Mỗi ngày mình sẽ post 1 truyện ma ( tập hợp từ nhiều nguồn )

Bức Tranh Quái Dị
Trước nhà thờ Saint Sébalt, nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao, cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao.
Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời.
Tôi đến thành phố Nureemberg đê học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc,những ông nhà giàu, đầu chụp tóc giả...
Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản phác họa (Croquis) và sau cùng vẽ hình bóng (Silhouettes).
Với tôi, không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo nạt nộ: "Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?".
Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lý khách sạn này không thê hiêu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. Tình yêu nghệ thuật, óc tưởng tượng, sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về, nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như lòng tự trọng... Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn thận.
Một đêm, không một xu dính túi, quá lo ngại, sợ bị viên quản lý dê sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ý nghĩ đó, tôi ngồi trên chiếc gi.ường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý. Tôi tự hỏi: "Con người là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó đê ăn thịt, răng cửa đê ăn trái cây và răng hàm đê nghiền. Nhưng khi không còn gì đê nghiền thì con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...".
Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử.
Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp, hoãn lại mọi việc vào ngày mai.
Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.
Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền đê ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi.
Nhưng đêm đó, có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan, tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi.
Các bạn hình dung, bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao, loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một lò sát sinh.
Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con bò mổ banh ra, treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ.
Ánh sáng chiếu từ trên, giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau.
Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải.
Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra.
Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái gì hết!
Nhưng bên mặt, còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược, tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thê có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiêu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyên... và trên ống quyên có một chéo áo... Liền sau đó, một mụ già, xanh xao, tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ...
Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi.
Mụ già trong tư thế chống cự tận lực, nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi, hay tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ...
Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy, trừ cánh tay. Tôi không thê kết thúc được bức tranh.
Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ nốt. Dê mà!".
Tôi nằm xuống gi.ường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của chính mình. Năm phút sau, tôi ngủ như chết.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối.
Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ cửa.
Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đã già, cao, ốm, mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng, xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc, ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn, sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây...
Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc gi.ường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi khiến tim tôi đập mạnh vì mối lo sợ khó nói.
Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng.
Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào, sống mũi ông quằm xuống, đôi mày ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng, tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng, không nhìn tôi, ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng "ducat".
Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống, lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi "ducát".
Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường, nhìn hai bên, con đường vắng tanh. Tôi hổn hên" "Lạ quá!", rồi hổn hên leo trở lên gác.
Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ: "Hôm nay, mình tính cắt cổ tự tử vì mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau, nếu có ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại đê tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong. Nhưng tôi thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiêm kia, tôi không thê nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ, cố phác họa, nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt.
Đúng lúc đó, tên quản lý bước vào phòng tôi, không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn.
Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng, rồi sập cửa, làm hắn dập cả mũi.
Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:
- Có việc gì vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang.
Tôi hét lên:
- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng chó đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!
Xong, tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên.
Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm, xoa tay thích thú.
Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng dựng dưới chân, đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm: "Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng chăng?".
Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lý té lầu!
Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người, tiếng súng khua, tiếng những lệnh truyền cộc lốc.
Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên mái nhà. Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi, đầu óc choáng váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa... dưới nữa là bao lơn, sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu "Tônnelet Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống đê đâm suốt từ lòng bàn chân đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con mèo to, màu hung đỏ, núp sau ống khói rình một đàn chim sẻ đang kêu chíu chít trên màng xối.
Tôi không thê hình dung mắt con người có thê thấy thật rõ và nhanh đến vậy trong khi lo sợ.
Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay đê người ta phá cửa đây!
Thấy trốn không được, tôi lảo đảo đến cửa... vặn khóa.
Vụt một cái, hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn, miệng đầy hơi rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai, gài nút tới cổ, đê râu rậm, đeo đầy cà-rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng.
Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nhìn tôi chăm chỉ.
Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn gì?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi.
Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn phòng nhỏ bé của tôi.
Tôi bước xuống lầu, dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba, tóc tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh !
Người ta vứt tôi lên xe ngựa, kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe chạy, tôi còn nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ.
Tôi hỏi một trong hai người lính:
- Tôi bị bắt về tội gì?
Tên này nhìn tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiêu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội gì kìa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người.
Không lâu, một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền gạch khô khốc. Chừng như tôi đã được đưa tới khám đường. Đối với tôi, bây giờ cái gì cũng trở lên đen tối.
Từ móng vuốt của tên quản lý, tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó, nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút, nghĩ mông lung:
Thằng cha quản lý đã hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi, không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao, cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm, hai tay bó gối, buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên, húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tê vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà.
*** Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao, thật tối, có ghế sắp theo hình bán nguyệt. Phòng vắng vẻ, có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra, đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.
Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô hình.
Trước mắt tôi, trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính. Nhân vật thứ hai mập, má đầy thịt, hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại, nhìn tôi một cách tò mò.
Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ: "Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!"
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt, và với giọng bất bình tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy.
Ông chánh án lại hỏi:
- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nhìn thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên, bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng nghiệp.
Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ, và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm: "Họ muốn gì ở mình?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau, đưa tay lên trời kêu to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu.
Khi tôi tỉnh lại, chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tê vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc, hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi.
Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động.
Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm: "Đồ chó! Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!".
Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi, khi thấy tên kia đã sẵn sàng đê đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiêu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán.
Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra, đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp, lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước vàng, mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng.
Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối, phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải.
Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm, giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại, chứ không thê bước được.
Một tên lính đẩy mạnh vai tôi, ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang, tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua.
Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm.
Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ gì?
- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời, ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra.
Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng, lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là mình đã giết mụ già kia hay không.
Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.
Tôi không kê ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm, nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng: "Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...".
Tôi thắc mắc, nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại, phần xác vẫy vùng, tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ.
Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng, thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu, ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải, gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng, tiếng những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực, tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới, bàn cãi, mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng.
Với ánh sáng, tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường đê leo lên khung cửa sổ cho dê. Tôi leo lên đó, đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám đông, sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống, cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm: "Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miên sống được là được rồi!".
Tôi lại nhìn sang chợ, nhìn những mụ già đang ngồi sau những thúng rau, giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành, chống gậy, chắp tay sau lưng hút thuốc.
Tiếng động của đám đông, sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại tôi vẫn thấy sung sướng được còn sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy, có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tê, đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần, khuỷu tay đưa lên trên, đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy, vừa thấy hắn ta là tôi đã giựt nảy mình.
Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống, toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay, tái xanh hết cả mặt mày, lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn!
Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì?
Một ý nghĩ đột ngột, một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày, vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường, không còn có sự mơ hồ, dọ dẫm. Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi.
Vào khoảng mười giờ, viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú.
Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thê như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán.
Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức tranh, kinh ngạc đến cực độ.
Tôi đưa cánh tay ra, cả người run rẩy, nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc, Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ, đang chặt thịt ở thớt thứ ba, bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ.
Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm, đầu gục lên gối mệt nhoài như chết.
Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải thoát, chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động cực mạnh của sự chờ đợi, của sự kinh hãi, của sự hy vọng, của hoang mang... những kẻ đó không thê thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ. Tôi nghe cả tiếng chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên, tim se lại như có một bàn tay sắt đang siết chặt. Tôi nhìn chăm chú vào cánh cửa mở... Tên sát nhân bước vào.
Má hắn đỏ rực, hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt, bạnh đến tận vành tai. Hai con mắt ti hí lo ngại, dữ tợn chợt như hai con mắt sói, long lanh dưới đôi chân mày rậm và nâu.
Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn xem. Vừa nhìn, hắn tái mặt, rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi lạnh người. Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy lùi ra đằng sau mấy bước. Một cuộc xung đột ác liệt diên ra ở hành lang. Người ta chỉ nghe tiếng thở hổn hên của tên đồ tê, những lời nói ngắn ngủi và tiếng chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch.
Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút.
Sau đó, tên sát nhân bước vào phòng, đầu cúi xuống mắt đầm đìa máu, tay bị trói thúc ra sau lưng. Hắn ngước nhìn bức tranh lần nữa, ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính hắn:
- Làm sao lại có người trông thấy mình vào lúc nửa đêm?
Vậy là tôi thoát chết!
 
Mưa Đêm
Đêm nay công ty Ngọc có tiệc mừng, nàng và mấy cô bạn đồng nghiệp hẹn nhau tụ tập để nấu nướng tại nhà Quang, phó phòng kinh doanh của bộ phận sản xuất. Đến gần tám giờ tối bỗng nhiên trời đổ mưa, mưa càng lúc càng to, từng giọt nước quất vào mặt nghe đau rát. Ở khúc đường ba tháng hai nước ngập lên đến mắt cá chân, một vài người đi xe bị tắt máy phải dẫn bộ, người chạy xe đạp không xui xẻo thế nhưng ai nấy đều phải còng lưng đạp từng cuốc nặng nề.
Kéttt… "chạy cũng phải nhìn đường chứ! Cô không thấy mưa to ai cũng phóng nhanh vượt ẩu à!!!" Ngọc hoảng hồn lùi xe lại phía sau, nhường cho ông bác đang lái chiếc Future màu xanh biển đi trước. Ấy thế mà nàng còn phải đợi thêm vài chiếc nữa mới được băng qua bên kia đường, xe đâu mà đủ màu đủ kiểu… Ngọc vừa lách qua được thì Hoa cũng vừa trờ tới, mặt mày nhăn nhó:
- Lại mưa, có chết không chứ! Mưa hoài mưa mãi, tới được nhà ông Quang chắc ướt như tắm!
Ngọc kéo lại vạt áo, đưa tay vuốt nước mưa trên mặt để nhìn đường rõ hơn, nàng bật cười:
-Trời đất, Hoa nóng thiệt nha! Bình tĩnh, bình tĩnh! Có hiếu thảo không vậy nè? Coi chừng mưa to gió lớn, ông "Lôi" ổng đi dạo, thấy bà có hiếu có tình quá ban cho một...
-Ừ hén! Tui mới phát hiện ra bà Ngọc dạo này "chán cơm, thèm đất, muốn nghe kèn" nha!!
Nói rồi Hoa cười khanh khách thành tiếng, Ngọc cũng cười. Hai nàng rẽ vào con đường nhỏ bên hông công viên Lê Thị Riêng.
Tâm và Bình đang chiên chả giò trong bếp, ở phòng khách Hạnh đang chăm chú trang trí những cành khô sao cho đẹp mắt và thêm phần ấn tượng. Như đang dò tìm đĩa CD những bài hát tiếng Anh được yêu thích, nàng reo lên như trẻ con được cho bánh khi phát hiện ra CD Tuyển tập những bài hát quốc tế vượt thời gian. Vừa lẩm nhẩm hát trong miệng, nàng vừa cho đĩa vào máy và vặn volume hết cỡ. Âm nhạc trỗi lên khắp gian phòng, bắt đầu là bài hát kể lể, tâm tình Donna Donna do Joan Baezz biểu diễn với chất giọng xúc cảm, mượt mà… Dũng khe khẽ hát, đến bên bàn ăn, anh đặt lên bàn những ngọn nến nhỏ màu trắng cùng với những cái chụp đèn trong suốt. Hưng cũng hào hứng lôi cây đàn guitar mình mang theo để lên chiếc bàn con đầy quà bánh, anh đếm lại lần nữa mười lăm gói quà nhỏ dành gói tặng cho mười lăm người tham gia buổi tiệc hôm nay sau khi khai mạc chương trình. Lần này cũng như lần trước, Hưng đếm vẫn đủ con số "mười lăm", anh cầm những gói quà trên tay và lần lượt để xuống bàn trở lại. Đến gói thứ mười và mười một bỗng nhiên Hưng cảm thấy thật lạ, có vẻ như nó nhẹ hẫng, và… hơi lạnh, lạnh một cách khác thường. Hưng nhún vai tự nhủ không thể có sự sai xót nào ở đây, và hơi lạnh có thể phả ra từ máy điều hòa nhiệt độ.
Bây giờ là chín giờ tối. Hoa nhìn ra cửa, nàng tự hỏi Ngọc đã biến đi đâu từ nãy giờ. Đã có mười ba người hiện diện, chỉ thiếu Quang và Ngọc thôi là vừa đủ. Mọi người ngồi vào bàn và bắt đầu cười nói, mời nhau món đậu phộng da cá. Ngồi thêm mười phút nữa thì Phong về, anh chào mọi người và ngồi xuống bàn. Hoa gọi điện cho Ngọc, nàng không nghe tiếng chuông điện thoại mà chỉ nghe tiếng gió rít khe khẽ giống như tình trạng nhiễu sóng hay nghẽn mạng tức thời. Gọi cho Ngọc hai lần không được, mọi người bắt đầu nhập tiệc. Đúng lúc đó có tiếng chuông cửa đổ từng hồi vội vã.
Hưng với lấy cây dù để ở cửa ra vào, xung phong chạy ra ngoài đón khách. Anh đi ra sân, mưa vẫn còn dai dẳng, mặt đường loang loáng nước, phải thật cẩn thận Hưng mới không bị trượt. Anh mở cửa cho Ngọc và giúp nàng dắt xe vào. Ngọc không cười cũng không nói, cô cám ơn anh và lẳng lặng bước vào nhà. Hưng đi sau Ngọc, anh có cảm giác mưa đã nhỏ dần nhưng nước mưa hình như không ngừng rơi xuống trên người Ngọc. Cởi áo mưa và xếp dù để bên ngoài, Ngọc và Hưng bước vào nhà.
-Trời! Bọn này chờ Ngọc suốt!
-Ngọc đi đâu thế, lúc nãy bị lạc đường à? Hoa đợi hoài không thấy Ngọc nên đến đây luôn đó! - Hoa lên tiếng.
Thấy Ngọc ướt và lạnh nên Hoa và mấy cô bạn đưa nàng vào phòng trong sưởi ấm. Bất giác, Quang trầm tư nhìn ra màn mưa…
- o O o -
Đèn trong phòng vụt tắt, thay vào đó là ánh sáng của mười lăm ngọn nến lung linh huyền ảo, mọi người bắt đầu thưởng thức các món ăn. Trâm được xem như tâm điểm của bữa tiệc, nàng mời mọi người nâng cốc và kể những câu chuyện của công ty. Hà cũng vui vẻ không kém, nàng đề nghị mọi người suy nghĩ về những trò chơi mới lạ để ăn xong có thể "sử dụng" ngay. Hồng thì nhẹ nhàng hơn, nàng chỉ thích… kể chuyện ma cỏ cho người khác sợ. Mấy anh bạn đồng nghiệp trong công ty thì hưởng ứng hầu hết mọi thứ, tham gia hầu hết mọi ý tưởng, thậm chí là còn đàn hát với nhau đến quá mười giờ rưỡi. Lúc này mới đến lúc Hồng trổ tài kể chuyện. Để tăng thêm sự ma quái, nến được thổi tắt hết, chỉ chừa lại một cây ở giữa bàn tiệc. Trong máy phát ra bản nhạc Unchained Melody không lời nghe càng day dứt, sầu thảm…
Câu chuyện của Hồng kể về một cô bé trở về nhà sau chuyến đi nghỉ hè, mẹ và em trai cô nhất định không cho cô ra khỏi nhà. Đi đâu, làm gì cô bé cũng cảm thấy sợ hãi, có cảm giác như luôn có ai đó rình rập mình. Đêm đầu tiên về nhà, cô suýt nữa ngạt thở vì hơi ga, lúc mê man cô nhìn thấy mẹ đã khóa gaz và giúp mình lên gi.ường nằm nghỉ. Ngày hôm sau cô bé đến trường và bị hai người đàn ông chặn đường, họ cố tìm cách giết cô, nhưng cô đã thoát được và chạy về nhà. Đóng sập cửa lại, cô nghe tiếng mẹ bảo "không sao đâu con gái…", và cô bé còn kịp nhìn thấy mẹ mình không có chân!.. Cô thật sự hoảng loạn khi tỉnh lại vào ngày hôm sau, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn thân, cuối cùng cô bé đã tìm hiểu được nguyên nhân mọi chuyện. Khi cô vắng nhà, bọn người đó đã giết mẹ và em trai cô và chặt họ thành từng khúc để phi tang, nhưng chưa kịp thì cô về, sợ cô phát hiện được nên đã tìm cách giết cô. Kết thúc câu chuyện, thi thể của mẹ và em trai cô bé được tìm thấy dưới sàn nhà.
Truyện kể của Hồng đúng ra thì không quá đáng sợ, nhưng cách kể chuyện của nàng khiến người ta có cảm giác hồi hộp, và mỗi lần đến cao trào khiến nhân vật trong truyện sợ hãi, Hồng diễn đạt các tiếng động và âm thanh cực kỳ đáng nể. Sau khi kết thúc, nàng còn hù mọi người hết hồn bằng câu đùa y như thật:
-Eh... có ai đứng ngoài cửa nhìn vào thì phải!!!
Bây giờ đã mười một giờ mười lăm, tiếp tục chương trình là trò chơi "bắt người thành cặp". Mục đích của trò chơi này là chia tách mọi người thành từng cặp, không kể nam hay nữ. Để bắt đầu, mọi người dọn dẹp bàn ăn và xếp tất cả ghế ngồi, kéo tất cả bàn ra ngoài sân để có được không gian thật rộng. Nhân sẽ thổi tắt luôn ngọn nến còn lại sau khi mọi người định thần và nhẩm tính sẽ ẩn núp ở đâu. Trò chơi sẽ kéo dài trong nửa giờ đồng hồ và không ai được lên tiếng, không được dùng ám hiệu và cũng không được có tiếng xì xào. Nhiệm vụ của mỗi người là nắm bằng được một người khác để tạo thành cặp, và người khác này hoàn toàn có quyền chạy trốn để bắt cặp với người khác nữa. Mười lăm người tất nhiên là có bảy cặp, còn một người đành phải đứng ở vị trí quản trò, điều khiển cuộc chơi.
