đều hướng tới phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân, chịu sự kiểm soát của nhân dân, bảo đảm hiệu quả và tuân thủ pháp luật.

2.2. Bổ sung một số nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu mới hiện nay, Luật bổ sung thêm một số nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức. Trong đó, đáng chú ý là nguyên tắc kết hợp tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế. Nguyên tắc này tạo cơ sở khoa học đồng thời mang tính thực tiễn cao; giúp cho việc xóa bỏ hoàn toàn cơ chế "xin - cho" trong quản lý biên chế cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đúng mục đích công tác tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, sử dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Việc xác định biên chế được thực hiện trên cơ sở khoa học, không chỉ dựa vào nhu cầu công việc, nhiệm vụ của cơ quan, mà còn căn cứ vào tiêu chuẩn, vị trí việc làm và cơ cấu công chức. Nguyên tắc đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực thi công vụ được kết hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ; việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ - đây chính là việc vận dụng nguyên tắc thực tài trong hoạt động công vụ ở Việt Nam. Gắn với nguyên tắc này là việc quy định chính sách phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng.

2.3. Chỉnh lý, bổ sung hệ thống các quy định về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức
Luật Cán bộ, công chức cũng chỉnh lý, bổ sung hệ thống các quy định về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức được quy định tập trung vào hai nhóm cơ bản: nhóm nghĩa vụ liên quan đến thể chế chính trị, đến phục vụ và quan hệ với nhân dân và nhóm nghĩa vụ trong thi hành công vụ. Để khẳng định và gắn với việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, Luật quy định nghĩa vụ đối với người đứng đầu trong thực hiện chức trách và thẩm quyền được giao. Trách nhiệm của cán bộ, công chức chính là thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Do đó, sự gắn kết giữa trách nhiệm với nghĩa vụ trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức cũng được thể hiện trong các quy định của Luật. Đạo đức, văn hóa giao tiếp và những việc không được làm quy định trong Luật đồng thời là các nội dung liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ, công chức nhưng được tách thành một mục riêng nhằm nhấn mạnh và yêu cầu cán bộ, công chức phải thực hiện để xứng đáng là "công bộc", là "người đầy tớ" của nhân dân. Bên cạnh các nghĩa vụ, trách nhiệm mà cán bộ, công chức phải thực hiện, Luật quy định các điều kiện bảo đảm thi hành công vụ như công sở, trang thiết bị làm việc và phương tiện đi lại, nhà ở công vụ... nhằm khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho cán bộ, công chức thực thi công vụ có hiệu quả.
 
3. Về phương thức quản lý cán bộ
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, đội ngũ công chức và cán bộ, công chức cấp xã trong sạch, có phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu hiện nay, bên cạnh việc kế thừa các quy định hiện hành còn phù hợp, Luật Cán bộ, công chức bổ sung nhiều nội dung nhằm đổi mới phương thức và cơ chế quản lý cán bộ, công chức theo chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ và cải cách chế độ công vụ, công chức. Cụ thể là:

3.1. Về quản lý công chức
Để bảo đảm tính thống nhất trong quản lý cán bộ và quản lý công chức, Luật Cán bộ, công chức quy định rất cụ thể về vấn đề này. Đối với cán bộ, việc quản lý thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của Đảng và của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Đối với công chức, việc quản lý nhà nước về công chức do Chính phủ quản lý thống nhất - nghĩa là các quy định cụ thể về tuyển dụng, sử dụng, nâng ngạch, bổ nhiệm, từ chức, khen thưởng, kỷ luật, tiền lương, đãi ngộ, thôi việc, nghỉ hưu... đối với những người được xác định là công chức, cho dù họ làm việc trong cơ quan của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội hoặc bộ máy quản lý của đơn vị sự nghiệp, đều được thống nhất quản lý và thực hiện theo các quy định của Chính phủ. Cơ quan có thẩm quyền của Đảng, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh, tổ chức chính trị - xã hội thực hiện quản lý nhà nước về công chức theo phân công, phân cấp.

Thực hiện đổi mới công tác quản lý công chức, Luật quy định việc mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức. Đó là căn cứ và cơ sở để xác định số lượng biên chế, thực hiện việc tuyển dụng, thi nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng... Là vấn đề rất mới, nhưng nếu thực hiện theo đúng quy định và tinh thần của Luật thì công tác quản lý công chức sẽ được nâng cao về chất lượng và hiệu quả. Bên cạnh đó, Luật quy định cụ thể và rõ ràng chế độ báo cáo và quản lý hồ sơ cán bộ, công chức để đưa công tác này vào nền nếp, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về công chức.

