TỤC NGỮ, CA DAO NÓI NGƯỢC

Autumn lê

Riêng tư vừa đủ
Thành viên thân thiết
Tham gia
20/10/2012
Bài viết
200
Trong đời sống thường nhật, ta gặp rất nhiều cách "nói một đằng, hiểu một nẻo", "nói vậy mà không phải vậy"... Ca dao, tục ngữ là kết tinh lời ăn tiếng nói của nhân dân trong giao lưu, sinh hoạt rất đa dạng, phong phú, bởi vậy, hiện tượng trên cũng khá phổ biến; có trường hợp nghe cái hiểu ngay, cũng có trường hợp kín đáo, lại diễn đạt thông qua hình ảnh nên rất khó nhận biết. Có thể nói, việc tìm ra nội dung đích thực của nhiều câu ca dao, tục ngữ nói ngược còn là việc làm khá lâu dài cần thiết và lí thú. Bài viết ngắn này chỉ là mấy nét suy nghĩ rút ra từ kho tàng phong phú nói trên, mà việc đúng sai dĩ nhiên vẫn là điều rất cần được trao đổi.

Về loại nhận biết dễ dàng, có thể kể như câu:

Bao giờ cho đến tháng ba

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng

Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi…

Loại khó nhận biết một chút, như câu:

Đàn ông nông cạn giếng khơi

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Điều đáng nói là nhiều câu ngọn gió thời gian vẫn chưa vén lên tấm màn bí mật của nó, phải trải nhiều trăn trở, va chạm với thực tế đời sống mới hiểu được một cách đúng đắn, mới thấy hết vẻ sâu sắc tiềm ẩn bên trong không dễ gì nắm được ngay, thậm chí có khi nhận ra rồi vẫn trong tâm trạng chơi vơi, nửa tin nửa ngờ. Câu tục ngữ "Ăn Bắc, mặc Nam" là một trường hợp.

Xưa nay, vẫn cho câu này đúc kết về thế mạnh chuyện "ăn", chuyện "mặc" của hai miền; rằng, người miền Bắc biết nấu nhiều món ngon, rất sành cách ăn, còn ở miền Nam thì mặc đẹp, chưng diện bảnh bao. Giải thích như thế là không đủ cơ sở thuyết phục, bởi mỗi miền đều có chứng cớ về sự ăn ngon mặc đẹp của mình, và quan trọng hơn cả là lấy gì để bảo hơn với thua? Dù không rõ ràng, không đủ sức thuyết phục chút nào, nhưng câu tục ngữ cứ tồn tại trong dân gian; mãi gần đây mới có ý kiến rất có lí, rằng đó là một câu nói nghĩa ngược hoàn toàn: "Ăn Nam, mặc Bắc". Ngẫm kĩ, thì hiểu thế đúng hơn, bởi người Nam bộ đâu đâu cũng có những bữa nhậu "tới bến" dân dã vô cùng đã đời, sung sướng, ăn thế mới gọi là ăn; còn dân Bắc hình như chú ý đến phục sức hơn, nhất là vào mùa thu và mùa đông được gọi là mùa chưng diện mà xứ nắng Nam bộ không thấy nói tới. Dĩ nhiên, đó chỉ là câu nói khái quát mang tính tổng thể, và ngày nay trong giao lưu rộng rãi thì mọi chuyện đã thay đổi nhiều.

Dân gian lại có câu đúc kết "Ra đường hỏi bà già, về nhà hỏi con trẻ". Cho đến nay chưa ai có ý kiến nghi ngờ gì về câu này, vẫn cho rằng cần nắm bắt chuyện ngoài xã hội tốt nhất là hỏi các bà già, còn mọi chuyện trong một gia đình thì nên đi hỏi con trẻ; riêng chúng tôi thấy có lẽ đây cũng là một câu nói ngược. Ta thử tìm hiểu từ thực tế xem sao. Bà già là "nội tướng", thường quanh quẩn trong nhà, coi trong ngó ngoài, lo chuyện bếp núc, con gà con lợn, lo quét dọn giặt giũ "quanh năm không ra khỏi ba hòn núc bếp" cho con cháu đi làm chứ mấy khi ra đường, bởi tai nghễng ngãng, mắt kèm nhèm, trí não mụ mị làm sao hiểu. Ngược lại bọn trẻ lại chẳng bao giờ chịu ngồi nhà, nếu không đến trường cũng rong chơi, đánh khăng đánh đáo, thả diều, trọi dế, mọi ngõ ngách xó xỉnh ai làm gì, nơi nào có lễ hội, nơi nào có sự cố... là nó biết sớm nhất, còn như hỏi coi trong nhà cái gì để đâu, của nả cất đâu làm gì biết, may ra chỉ biết đồ chơi của mình chỗ nào mà thôi. Như vậy thì mọi chuyện trong nhà cần hỏi phải hỏi các bà già, còn ngoài đường phải hỏi bọn trẻ; hai thế hệ đó có hai môi trường hoạt động khác nhau, tuỳ thuộc lứa tuổi, tính nết, công việc không thể thay thế cho nhau. Mở rộng khái niệm đường, khái quát hơn, thì rõ ràng lớp người già không phải lực lượng lao động chính nữa rồi, làm sao nắm bắt được mọi chuyện quốc gia đại sự, chuyện sôi động ngoài xã hội, đó là lớp người bước bên lề đường đời rồi (lục tuần bất đáo đình trung); trong lúc mọi việc trên lại là công việc, là gánh vác của thế hệ trẻ. Ngày xưa, khi giao lưu hạn hẹp, đi lại khó khăn, đời sống thấp đã thế; bây giờ cuộc sống càng tốc độ hơn, sôi động hơn trong xu thế rất năng động, thì câu trên càng đúng với nghĩa: "Về nhà hỏi lớp già, ra đường hỏi lớp trẻ".