Nhân đứng ra quản trò, anh cầm ngọn nến còn lại dẫn mọi người đi xem xét các phòng. Nhà Quang có rất nhiều phòng, lúc trước gia đình anh xây gian nhà thật dài và thật rộng để cho thuê, lâu dần cảm thấy muốn yên tĩnh nên người già trong nhà thì về quê cho con cháu phụng dưỡng, ba mẹ thì thường đi du lịch đây đó nên nhà cũng trống trải vô cùng. Một điều nữa là Quang cũng không thích quản những người khách trọ, Quang không thích cái cuộc sống đi đi về về thiếu ổn định của họ, thành thử nhà Quang cứ im lìm, thoáng đãng mấy năm nay. Đứng ở phòng trong mà mọi người còn nghe gió lùa ào ào từ sân lạnh cả gáy. Quang không thích xây lầu, nhưng ngược lại, anh thiết kế bốn mặt của căn nhà đều có cây cỏ, ngoài khoảng sân rộng cửa trước và cửa sau. Quang cũng không thích cây kiểng hoặc cây có hoa, anh trồng đủ loại cây cao và có thể sống lâu năm như cây mận, chôm chôm, mai Tứ Quý, cây Ngọc Lan.. ban đêm có lúc nhìn ra như cảnh nhà giữa núi rừng hoang sơ.
Xem xét xong, Nhân tập hợp mọi người lại, anh giơ nến lên và đếm lại số người. "Mười ba"! Sao chỉ có "mười ba" nhỉ? Quang đếm lần nữa, anh nhẩm tính mà không biết thiếu ai. Lần đếm thứ hai, anh được con số "mười bốn"! Thế là thế nào nhỉ, Nhân giật mình tự hỏi và cố an ủi mình rằng lúc nãy chỉ vì hoa mắt. Bây giờ Nhân chợt có cảm giác như Ngọc đứng đó, nhưng cũng không đứng đó. Nàng giống như nhạt ra theo gió, nhưng cũng rõ ràng hiện diện trước mặt Nhân. Nhân giơ nến lên và nhìn kỹ lại một lần nữa, anh bàng hoàng nhận thấy có ai đó đứng sau Ngọc, người đó là "Quang"! Nhân cảm thấy khó hiểu nhưng có phần an tâm hơn khi thấy có người đứng cạnh Ngọc, chứng tỏ Quang và anh đều nhìn thấy Ngọc. Nhân nghĩ có lẽ mình bị chứng ảo giác do đã uống một ít. Nhân thổi nến báo hiệu cuộc chơi bắt đầu, và đi về phía phòng khách chờ đợi. Anh phải có mặt ở đó để thắp sáng gian phòng sau nửa giờ đồng hồ, xem xem có bao nhiêu cặp hoàn thành xuất sắc và thắng cuộc.
- o O o -
Ngọc thoáng thấy bóng Trâm, Hồng, và nàng cũng thoáng nhìn thấy bóng Hưng, Dũng… nhưng nàng tự hỏi tại sao nàng lại nhìn thấy Quang rõ như thế. Nàng bước từng bước một tiến về phía Phong. Lúc này anh đang ngồi trầm tư ở một góc cuối dãy phòng. Ngước lên nhìn Ngọc, Quang nói giọng hơi run:
-Ngọc đấy à?
Ngọc thững thờ… môi nàng xám lại.. mặt nàng cũng tái xanh:
-. Là em mà.. Em xin lỗi.. Em xin lỗi... Mưa to quá mà em lại lạc đường... Em đã đột ngột nhấn ga.... Em không kịp h.ãm phanh... Anh biết không.. Lúc nãy nhìn thấy anh... Em tưởng trời cho mình một cơ hội nữa để làm lại.. Em đã nghĩ anh còn sống, em đã hi vọng là như vậy... nhưng sự thật không phải như vậy.. Vì em đã nhìn thấy anh nằm đó bất động... Sau khi người ta đưa anh đi... Em đã ngồi khóc dưới mưa... và khóc suốt trên đường đến đây.. Em...
-Chuyện cũng đã xảy ra rồi... chỉ tại vì mưa thôi.. em hãy nghĩ thế đi
Ngọc bật khóc, nàng khẽ gật đầu.. Quang nhìn nàng đầy cảm thông, anh hỏi:
-Em có biết tại sao anh có mặt ở đây không?Anh có mặt ở đây, vì đây là nơi anh phải trở về... và đây là nơi mà em phải đến. Cả hai chúng ta đều phải có mặt ở đây để mà được siêu thoát...
-Em không hiểu ý anh... cả hai chúng ta? Anh Quang, em không hiểu..
-Em không biết tại sao em phải có mặt ở đây đúng không? tại vì em cần được anh tha thứ, em cần đi nốt đoạn đường còn lại em đang đi... Còn anh, anh cũng cần phải đi nốt đoạn đường anh đang đi, anh cũng cần phải nói với em rằng anh tha thứ cho em, và anh muốn trở về nhà lần nữa...
-Không thể nào đâu! Anh gạt em!.. Anh nói với em đó không phải sự thật đi! Em van anh!... chỉ có người chết mới cần phải đi nốt đoạn đường dang dở phải không? Em chưa chết mà!
-Anh xin lỗi.. Ngọc... Nhưng đến lúc chúng ta phải đi rồi..
Tất cả đèn Neon của dãy nhà được bật sáng lên, Nhân tươi cười đón từng mọi người với những gói quà được chuẩn bị sẵn. Hết thảy có sáu cặp, ai nấy đều vui vẻ giữ phần quà của mình trên tay… Lúc này điện thoại Hoa reo lên, có một tin khiến nàng và mọi người hoảng loạn. Trên bàn, hai phần quà còn lại đã biến mất tự lúc nào.
 
Chiếc gương đen
Ông Thorndye chủ nhân thư viện khu Steplinn, đã nhiều lần nhìn sang mấy ngôi nhà kỳ quái có mặt tiền ốp gỗ đối diện với cửa sổ với cửa sổ phòng ông.
Phòng đọc kê những dãy bàn gỗ đen ngổn ngang sách báo giờ đây không còn một bóng người và ông không thể nào được nói dăm câu ba điều với một người nào đó rằng ông đánh giá hết sức đặc biệt phong cách kiến trúc tuy đo của những công trình này, rằng chỉ riêng những công trình đó mới có thể trụ lại được qua bao nhiêu lần hỏa hoạn và chấn động mà Siti phải chịu đựng từ thế kỷ mười lăm.
Không một bóng người...
Nói chung thì cũng hoàn toàn không phải như vậy, nhưng cái ông khách duy nhất đang uể oải lần giở những tập sách nhaÜn bóng vì dầu mỡ không được người thủ thư tính đến.
Bác sĩ Baster Brown là một thầy thuốc bình thường trong khu; ông sống ở phố Nhà thờ, thuê hai phòng trong một ngôi nhà cao tầng u ám ở ngoại vi công viên Clissold, ông không có riêng một tủ sách, một phòng thí nghiệm, còn những người khách bệnh nhân ít ỏi thì ông tiếp khám trong cái phòng khách xoàng xĩnh có mấy cái ghế bành đen đủi nhồi lông ngựa. Mỗi tuần hai lần ông lê gót xuyên qua thành đô đến Hallborn để vào cái phòng đọc đầy bụi của ông Thorndye, tại đây ông ngồi một vài giờ và cuối cùng ra về với một cuốn sách nhỏ với giá đặt cược là sáu pence.
Ngoài trời mưa lâm thâm, mà cái bàn ông ngồi lại kê vào góc tối nhất của thư viện. Tuy thế ông Thorndye cũng không nghĩ đến chuyện thắp lên một trong số những cây đèn chao xanh vì một độc giả chẳng lấy gì làm giàu có như ông.
Ông Baster Brown không đọc mà chỉ ngồi lật qua lật lại những trang sách "Lịch sử nước Anh", và từng tí một ông dần dần nhét xuống dưới tập sách này một cuốn sổ mỏng lấm tấm những chấm rỉ sắt và đã bị bọ sách cắn thủng.
Đúng lúc này cô Boze bước vào và ông Thorndye trịnh trọng cúi chào. Cô Boze chẳng những đã mượn của thư viện những sách quý hiếm, mà cô còn thích chuyện trò với ông chủ, những lúc như thế ông lại có dịp trình bày nhận thức của mình về mặt lịch sử.
- Cô Boze này, lần trước khi tôi được vinh hạnh và được sung sướng tiếp kiến cô trong tệ xá của mình, chúng ta đã nói đến Ren, đến việc sau vụ cháy năm một ngàn sáu trăm sáu mươi sáu ông ấy đã xây lại Hild Hall.
Ông Baster Brown đứng dậy, cuốn sổ mỏng ông nhẹ nhàng cho vào túi áo bành tô, còn một tay ông cầm một cuốn tiểu thuyết gì đó mới được xuất bản.
- Xin cám ơn ông, chào ông - người thủ thư vừa nói mấy tiếng khô khan, vừa đưa hai ngón tay kẹp lấy đồng xu mà ông thầy thuốc đưa ra.
Cái bóng dáng thấp bé của ông bác sĩ nhòa đi trong màn mưa bụi của Hallborn.
- Làm việc như thế thì cũng chả lấy gì làm no đủ ông Thorndye lẩm bẩm.
Sau đó ông lại mỉm cười và tiếp tục bài giảng của mình cho cô khách hàng thường nhật.
Tuy nhiên cũng cần phải thừa nhận rằng những ngọn tháp mà Ren xây dựng cho Tu viện Westminster không được hài hòa lắm với cái vẻ hùng vĩ của Tu viện...
Đứng ở góc phố Hallborn chờ xe buýt giữa cái đám người âu sầu chịu đựng, quần áo ướt sũng, ông Baster Brown lấy tay giữ khư khư cái túi căng phồng của mình, dường như trong đó có cái ví đầy tiền. Thế nhưng trong đó chỉ vẻn vẹn có một cuốn lịch thư cổ của Warren năm một ngàn tám trăm năm mươi bảy mà cho đến nay thật là may mắn ông Thorndye không đem ra nhóm bếp hoặc không rơi vào tay gã Do Thái buôn đồ cổ Paans cứ mỗi năm hai lần đến mua tất cả những cuốn sách không còn cho mượn được nữa.
Ông Baster Brown về đến nhà thì đã muộn, ở lối cầu thang ông đụng phải cô chủ nhà Skinner, cô xì ra một tiếng không hài lòng và không đáp lại lời chào của ông.
Lẽ ra mình phải tìm cách trả cho cô ấy một phần tiền nhà, ông thầy thuốc lẩm bẩm một cách chán chường khi leo lên tầng tư về phòng mình trên những bậc cầu thang trải một tấm thảm đã trụi lông xơ xác.
Lửa trong lò sưởi đã hết cháy, còn ở cái vòi hơi có cái màn chắn rách nát bằng amiăng thì chỉ còn một chút ánh sáng loe lét.
Ông Baster Brown đặt cuốn lịch thư Warren xuống cái bàn tròn có lớp vécni đã hơi tróc nham nhở bên cạnh chai rượu Uýtxki và một cái ống điếu cáu bẩn vì nước bọt; sau đó ông thận trọng kiểm tra xem cửa đã đóng chặt chưa, ông vo một mảnh giấy nhét vào lỗ khóa và cẩn thận kéo bức rèm vải bông màu xanh che kín cửa sổ.
- Chà..., ông thở một hơi dài, nhưng đầu tiên phải gọi cái điếu Polli giúp đỡ cái đã.
Ông vớ cái ống điếu, nhét vào đó một dúm thuốc vo tròn lồng phồng lấy ra từ một túi giấy màu xám và rít một hơi khoan khoái.
Nàng Polli tốt bụng của tôi ơi! Ông thốt lên với cái giọng dịu dàng thô thiển.
Nàng Polli phần nào đã tô điểm được cho cuộc đời đơn côi của ông, con người ít ỏi về tiền nong mà lại bị bao nhiêu rủi ro khăng khăng theo đuổi; còn ông thì bắt chước nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám của ông đã đọc được hồi nào để đặt cho ống điếu một cái tên nghe thật phụ nữ, thậm chí còn khắc lên đầu nó ba dấu thập ác, ông làm thế chỉ cốt để đánh dấu quyền sở hữu của mình và sự ràng buộc đặc biệt.
"Một thứ siêu đẳng" đã có lần ông tự nói với mình khi nhớ lại cái ngày ngẫu nhiên có tiền ông đã mua cái ống điếu theo kiểu "chesterfild" bằng thứ vỏ bạch dương dày cộp của Anh này với giá khá đắt.
- Chà...
Baster Brown đọc sách, hai tay ôm đầu và cắn môi vì căng thẳng: "Năm một ngàn tám trăm bốn mươi hai bộ sưu tập đồ quý hiếm của Horas Wallpo ở Stroberri Hill được đem ra bán đấu giá. Trong những thứ khác lạ có một chiếc gương đen của bác sĩ John Dee, một người thầy thuốc, một nhà phẩu thuật và một nhà chiêm tinh của nữ hoàng Anh Elizabeth. Đó là một tấm than đá màu đen cực kì, được đánh bóng và đẻo gọt tinh xảo hình bầu dục có cán bằng một khúc ngà voi màu sẫm.
Ngày trước tấm gương này được lưu giữ trong bộ sưu tập của các bá tước Peterborough, cũng như trong dòng họ Wallpol chưa bao giờ có ai có ý định sử dụng cái đồ vật bé nhỏ này, họ chỉ thờ ơ lưu giữ, đề phòng có những tai họa lớn có thể gây ra sự tò mò không đúng chỗ của ai đó.
Alias Ashmol, tác giả cuốn sách kì lạ và rùng rợn "Theatrum Chemicum" có kể về một chiếc gương đen theo những lối nói sau đây: "Nhờ khối đá thần thông này có thể nhìn thấy mọi gương mặt mà ta muốn, dù gương mặt đó ở phương trời nào đi nữa, dù nó có lẩn trốn vào những hang sâu khuất nhỏ nhất nằm sâu tít trong lòng đất."
"Cần biết rằng mãi về sau này những người giữ chiếc gương vì khiếp sợ cái uy lực đó mà không dám đem thử..."
Ông Baster Brown thôi không đọc phần cuối bài báo nói đến số phận bi thảm của ông John Dee bí ẩn, mà đi lấy một chiếc kính lúp để soi xét mấy dòng chữ bé líu xíu bên lề sách:
"Phải, nhưng tên đạo tặc Edward Kelli đã theo sát như hình với bóng cái lão Dee khôn ngoan ăn người, tên đạo tặc này đã sử dụng gương để đi tìm kho báu và để gây ra những tội ác bí ẩn.
Trong tay tên bất lương cái vật nhỏ kì diệu này, không còn nghi ngờ gì nữa... (đến đây mảnh giấy bị mọt đục, vì thế mất một đoạn)... cái được Giấu Kín trong gương".
Hai chữ Giấu Kín được gạch chân và viết đậm.
Đoạn ghi chú bên lề được kết thúc bằng mấy dòng viết thân bằng một loại nét chữ khác.
"Gương này đã bị bọn Kwaiter feidzi ăn trộm. Chúng dùng gương để tìm các kho báu (đoạn này lại bị mọt ăn)... nguyền rủa chúng suốt đời".
Ông thở một hơi dài và sâu theo thói quen, ông ấn vào cái lò xo ở một chiếc hộp kín của chiếc bàn nhỏ kì cục làm theo kiểu dedlou, đặt cuốn lịch thư Warren vào đó bên cạnh một cái túi da. Trong túi này có những dụng cụ quý giá tinh xảo bằng thép bóng loáng. Đó là những vật đắc dụng đã một thời là tài sản của Stenton Miller biệt danh Con Dê mà một buổi sáng tháng Ba người ta đã treo cổ hắn ở nhà ngục Newgate, cũng vào lúc đó mưa lớn lẫn với mưa đá to đã đập vỡ hết kính của những ngôi nhà ở Paternos ter Road.
Ông thầy thuốc lắc đầu; ông đã ra tay cứu giúp Stenton Miller khi hắn được chở đến đồn cảnh sát ở Roterhight, thừa sống thiếu chết vì đòn thù của một đám đông.
- Ông bác sĩ, ông cầm lấy cái này thay cho tiền chữa con người bất hạnh ấy thều thào, lúc một viên cảnh sát bỏ đi giây lát, có lúc dùng đến đấy. Mà tôi cũng không muốn để người ta lục thấy trong túi tôi.
"Cái của nợ này" cũng chẳng thấy có ảnh hưởng gì đến kết cục vụ việc của chính Stenton Miller, thế nhưng nó cũng có chút ích lợi cho ông Baster Brown, bởi vì thường mỗi tuần ông không kiếm nổi lấy một đồng bảng.
- Chà, Polli, ông vừa thốt ra mấy tiếng, vừa nhả lên trần một làn khói.
Ba ngày sau ông được biết rằng hầu tước cuối cùng Kwaiterfeidzi đang sống ở Estis Road trong một ngôi nhà cũ nát lụp xụp với mấy cái cửa sổ bụi bậm nhưng lại được che hắn bằng những chiếc rèm gấm nặng nề, đắt tiền.
- À, cái lão bần tiện ma quỷ Kwaiterfeidzi, trời tru đất diệt cái lão ấy đi! một cô bán rau kêu lên đúng lúc Baster Brown vô tư dạo chơi trên đường Estis Road.
Và ông nhìn thấy cái lão già đầu nhỏ xíu, ăn mặc chỉnh tề theo kiểu Bremmel đang lần bước trên bực thềm nhà.
Estis Road là một phố nhỏ heo hút ở Kenonberi, đến ban ngày cũng ít người qua lại, còn đêm khuya thì hoàn toàn không có bóng người.
Lối vào biệt thự của nhà Kwaiterfeidzi; có một cánh cửa chắc chắn có then cài và hai vòng khóa xích, ngược lại thì cánh cửa sân vườn, lối ra kênh đảo Olvin không sâu lắm, chỉ cần một que sắt năm mươi phân thì có thể mở được. Ông Baster Brown đi qua một vạt sân nhỏ đọng đầy nước mưa, tựa như một nhánh sông nhỏ, mở cái chốt cữa sổ phòng giặt và dễ dàng tìm được đường vào các phòng tầng trên.