3.2. Về quản lý cán bộ
Căn cứ vào đặc điểm hoạt động và thực thi công vụ, một số nội dung quản lý cán bộ được quy định khác với quản lý công chức. Ví dụ: về nội dung đánh giá cán bộ, bên cạnh việc chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc đánh giá cán bộ tập trung vào phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đổi mới theo hướng: việc đào tạo, bồi dưỡng căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ, chức danh, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ. Do cán bộ được lựa chọn thông qua phương thức bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm nên các hình thức kỷ luật cũng không hoàn toàn giống như công chức và chỉ gồm các hình thức: khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi nhiệm. Điều động, luân chuyển cán bộ là nội dung mới được quy định tại Luật. Cơ quan sử dụng cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, quy hoạch cán bộ, cán bộ được điều động, luân chuyển trong hệ thống các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.

3.3. Về quản lý biên chế, tổ chức tuyển dụng và nâng ngạch công chức
Quản lý biên chế, tổ chức tuyển dụng và nâng ngạch công chức được thay đổi theo hướng dựa trên tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, mô tả công việc và xây dựng cơ cấu công chức. Điều kiện đăng ký dự tuyển công chức đã được thể hiện ngay trong Luật mà không giao cho Chính phủ hoặc các cơ quan khác quy định. Trong đó, điều kiện đăng ký dự tuyển công chức có một số điểm mới cần lưu ý, đó là: mặc dù Luật Quốc tịch đã được sửa đổi, bổ sung thông thoáng hơn trước đây nhưng chỉ những người có quốc tịch Việt Nam mới được dự tuyển; tuổi dự tuyển chỉ quy định tuổi sàn là từ đủ 18 tuổi trở lên, không quy định tuổi trần vì Luật Bảo hiểm xã hội đã quy định bên cạnh bảo hiểm bắt buộc còn có cả bảo hiểm tự nguyện; về điều kiện liên quan đến Luật Cư trú, người dự tuyển có quốc tịch Việt Nam nhưng không cư trú tại Việt Nam thì cũng không được dự tuyển; người đã chấp hành xong bản án, quyết định về hình sự của tòa án mà chưa được xóa án tích cũng không được dự tuyển. Bên cạnh thực hiện ưu tiên tuyển chọn người có công với nước, người dân tộc thiểu số còn thực hiện chính sách ưu tiên tuyển chọn người có tài năng.

Về tổ chức tuyển dụng, nâng ngạch: cùng với việc giao thẩm quyền tuyển dụng cho các bộ, ngành và địa phương, Luật bổ sung quy định các bộ, ngành và địa phương có trách nhiệm thực hiện việc phân cấp tuyển dụng công chức cho các cơ quan thuộc quyền quản lý. Bước đầu gắn dần thẩm quyền sử dụng với thẩm quyền tuyển dụng, khắc phục tình trạng người được giao quyền tuyển dụng không được giao quyền sử dụng; người được giao sử dụng thì lại không được giao quyền tuyển dụng; qua đó nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, lựa chọn được đúng người có đủ năng lực, tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu công việc. Việc nâng ngạch phải qua kỳ thi và thực hiện theo nguyên tắc cạnh tranh để lựa chọn người giỏi hơn; không hạn chế số người đăng ký, không quy định thâm niên giữ ngạch và hệ số lương… Tuy nhiên, chỉ tiêu dự thi được xác định trên cơ sở nhu cầu vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức. Theo nguyên tắc cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền sẽ chỉ bổ nhiệm vào ngạch dự thi số người bằng đúng số vị trí còn thiếu trong số những người đạt yêu cầu, theo nguyên tắc chọn người giỏi hơn. Để nâng cao chất lượng công chức, nội dung và hình thức thi tuyển, thi nâng ngạch được đổi mới nhằm lựa chọn đúng người có đủ năng lực, phẩm chất, kỹ năng và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc tổ chức thi nâng ngạch được tập trung vào một đầu mối do Bộ Nội vụ chủ trì, trên cơ sở phối hợp với các đơn vị, cơ quan hữu quan.
 