Trên tờ báo "Ngôn ngữ và đời sống" có dạo có cuộc trao đổi về câu:

Gái thương chồng đang đông buổi chợ

Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.

Nhiều ý kiến cho rằng, đây là câu nhằm ca ngợi tình cảm thuỷ chung, cao đẹp của hai đối tượng Vợ và Chồng trong những hoàn cảnh khác nhau; rằng, giữa chợ đông, người vợ rất nhớ thương chồng ở nhà lo toan trăm việc cho mình đi chợ; còn người chồng, chiều chiều, nhìn nắng quái mà thương người vợ lam lũ... Chúng tôi thấy vấn đề có vẻ không đơn giản như thế. Trước hết, cần chú ý tới các chủ thể. Cần thấy ở đây không phải "Vợ thương chồng" mà là "gái", và cũng chẳng phải "Chồng thương vợ" mà là "trai"! Ý tứ nội dung nằm ngay ở cách gọi đó, chứ nếu là vợ, là chồng thì còn gì bàn nữa. Cái cô vợ và anh chồng nào đó ở đây đã thoát khỏi vai trò vợ, chồng của mình mất rồi, và vào vai gái, trai nặng về ám chỉ tính dục trong quan hệ không hay như theo trai, nuôi trai trong nhà, rồi theo gái, dại gái, đem tiền cho gái hay như gái lẳng trai lơ, "trai trên gái dưới" …Hai chữ gái, trai ở đây không mang nghĩa giới tính hoặc mang vẻ đẹp trai thanh gái lịch như nhà thơ Nguyễn Bính từng viết Trai hiền bạn với gái đồng trinh nữa.

Ta thử đi vào cụ thể. Trước hết nói về vị trí của cái Chợ và nhân vật "Gái". Xưa có câu "Gái chọn chồng ra đồng mà chọn/ Trai tìm vợ ra chợ mà tìm" (ngoài đồng là nơi các chàng trai thể hiện rõ nhất sức khoẻ, tính nết, khả năng cày bừa làm lụng của mình; còn chợ là nơi các cô gái thể hiện tài buôn bán, lo toan của mình nên chọn vợ, tìm chồng những nơi đó là tốt nhất). Nên vợ nên chồng hay xẻ nghé tan đàn qua các phiên chợ là chuyện không hiếm. Không đâu bằng chợ, vốn là nơi hẹn hò, làm quen nhau, thậm chí là nơi gặp lại người tình cũ. Chợ tình Khau Vai và nhiều chợ tình ở nhiều vùng khác vốn nói rõ điều này; biết bao buồn vui trong các phiên chợ tình. Đến mức như chuyện "Bà già đi chợ cầu Đông/ hỏi xem thầy bói lấy chồng lợi chăng?", thì chợ quả là nơi kiếm tìm hạnh phúc và cũng là nơi người ta dễ quên gia đình để buông thả sau nhiều trói buộc. Người đàn bà đến chợ, cởi tấm áo làm vợ trong nồng nàn bao ánh mắt tiếng cười, quên chồng con ở nhà trước đám đàn ông cũng đang hau háu tìm một bóng dáng khát khao. Cho nên, ở thời điểm ấy, có người vợ quên chồng thì đúng hơn là thương, còn nếu nói thương là theo kiểu "thương cái xương không còn" thôi! Vì sao không "thương" chồng nơi nào, lại "thương" giữa chợ đông người, vốn là nơi nhiều li tán hạnh phúc sau đó hay xảy ra đã được thực tế chứng minh?