Phải, cái thằng cha Steton Miller nói đúng, những dụng cụ của hắn cũng có ích thật sự đấy chứ! Ông Baster Brown tin như thế khi ông cắt tấm ốp bằng tấm thép của cái két sắt kỳ cục được trang trí bằng một thứ sợi mạ vàng và những hình hoa văn cầu kỳ diễm lệ.
Ông đang sắp hoàn thành công việc của mình thì hầu tước Kwaiterfeidzi bước vào, trong tay cầm một que chọc lò.
Bác sĩ giật ra khỏi tay ông cái vũ khí nực cười ấy và đập một nhát vào cái hộp sọ bé nhỏ hình trái lê của ông.
Ông già rít lên một tiếng như tiếng chim rồi ngã vật xuống; kinh nghiệm nghề nghiệp mách bảo Baster Brown rằng không cần đến nhát thứ hai nữa.
Không hề vội vã lúng túng, ông lục soát hết mọi thứ trong tủ và phát hiện trong đó có mười hai đồng bảng tiền giấy, một vốc đồng shilling mới và chính cái gương của bác sĩ Dee đựng trong một cái túi bằng lụa màu đỏ.
Về đến nhà ông Baster Brown nốc hết ba phần tư chai Uýtky rồi rút cái gương trong bao ra.
Thở một hơi dài ngao ngán, ông đặt Polli lên bàn vì trong túi ông không còn một chút thuốc nào. Sau đó ông thận trọng bắt tay vào việc nghiên cứu cái vật kỳ quái ma thuật.
Cái khuôn bầu dục nhỏ hẹp và tăm tối ánh lên như một mảnh trời đêm không trăng sao, ông nhận thấy rằng nó lấp lánh, không phản chiếu một thứ ánh sáng nào, vả lại trong cái bề sâu u tối của gương ông cũng chẳng phát hiện thấy có gì đặc biệt.
Để tập trung tư tưởng và tinh thần ông bắt đầu nhắc lại tên tuổi của con người bí hiểm tạo ra chiếc gương, đôi khi ông còn kết hợp cả vào đó tên của Kwaiterfeidzi.
Một giờ sau lưng, ông bắt đầu toát mồ hôi, tay ông thì run rẩy lập cập vì một sức nóng không biết từ đâu sinh ra.
Gần đến sáng ánh đèn hơi đã yếu đi bởi vì ông Baster Brown quên không thả một đồng xu vào cái khe đồng hồ tính tiền.
Ánh sáng tắt hẳn và bây giờ ông thầy thuốc mới thấy một ánh xanh tuyệt vời hắt ra từ lòng gương.
Động tác đầu tiên của ông là cử chỉ run sợ, ông chạy vội sang phòng bên và khóa trái cửa lại.
Tuy nhiên, gần như ngay lập tức ông nguyền rủa mình vì tội nhát gan, và mặc dầu toàn thân run rẩy một cách thiểu não, ông vẫn quay về chỗ bàn.
Ánh sáng ấy vẫn tiếp tục hắt ra, dù không mạnh lắm.
- Cần phải... nghiên cứu hiện tượng này... nhằm mục đích khoa học. Ông thầy thuốc lẩm bẩm. Cái ánh xanh này dường như là ánh xanh từ một đầu cực... Vậy thì, nếu ta đứng sang bên trái gương, ta sẻ nhìn thấy...
Ôi chao, quả đúng như thế! Ông đã nhìn thấy, dù rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ ông chỉ mong sao trên cái mặt đen lạ lùng kia không hiện ra một hình ảnh nào nữa, mặc dấu ông đã từng h.am m.uốn được chính mình sử dụng cái sức mạnh bí hiểm của nó.
Hình ảnh hiện ra khá là mờ mịt và ông Baster Brown phải vận dụng hết trí lực của mình mới có thể phân biệt được một số đường nét.
- Có vẻ giống như là... hừm, nhưng rất rõ ràng đó là một cái gì như thể một bộ áo dài... mà có lẽ, như là một chiếc áo blu. Hừm,... à à, đây là cái đầu... còn đây là chân.
Hình ảnh dần dần nét hơn.
Cái đầu đội mũ hiệp sĩ lộ ra phía trên một chiếc khiên rộng không rõ hình thể. Cặp chân khẳng khiu dài quá khổ, bên ngoài mặc một thứ quần kỳ dị mà người ta dùng để mô tả trên những bức chạm khắc cổ xưa các nhà hiệp sĩ cuối cùng của cuộc chiến tranh Hoa hồng đỏ và Hoa hồng trắng.
- Đẹp thì chả đẹp, mà ý nghĩa thì không có gì, ông Baster Brown kết luận trong một giây lát hăng hái.
Tuy nhiên, ông cũng không có ý định hăng máu vịt trước một kiểu bất trí, ông hiểu rằng bức tranh khó hiểu và không mạch lạc sẽ tạo ra quanh mình một không khí ghê sợ hãi hùng. Cái ánh sáng xanh kia đủ mạnh để soi các vật xung quanh và ông đã nhìn thấy chai rượu uýtxky và chiếc điếu Polli được bao phủ bởi một lớp ánh lân tinh mờ mờ.
Đó là những đồ vật quen thuộc, thậm chí còn rất đáng yêu của ông, những đồ vật sinh hoạt bình thường, thế mà giờ đây ông nhìn chung một cách khiếp sợ, tựa hồ chúng cũng là một bộ phận của sự bí ẩn nguy nan đã nảy sinh ngay bên cạnh ông.
Đúng lúc này cái hình ảnh nhòe nhoẹt kia chợt đậm đặc lại mấy giây rồi lại nhanh chóng giãn ra; đầu tiên là cái khiên biến đi, bộ quần áo bỗng thảng thốt như sương, rồi sau đôi chân như hai con rắn chợt tan hòa vào thứ bóng tối lung linh. Thế rồi, thoắt một cái, giống như sau tiếng "tách" của công tắc điện, tất cả đồng loạt tối thui và căn phòng chìm vào bóng đêm.
- Đồng hồ tính tiền, mau lên! Ông Baster Brown kêu lên và điên cuồng chạy khắp phòng tìm những đồng xu.
Ông kịp bỏ tiền vào khe đồng hồ khi nghe thấy sau lưng tiếng thủy tinh vỡ loảng xoảng và tiếng nước chảy đổ.
Một phút sau chiếc đèn hơi sáng lên rực rỡ.
Chai rượu đã vỡ vụn chảy thành hai dòng trên mặt bàn. Chiếc gương đen lại giống như một chiếc đĩa thường.
- Có thể đó là do trí tưởng tượng bệnh hoạn của ta sinh ra mà thôi. Ông bác sĩ ca cẩm.
Nhưng ngay lập tức ông lắc đầu:
- Vậy tại sao cái chai lại vỡ, lại còn...
Ông mở to mắt, đứng như trời trồng, nhìn chằm chằm lên bàn: chiếc điếu Polli đã biến mất.
Phải mất một tuần trôi qua ông Baster Brown mới lấy lại được can đảm để thử nghiệm điều bí ẩn của chiếc gương ma quái trong một đêm đen tĩnh mịch.
Không có gì xảy cả.
Dũng cảm hơn, đêm nào ông cũng thử nghiệm; để có vẻ ly kỳ thậm chí ông đã bắt đầu kêu gọi cả đến bóng dáng của Dee và Kelli, hơn thế nữa, cả những thực thể của thế giới bên kia, khi tìm thấy tên tuổi của họ trong sách thảo luận cổ xưa về ma thuật Nodzerx.
Ông đã thất vọng. Ông đã thôi mơ ước có những cuộc tìm kiếm thần hiệu những kho báu và thậm chí ông đã tự nói với mình rằng thật sự ông không bao giờ tin vào chuyện đó.
- Liệu có đáng công hay không... liệu có đáng công hay không... đôi lúc ông cứ lẩm bẩm như vậy. Tuy nhiên, ông không nói ra hết ý nghĩ của mình và chắc tự ông cũng không thể nói được rằng liệu sự hối tiếc của ông có liên quan đến vụ giết người ở Estis Road hay không.
Dù thế nào đi nữa thì tội ác cũng đã mang đến cho ông mười hai đồng bảng và mấy shilling; nhưng những đồng tiền ấy đã tiêu veo đi như tuyết tan dưới ánh mặt trời.
Vào cái ngày khi đồng shilling cuối cùng được đem ra để mua một ít đường và trả thì ông được cô Skinner cho hay là cô sẽ tới thăm ông.
Cho hay là tới thăm, nói như thế thì trang trọng quá; trên thực tế thì cô chỉ sai người đấy tớ gái Diana Pabsi chuyên làm những việc bẩn thỉu đến báo cho bác sĩ biết rằng ông không được ra khỏi nhà, khi chưa nói chuyện với cô Skinner, nếu ông không muốn thì quay về nhà phải nhìn thấy trên cửa nhà mình những dấu niêm phong lớn màu đỏ.
Cô Skinner là một cô chủ nhà khá giàu tính chịu đựng và cô chưa bao giờ tuyên chiến một mất một còn với người ở thuê vì cái chuyện chậm trả tiền nhà, nhưng ông Baster Brown nợ tiền cô đã tám quý, ấy là chưa kể những khoản lặt vặt mà cô cho vay vào những phút tâm hồn sảng khoái.
Cô chủ đến đúng hồi mười một giờ, tức là hai tiếng sau Diana Pabsi, cô đeo trên mũ chiếc kính đồi mồi và cầm trên tay một sổ nợ khổ lớn.
- Thưa bác sĩ Brown, cô mở đầu, việc này không thể kéo dài hơn nữa. Sức chịu đựng của tôi thì rất lớn, tôi còn có thể chịu đựng được hơn nữa, nếu như tôi không có một nhu cầu rất lớn về tiền. Xin ông vui lòng nhìn bảng kê này, ông sẽ thấy rằng ông còn thiếu của tôi...
Bỗng nhiên cô ngừng bặt, cô hít ngửi một hơi, vẻ tởm lợm rồi kêu lên:
- Trời đất ơi, quái quỷ thật... Có cái gì thối tha trong cái ống điếu của ông thế, hả ông bác sĩ? Tôi không thể ngồi đây được nữa. Thối tha quá... Ông đi ngay đi, ông cút ngay khỏi nhà tôi đi...Ôi! Làm sao lại có cái mùi như thế được chứ?
Cô vùng chạy ra ngoài, còn cái sổ nợ (trường hợp không tiền khoáng hậu trong biên niên sử của ngôi nhà này) trượt khỏi tay cô, rơi tung tóe xuống sàn nhà.
Ông Baster Brown mừng vì thoát khỏi những lời chỉ trích và đe dọa của cô, tuy vậy ông nhíu trán ngồi yên sau cái bàn tròn như chết lặng: từ khi mất Polli, để tiết kiệm tiền ông đã không mua điếu mới, và vì thế ông đã bỏ hút!
Mặt khác, dú ông có đánh hơi ngửi khắp nơi đi nữa, ông cũng không thấy một chút mùi khói thuốc nào, có chăng chỉ là mùi nặng nề của cái xô rác trong bếp và chút mùi của mấy lọ thuốc.
Ông nhún vai nhìn vào cái ngăn kéo bí mật trong góc bàn.
Chiếc gương đen vẫn nằm đó, vẫn tăm tối và lấp lánh, nhưng chẳng có gì hấp dẫn và lạ kỳ; nó vẫn là những công cụ bằng thép nằm trong bao da.
Baster Brown mỉm cười cầm chúng lên tay.
Đúng giây phút đó từ tầng dưới nhà có tiếng rú lên kêu cứu:
- Bác sĩ, bác sĩ ơi! Cô ấy sắp chết rồi!
Người thầy thuốc nhận ra ngay cái giọng the thé của Diana Pabsi.
Ông bắt gặp người hầu gái trước cửa phòng bếp mở rộng. Cô ấy la khóc và mặt mũi ướt đẫm nước mắt.
- Cô chủ về phòng và bảo: "Cái mùi thuốc... chà, sao mà nó thối đến thế!" sau đó cô ấy ngã xuống. Rồi cô ấy không động đậy được nữa! Trời ơi là trời!
Ông Baster Brown đã nhìn thấy cô Skinner nằm xỉu trên nền gạch nung trắng đỏ; cặp kính của cô văng xa vào một góc đã vỡ vụn.
Gương mặt cô chủ nhà méo mó một cách thảm hại.
- Cô ấy không động đậy nữa, ông thấy đấy! Cô hầu gái nức nở.
"Cô ấy sẽ không bao giờ động đậy được nữa" người thầy thuốc tự nhủ, bởi vì ông đã xác định được rằng kẻ bất hạnh đã chết.
Ông ngồi viết một tờ kết luận ngắn gọn cho các chuyên viên y tế của sở cảnh sát thành phố rồi lên gác về phòng mình, sau đó ông cất cả túi da vào chỗ cũ. Vì ông là người đầu tiên xác nhận cái chết của cô Skinner cho nên theo luật pháp ông sẽ phải tham gia điều tra, và với cả hai tư cách ấy ông sẽ được một khoản tiền thù lao là ba bảng sáu shilling.
Với số tiền ấy ông có thể ung dung kéo dài cuộc sống thêm mấy ngày nữa.
Vì sao kể từ ngày đó ông cứ luẩn quẩn với ý nghĩ phải bán đi cái ông điếu Polli?
Cái ống điếu ấy đối với ông dần dần trở nên một cái gì tựa như một cô bạn gái mà trong thời độc thân khốn khó của mình ông không thể nào có được, còn bây giờ thì ông lại gắn bó với nó đến mức không muốn tìm vật thay thế, thậm chí ông đã không còn h.am m.uốn hút nữa.
Nhưng mối quan tâm bé nhỏ ấy chẳng bao lâu đã bị che lấp đi bởi những điều phiền toái lớn lao hơn: chẳng những ông ngồi không không kiếm được đồng nào, mà hơn thế nữa ông còn mắc nợ đầm đìa đến nỗi ông chẳng còn hy vọng nuôi nổi thân mình.
Những khách bệnh nhân trước kia thỉnh thoảng còn đến thì nay hết hẳn; một bọn du đãng nào đó ban đêm đã gỡ đi khỏi cửa cầu thang tấm biển kẽm có ghi họ tên ông và giờ tiếp khách.
Ông cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp lại nó nữa, vì chưng ông đã tin điều ấy vô bổ.
- Chao ôi, Stenton Miller, ông lẩm bẩm, tôi lại phải nhớ đến anh, người anh em sống hèn chết khổ của tôi.
Ông lại lấy từ trong ngăn kéo ra túi đựng những dụng cụ bằng thép bóng loáng.
Bên cạnh đó, trong cái túi riêng bằng lụa đỏ là chiếc gương của bác sĩ John Dee.
Ông ném sang bên ấy một cái nhìn bực dọc và khinh bỉ.
- Mày đấy à! ông càu nhàu, mai ngày kia thì mày xuống đáy sông mà tác oai tác quái!
Từ trước tới nay, trong những lần trộm vặt ban đêm, ông gần như toàn tâm toàn ý tin vào một ngôi sao hạnh phúc vô hình nào đó. Nếu có ngoại lệ thì chỉ là chuyến làm ăn đổ máu ở Estis Road khi ông cướp trắng gương đen này.
Còn chuyện hành nghề lần này nhằm cứu ông khỏi rơi vào cảnh khốn cùng thì ông đã chuẩn bị cẩn thận hơn thế.
Ông đã tìm thấy một ngôi nhà ở Blumsfild không có người ở. Chủ nhân của nó, bà Aberllou đang phải điều trị trong bệnh viện Kosuell Road và mang tất cả đầy tớ theo mình. Ông biết được tất cả những điều đó qua cuộc trò chuyện của các bác sĩ đồng nghiệp, họ không hề chú ý hoặc quan tâm đến việc ông lắng nghe câu chuyện một cách chăm chú.
Một trong những cửa sổ tầng dưới không được đóng kín, còn ông thì lại có thừa kinh nghiệm để biết rằng nó không gây trở ngại gì lớn cho một cuộc đột nhập về đêm.
Khi ông rời xe buýt trên đường Cornhill thì trời đã lạnh và tối. Khi ông đi bộ tới London Wall, một đường phố u ám và sầu muộn đấn nỗi ông thấy như chính mình là quỷ uất hận, thì đường phố đã dần dần tràn ngập sương mù. Ở chỗ này chỗ kia những cây đèn đường thỉnh thoảng lại nhỏ xuống những giọt nước mắt màu nâu đỏ vào trong cái lớp sương mù đầy những bóng ma ấy; thậm chí ở đây những tiếng động cũng âm u đi và những tiếng còi tàu dọc đường bờ sông Victoria cũng tựa hồ bị sương mù nhét giẻ vào mồm, chỉ u u rền rĩ ở phương xa.
Ông Baster Brown thở một hơi dài khoan khoái. Cho dù ông có bịt kín mắt bằng vải đen ông cũng tìm ra được đường đi tới phố Blumsfild, nhà bà Aberllou, tới cái cửa sổ có cánh cửa đóng không chặt.
Ông lẻn vào được trong nhà không mấy khó khăn, cây đèn pin nhỏ hắt ánh sáng trắng trên những tấm vải bao gi.ường màu trắng như màu tang tóc và những tấm thảm cuộn lại trong cái phòng khách nghiêm trang thời Victoria.
Ông bước lên cầu thang xoắn ốc khổ rộng dựa tít lên trên cao, tới một nơi nào đó trong bóng tối, ở tầng hai ông thấy một cái cửa, xem ra thì hình như nó dẫn vào phòng ngủ của bà Aberllou. Ông mở cửa và đứng khựng lại vì cơn khiếp đảm đột ngột, dường như trước mắt ông có con quái vật nào đó vùng dậy.
Thực ra căn phòng làm ông khiếp sợ chỉ vì một lẽ là nó sáng quá.
Ngọn đèn chùm mười hai bóng với các loại râu tua vẫn rực rỡ, đằng sau chiếc ghế nhưng vàng là cây đèn đứng có chao hồng. Người khách không mời mà đến, tức là ông, không thể dự liệu được rằng khi ra đi những người trong nhà đã quên không tắt đèn, căn phòng vẫn nguyên trống vắng, và mặc dù có ánh sáng như trong một ngày hội, nó vẫn hoàn toàn là không có người ở.