3.4. Về các vấn đề liên quan đến việc sử dụng công chức

Các vấn đề liên quan đến việc sử dụng công chức: việc đào tạo, bồi dưỡng công chức được đổi mới theo hướng đào tạo căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý; tiêu chuẩn ngạch công chức và phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Các nội dung quy định liên quan đến bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái, từ chức, miễn nhiệm công chức chỉ có ở các văn bản dưới luật nay được đưa vào Luật, đã khẳng định thêm giá trị pháp lý của các quy định này. Riêng về biệt phái, Luật bổ sung thêm thời hạn biệt phái công chức có thể trên 3 năm đối với một số ngành, lĩnh vực và do Chính phủ quy định để phù hợp với yêu cầu của một số ngành, nghề. Việc đánh giá đối với công chức có thêm một số nội dung mang tính cụ thể hơn so với cán bộ như tiến độ và tinh thần phối hợp thực hiện nhiệm vụ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ nhân dân.

2.5. Về công tác khen thưởng và kỷ luật cán bộ, công chức
Công tác khen thưởng và kỷ luật cán bộ, công chức cũng có một số điểm mới. Đó là: đối với cán bộ, công chức có thành tích trong thực thi công vụ vẫn được khen thưởng theo quy định hiện hành nhưng không còn hình thức nâng ngạch do có thành tích xuất sắc. Có 6 hình thức kỷ luật đối với công chức, trong đó không còn hình thức hạ ngạch và bổ sung thêm hình thức giáng chức. Để nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và củng cố trật tự kỷ cương trong thực thi công vụ, Luật quy định thời hiệu xử lý kỷ luật và thời hạn xử lý kỷ luật. Theo đó, thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng kể từ khi có hành vi vi phạm, khi hết thời hạn đó thì CBCC vi phạm không bị xem xét xử lý kỷ luật. Thời hạn xử lý kỷ luật là 2 tháng, tối đa không quá 4 tháng kể từ khi phát hiện hành vi vi phạm đến khi có quyết định xử lý kỷ luật. Đối với mức độ kỷ luật khác nhau thời gian nâng bậc lương cũng không giống nhau. Nếu cán bộ, công chức bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo thì thời gian nâng lương kéo dài thêm 6 tháng; trường hợp bị kỷ luật giáng chức hoặc cách chức thì thời gian nâng lương kéo dài thêm 12 tháng.

3.6. Về giải quyết thôi việc và nghỉ hưu
Theo quy định mới của Luật, qua công tác đánh giá hàng năm nếu cán bộ, công chức bị phân loại là hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc không hoàn thành nhiệm vụ 2 năm liên tiếp thì cơ quan có thẩm quyền sẽ bố trí công tác khác hoặc giải quyết miễn nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ (đối với cán bộ) hoặc giải quyết cho thôi việc (đối với công chức). Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật và là một giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, bước đầu thực hiện quan điểm: trong công vụ có vào, có ra và chỉ giữ lại những người thực sự đáp ứng được yêu cầu công việc. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật, không kéo dài thời gian công tác đối với CBCC khi đến tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp đặc biệt đối với cán bộ giữ chức vụ từ Bộ trưởng hoặc tương đương trở lên thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.

3.7. Về các vấn đề đối với cán bộ, công chức cấp xã
Bên cạnh việc quy định rõ và cụ thể các chức vụ của cán bộ cấp xã, chức danh của công chức cấp xã, Luật phân cấp cho cấp huyện quản lý công chức cấp xã. Để chủ động và tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Quốc hội giao Chính phủ quy định cụ thể số lượng cán bộ, công chức cấp xã căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội, quy mô, đặc điểm của địa phương. Đồng thời, để thực hiện và bảo đảm tính liên thông đối với đội ngũ cán bộ cấp xã, công chức cấp xã, Luật quy định quyền lợi của cán bộ, công chức cấp xã khi chuyển thành công chức ở cấp huyện trở lên về các mặt như chế độ bảo hiểm xã hội, miễn tập sự, được hưởng chế độ chính sách liên tục. Trường hợp không chuyển thành công chức thì thôi hưởng lương và thực hiện đóng bảo hiểm tự nguyện theo quy định của pháp luật.

3.8. Quy định về thanh tra công vụ
Thanh tra công vụ cũng là một nội dung hoàn toàn mới nhằm nâng cao trật tự, kỷ cương trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức, bảo đảm cho cán bộ, công chức có ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Theo đó, Luật quy định các vấn đề liên quan đến phạm vi và phân công thực hiện thanh tra công vụ. Phạm vi thanh tra công vụ được xác định rõ, gồm: thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức được phân công cho thanh tra bộ, thanh tra sở, thanh tra tỉnh, thanh tra huyện thực hiện căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình và thanh tra việc thực hiện các nội dung liên quan đến công tác quản lý cán bộ, công chức, đạo đức, văn hóa giao tiếp trong thi hành công vụ và các điều kiện bảo đảm hoạt động công vụ được phân công cho Thanh tra Bộ Nội vụ, Thanh tra Sở Nội vụ thực hiện theo chức năng thanh tra chuyên ngành.