Còn nhân vật Trai. Anh ta không có mặt nơi đông người, mà ngồi ở một vị trí khác, cô đơn trong tâm trạng của một gã trai có vợ khi nhìn ngọn nắng quái chiều hôm sắp tắt. Thấy gì trong cái ánh nắng không đẹp đẽ kia? Tình cảm dành cho vợ của gã có lẽ độc địa, ma quái như cái thứ ánh nắng sắp tàn ấy! Anh ta thoát khỏi vai làm chồng, trở lại là một gã trai đang nghĩ đến gái nào rồi với bao tính toán đen tối. Tại sao không ai gọi gã là "chồng" đã đành, cũng không là chàng trai, mà là trai một cách trần trụi, đó chính là cái nhìn của người quan sát đánh giá đối tượng: gã trai kia đang nghĩ về người vợ trong con mắt nhìn qua vạt nắng quái chiều sắp tắt độc địa chứ chẳng hay hớm gì! Sau suy nghĩ đó sẽ là gì? Phải chăng quan hệ của họ sẽ rơi vào bóng đêm như nắng chiều tàn nhanh, mặt trời khuất núi? Vì sao không để người chồng ngồi nghĩ tới người vợ dưới ánh nắng ban mai trong lành đầy sức sống ấm áp như có anh chồng thuỷ chung từng xem Nhất vợ nhì trời, mà là một "trai" với tâm địa ngổn ngang, chán chường trong hấp hối nắng chiều quái dị đang lụi tàn? Sự thiếu chung thuỷ của hai nhân vật Gái và Trai trong câu quả là "kẻ tám lạng người nửa cân" rất đôi lứa xứng đôi! Bối cảnh - chợ, nắng quái chiều hôm, và các nhân vật - Gái, Trai, chính là chìa khoá mách bảo cho người đọc nghĩa chìm của câu nói.

Song thất lục bát là một thể thơ uyển chuyển, trữ tình; nhưng nếu hai câu bảy chữ cứ treo lơ lửng khi không có cặp lục bát sau đó, sẽ là một sự cố ý của tác giả, thường khiến gây ức chế, tưng tức, nó báo trước một nội dung không bình thường, có khi rất tréo ngoe. Mặt khác, nghệ thuật gieo vần trắc cho thấy hai từ chợ-vợ chỉ sự ngang trái, gồ ghề, nổi cộm hơn là xuôi chèo mát mái. Ta gặp không nhiều các câu song thất đứng lẻ, vần lưng (thanh trắc) trong thơ dân gian, cần thấy đó là những câu cực hay, như câu "Quan cần nhưng dân không vội - Quan có vội quan lội quan sang"… Nhà thơ dân gian tinh tế lắm: nội dung nào, nghệ thuật ấy chứ đâu phải vô tình dùng chữ nghĩa, vần luật, thể cách tuỳ tiện.

Tóm lại, nếu muốn hiểu đúng hai câu trên, ngoài việc hiểu hai chữ gái và trai, người nghe phải "cảnh giác" với nội hàm chữ "thương", trong đó, nó không còn bình thường như trong những văn cảnh khác nữa. Phải tĩnh trí gác lại nội dung hiển ngôn của chữ "thương" ở đây. Nó là cái bẫy nguy hiểm, hoàn toàn phải hiểu ngược lại, nói "thương" tức là "ghét", là "quên"! Mấu chốt hai câu nói nằm ngay chỗ này. Đó là một câu nói ngược không dễ nhận ra: trong một bối cảnh nào đó, một không gian nào đó con người ta dễ thoát khỏi mình với tâm trạng riêng tư sâu thẳm. Câu thơ "Có những phút giây ngoài vợ ngoài chồng", ngày nay, ai cũng biết và cũng chấp nhận, thậm chí thích. Đó là lúc con người phân thân tự giải phóng khỏi ràng buộc vợ chồng. Rõ ràng hai nhân vật Gái và Trai ở đây chẳng tốt đẹp gì (lí do thì không rõ, ai mà biết gia cảnh của họ kia chứ). Những trường hợp như vậy, vốn không hiếm trong xã hội. Chúng ta vừa giận vừa thông cảm, vì nó cũng không nằm ngoài tính người. Vì thế, câu nói dân gian trên là một câu hay và mãi mãi vẫn còn; tuy vậy, đằng sau sự cảm thông, thì cao hơn, cần thiết hơn là từ thái độ, tâm trạng của đôi trai gái đáng phê phán này, rất nên xác định một thái độ sống lành mạnh, thuỷ chung, nhất là với lớp trẻ văn minh, có học, tiếp xúc rộng trong môi trường cởi mở xô bồ xấu tốt ngày nay.



Sưu tầm
 
×
Quay lại
Top