Ông Baster Brown lắc lắc đôi vai tựa hồ có một gánh nặng đang khiến ông nghẹt thở trong lồng ngực.
- Thôi, cứ thế, cứ thế. Ông lẩm bẩm, cần phải làm vậy... nếu không thì hỏng hết.
Cái nhìn của ông gắn vào một tấm gương trong xanh kiểu Venise, treo ở tường hậu. Ông bước tới và nhấc lên: có bốn chiếc nút đồn hiện ra như bốn con mắt trên cánh cửa nhỏ một chiếc két chìm trong tường.
Những dụng cụ bằng thép liên tiếp được sử dụng và chẳng mấy nỗi ông đã vượt qua được chướng ngại vật.
- Có thế chứ... có thế chứ, ông Baster Brown đắc chí, và quả thật trên má ông ướt nhòe những giọt nước mắt sung sướng không gì tả nổi khi ông nhìn thấy trước mắt những gói ngân phiếu lớn và ba đồng tiền vàng.
Ông nhét đầy chặt các túi rồi đắc thắng khua lên cái que thép đã giúp ông phút cuối cùng mở khóa.
Bỗng nhiên toàn thân ông bị một cơn co giật: ở tầng dưới một cánh cửa đóng sầm lại, có những bước chân vội vàng đi lên cầu thang; thậm chí ông còn nghe thấy tiếng cò súng lên đạn.
Toàn thân ông hóa đá. Ông không nhích được một bước ngay cả khi có bóng một người đàn ông lực lưỡng, nặng nề xuất hiện trong khuôn cửa mở rộng, ngay cả khi cái nòng dữ tợn, tròn trặn và bé nhỏ của khẩu súng lục tự động đã đặt vào trán ông.
Thế nhưng cái tiếng nổ khốc liệt đã không vang lên, còn người đàn ông thì không kịp kêu bắt cướp hoặc kêu cấp cứu.
Cây gậy thép rời khỏi tay ông Baster Brown, nó rít lên cái tiếng xé gió của tên lửa trong không khí rồi văng vào một nơi nào đó trong bóng tối. Ông Baster Brown không đụng đậy nữa, cái cơ thể kia đổ rụi xuống sàn, mặt úp sấp, từ một mảng đầu máu tuôn xối ra.
Căng thẳng đến khủng khiếp, ông nhón chân khỏi sàn nhà, chân ông tựa như mắc trong đám sình lầy vô hình. Nhưng rồi ông lấy lại được sức mạnh và nhẩy đại một cái qua được xác chết.
Đến chiếu nghỉ cầu thang ông mới nhìn lại.
Mười hai ngọn đèn vẫn đang rót những ánh sáng chói lòa vào cái tủ két đã bật mở và cái hộp sọ đã vỡ óc của người gác cổng bị đập chết, trong ánh sáng dịu dàng của chiếc đèn cây...
Trời ơi! Baster Brown, con người mà đến cảnh ghê sợ của cái chết bạo tàn cũng gần như không làm động tâm, thì đúng giây phút này lại suýt bật kêu lên vì khiếp đảm: ở cái khoảng không gian giữa chao đèn và mấy cái gối đi văng, đang treo lơ lửng cái ống điếu Polli của ông ở cái tư thế như có một người hút thuốc vô hình cắn chặt vào răng.
Ông nhận ngay ra nó một cách chính xác nhờ cái mỏm đầu của nó bị cháy đen và ba cái dấu thập ác.
Bây giờ ông bỗng khát khao được quay ngược lại chỗ cũ, được nhẩy ngược trở lại qua xác chết máu me và được giằng lấy cái ống điếu yêu quý của mình, cái ống điếu bị mất đi một cách kỳ quặc, thì bỗng nhiên đúng lúc đó từ cái ống điếu bay ra một vòng khói tròn, rồi đến vòng thứ hai, thứ ba, và giờ đây cái ống điếu được hút hết sức, nó tỏa vào không khí một đám sương mù xanh đặc; nó tự hút một mình... trong căn phòng trống vắng đến rợn người.
Và thế là ông Baster Brown cắm đầu cắm cổ chạy, ông lao vào bóng tối và sương mù, ông lạc đường trong bóng đêm mỗi lúc một đặc quánh lại, phải mất suốt ba tiếng đồng hồ ông mới mò về được Clissold Park, về căn phòng lạnh băng của mình.
Trong lúc ông đi vắng một cơn gió mạnh đã mở toang cửa sổ, và bây giờ xung quanh ngọn đèn là một quầng sương mù bao bọc và di động như trong một điệu luân vũ ma quỷ.
Mười năm sau, làm quen với bác sĩ Baster Brown, liệu ai có thể nghĩ được rằng trong cái ngăn kéo chứa đầy những thứ tạp pí lù kia ông lại vẫn còn đang lưu giữ cái thứ vũ khí hùng mạnh nhất và dữ dội nhất mà hồi trước những sinh thể từ thế giới vô hình đã để lại cho mọi người, chiếc gương đen của bác sĩ John Dee?
Dù chúng ta có nói gì đi nữa về chiếc nhẫn của Tot, về những cuốn sách kỳ bí của Salon, về những chiếc ống nghiệm cao cổ của Carpenter, thì chỉ riêng chiếc gương đen cũng đã khiến mọi người phải thoát ra khỏi cái lồng xác thịt thô thiển của mình để hòa vào những đám mây đậm đặc căm thù, yêu đương hay trí tuệ mà bay đi khắp nơi không hề lạc bước, những đám mây mà Đấng trí tuệ tối cao đã dùng để tạo ra các loại ma quỷ và những thần linh bất tử.
Ông Baster Brown đã mua được ở Kemdeltown một phòng nhỏ dùng để khám chữa bệnh. Ở tuổi bên kia dốc núi, người thấy thuốc cấp quận huyện chỉ mơ ước có một căn nhà nhỏ ở một nơi nào đó cạnh một dóng sông có cá hồi tại quê hương Devolshear của ông.
Bây giờ ông thấy hoàn toàn hạnh phúc và yên tĩnh.
Ông béo đẫy ra, để ria mép theo kiểu gall, da mặt bóng nhẫy, bởi lẽ ông đã quen ăn uống ngon lành.
Ông mặc những bộ quần áo kẻ carô của anh em nhà Kerzon, ăn ở nhà hàng Bakki, nơi ông rất thích nhắm món thỏ rừng với thịt lươn rán và rượu mạnh.
Ông cũng tham gia vào hội chơi bài uýt ở quán "Kingfisher" và ông chơi không đến nỗi tồi.
Trong suốt những năm tháng ấy chỉ có ba bốn lần ông phải rút gương đen kỳ diệu khỏi chiếc bao màu đỏ.
Không tò mò và cũng không sợ hãi ông lại cúi mình trước vật kỳ bí câm lặng ấy và ông cũng không hề tỏ ra có h.am m.uốn cầu xin sức mạnh ẩn tiềm trong lòng khối đá đen kia.
Mặc dù thờ ơ như thế nhưng ông không hề quên điều gì, và đôi khi trước đôi mắt vô hình của ký ức ông lại thấy thoáng hiện về hình bóng lạ kỳ của con người hiệp sĩ mang khiên và mặc giáp.
Còn về phần Polli thì có một số sự cố rất đáng quan ngại làm ông không sao quên được.
Đầu tiên là câu chuyện đau buồn của Slamber.
Ở Kemdeltown ông Baster Brown thuê được một trong những căn nhà nhỏ xinh xắn, mà những ông chủ cho thuê thường lấy làm tự hào vào khoảng năm một ngàn tám trăm hai mươi và họ đã giữ được trong từng viên đá hiền lành cũ kỹ của mình khá nhiều những điều ma giáo và lần nào họ cũng thông minh không để bị rơi vào tay những bọn làm ăn hám lợi, những kẻ thướng phá đi những ngôi nhà cũ để dựng thay vào đó những tòa nhà mới cao tầng.
Tầng một là dãy phòng liên thông trần thấp gồm có tiền sảnh để chuẩn bị đón khách, một phòng tiếp khách và một phòng thí nghiệm nhỏ xíu, trong đó chính tay ông Baster Brown đã chế ra gần một tá các loại thuốc cao và thuốc xirô khá là nổi tiếng và được nhiều người ưa dùng.
Trên tầng hai có một phòng khác với những đồ gỗ mới tinh bóng loáng và những thứ đồ kim loại giả theo kiểu dinan, tại đây ông thường nghỉ ngơi thoải mái trong khu nội thất tuyệt vời của mình.
Ông rất ít tiếp khách ở đây, bởi vì mặc dù là một con người cường tráng và luôn luôn thành đạt, nhưng ông vẫn cứ là kẻ cô đơn ẩn dật như xưa.
Trong số rất ít những người bạn mà ông vui lòng mở cổng khu thiên đàng nhỏ bé nơi trần thế của mình có ông Slamber hết sức đáng yêu mà ông đã được làm quen ở "Kingfisher".
Trước đây ông Slamber là giáo viên trung học, sống nghèo khổ và lần hồi kiếm sống bằng nghề sửa bài cho các nhà xuất bản loại xoàng. Ở quán ăn không bao giờ cho phép mình bỏ ra quá hai đồng bạc để ăn bữa tối, còn nếu như ông uống đến đồng tiền thứ ba thì đó là lúc ông Baster Brown trả thay.
Người ta nói rằng khi ăn tối ở nhà ông cũng ít khi từ bỏ những món ăn quen: một quả trứng luộc duy nhất hoặc món kipper chính vì thế ông bác sĩ thường phải mời ông đến để cùng chia sẻ những bữa ăn đầy ắp thức ăn, món thịt gia súc hoặc gia cầm ướp muối lạnh mà bác sĩ đặt một nhà hàng gần đó mang đến tận nhà.
Trong lúc đó chuyện ông Slamber ít có gì nổi bật, nếu như câu chuyện không lái sanng một chủ đề đặc biệt, những phương thức chiếu sáng thời xưa. Ông Slamber thật thà tốt bụng đã trở thành hết sức lãng mạng khi nói đến những ngọn nến, những đĩa đèn hoặc những cây đèn của Karsel. Vì thế, trong con mắt mờ đục của ông giáo về hưu ông Baster Brown gần như trở thành thượng đế vào cái ngày mua được của lão bán hàng tạp hóa ở Triside một chiếc đèn cây thật cao bằng kính to màu xanh có lắp một thấu kính chứa nước đặt trên một đòn tay bằng đồng và tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh mướt mát.
- Tôi cam đoan với ông rằng đó là Kanterpruk! ông Slamber phấn khích kêu lên.
- Kanterpruk?
- Đó là tên của một nghệ nhân hàng thiếc nổi tiếng, ông Slamber tự hào đáp, ông ta sống ở Borough khoảng năm một ngàn bảy trăm chín mươi và đã được vang danh vì tài chế tạo những cây đèn như thế.
Ông Baster Brown chẳng có gì để nói về ch.uyện ấy, và từ đó cứ mỗi lần ông giáo cũ tới thăm thì cây đèn Kanterpruk lại khiến trái tim nhân hậu, dịu dàng kia vui sướng vì thứ ánh sáng như ánh trăng huyền ảo của nó.
Một lần vào ban đêm, ông Baster Brown bị đánh thức dậy vì những đợt sóng lạ kỳ báo hiệu nguy hiểm.
Đã từ nhiều năm ông không dám ngủ trong phòng tối thui và vẫn để ở đầu gi.ường một ngọn đèn đêm nho nhỏ có cả phao dầu; ánh lửa màu vàng mơ hồ của nó có sức chiến đấu chống lại những đạo quân âm thầm của bóng tối.
Ngọn lửa bé nhỏ ấy bỗng rọi sáng trước mắt ông Baster Brown vừa tỉnh ngủ một hình bóng tan loãng đầy đe dọa trong bóng tối và saÜn sàng tấn công ông; trong những tia sáng của nó loáng lên một hình lưỡi dao lạnh và dài.
Ông Baster Brown nhìn thấy con dao sáng loáng ấy được giơ cao lên một cách hung tợn và từ trong bóng tối có một khuôn mặt bịt băng đen hiện ra như hân hoan đón chờ cơn hấp hối của ông sắp đến.
Ông cảm thấy mình đã chết, nhưng bỗng có một điều khó hiểu xảy ra.
Con dao bỗng rơi xuống, cắm phập vào sàn gỗ, rung lên bần bật, từ bên trong mặt nạ thoát ra một tiếng xì nhỏ, sao tiếng xì là tiếng rên đau đớn và tuyệt vọng rồi cả cái thân hình dữ dội kia đổ vật xuống sàn.
Ông bác sĩ nhảy một bước tới chỗ tên dạ khách, lột chiếc mặt nạ đen, và một giọng hấp hối thều thào cất lên:
- Tha lỗi cho tôi. Tôi muốn lấy Kanterpruk...
Tên cướp tắt thở ngay sau lời thú nhận đáng thương, người ấy không phải ai khác, mà chính là ông Slamber xấu số.
Ông bác sĩ đã gần đoán ra được điều kỳ diệu nào đã gây ra cơn đau tim quật chết ông bạn cũ và cứu sống cuộc đời cho chính ông thì bỗng ông nhìn thấy Polli.
Cái ống điếu treo lơ lửng trong không khí bên trên ngọn đèn đêm đang nhả ra những vòng khói ở ngang chỗ đầu ông có hình ba dấu thập ác. Những vòng khói rất đẹp, đầy đặn và tròn trặn, tựa như chính chúng cũng thấy hài lòng với cái dáng tròn tuyệt vời của mình.
Ông Baster Brown kêu lên một tiếng gằn giọng và đưa tay về phía ông điếu, động tác của ông không được khéo léo khiến ngọn lửa nhỏ bé yếu ớt trong cây đèn đêm tắt ngấm. Khi ông châm lại được thì ống điếu không còn nữa, tuy vậy cả căn phòng vẫn còn đậm mùi thuốc cháy khét lẹt.
Ông phải mất nhiều thời gian để cứu lại thanh danh cho ông Slamber; ông cất dấu đi mặt nạ và con dao của ông bạn rồi kéo xác ông ấy đi cách nhau một trăm bước đến chiếc ghế đá ngoài khuôn viên.
Cô Eddy Bronks có thể đã là xinh đẹp, thậm chí là rất xinh đẹp, nếu như căn bệnh bướu cổ không làm cho đôi mắt màu xanh nhan nhát của cô có vẻ như là hơi dọa nạt người khác một chút.
Ông Baster Brown quen với cô tại nhà người bán hàng thuốc ở Korihill tên là Littelwood, người mà ông hứa chuyển cho cả phòng thí nghiệm và cả những công thức thuốc cao của mình.
Cô Eddy thích nói chuyện tào lao với cả hai người, và như cô thường nói ra không kém phần tự hào, cô là người "chuyện trò chuyên nghiệp".
Trên thực tế cô là hộ lý trong bệnh viện "New Charte".
Ông Baster Brown chưa bao giờ chú ý đặc biệt đến phụ nữ, nhưng hình ảnh cô Eddy Bronks chẳng mấy chốc đã không buông tha ông.
"Lần sau gặp nàng ta sẽ xin cưới nàng làm vợ", nhiều lần ông đã tự nói như vậy.
Lần gặp sau, rồi sau đó là nhiều lần gặp trôi qua, nhưng lời cầu hôn vẫn không sao thoát ra khỏi miệng ông, và mọi câu chuyện đều chỉ qui về việc xem xét các loại thuốc viên nhà Littelwood, các phương thức điều trị bệnh bướu cổ và các trường hợp mắc bệnh đặc biệt mà bác sĩ đã từng gặp trong thực tế.
Một buổi tối mùa thu, ông Baster Brown bắt gặp Littelwood ủ rũ tỳ tay trên quầy thuốc, môi run lên, bàn tay lạnh ngắt.
- Ông biết không, Littelwood rền rĩ, cô Bronks khốn khổ vừa mới ở đây, tâm thần hoảng loạn. Cô ấy mới bị đuổi khỏi bệnh viện sau một cuộc cãi cọ với thượng cấp. Cô ấy bảo rằng cô ấy muốn chết đi cho rồi... Không, không, ông Brown, tôi hiểu những chuyện này... Ông đừng quên rằng bệnh tình của cô ấy có thể dẫn đến thần kinh hỗn loạn. Cô ấy vừa chạy ra phía hồ nước.
Ông Littelwood có một chân tập tễnh nặng nên không thể chạy đuổi theo cô gái tuyệt vọng.
Như điên, ông Baster Brown cắm đầu chạy trên đường phố dài và tối, vừa chạy ông vừa thở dốc, tim đập thình thịch. Ông dừng lại khi thấy trước mặt mình làn nước hồ phẳng lặng dưới ánh trăng.
-Eddy! Eddy! Ông gào lạc giọng.
Và ông thấy cô cúi gập mình qua cái hàng rào ọp ẹp, đầu nghiêng xuống mặt nước tối đen.
- Cô Eddy yêu quý ơi... tôi hết lòng mong muốn...
Chính ở cái nơi không bình thường này, trong cái hoàn cảnh hết sức không bình thường này ông đã tỏ tình với cô và xin đính hôn.
Cô Eddy Bronks đã theo ông về, người phờ phạc và mắt đẫm lệ.
Ông nhóm lửa trong lò sưởi phòng khách, thắp hết mọi đèn, kể cả cây đèn mặt trăng Kanterpruk và với đôi bàn tay lóng ngóng ông đã pha được hai ly rượu kiểu coctail.
- Em thân yêu, ngày mai anh sẽ đi xin giấy phép thành hôn.
Cô không nghe ông nói mà ngửa đầu nhìn lên trần nhà, trong giây lát cái bướu cổ càng khắc họa nét buồn bực sâu sắc trong đôi mắt cô.
- Anh có cái gì thế này, bác sĩ Brown?
Cô vừa thở vừa hỏi.
- Cái gì ấy à?
Cô để rơi mình xuống một chiếc ghế bành sâu lõm bên cạnh lò sưởi.
- Em xin lỗi... em chóng mặt... buồn nôn. Ôi, bác sĩ ơi, anh đừng hút thuốc nữa!