3.9. Về đạo đức, văn hoá giao tiếp của cán bộ, công chức
Luật cán bộ, công chức năm 2008 bổ sung thêm mục đạo đức, văn hoá giao tiếp của cán bộ, công chức, nhằm xây dựng một nền công vụ phục vụ nhân dân, góp phần vào việc xây dựng văn hóa công vụ, quy tắc ứng xử của công chức trong thực thi công vụ. Luật cũng quy định cụ thể các chuẩn mực về đạo đức công vụ như đạo đức công chức, văn hóa giao tiếp trong công sở, văn hóa giao tiếp với nhân dân. bao gồm: Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ. Về văn hóa giao tiếp ở công sở, cán bộ, công chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá; thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Khi thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong lịch sự; giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp. Trong giao tiếp với nhân dân, cán bộ, công chức phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. Cán bộ, công chức không được hách dịch, cửa quyền.

Các nội dung mới trên đây của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã thể hiện được cơ bản chủ trương của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

Sau hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, công chức, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 được ban hành đã tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách nền công vụ và về công tác cán bộ, công chức, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để tiếp tục cải cách nền công vụ, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta. Việc ban hành Luật Cán bộ, công chức một lần nữa khẳng định, hoạt động công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức là một nội dung quan trọng của nền hành chính quốc gia, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Tổ chức và thực hiện tốt các nội dung đổi mới thể hiện tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008 là trách nhiệm của tất cả các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và mọi người dân, góp phần xây dựng chế độ công vụ, công chức ở nước ta ngày một hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ.
 
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Để các tư tưởng, mục tiêu thể hiện trong Luật Cán bộ, công chức được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và mọi người dân quán triệt và tuân thủ đầy đủ, cần tập trung làm tốt một số công việc sau:
1. Tổ chức và phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện tốt hoạt động thông tin tuyên truyền, mở các lớp tập huấn và bồi dưỡng nhằm nâng cao và thống nhất nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về các nội dung liên quan đến tư tưởng, quan điểm, mục tiêu và các quy định của Luật Cán bộ, công chức. Đây là việc rất quan trọng, không thể xem nhẹ. Nhận thức, tư duy nếu chưa thông suốt và thống nhất, chậm thay đổi thì các nội dung nhằm cải cách chế độ công vụ, công chức thể hiện trong Luật không thể được triển khai tốt và có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
2. Xây dựng kế hoạch triển khai Luật Cán bộ, công chức trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nội dung của kế hoạch triển khai Luật Cán bộ, công chức không chỉ đơn thuần thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành Tổ chức nhà nước mà còn liên quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước khác thuộc chức năng, nhiệm vụ của một số bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức hữu quan. Vì vậy, khi xây dựng các nội dung của kế hoạch triển khai Luật cần có sự tham gia và tạo sự đồng thuận cao của các cơ quan, tổ chức có liên quan, bên cạnh việc huy động trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng của các nội dung cần triển khai.

3. Trong năm 2009, cần nhanh chóng xây dựng và trình Chính phủ và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn những nội dung quan trọng của Luật. Cụ thể là:
- Nhóm các văn bản quy định chi tiết việc xác định các chức danh cán bộ làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị- xã hội; những trường hợp là công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập; quy định cụ thể việc áp dụng Luật Cán bộ, công chức đối với những người là viên chức lãnh đạo, quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước hoặc những người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước; những người do Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân điều chỉnh; những người do bầu cử nhưng không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức; những người được Đảng, Nhà nước điều động, phân công hoặc được tuyển dụng làm việc trong tổ chức chính trị- xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp;

- Nhóm các văn bản quy định chi tiết liên quan đến việc quản lý cán bộ, công chức cấp xã, kể cả việc quy định khung số lượng, chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
- Nhóm các văn bản quy định liên quan đến thực hiện quyền, nghĩa vụ của cán bộ, công chức;
- Nhóm các văn bản quy định việc quản lý cán bộ như chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chế độ điều động, luân chuyển cán bộ; chế độ đánh giá cán bộ...;
- Nhóm các văn bản quy định các nội dung quản lý nhà nước về công chức, từ việc quy định phương pháp xác định vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch, quản lý biên chế đến việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch, đánh giá, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, phân cấp quản lý công chức...
- Nhóm các văn bản áp dụng pháp luật chung cho cán bộ, công chức như chế độ tiền lương và đãi ngộ, chế độ thôi việc và nghỉ hưu, chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ; chính sách đối với người có tài năng; quy định việc tư vấn đối với cán bộ, công chức; thanh tra công vụ; công sở và nhà công vụ; quy định về các điều kiện bảo đảm cho hoạt động công vụ.