Ông Baster Brown để rơi xuống sàn ly rượu mới pha.
- Nhưng anh có hút đâu, em yêu!
Cô Eddy Bronks đứng bật dậy.
- Kìa kìa, trong góc nhà kia kìa... có người đội mũ sắt... nó trốn... em nhìn thấy chân nó dưới bàn... trời ơi, chân nó như con rắn.
Rồi bỗng cô rít lên:
- Nó ra đây này... nó châm thuốc ở chỗ đèn ấy! Lạy chúa cứu thế!
Cô vùng chạy ra phía cửa; ông Baster Brown muốn giữ cô lại, nhưng cô đã đẩy ông ra với một sức mạnh khủng khiếp.
Ông lảo đảo, mất cân bằng và ngã giúi đầu vào chiếc ghế bành nơi cô vừa ngồi.
Lúc kịp đứng dậy th.ì ông nghe tiếng cửa ra vào đập mạnh và ông chỉ còn cách lao ra chỗ cửa sổ.
Trong ánh trăng rực rỡ ông nhìn thấy cô gái đang chạy trên đường phố vắng lặng, ông thò đầu ra gọi cô, xin cô quay lại, nhưng bỗng nhiên ông nhìn thấy một bóng đen dữ dội khủng khiếp lướt đuổi theo cô không một tiếng động trên đường phố ngập tràn ánh trăng.
Hôm sau người ta vớt được thi hài cô Eddy Bronks ở hồ nước số hai khu Kemdeltown.
Một năm sau cái chết bi thương ấy ông Baster Brown qua đời. Có một thời gian ông bị bệnh hen và không thể chữa dứt được. Ông Littelwood vẫn thường đến thăm. Ông là người cho chúng tôi biết về những phút cuối cùng của bác sĩ.
Ông ấy hành động rất thiếu lý trí, điều đó làm hại ông người bán thuốc nói: Bạn ông là bác sĩ Ressendl đã kê đơn chỉ định chế độ sinh hoạt và ăn uống, còn ông ta thì lại cứ mãi đi những đâu đâu.
Mưa trút nước và ông trở về như chuột lột.
Tôi mắng cho ông một trận kịch liệt rồi bắt lên gi.ường nằm ngay. Ông điên hay sao mà đi phố bây giờ tôi gắt lên! Không thể hiểu được làm sao trời này lại dám ra đường.
- Tôi vừa thoát được một gánh nặng.
Tôi cặp nhiệt cho ông: gần bốn mươi độ, và tôi hiểu rằng ông đang mê sảng.
Ông bắt đầu lảm nhảm gì đó, đặc biệt là về một cái gương mất bao nhiêu năm tôi mới hiểu được... Trong đó có... cô ấy... cô ấy...
Hai chữ cô ấy ông nhắc lại mỗi lúc một to đến nỗi mấy lần tôi phải lên tiếng bắt ông thôi nói và nằm yên.
Đến gần sáng ông dịu đi, tôi cho rằng ông đã ngủ say, hơn nữa nhiệt độ cũng đã giảm.
Tôi nghĩ, tôi cũng có thể nghỉ một lát, tôi bèn thu mình vào ghế bành và chẳng bao lâu thiếp đi.
Bỗng tôi bừng tỉnh vì ông thét lên.
Ông đã bật ngồi dậy trên gi.ường thở hổn hển, ngực phập phồng như bể lò rèn, và một điều thật là kì lạ tôi chưa từng thấy là ông hút thuốc, quanh người ông là một đám mây thuốc đậm đặc.
- À, đúng nó rồi... đúng nó rồi... bây giờ thì tôi hiểu, tôi hiểu cô ta là ai... Chà, đồ chết tiệt, nó ăn cắp của tôi cái điếu!
Ông đổ vật xuống nằm bất động và không bao giờ tỉnh lại nữa. Nhưng khi đổ xuống ông đã dùng tay làm một cử chỉ lạ lùng, tựa như bắt một cái gì trong không gian. Và đến khi cánh tay rơi xuống thì trong đó có một cái ống điếu dày bằng vỏ bạch dương, trên đầu có khắc ba dấu thập ác.
Người ta không thể nào rút được cái ống điếu ra khỏi tay ông, và có lẽ người ta đã đưa nó theo ông xuống huyệt.
 
Bút máu
Lương Sinh người ở Mãn Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đỉnh ngộ từ khi tóc để trái đàọ Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết. Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn, mất ngủ, lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn là máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm ngàỵ Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương dùng biệt dược trị liệu nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòạ Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gởi đến Lã Công, một quan thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho Sinh luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Ðoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Ðến nhà, lạy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theọ Máu người chảy trong cơ thể quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Ðiều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu naỵ Ðành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng có hại cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói tốt xấu rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa ngườị Trộm nghĩ binh đao là điều dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổị
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với màỵ Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời! Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ lấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn, những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nữạ
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà giàu đủ, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngàỵ Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậụ Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường. Khi quan giao trả, Sinh thấy có những bài thơ hay họa lại những bài đắc ý nhất của mình dưới ký tên Tuyết Hồng, con gái của viên quan. Sinh vui mừng nghĩ rằng gặp được người hợp ý. Sau quan lệnh ngỏ lời kén Sinh làm giai tế. Sinh sung sướng nhận lờị
Sau lễ hôn phối, Sinh mới ngỡ ngàng biết rằng Tuyết Hồng không đẹp, cũng không biết làm thơ. Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đờị Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗị Nhân tết nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủỵ
Sinh chọn đường ven theo suối đẹp, đi mãi đã mười ngày, tiền lương muốn cạn, ý thơ chừng đầy, chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng một người để hỏi thăm nơị Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chuông lẫn tiếng reo cườị Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết, đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữạ Chợt có tiếng hò hét và mọi người sợ hãi dạt ra, từ xa là chiếc kiệu hoa của tiểu thư Lý Duyên Hương, con quan Tổng Ðốc. Người đẹp vừa kiêu hãnh vừa sắc sảo khiến Sinh ngây ngất, nhìn đến quên ly rượu trong tay rơi xuống vỡ toang. Người đẹp quay nhìn thấy, nhoẽn miệng cườị Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên trả tiền rồi theo chiếc kiệu chen vào chùạ Vào trong thấy Lý tiểu thư thành kính đàm đạo với mấy vị Tăng già rồi lên chánh điện lễ Phật. Sinh đến phòng kế lấy bút và giấy hoa tiên theo phỏng mấy câu:
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Ðông biếc, thoáng cười tiên nữ
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vàọ Khi Lý tiểu thư lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theọ Ðến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồị Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thư.
Lập tức mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy vào nhau kêu la náo động. Tiểu thư ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lờị Vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Ðám đông có tiếng thì thàọ
- Anh ta chỉ ném một cành hoa thôi đấỵ
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồị
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống đã là bay đầu, nói chi xúc phạm đến tiểu thơ vàng ngọc!
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên Tổng trấn. Lương Sinh nằm rầu rĩ trong bốn bức vách đá, e phải mang nhục phen nàỵ Ðang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hàm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở tróị Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi, Sinh từ chối hai ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao gặp được một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác đằng thuận nẽo gió đưa, người hãy cùng ta ở đây hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu naỵ
Ðoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậụ Lương Sinh thích thú uống rượu ngâm thơ suốt ngày Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh. Ðộ chỉ hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: Kia là dòng suối quanh co quan đã khai thông để để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối thấy đồng nhiều vẽ khác màu miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn, lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "Dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Ðến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêụ Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc vào chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cổ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực từ chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền, Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập chờn ác mộng.
Mấy lần chống tay ngồi dậy, nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửạ Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mớị Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc. Nghiên mực đỏ tươi sắc máụ Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sửng sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầỵ Ðưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo, đau nhói trong ngườị Sinh nằm vật xuống mê man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại. Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lãng vãng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét nàọ Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ, tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược, rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyển hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua vì mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôị Làm cho thiếu nữ băn khoăn sầu muộn, làm cho thanh niên khinh bạc hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên nhân ái, kêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đạo nghĩa của tha nhân, hát trên bi cảnh của đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạỏ Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dãy Thiên Sơn! Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậỵ Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chậm thêm ngày nào!
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều, cơn bệnh do đó lui được khá xạ Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao lãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ vẫn chưa dò được lối máu từ đâụ Bỗng sực nhớ đến những lời phóng bút viết cho quan Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Ðồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thật trái ngược với những bài tán bài mình đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thật.
Sinh đến chốn cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều xơ xác. Qua khỏi dòng suối cạn, Sinh bước vào một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Ðến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rủ trước nấm mộ mới hiu hiu mấy nén hương tàn, Sinh dừng bước, lại gần ngồi một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậỷ
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lại bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mồ không phải là bà con quen thuộc của tôị
Sinh nghĩ: "Chẳng lẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng?"
Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đâỷ
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôị Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén bật lên những tiếng căn hờn:
- Nói cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ nàỵ Ví dù phải chết ngày nay thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâụ Ðã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Tổng trấn họ Lý độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Ðầu xuân này có khâm sai đi về, cụ thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, cản đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thật. Thế nhưng khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ đốn mạt nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nhọ Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, khâm sai đi rồị Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chết vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây dành để nuôi loài cỏ dại mà thôi!
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏị
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có! Dân làng đây ai cũng nguyền rủa hắn mà hắn nào có biết đâu! Nghĩ thương cho cụ trưởng tôi mấy lần đứng ra chịu nhận tội để cứu bao người mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp người này rồi đến lớp người khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị đày đọạ Trước khi nhắm mắt cụ còn gượng nói: "Ðược chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi ta, thế là quý rồị Chôn ta ở đây cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vịn vào mà che lấp sự thật. Ðừng oán hờn tên danh sĩ. Ðáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại nghẹn ngào nói tiếp:
-Nhưng bao nhiêu người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương xót gấp trăm ngàn lần!
Ðoạn gục đầu trước mồ khóc thảm thiết.Sinh cũng sụp xuống hòa tiếng khóc theọ
Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh có cảm giác như theo cơn gió, oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
 
Nàng Hồ
Ân Thiên Quan là người ở Lịch Thành, nghèo từ thuở nhỏ, nhưng gan dạ liều lĩnh thì không ai bằng. Trong vùng Quan sống có một toà nhà lầu rất bề thế nguy nga, nhưng thiên hạ đồn rằng nơi ấy thường có ma quỷ hiện lên. Toà nhà lớn này bỏ hoang, cây cỏ mọc xanh um và không ai dám đến ở, thậm chí vào ban ngày sáng tỏ mà cũng không ai dám lai vãng nơi đây.
Một hôm, nhóm bạn học của Quan uống rượu chơi, nhân tửu hứng có người đùa:
Có ai dám vào ngủ một đêm trong toà nhà hoang thì chúng ta sẽ đãi một chầu tiệc lớn.
Ân ngà say nên cười nhạt:
Việc nhỏ ấy có khó gì.
Nói rồi chàng xung phong đến ngủ. Cả bọn đưa Quan đến tận nhà hoang, đứng tại cổng họ đùa:
Anh vào trong đi, bọn tôi chờ ở đây. Nếu thấy ma thì cứ hét to lên nhé.
Quan bình tĩnh đáp:
Nếu gặp cũng chẳng việc gì phải hét lên. Và nếu may gặp ma chồn tôi sẽ bắt một con về cho các bạn xem.
Rồi Quan lững thững đi vào. Trước mắt chàng là đám cỏ lác, cỏ gấu mọc lấp cả lối đi, còn các loại cây gai bụi góc thì chen chúc tràn lan không còn nhìn thấy mặt đất nữa. Đêm ấy trăng thượng tuần sáng tỏ một vùng nên cảnh vật rõ ràng. Quan cứ tiến sâu vào. Chàng đến một toà lầu cao hình như ngày xưa là lầu vọng nguyệt rất tráng lệ. Kiến trúc đẹp quá khiến Quan thích chí muốn trải chiếu ngủ ở đây luôn. Quan sát chung quanh, chàng thấy ngoài vừng trăng lơ lửng phía tây thì không có cái gì lạ. Quan cười thầm và cho rằng lời thiên hạ đồn hão huyền, chỉ doạ những kẻ yếu bóng vía thôi. Chàng bèn phủi sạch một khoảng đất rồi trải thẳng chiếu, kiếm một hòn đá vuông làm gối kê đầu nằm vắt chân chữ ngũ. Chàng ngửa mặt lên trời ngắm sao Ngưu mà nhớ đến chuyện tình Ngưu Lang và Chức Nữ.
Gió hiu hiu mát khiến Quan thiu thiu muốn ngủ, chợt chàng nghe ở dưới lầu hình như có tiếng dép bước dần lên cầu thang. Quan cứ nằm yên giả vờ nhắm mắt nhưng thật ra chàng nhìn thấy tất cả. Ở xa có một người mặc quần áo xanh kiểu gia nhân của nhà giàu cầm một chiếc đèn lồng hình hoa sen. Người này nhìn thấy Quan nằm ngửa ở đấy có vẻ hoảng hốt lùi ngay lại nói với một người khác đi phía sau:
Có người trần gian đằng kia.
Người đi phía sau còn đứng dưới thang lầu hỏi vọng lên:
Ai vậy?
Người hầu đáp:
Không biết.
Tiếng chân bước lên vội vã rồi một người ông già đến gần bên Quan nhìn kỹ chàng rồi buộc miệng:
Ồ! Người này là Quan thượng thư họ Ân. Ngài đang ngủ say nhưng việc mình mình cứ làm. Ngài là người phóng khoáng, chắc không quở trách gì mình đâu.
Cả bọn rủ nhau vào trong. Một lát sau, các cửa nhà lầu mở toang, nhiều người lũ lượt kéo đến. Trong toà nhà ánh nến chiếu sáng như ban ngày.
Quan lấy làm kinh ngạc, không hiểu họ là người hay ma. Chàng bèn giả vờ mê ngủ trở mình lăn một vòng, khẽ hắt hơi. Ông già nghĩ rằng Quan đã thức bèn quỳ xuống nghiêm cẩn:
Tôi có một cô con gái, vào đêm nay làm lễ vu quy cho nó, không ngờ xúc phạm đến thượng quan, dám mong ngài ân thứ.
Quan ngồi dậy đỡ ông lão đứng lên:
Rất tiếc tôi không biết trước hôm nay là ngày vui của gia nữ, do đó không có quà gì mừng lệnh ái, cảm thấy hổ thẹn lắm.
Ông lão vội thưa:
Gặp thượng quan như thấy mặt trời, hào quang của ngài đủ tiêu trừ cả hung tinh ma quái. Nếu ngài gia ân lưu lại đây để dự lễ của con gái lão thì thật là vinh dự làm sao.
Quan vui vẻ nhận lời. Bước vào bên trong xem, chàng thấy nhà cửa trang hoàng vô cùng tráng lệ. Vừa lúc ấy có một người đàn bà đứng tuổi ra xin bái yết, ông lão giới thiệu:
Đây là vợ của tiểu nhân.
Quan đáp lễ. Tiếng nhã nhạc đàn sáo chợt trỗi lên inh ỏi rồi đám gia nhân reo lên:
Đến rồi! Họ đến rồi!
Lão chủ nhà vội chạy ra cửa đón. Quan đứng chờ sau lưng. Một đoàn người xách đèn lồng phất lụa mỏng đưa chú rể vào, tuổi chàng trai khoảng đôi mươi mười tám, vẻ mặt sáng sủa thông minh. Ông lão bắt chú rể làm lễ chào khách quý là Quan trước nhưng Quan ngần ngại chỉ dám nhận nửa lễ. Sau đó cha vợ và con rể làm lễ giao bái. Rồi hai họ mời nhau nhập tiệc. Rồi một đoàn thiếu nữ trẻ đẹp mặt hoa da phấn bước ra, cùng dâng rượu thịt. Sau vài tuần rượu ông lão mới sai gia nhân gọi cô dâu ra.
Quan cũng có ý chờ xem mặt cô dâu, nhưng đợi một lúc không thấy nàng đâu. Ông lão cũng sốt ruột đứng lên vén màn vào nhà trong hối giục. Bấy giờ một bọn người hầu gái mới đỡ cô dâu yểu điệu bước ra. Mùi hương xạ đi trước thơm nức căn phòng, tân giai nhân cất bước vang tiếng khánh vàng đeo đầy trên người, đầu tóc trâm cài lược giắt rất là mỹ lệ. Ông lão sai con gái làm lễ chào Quan xong mới cho lại đứng gần mẹ. Quan nhìn thấy cô dâu nhan sắc diễm tuyệt hiếm có trên đời. Sẵn thấy bàn tiệc bày ra loại chén vàng quý hiếm, Ân nghĩ thầm, chi bằng đem một chén vàng này về làm bằng chứng với bạn bè về câu chuyện kỳ lạ đêm nay, chàng bèn lén bỏ vào ống tay áo một cái rồi giả vờ gục xuống bàn. Mọi người đều tưởng Quan say thật:
Thượng quan qúa chén mất rồi!
Lễ rước dâu gần xong, tiếng nhã nhạc lại nổi lên đưa cô dâu về nhà chồng.
Gia nhân nhà trai xôn xao dọn dẹp bàn tiệc. Quan giả vờ ngủ nên nghe bên tai lao xao có tiếng người kêu mất một cái chén vàng, lùng tìm khắp nơi không thấy, có người đề nghị thử tìm trong người Quan nhưng ông lão gạt đi, cấm ngặt không được xúc phạm đến chàng.
Một lát sau cảnh nhộn nhịp trở nên vắng lặng hẳn. Quan từ từ mở mắt ngồi dậy. Trời vẫn tối mò mà mùi hương xạ vẫn còn quanh quất đâu đây, cả mùi rượu ngon quý vẫn thơm nồng bên cạnh Quan. Nằm chờ chút nữa, chàng đợi trời hửng sáng ở phương đông, mới thong thả đi ra cổng. Sực nhớ đến chén vàng, Quan khẽ đụng vào tay áo thấy còn nặng. Ra ngoài đem chuyện kể với bạn bè, cả bọn đều ngờ đêm qua Quan lẻn về nhà ngủ rồi gần sáng mới vờ vào trong nhà hoang. Nhưng khi Quan đưa chén vàng ra làm chứng, cả bọn mới kinh ngạc rồi đua nhau hỏi chuyện.
Nhiều năm sau Quan đậu tiến sĩ, chàng đổi đến Phì Khâu nhậm chức. Ngày nọ, nhân có thế gia họ Chu trong vùng thết rượu mời Quan. Nhìn những chén vàng chạm khắc đặt trên bàn, Quan bèn hỏi về nguồn gốc bộ chén kỳ lạ ấy, họ Chu thưa:
Bộ này nguyên có tám cái, trước đây ông tổ nhà tôi làm quan khanh ở kinh thành, mời thợ khéo chạm khắc để làm vật gia bảo, truyền đến tôi thì đã mười đời rồi. Tôi chỉ lấy ra khi tiếp khách đại quý. Hôm nay nhân có thượng quan nên tôi mới đem ra, không ngờ phát hiện chỉ còn bảy cái. Vừa rồi tôi nghi bọn gia nhân trộm cắp nhưng nhìn kỹ thấy hòm phong kín vẫn kỹ, dấu bụi không hề suy suyển nên không hiểu tại sao mất được.
Quan cười vui vẻ:
Ông đã có vật báu mà không đủ bộ. Tôi may tình cờ có một cái cũng tương tự xin tặng lại ông.
Chàng sai người về nhà lấy chén vàng đem tới. Họ Chu xem kỹ vô cùng kinh ngạc rồi hôm sau tự thân đến nhà Quan, năn nỉ hỏi nguyên do vì sao có chén vàng họ nhà mình. Quan kể lại đầu đuôi chuyện cũ. Cả hai ngờ rằng ma hồn đã lấy trộm của nhà họ Chu để tổ chức lễ cưới cho con gái nhưng rồi không dám giữ luôn phải đem hoàn trả lại.
 
“Nhớ ai như nhớ thuốc lào”. Đặng Vi Yên, ngụ lâu đời ở Nam Định. Tầm thước, khoẻ, thông minh, sống rất điều độ. Mỗi tội nghiện hút thuốc lào từ ít tuổi. Khi Yên lên Hà Nội học đại học, hành trang có chiếc điếu cày.
Chiếc điếu Yên tự tay làm bằng tre đốt, dáng thon đẹp, nỏ cũng bằng tre. Dùng lâu năm, điếu lên nước nâu bóng; tiếng giòn, khói đượm.
Nhân gia đình còn chút của cũ, Yên thuê một túp nhà nhỏ ngay gần trường. Bạn bè thấy Yên ở một mình, thường tụ tập chơi bời ở nhà Yên. Lại trữ sẵn rượu và thuốc lào, góp vài chiếc cả điếu cày, điếu bát. Trong nhà Yên, ngọn đèn dầu không tắt bao giờ.
Được độ hai năm, Yên sinh chứng ho, ngày càng nặng. Cổ họng đau rát, kém ăn mất ngủ, gầy rộc. Ngậm thuốc gì cũng không khỏi. Yên quyết định bỏ thuốc lào. Khốn nỗi ngồi nhìn người khác hút suốt ngày đêm, thèm không nhịn nổi. Yên bèn cất đèn, giấu điếu, cáo bệnh chối khách. Bạn bè thưa dần, bệnh Yên cũng thuyên giảm. Những điếu cũ mỗi bạn cắp đi một chiếc, riêng điếu đem từ Nam Định lên, Yên nhất định không cho ai. Chẳng phải đề phòng có ngày hút lại, chỉ vì đã gắn bó với nhau, không nỡ trao vào tay người khác.
Qua nửa năm, chẳng thuốc thang gì, bệnh Yên khỏi hẳn. Yên sống còn điều độ hơn trước, tập cả dưỡng sinh. Song, không hút thuốc, Yên lại sa vào đam mê mới. Đó là một người con gái gần nhà.
Người con gái này, Yên mới gặp vài bận gần đây. Khi thì rửa chân bên máy nước, khi thì hóng mát cạnh hồ, lúc nào cũng xinh xắn, đáng yêu. Rất trẻ, chỉ độ mười lăm, mười sáu, thon thả yểu điệu. Khuôn mặt lúc nào cũng phảng phất buồn. Chỉ riêng những lần gặp Yên, nàng đều nhìn âu yếm và hơi mỉm cười. Yên thì thấy như đã yêu nàng từ những ngày xưa rồi. Đêm trăng sáng ấy, gặp nàng ở con đường nhỏ trong xóm, Yên rủ vào nhà chơi, nàng nhận lời ngay. Từ khi hỏi chuyện làm quen đến lúc Yên bế lên gi.ường, nàng đều giữ vẻ mặt u buồn cũ. Chỉ đến khi hai đứa sung sướng tột độ nàng mới bật cười rít lên. Yên trước đó chưa gần gũi con gái bao giờ, cũng không thấy lạ, cứ tái diễn vài lần cho thoả. Qua nửa đêm nàng đòi về, chỉ cho Yên đưa đến chỗ hồ nước sau nhà.
Từ đó, đêm nào cũng lại, chiều chuộng Yên rất thành thục, chỉ có điều không bao giờ chịu tắt hết đèn trong phòng, đòi phải để một ngọn đèn dầu leo lét bên gi.ường. Yên nghĩ nàng sợ ma nên cũngchiều; hơn nữa được ngắm khuôn mặt xinh đẹp của nàng trong lúc đầu gối tay ấp, lại càng thoả mãn.
Được một thời gian, bạn bè thấy Yên gầy hẳn đi, sinh nghi, hỏi han, Yên giữ kín không nói. Nhưng cũng tự thấy mình xuống sức, nhất là cổ họng đau lại, tức ngực khó thở, Yên bỏ cả tập khí công. Bị ho còn nặng hơn trước, Yên đâm ngờ bệnh trước cũng không phải tại thuốc lào. Nhân một bữa ngồi quán nước trong trường, Yên nghiễm nhiên vê một điếu, châm lửa hút trước con mắt kinh ngạc của chúng bạn. Lạ ở chỗ Yên bỏ lâu không hút mà không hề bị sặc khói, lại thấy thuốc có phần nhẹ. Nhân thể, Yên hút liền ba bốn điếu. Bạn bè rất mừng, toan bàn chuyện tụ tập ở nhà Yên, Yên nhất định gạt đi.
Tối hôm ấy, Yên đợi mãi không thấy tình nhân tới. Qua mấy hôm sau mới lại, vẻ hờn giận in hằn khoé miệng, không chịu nói với Yên một lời. Gặng mãi thì nàng khóc, rồi trách Yên không chung tình, đòi cắt đứt quan hệ. Yên cuống cả người, kêu oan. Van xin mãi nàng mới nguôi.
Hôm sau, Yên tìm chiếc điếu cũ cất dưới gi.ường, đem ra đánh rửa sạch sẽ để hút lại. Thấy nõ điếu đóng xao sái dày, Yên thảo hẳn ra, cạo sạch, rồi bỏ đi mua thuốc lào.
Đem thuốc về tới ngõ, Yên gặp ngay người anh cả ở quê lên thăm. Yên vốn hiếu đễ, gặp anh mừng lắm, dặn anh ở nhà tắm rửa nghỉ ngơi, mình chạy ra chợ mua thức ăn về làm cơm thết. Trong bữa ăn, Yên lựa lời xin lỗi anh, nói dối là đang kỳ thi, tối có bạn đến cùng học, không còn chỗ. Cơm nước xong, anh vào nhà bà con trong phố.
Điếu cày
Anh Yên vừa đi khỏi, cô gái đến ngay. Trông tươi tỉnh hơn mọi ngày, nhưng lại có vẻ bứt rứt khó tả. Đến khi Yên thắp đèn dầu, tắt điện, kéo nàng vào gi.ường, nàng một mực chống cự, không chịu. Lấy làm lạ, hỏi, nàng cáo rằng đang kỳ thấy tháng, phải kiêng. Yên đâm ngờ, bèn ra chiều lả lơi, bất chợt đưa tay rờ, lạnh người vì thấy dưới lớp vải chỉ là một lỗ hổng lớn. Bị lộ, nàng vùng ra toan chạy, Yên lôi lại xem cho rõ. Bỗng thấy tay tóm vào khoảng không, mất đà suýt ngã người con gái biến mất. Bật đèn ngó quanh, chỉ thấy điếu mới rửa lúc chiều, còn quên chưa tra nõ.
Từ đó không ai thấy Yên hút thuốc lào nữa. Chỉ nghe đến tiếng rít điếu cày, Yên đã bủn rủn chân tay.
 
Bãi đất hoang sau nhà
Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường 10 quận Tân Bình.
Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông, láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống nên cũng ít khi gặp nhau huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không, ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.
Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách, chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi VN chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển, xe bus dần dà trở nên ế ẩm vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc mà ít ai tôn trọng luật lưu thông.
Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách, nên mỗi khi thấy Vân bước lên, ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc, ông không được nói chuyện khi lái xe. Vân cũng hân hoan đáp lại, chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi, lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra thì hai người mới có đề tài mới để bình luận.
ông Thọ không có vợ con, sống nhờ nhà người anh ruột, nhập chung hộ khẩu và coi gia đình người anh như gia đình mình. ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư, nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt.
ông ít cười, dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp, phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc. ông ghiền thuốc lá nặng ,trong túi lúc nào cũng có gói Mai, loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều, nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc.
Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ, Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông, đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề, húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại. Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may, gặp khúc lề đường rộng lại có cây lớn chặn lối nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta.
Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên, Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi:
- Ý thôi chết, lạc tay lái hả ông Thọ? Tỉnh dậy ông Thọ !
Nhưng lay mãi mà ông không trả lời, hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc. Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên, lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên, mặt xám ngắt, miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí.
ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió, và không ai tin là ông đã chết thật bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi:
- Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.
Đám đông xung quanh mỗi người một câu:
- Trời...trời, ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái Người khác bảo:
- Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...
Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông, hoặc ấn mạnh vào ngực ông, hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích, có người thất vọng than:
- Thôi ! Chắc chết rồi, chết thiệt rồi. Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi ! Lúc này gió nó độc lắm nghen.
Cùng với nhận xét ấy, người ta tản mác xuống xe, lảng ra xa, tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được, không nở bỏ ông hàng xóm, bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn, chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi.
Nàng xuống xe, mặt nhợt nhạt ngó quanh, rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo:
- Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé ! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi, chưa có chết hẳn đâu.
Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô, nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi: - Bộ cô không đi với ông ấy sao? Đâu có được, cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu ! Giỡn hoài, bộ tôi ngu sao?
Vân khẩn khoản:
- Ông ơi, tội nghiệp người ta bị ngất xỉu ,ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.
ông xích lô trợn mắt đáp:
- Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu? Chết ngắt rồi, tôi đưa vào bệnh viện, người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ !
Vân nhìn ông Thọ một lần nữa, quả thật ông chết rồi. cái xác không hồn, nằm rũ trên xích lô, đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng, và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô:
- Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà !
ông xích lô vừa kinh ngạc, vừa bực bội, giậm chân lắc đầu lia lịa, ông toan chửi thề, nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ, nên gắt lên:
- Cô không phải là người nhà của ông ấy thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương? Con người sao khờ quá ! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy, rồi cô trả lời làm sao?
Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ, nhưng một phần vì là người quen, một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu nên mới động lòng tìm cách cứu chữa gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.
Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao, khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn, ông chán nản bảo Vân:
- Cà chớn ! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên, bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.
Dứt lời, ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên, ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus, đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.
Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu, Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.
Định mệnh xắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo:
- Mừng cho cô Nhưng rõ ràng, giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình, ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:
- Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài, người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.
Vân cười rồi nói lại:
- Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé !
- Vâng, quý hóa quá ! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ ! Câu chuyện tưởng như mới hôm qua, Vân chưa lên đường, chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về, mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo.
Vân có mặt từ đầu đến cuối, từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn, nghĩa trang ở vào khu đất trũng, nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất ,đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm, ông Thọ mới chịu an lòng.
- o O o -
Gần một năm sau, Vân lên đường sang Canada, tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh, tên là Hiếu, có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua, căn nhà mới, ở vùng ngoại ô phía bắc toronto, nằm trong khu vực vừa khai phá, giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư, nhưng vì tạm thời kinh tế xuống, ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.
Gia đình Hiếu có năm người, nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa, ở nội trú luôn trong trường. nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu, đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm, có một phòng nhỏ dành cho Vân, sát bức tường phía sau, có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu.
Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà, Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân. Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục, chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân để nàng có thêm tiền chi dụng, và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà.
Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái ở một tiệm cà phê Dolnad mở 24 tiếng một ngày, tiệm nằm ở khu vực downtown, nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm, bắt đầu từ 11 giờ đến 7 giờ sáng. Hiếu an ủi em:
- Thôi ! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.
Vân vui vẻ đáp:
- Em có ngại gì đâu, ngồi nhà chán chết.
Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở, rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm.
Vì là khu tân lập ngoại ô nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ nhưng chưa có xe bus, Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa, sẽ bắt Vân đi học lái xe, sắm chiếc xe hơi cũ, cho em gái đỡ vất vả.
Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc, cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo:
- Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ, sáng khỏi phải dậy sớm, ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe, bus rộng rãi, khỏi phải đứng mỏi chân. Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi, nàng che dấu nét xúc động và bảo:
- Anh khỏi phải lo, việc lgì em làm cũng được mà, ở Vn em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.
Sáng hôm sau, Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc, nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn vì nàng đã có việc, không ngồi chơi, ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu.
Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ, nên cũng ké luôn tới trường, khỏi phải cuốc bộ. Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều. Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài, phải đến gần giờ đi làm hẳng thức.Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi, nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp, muốn ngủ, cũng không ngủ được.
Buổi tối hôm ấy cơm nước xong, cả nhà ngồi coi tivi một lúc, rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn, nàng ra khỏi nhà lúc 9 giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng 11 bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng 5 giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt, có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô, nhưng gió buốt, nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.
Vân mặc quần jean, hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn, chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói, giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada, ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới.
Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió, nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn 5 phút thì nàng vui mừng thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường. Nàng vội đứng dậy, bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân, co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu, nàng rất sợ lầm lộ trình rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước, một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắt. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa, Vân hăm hở bước lên bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên, đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng. Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada, quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt, hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn khiến nụ cười trông thật ma quái.
Nhất định là ông Thọ, không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất, lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy, bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh:
- Cái gì thế, cô làm sao vậy?
Vân không hiểu gì, run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt:
- Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..
Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên, vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ.
Chạy được một khoảng khá xa, vào hẳng trước dãy phố, Vân mới dừng lại thở, nàng quay đầu nhìn lại trạm xe, thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng, nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn, và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập, nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe, làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.
Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết, chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada? Vân phân vân suy nghĩ, đầu óc hoang mang, khuôn mặt đờ đẫn, quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác.
Vân đứng mép vào ngưỡng cửa nhìn ra đường, nàng nhớ tới lời Hiếu dặn là buổi tối lcứ khoảng 20 phút có một chuyến xe bus. Giờ đi làm và tan sở thì nhịp độ mau hơn. Vân uể oải bước đi, trở lại trạm cũ đứng chờ chuyến xe kế tiếp. Buổi đầu mà đến trễ, thế nào cũng bị mắng, có khi mất việc cũng chưa biết chừng. Vân chớp mắt thở dài, sực nhớ ra túi thức ăn lúc nãy đánh rớt. Vân cúi xuống nhìn lòng đường nhưng cái túi đã bị xe cán nát bấy chẳng còn hình dạng gì nữa.
Vân lại thở dài, gió khuya thổi vù vù từng cơn lạnh buốt. Nàng đứng hẳng vào trong nhà lồng kiếng, trạm xe vắng ngắt, không có ai ngoài nàng. Một lúc sau, từ khá xa xa, Vân thấy chiếc bus khác lờ mờ xuất hiện mỗi lúc một rõ ràng, nàng vén tay áo nhìn đồng hồ và hy vọng đón chuyến này vẫn còn kịp giờ đến tiệm cà phê Dolnad.
Nhưng bỗng nàng sực nghĩ ra một điều làm nàng rùng mình lạnh toát vì biết đâu trên chiếc xe bus kia, người tài xế cũng vẩn chính là ông Thọ, rõ ràng là hồn ông đã theo nàng từ Vn qua đây. Nàng mở to mắt nhìn chiếc xe đang lù lù tiến đến, rồi khi xe chỉ còn cách khoảng chưa đầy 100 thước, thì do một động lực mạnh mẽ thôi thúc trong lòng. Vân bổng hốt hoảng bỏ chạy, nàng chạy ra chỗ cũ, dãy phố chỉ còn vài căn tiệm mở cửa. Nàng đứng sát vách tường và đăm đăm nhìn ra. Khoảng cách xa quá mà trời lại tối, nàng không thấy được mặt người tài xế trên xe bus, nên không biết được người tài xế đó có phải là ông Thọ hay không? Chỉ biết chiếc xe đó hầu như trống rỗng không có hành khách.
Chiếc xe đi rồi, nàng đứng thở bần thần vì không biết tính sao? Đón xe bus thì nàng sợ gặp hồn ma ông Thọ, mà gọi taxi, thì Vân không biết có đủ tiền không? Vì nàng chưa biết từ đây ra trung tâm thành phố sẽ tốn bao nhiêu? Nhất là dù muốn kêu taxi, Vân cũng không biết kêu ở đâu số điện thoại nhà?
Cuối cùng nàng đành đi bộ về nhà, và dự định sẽ báo cho Hiếu biết hôm nay nàng không đi làm để nhờ Hiếu phone cho tiệm Dolnad. Biết Hiếu sẽ trách, nhất là bà vợ, nhưng Vân không còn cách nào khác. Trừ trường hợp Hiếu lái xe đích thân chở nàng đi làm.