4. Đối với một số nội dung mới quy định trong Luật Cán bộ, công chức như đổi mới quản lý biên chế, xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu công chức; thi nâng ngạch theo hướng cạnh tranh; thi tuyển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý; tập trung một đầu mối tổ chức thi nâng ngạch... cần thiết phải xây dựng đề án thực hiện thí điểm, rút kinh nghiệm rồi mới triển khai thực hiện trong toàn quốc để tránh xáo trộn, mất ổn định trong đội ngũ cán bộ, công chức. Do đặc điểm lịch sử hình thành đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta, đối với một bộ phận cán bộ, công chức có quá trình cống hiến lâu năm, tuổi đã cao cần có chính sách phù hợp.

5. Đối với đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức thì vẫn thực hiện theo các quy định hiện hành cho đến khi Nhà nước ban hành Luật Viên chức. Tuy nhiên, phải khẩn trương tổ chức nghiên cứu, rà soát và đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến đội ngũ viên chức và các tổ chức sự nghiệp công lập, chuẩn bị các luận cứ khoa học và khảo sát thực tiễn liên quan đến vị trí, vai trò và chất lượng đội ngũ viên chức trong điều kiện thực hiện xã hội hóa, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các các đơn vị sự nghiệp... phục vụ cho việc triển khai xây dựng dự án Luật Viên chức để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội trong thời gian sớm nhất. Đây là việc làm cần thiết nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của các tổ chức sự nghiệp công lập ở nước ta.

6. Trong thời gian từ nay đến hết năm 2009, ngành Tổ chức nhà nước có trách nhiệm cùng với các cơ quan, tổ chức hữu quan giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành soạn thảo các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Cán bộ, công chức.
Thứ nhất, trước năm 2010 sẽ tổ chức Hội nghị các bộ, ngành và địa phương để triển khai Luật Cán bộ, công chức và các văn bản quy định chi tiết thực hiện. Vì vậy, để quá trình thực hiện đạt kết quả tốt, trước hết, các văn bản này phải được xây dựng đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành bảo đảm chất lượng, rõ ràng, dễ hiểu để không chỉ các cơ quan trong ngành Tổ chức nhà nước nắm vững, mà đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân đều hiểu để cùng nhau thực hiện.
Thứ hai, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng để tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức ngành Tổ chức nhà nước để thực hiện đúng và chính xác các quy định về quản lý cán bộ, công chức.

Thứ ba, nhận thức là một quá trình, vì vậy, các nội dung mới của quản lý cán bộ, công chức trong quá trình triển khai sẽ có những điểm còn có cách hiểu khác nhau, vì vậy cần thu thập, xử lý các thông tin đa chiều để kịp thời báo cáo các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh, sửa đổi phù hợp. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Luật Cán bộ, công chức ở các bộ, ngành, địa phương và cơ quan, tổ chức. Sau một thời gian thực hiện sẽ tiến hành đánh giá, tổng kết, từ đó kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung những nội dung chưa phù hợp với thực tiễn.

Đất nước ta đang đứng trước giai đoạn phát triển mới với nhiều vận hội và thách thức. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi phải xây dựng chế độ công vụ, công chức phù hợp, khắc phục những nhược điểm và hạn chế vẫn còn tồn tại của cơ chế cũ, tiếp tục xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân. Bên cạnh sự tăng lên của kinh tế thị trường và của xã hội dân sự (các tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ) nhưng vai trò của khu vực công và dịch vụ công của nhà nước vẫn luôn luôn giữ một vai trò thiết yếu, quan trọng trong đời sống xã hội. Do đó, cùng sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, nhiều thành tựu của khoa học công nghệ đang được ứng dụng vào các hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có khu vực nhà nước và dịch vụ công như kinh tế tri thức, tin học hóa, chính phủ điện tử... đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, mà trước hết phải tổ chức triển khai thật tốt và thực hiện có hiệu quả Luật Cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
 
×
Quay lại
Top