Vân lầm lũi bước đi trên con đường chưa kịp tráng nhựa chạy ngoằn ngèo giữa bải đất trống cỏ mọc bừa bãi bắt đầu chết úa vì thời tiết. Nàng sang đây vào cuối tháng 8, trời Toronto còn nắng ấm chan hoà, mới gần ba tháng trôi qua, cái lạnh heo mây đã đến thật nhanh, càng gợi nổi nhớ Sài Gòn. Nhưng nhớ ai thì nhớ chứ chưa bao giờ nàng mảy may nhớ đến ông Thọ, dù chỉ thoáng trong giây phút. Mãi đến lúc nãy sau khi hồn ông hiện về nàng mới nhớ láng máng hình như trong xấp hình nàng mang theo có bức ảnh chụp đám tang ông, trong đó nàng đứng bên cạnh thân nhân của ông dưới làn mưa nhỏ sau khi hạ huyệt, nghĩa là ông Thọ đã chết thật, đã nằm sâu trong lòng đất, chính nàng đưa ra nghĩa địa, tại sao giờ này lại sang đây?
Trong thế gian, người có giống người, nhưng không thể giống như vậy được, huống chi người Việt, đâu có ai chen vào được ngành lái xe bus công cộng? Vân cắm đầu bước đi giữa tiếng gió vi vút lâu lâu rít lên từng cơn quanh khu đất trống tối tăm, dãy nhà Tân lập hiện ra mờ mờ, thấp thoáng ánh đèn, trong đó có nhà Hiếu.
Bổng Vân nhận ra mình không phải là kẻ độc hành trên con đường lởm chởm đá vụn này, sau lưng nàng rõ ràng có tiếng bước chân người đi nhanh, mỗi lúc một gần nàng hơn ,tiếng giày đàn ông mạnh bạo trên lớp đá vụn nghe xào xạc. Nàng đi chậm lại, tránh sang một bên để nhường bước cho người phía sau tiến lên. Nhưng tiếng giày cứ ở sau lưng Vân không vượt lên phía trước. Tò mò nàng quay lại thì không thấy ai cả, hoàn toàn trên quảng đường vắng quanh nàng không có một bóng người. Nàng giật thót người, và rảo bước nhanh hơn. Thì tiếng bước chân vô hình lại cũng tiến mau hơn theo sát sau lưng nàng. Nàng lấy hết can đảm, quay phắt lại, thì vẩn không thấy ai, tứ phía xung quanh không có người, chỉ có gió thổi vù vù.
Vân kinh hãi bỏ chạy, nhưng đôi chân dường như ghì lại, níu lấy không cho nàng bỏ trốn. Vân vùng vẫy lao tới, vấp chân té sấp xuống đường, nàng luống cuống đứng dậy, vừa thở vừa chạy ngay tới trước cửa. Vân hoàn hồn ngước lên nhìn ba bậc cầu thang, tay cầm chià khóa. Khu nhà tiền chế mới cất nằm san sát bên nhau, nhà này cách nhà kia chỉ hơn một thước. Nhưng con đường trước mặt thì rộng thênh thang và thường xuyên vắng lặng. Đang tra chià khóa vào cửa bổng nhiên giật thót người, vì nhìn qua màn cửa sổ nhà bếp thấy thấp thoáng bóng người đàn ông mờ mờ đi lại trong nhà làm nàng liên tưởng ngay đến bóng ma ông Thọ, nhưng thật ra đó chỉ là Hiếu đang lấy nước trong tủ lạnh bưng lên lầu. Nghe tiếng chià khóa lách cách ở ổ, Hiếu giật mình, đứng khựng lại ở chân thang và hỏi bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh:
- Ai đó? Ai mở cửa đó?
Rồi anh từ từ tiến ra vừa lúc cánh cửa mở và Vân xuất hiện, Hiếu ngơ ngác hỏi: - Sao lại về? Quên cái gì hả?
Vân vừa thở hổn hển, vừa đáp vắng tắt:
- Tai... tại em..gặp ma Trên nhà vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh nghe tiếng nói ồn ào cũng bước ra và đi xuống. Hiếu biết em gái mình không phải hạng người lười biếng, trốn việc huống chi anh cũng vừa nhận ra sắc mặt tái mét của Vân, nhưng cái lý do Vân đưa ra là một điều không chấp nhận được vì ngoài sự tưởng tượng của anh. Anh nhăn mặt hỏi lại: - Mày nói cái gì? Mày gặp ma à? Gặp ở đâu? Sao lại có chuyện lạ đời như vậy, Canada này làm gì có ma?
Vừa nói, Hiếu vừa tiến lại đặt cóc nước lạnh xuống bàn, Vân bưng ngay ly nước của anh uống cạn vì cổ họng đang khát khô, nàng cởi áo khoác, máng lên thành ghế rồi kéo ghế ngồi, Hiếu cũng ngồi đối diện em, trố mắt nhìn ngờ vực, mặc dầu anh thấy rõ đôi mắt Vân chưa tan nỗi kinh hoàng. Vợ Hiếu và con gái kéo tới, tất cả đều ngồi ở bàn ăn, thấy vợ bên cạnh, Hiếu nhắc lại câu hỏi:
- Tại sao đang đi làm lại bỏ về là thế nào?
Vân đặt cái ly xuống bàn và nói:
- Em đã nói với anh rồi, nhưng mà em hỏi anh là anh có nhớ cái ông Thọ ở gần nhà mình không? Cùng con hẻm nhà mình đó, cách nhà mình ba căn đó, anh có nhớ không đã? Cái ông Thọ ngày xưa ổng đi lính cái lúc mà em còn bé xíu à !
Hiếu ngắt lời:
- Tao đi lâu quá rồi đâu có nhớ ! Nhưng mà mày làm sao? Mày nhắc đến ông ấy để làm gì mới được chứ?
Vân khổ sở kể tiếp:
- Trời ơi ông ấy chết rồi, lúc sau này ông ấy lái xe bus.....rồi chết luôn trên xe bus, cái lúc mà ông chết thì...thì... em có mặt trên chuyến xe bus đó, rồi chính em đưa ông ấy ra nghĩa địa...
Hiếu càng sốt ruột ngắt ngang:
-..Nhưng mà rồi sao? ông ấy chết thì có dính dáng gì đến mày?
Vân mở to mắt nhìn anh nhấn mạnh:
-..Thì...ông chết cả năm nay rồi...bổng dưng lúc nãy..ơ..ơ..lúc em lên xe bus thì chính ổng ngồi lái...
Hiếu nhìn em toan phì cười, vợ Hiếu mỉa mai chen vào:
- Cô mới qua Canada mà coi tivi nhiều quá...Nói chuyện như thế mà cũng mở mồm ra mà nói, không muốn đi làm thì ở nhà, bịa đặt chuyện ma làm cái gì không biết. Vân bực bội đứng dậy đi lại phía tủ lạnh lấy thêm ly nước và gắt nhẹ:
- Em nói thật chứ bịa đặt cái gì, em thấy chính ông Thọ ngồi lái xe, vừa thấy em..ổng nhe răng ra cười rồi gật đầu chào em. Trời, em sợ quá, em bỏ chạy về liền.
Cả nhà cùng im lặng, nhưng rõ ràng không ai tin lời Vân. Một lúc sau con bé Mỹ Linh lên tiếng:
- Chắc cô phải đi bác sĩ tâm thần quá à !
Vân thở dài thường thượt rồi bực bội bảo Hiếu:
- Tức quá...Em không mang tấm hình nào của ông ấy..Anh nhìn mặt là anh nhớ ra ngay. Anh không tin thì...tối mai anh ra trạm xe bus với em.
Hiếu trầm ngâm nói:
- Tao phải đi ngủ sớm, đâu có thức được mà đưa mày đi làm, mà đi taxi thì lương mày không có đủ trả.
Rồi Hiếu quay sang đột ngột hỏi vợ:
- Em có nhớ ông Thọ không?
Vợ Hiếu gật đầu:
- Nhớ ! Nhưng mà không có rõ lắm, hồi em mới lấy anh thỉnh thoảng gặp ông ấy đi ngang nhà mình ấy. Nghe nói chết bất đắc kỳ tử mà, hình như là đứt mạch máu. Nhưng mà...Giá như ông ấy làm ma hiện về thì hiện bên Vn chứ ma nào mà du lịch tận sang đây?
Nói câu ấy, vợ Hiếu mỉm cười như chế giễu Vân. Hiếu vội lên tiếng bảo Vân:
- Tao có cách này, tối mai mày đừng có đón chuyến xe 9 giờ rưỡi như tối nay nữa, mày chịu khó đi sớm hơn nữa giờ, đón chuyến trước khoảng 9 giờ. Như vậy mày sẽ khỏi phải gặp ông tài xế bửa nay. Trong thiên hạ thì thiếu gì người giống nhau, nhưng mà muốn chắc ăn thì đi chuyến khác, khỏi gặp ông tài xế bửa nay mà mày bảo là ma ! Vân hài lòng đáp:
- Vâng, em cũng định như vậy, đi sớm nữa giờ cũng được chứ ngồi nhà làm gì, đến tiệm trước thì càng vui.
Vợ Hiếu chỉ muốn em chồng đi làm nên đề nghị thêm:
- Còn muốn chắc ăn nữa thì chịu khó cuốc bộ thêm lót đường nữa, thay vì đón xe đường số 4 thì qua hẳn đường số 5 đó, hai đường song song với nhau mà, xe nào cũng dẫn đến metro. Rồi đằng nào cũng đổi xe bus mới ra được downtown. Vân gật gù đồng ý:
- Vâng, vâng..có lẽ như thế thì chắc ăn hơn.
Hiếu biết em không muốn ở nhà, nên gật gù nhắc lại:
- Ờ, cứ như vậy đi, chịu khó đi sớm một tí Ngừng một chút, anh hỏi thêm: - Thế còn tối nay thì sao? Bây giờ thì sao? Mày có đi làm hay không?
Vân im lặng không đáp, hình ảnh ông Thọ vẫn còn làm nàng kinh khiếp. Hiếu đứng dậy lại góc nhà nhấc phone gọi cho tiệm Dolnad mà chủ nhân là một người Hoa hồi trước làm chung sở với Hiếu, nói chuyện vài câu rồi anh gác máy rồi trở lại bảo Vân:
- Tối nay nghỉ cũng được người ta chưa cần mày lắm, thật ra thì họ muốn mày đến trước một hôm để học việc nhưng mà thôi đằng nào cũng trể rồi, tối mai bắt đầu làm. Thôi, ta đi ngủ thôi. Nhớ khóa cửa lại.
Vợ chồng Hiếu đứng dậy lên lầu, con bé Mỹ Linh cũng theo lên. Bình thường nó nhốt mình trong phòng riêng học bài hoặc nghe nhạc ít khi xuống nhà dưới. Mẹ nó có ác cảm sẳn với Vân, nhưng nó thì lại dửng dưng, không thành kiến. Thỉnh thoảng lúc rảnh rổi nó còn tận tình dạy Vân học tiếng Anh.
Mọi người lên lầu rồi, Vân cũng uể oải vào buồng ngủ lấy quần áo đi tắm. Nàng cảm thấy khó chịu vì không có cách nào chứng minh cho cả nhà biết là nàng đã gặp ma thật. Toan bước ra, bổng Vân nghe tiếng con chó nhà hàng xóm gầm gừ ngay sau sân nhà mình, sát cửa sổ buồng của Vân.
Tay ôm bộ quần áo, Vân nhíu mày lắng nghe rồi thì một phút sau hình như nó chồm và những móng sắt của chân trước gào liên tục vào tường nhà Vân làm nàng càng thêm khó chịu. Gần ba tháng nay, chưa bao giờ Vân thấy nó sang sân nhà mình, dù là sân sau. Nó hiền như cục đất, suốt ngày nằm lừ đừ ngoài hiên nhà bên cạnh bên tay trái nhà Hiếu, bổng dưng tối nay con chó giỡ chứng, Vân đập bàn tay vào tường mấy cái để xua đuổi nó đi chỗ khác. Nhưng chẳng được chỉ trong khoảnh khắc, con chó bắt đầu tru lên trong đêm vắng lặng trong khu dân cư thưa thớt, nghe ai oán đến rợn người. Vì tiếng cào vào vách, tiếng tru thảm thiết cứ đều luôn luôn, rồi chuyển sang tiếng sủa vang, đôi khi như tắt nghẹn. Vân bực bội lắm, nếu nó cứ sủa như thế này thì làm sao cả nhà ngủ được. Nàng định chạy lên nói Hiếu gọi điện thoại sang ông hàng xóm bảo họ nhốt chó lại. Cái ông hàng xóm này kỳ cục quá, tại sao không để chó trong nhà mà lại thả rong ngoài vườn khi đã bước vào muà lạnh.
Tay ôm bộ quần áo ngủ, Vân tò mò vén bức màn cửa sổ trông ra sân sau xem tại sao chó sủa, tức thì nàng kinh hải thét lên, buông rơi bộ đồ xuống đất và chạy lao ra ngoài bởi vì khi tấm màn vừa kéo ra thì nàng thấy ông Thọ đã đứng sẳn bên ngoài sát cánh cửa sổ, nhe hàm răng trắng bệch cười với nàng.
Trong lúc Vân bước tới, chỉ có ánh sáng từ trong buồng hắt ra, nàng vẫn thấy rõ khuông mặt xanh xao, cái mặt của ông cười rạng rỡ. Con chó nhà hàng xóm thì cứ lao tới phía ông mà sủa rồi lại lùi xa xa gầm gừ rồi lại chồm tới ynhư xua đuổi tên trộm. Hiếu từ trên lầu chạy xuống gắt lên:
- Cái gì thế? cái gì ma la ầm lên thế?
Vân cũng vừa chạy ra, định lao luôn lên lầu, gặp Hiếu, nàng hổn hển thở và bảo: - Em...em vừa thấy ông Thọ đứng ở cửa sổ..buồng em. Hèn gì con chó nhà hàng xóm sủa mãi từ nãy đến giờ !
Vợ Hiếu cũng vừa chạy ra xem, uất ức bảo Vân:
- Chó nào sủa? Từ nãy đến giờ có nghe tiếng chó nào sủa đâu? Cô này hay nhỉ, lắm chuyện quá. Không để yên cho người ta ngủ, ngày mai cũng phải đi làm nữa chứ ! Hiếu tin rằng em gái mình đang gặp khủng hoảng tinh thần vì một chuyện gì ghê gớm lắm đã xảy ra trong quá khứ ở quê nhà, nên anh dịu dàng nói:
- Anh có nghe tiếng chó sủa đâu ! Con Mỹ Linh nó nói đúng đó, chắc là cô bị tâm thần thiệt rồi. Hay là ngày mai em lấy hẹn đi gặp bác sĩ xem sao.
Vừa nói, Hiếu vừa xâm xâm đi lại bước vào phòng của Vân, Vân lửng tửng đi theo nhưng đứng ở cửa, không dám vào. Hiếu bước vô, vén bức màn cửa sổ trông ra rất lâu, và yên chí là chẳng có gì trước mặt vì trời bên ngoài tối như bưng. Anh bảo Vân tắt hết đèn trong buồng ngủ đi để nhìn ra cho rõ. Anh thấy chẳng có gì ngoài bải đất trống chạy dài tới ven rừng. Trên bải đất trống ấy chỉ có một cái cây khá cao, đứng chơ vơ cách nhà Hiếu khoảng 50 thước. Nay mai công ty xây cất cũng sẽ đốn luôn để cất nhà bán. Hiếu xoè hai bàn tay, và nhún vai bảo Vân:
- Có gì đâu, mày nhìn lại đi. Nhìn lại lần nữa đi, có cái gì đâu !
Vân từ nãy đến giờ vẫn đứng thập thò ngoài cửa, nghe Hiếu gọi, tức quá Vân tiến lại sau lưng anh, trố mắt nhìn ra rồi nhăn mặt phân trần:
- Rõ ràng là ông ấy vừa đứng đó mà, đứng sát cái cửa sổ này này. Em không thể lầm được...Mà..mà...bộ anh không nghe thấy tiếng chó sủa hay sao? Lạ nhỉ?
Hiếu bước ra và nhăn mặt bảo:
- Chắc mày nằm mơ chứ gì?
Vân gắt lên:
- Em đã ngủ đâu mà mơ? Vừa mới vào phòng, chưa kịp tắm kia mà ! Hiếu kết luận:
- Thôi ngủ đi, mai tao với chị mày còn phải đi làm.
Rồi Hiếu lặng lẽ bước lên lầu. Hiếu ra rồi, Vân đứng lặng lẽ nhìn tấm màn cửa sổ, nàng tưởng tượng bất chợt trong đêm ông Thọ sẽ xuất hiện trở lại sau lớp kính và bức màn màu trắng đục.
Khá lâu, Vân mới lấy hết can đảm cuối xuống lượm bộ đồ rớt ở dưới đất sát tường ngay phía dưới cửa sổ, và chạy nhanh qua phòng tắm. Nàng bật hết các ngọn đèn cho căn phòng rực sáng, rồi nhìn ở trong gương, thấy rõ nét lo âu và nhợt nhạt còn đọng lại.
Nữa tiếng sau, Vân trở lại phòng đứng im nghe ngóng, nàng không dám khép cửa, không dám tắt đèn. Thậm chí bật luôn đèn ở trong nhà bếp rồi mới lên gi.ường nằm nghiêng đưa lưng về phía cửa sổ, và trùm mền kín từ đầu đến chân. Vợ Hiếu từ nhà trên càu nhàu đi xuống và tắt hết đèn bếp cho đỡ tốn điện. Vân biết, nhưng đành nằm im. Cũng may, từ đó mọi chuyện đều bình lặng, không có gì xảy ra, con chó không gào, không sủa nữa. Tuy vậy Vân vẫn không ngủ được, Vân có cảm tưởng bên ngoài cửa sổ, hồn ma của ma vẫn lãng vảng với khuôn mặt bóng loáng vẫn đang tựa cửa đợi mình.
Khi nhắm mắt lại, khuôn mặt xanh xao của ông với hàm răng trắng nhợt lại hiện ra rõ mồn một như đang đứng ngay trước mặt Vân. Hồi nhỏ nàng nghe người lớn bảo, những người chết vào giờ linh, hồn không siêu thoát, cứ theo đuổi mãi một người nào đó trên trần gian, hay là...ông Thọ ở vào trường hợp đó? Nếu thế, thì xui cho Vân quá !
Cả tiếng đồng hồ sau, chắc là đã quá nữa đêm, Vân mới rón rén ngồi dậy đi tiểu, rồi lại trở về nằm trăn trở rất lâu. Có lẽ căn phòng sáng quá khiến nàng ngủ không được, nghĩ thế Vân vói tay tắt cả hai ngọn đèn trần, cũng như đèn ngủ ở đầu gi.ường rồi chun vào, cuộn mình trong chăn. Nhưng đèn vừa tắt, thì từ sân sau con chó nhà hàng xóm lại bắt đầu gầm gừ nho nhỏ, rồi hai chân trước lại cào vào bờ tường liên tục nghe rin rít, làm Vân thấy rùn mình ê răng và ghê cả người. Không biết tại sao, Vân đưa hai tay bịt tai lại, nhưng con chó lại tru lên, mỗi lúc một ghê rợn hơn, lát sau lại sủa từng hồi liên tục, và luôn luôn móng sắt lại tiếp tục cào vào bờ tường. Vân lại thót người, run lên bần bật vì biết chắc rằng hồn ông Thọ vừa hiện ra trở lại đằng sau nhà. Tiếng chó sủa lớn quá trong đêm khuya, tại sao cả nhà nàng không ai nghe thấy? Vân chờ đợi mãi mà chẳng thấy Hiếu lên tiếng, chứng tỏ chỉ có mình nàng nghe được, nàng nằm co quắp, ôm cái gối vào lòng, mắt nhắm nghiền lại. Một lúc sau, tiếng chó bổng im lặng, tiếng móng chân cào vào bờ tường cũng im hẳn, Vân nhè nhẹ kéo mép chăn xuống khỏi mặt để thở, nhưng tiếng chó vừa im được một lúc, thì phía sau nhà vang lên tiếng ầm ầm cổ máy xe hơi. Đúng là tiếng xe bus chạy từ từ, đơn độc, cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi lướt ngang ngay sang cửa sổ nhà nàng. Nhà nàng ở giữa đồng trống, không thể có con đường có bất cứ xe nào chạy ngang phía sân sau ; Nàng lại run lên bần bật và kéo mền phủ lên mặt, nhắm mắt lại, nàng hình dung thật rõ chiếc xe bus cứ từ từ tiến tới gần nhà mình, chạy lướt qua, rồi lại quay đầu trở lại. Và ông Thọ ngồi lạnh lùng sau bánh lái, nàng cố trấn tỉnh choàng dậy với tay bật đèn, và ôm cái mền chạy lao ra nhà bếp, rón rén lên lầu. Nàng muốn chui vào ngủ chung với đứa cháu cho đỡ sợ, nhưng giờ này đã quá khuya, không dám đánh thức nó. Dần dà một chút, Vân nằm dài ra sàn nhà, ngay chiếc cửa sổ phòng con Mỹ linh, tung chăn phủ kín lên người.
Sáng hôm sau chuông đồng hồ đánh thức Hiếu dậy lúc 7 giờ như thường lệ, hầu như sáng nào, anh cũng dậy trước vợ, xuống nhà đọc báo, uống cà phê cho tỉnh táo. Anh đẩy cửa bước ra, ngơ ngác thấy Vân nằm co quắp ngay lối đi, anh đứng nhìn một chút, rồi thoáng hiểu ngay là em gái đêm qua không dám ngủ một mình ở dưới nhà. Anh tội nghiệp bước đi nhè nhẹ xuống nhà để khỏi đánh thức Vân, nhưng Vân choàng dậy, ngồi tựa lưng vào vách, tóc xỏa mệt mỏi, và đôi mắt đỏ ngầu, hai mắt nhìn ra cửa sổ.
Trời hãy vẩn còn tối, 7 giờ sáng muà hè, thì nắng đã lên. Nhưng muà đông thì chưa trông rõ cảnh vật. Dưới nhà, Hiếu bật đèn sáng choang, Vân uể oải đứng dậy cầm cái mền bước xuống. Hiếu đã vào buồng tắm khép cửa lại, trên lầu cũng có buồng tắm nhưng gần như Hiếu để dành riêng cho vợ và con gái vì mỗi buổi sáng cả hai đều lục đục trong đó rất lâu.
Vân tiến lại trước cửa phòng mình, đứng tần ngần một chút rồi mới dám bước vô, quăng cái chăn lên gi.ường, nàng nhìn tấm màn cửa sổ, định bụng chờ trời sáng rõ rồi chút nữa mới kéo ra, nàng ra nhà bếp pha cà phê chờ Hiếu. Một lúc sau thì Hiếu từ trong buồng tắm bước ra, tiến lại và hỏi Vân một câu thừa thãi:
- Tối hôm qua mày không dám ngủ một mình dưới nhà phải không?
Vân mệt mỏi nói:
- Anh Hiếu à, anh có cách nào tối nay đi với em được không?...Anh không cần phải đến tiệm cà phê làm gì đâu. Anh chỉ đứng chờ xe bus với em thôi, để em xem ông ấy có hiện về lái xe nữa hay không ! Nếu có thì anh cũng lên xe với em chứ một mình em...em không có dám đâu.
Hiếu biết tinh thần em mình đang hỗn loạn, nhưng ngàn lần anh không thể tin được là hồn ma từ Vn sang tận đây để theo đuổi Vân, anh gắt nhẹ:
- Xe bus đâu có chỉ chờ có mình mày, mỗi chuyến cả mấy chục người, không lẽ cái xác chết lại lái được xe đưa cả mấy chục người đi làm? Mày nói làm sao chứ? Vân ngắt lời nhấn mạnh:
- Nhưng mà tối nay anh đi với em ra bến xe được không?
Hiếu rất muốn chìu em, đồng thời cũng muốn giải quyết một lần cho xong, nhưng anh sợ vợ anh không bằng lòng nên anh chẳng biết trả lời ra sao. Vân đặt tách cà phê, nhìn ra cửa sổ và nói:
- Trời sáng rồi, anh..anh đi với em ra đây, ra đằng sau nhà với em.
Hiếu ngần ngại không muốn ra ngoài, nhưng vì tội nghiệp Vân cả đêm mất ngủ, nên đành đứng dậy nhưng cằn nhằn bảo:
- Đứng trong buồng của mày nhìn ra sân sau cũng được, cần gì phải ra bên ngoài cho lạnh. Vân giật mạnh tay anh quả quyết:
- Không, anh cứ đi với em, em nói thì anh không có tin đêm hôm qua ông Thọ hiện về ngay sau cửa sồ buồng em nè, con chó nhà bên nó cứ sủa ầm cả lên, rồi nó cào mãi vào trong tường. Đi ! Anh đi với em đi mà.
Vừa nói, Vân vừa lôi anh lại cửa sau, nàng đẩy cánh cửa sổ bước ra, quên cả cái rét buổi sáng. Hiếu theo sau, rùn mình vì lạnh. Trời chưa sáng hẳn, nhưng nhờ khoảng trống mênh mông phía sau, nên cảnh vật bắt đầu trong rõ. Hiếu bật thêm ngọn đèn máng trước máng hiên sân sau để quan sát cho rõ. Hiếu đứng trên mãnh sân sau, chưa có làm hàng rào, chưa tráng xi măng mà lớp cỏ thì đã chết úa vì lạnh. Bỗng Hiếu trố mắt giựt mình há mồm nhìn trên bức tường nhà mình, ngay cửa sổ phòng Vân quả thật chằng chịt bao nhiêu vết cào như có ai cầm cây đinh cố ý vạch vạch. Nhà mới xây, tường còn nguyên, nên dấu cào càng rõ. Vân lay vai Hiếu và kinh hãi nói:
- Anh...anh thấy chưa? Em bảo anh mà, con chó nó cào cả tiếng đồng hồ ấy. Rồi nàng hốt hoảng chỉ tay và nói lớn hơn:
- Đây..đây này..Anh coi này...dấu chân người đứng ngay sau cửa sổ nhìn vào buồng ngủ của em, rõ ràng là dấu giày còn in lại vì chỗ đất mềm. Sân này từ trước tới giờ đâu có ai lai vãng tới. Tối hôm qua mà anh..anh ở dưới phòng em thì anh mới thấy sợ, em phải chạy lên lầu là vì thế ấy.
Hiếu cũng vừa nhận ra dấu giày đàn ông quay mũi vào hướng buồng Vân, làm anh bắt đầu đổi thái độ. Một cảm rờn rợn bất chợt lan vào toàn cơ thể anh, anh im lặng quay đầu nhìn sang nhà hàng xóm có con chó quanh năm hiền lành, rồi anh kéo tay Vân ra hiệu bảo vào nhà khép cửa lại.
Anh đi ra sân trước dáo dác nhìn, con chó hàng xóm đã nằm lặng yên trước hiên không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đêm qua nó đã gặp ma. Anh bảo Vân: - hay là kẻ trộm nó rình nhà mình?
Vân lắc đầu:
- Đằng sau nhà mình là bải đất trống, trộm nào dám đứng khơi khơi giữa bãi đất trống mà rình?
Hiếu cũng đã nghĩ đến điều ấy, nhưng anh vẫn cố nêu ra một giả thiết để tự an ủi mà thôi. Vào nhà, anh ngồi ở bàn ăn, hai mắt đăm chiêu suy nghĩ. Vân rót cà phê cho anh, rồi bưng lại đặt trước mặt, Hiếu hỏi:
- Cái ông Thọ mà mày bảo là hiện hồn về đó, lúc còn sống ông ấy có..ông ấy có..có dính dáng gì đến mày không? Tại sao lại hiện về để chọc ghẹo mày?
Vân kéo ghế ngồi và lại tỉ mỉ kể hết diễn tiến mọi chi tiết cho Hiếu nghe, chỉ khác một điều là lần này nàng kể phấn khởi hơn bởi vì Hiếu đã chăm chú lắng nghe không xem thường câu chuyện của nàng như tối hôm qua. Nàng kết luận:
- Tối nay anh chịu khó ra đón xe bus với em được không anh?
Hiếu gật đầu đáp:
- Ừ, để tối nay tao đi với mày, nhưng tao dặn mày để xíu nữa chị mày dậy, đừng có nói gì cả. Bả nhát lắm, biết là có ma thật, chị mày có thể đứng tim chết đó. Vân gật đầu mặc dầu trong lòng rất ấm ức, vì rõ ràng bà chị dâu cho là Vân bịa đặt, chị cứ yên chí cho là Vân lấy cớ để nghỉ ở nhà để khỏi phải đi làm. trong lúc tức tối, Vân chỉ mong cho hồn ma hiện về cho bà chị dâu gặp một lần để bả tởn. vân đứng dậy và nói: - Thôi, anh chuẩn bị đi làm đi, em phải đi ngủ một giấc đây, mất ngủ một đêm mệt quá. Định vào ngủ chung với cháu Mỹ Linh nhưng mà lại sợ làm mất giấc ngủ của nó, em đành phải nằm ở ngoài hành lang ấy.
Hiếu trầm ngâm không nói gì nữa, Vân nhìn anh tha thiết hỏi:
- Ừm..em..em gọi phone về VN được không anh?
Hiếu bưng tách cà phê chưa kịp uống ngạc nhiên đáp:
- Được chứ, nhưng mà mày gọi cho ai?
- Gọi cho gia đình ông Thọ ấy mà, ông ấy ở với một ông anh ruột, em bảo là người ta làm lễ cầu siêu, tại vì ông Thọ không vợ, không con cho nên không có ai cúng kiến cả. Hiếu uống một ngụm cà phê rồi gật đầu bảo:
- Ừ tùy mày vậy, lát nữa tao đi làm thì mày gọi.
Vân hài lòng đứng dậy, anh em thương nhau nhưng vớ phải bà chị dâu khó chịu, thành ra bất cứ việc gì muốn làm, Vân vẫn cứ phải đắn đo. Nàng bước vào phòng tắm, bao nhiêu nỗi kinh sợ đêm qua, giờ này khi trời sáng đã giảm hẳn. nàng đánh răng rửa mặt, rồi cởi quần áo vào bồn tắm xối nước nóng cho đỡ mệt mõi, rồi nàng vào buồng khép cửa lại lên gi.ường ngủ. Ngoài nhà vợ chồng Hiếu và con gái lục đục một lúc rồi khóa cửa đi ra trả lại sự vắng lặng một mình cho Vân ở nhà. Nàng cần phải ngủ một giấc dài, đêm nay mới có thể thức trắng làm việc ở tiệm cà phê.
Vân ngủ được mấy tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh dậy giữa căn nhà vắng vẻ, ngẩm nghỉ mấy giây mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm qua vào lúc thấy ông Thọ mặt sáp ngồi trên xe bus cho đến những âm thanh hổn độn ở sau nhà: tiếng chó sủa, tiếng cào vào tường, tiếng xe bus chạy. Tất cả uà trở về rất nhanh trong trí nhớ của nàng. Tuy nhiên, nhìn qua màn cửa sổ, nàng thấy trời đã rực nắng nên cái cảm giác run sợ không còn đè nặng như đêm qua, nhìn đồng hồ trên bàn thấy cũng quá trưa, Vân choàng dậy, định ra rửa mặt rồi nấu cơm, chui ra khỏi tấm chăn dày, Vân thấy rùn mình vì lạnh, nàng mặc vội cái áo khoác rồi lại kéo rộng tấm màn cửa sổ cho căn phòng thêm ánh sáng.
Màn vừa kéo ra, nàng hãi hùng kêu lên, và bước lùi lại mấy bước. Trên bãi đất mênh mông trước mặt, cách nhà nàng khoảng 50 thước, trơ trọi một cây thông khá cao giờ này lá đã rụng gần hết. Một người đàn ông đứng dựa gốc cây miệng ngậm điếu thuốc khói bay nhè nhẹ, đăm đăm nhìn vào cửa sổ buồng ngủ của Vân. Mặc dù khoảng cách khá xa, Vân cũng vẫn nhận ra ngay đó là ông Thọ với cái dáng quen thuộc không thể lầm lẫn được. Vừa thấy Vân, nghĩa là khi Vân vừa kéo màn cửa, ông liền quay lừng lửng bỏ đi về phía bià rừng và mất hút trong đó.
Vân để bàn tay lên ngực để trấn tỉnh, nàng không dám kéo màn lại nữa. Nàng chạy ra nhà ngoài kiểm soát lại xem cửa chính đã đóng kín và gài then trong chưa, đồng thời nhà có bao nhiêu cửa sổ ,Vân kéo màn mở tung ra hết, nàng nghĩ hồn ma luôn luôn sợ ánh sáng, cho nên chiều nay khi Hiếu đi làm về, nàng sẽ đòi Hiếu thay cái bóng đèn thật sáng phía sân sau ngay trên cửa sổ của nàng, rồi từ đây khi ngủ, nàng sẽ không kéo màn lại nữa. Nàng đứng ở bàn ăn đờ đẩn suy nghĩ, tim vẩn còn đập thình thịch, căn nhà vắng lặng lạ thường, không một tiếng động nhỏ làm nàng cảm thấy rờn rợn như sống một mình giữa lâu đài hoang.
Nàng vào phòng khách, bật ti vi lên cho đỡ trống trãi rồi qua phòng tắm rửa mặt. Nhìn đồng hồ thấy mới khoảng 1 giờ trưa nàng lưỡng lự toan gọi điện thoại về Vn, nhưng lại đổi ý hoãn đến chiều, chờ Hiếu về để Hiếu cùng nghe rõ câu chuyện. Một mặt Vân sẽ bảo người nhà cầu siêu cho ông Thọ, một mặt nàng sẽ yêu cầu bảo họ gởi qua cho nàng một bức hình của ông để mang lên chùa. Phải chấm dứt tình trạng này, chứ nếu kéo dài, thì nàng không thể làm ăn gì được. Đôi mắt vẫn còn cay, Vân đứng trước bồn rửa mặt, cuối xuống vặn nước nàng nhắm mắt lại vộc thật nhiều nước đắp lên mặt cho tỉnh. Đang lau mặt thì nàng ngạc nhiên khựng lại vì chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trong phòng, nàng nhíu mày đứng yên, hít hít mấy cái và càng thấy rõ mùi thuốc lá bao phủ nặng nề hơn. Hiếu đi làm mới về bất ngờ chăng? Chắc là không ! Bởi dù Hiếu có về thì Hiếu cũng đâu có hút thuốc, anh bỏ thuốc đã lâu. Mấy cái gạt tàn chỉ còn giữ lại trong tủ làm kỷ niệm. Nhà này không có ai hút thuốc, sao lại có mùi khói bay trong nhà? Vân máng cái khăn lên và cất tiếng hỏi lớn:
- Anh về đấy hả anh Hiếu?
Cùng với câu hỏi ấy, Vân bước sang phòng khách, nàng kinh hãi đến rợn người vì ở bàn salon, trên chiếc gạt tàn bằng thủy tinh, có điếu thuốc đang cháy giở, khói bốc thành sợi bay lên cao. Vân đứng chết cứng tại chỗ, trố mắt nhìn, bên cạnh cái gạt tàn còn có gói thuốc Mai mà đã hơn một năm nay Vân mới nhìn lại. Tim đập thình thịch, Vân đưa mắt nhìn quanh, ngó xuống bếp và ngước lên lầu, nàng biết hồn ma ông Thọ đang có mặt trong căn nhà với một điếu thuốc nội hóa mà xưa kia ông vẫn hút khi lái xe bus.
Dường như có tiếng bước chân trên lầu, nàng im lặng láng nghe thì không thấy gì nữa. Căn nhà chìm trong im lặng mênh mông, không một tiếng động nào. Đứng một lúc, lấy lại phần nào bình tĩnh, Vân tiến lại góc nhà, chỗ máng điện thoại để gọi vào sở báo tin cho Hiếu biết. Nàng dự định điện thoại cho Hiếu xong thì nàng sẽ ra phố đông người hoặc vào một shopping center nào đó đi thơ thẩn ,chứ không dám ở nhà một mình, 5 giờ chiều cả nhà về thì Vân mới về.
Vân đứng bên cạnh cái phone màu đen máng trên vách mở cuốn sổ tìm số của Hiếu, nhưng còn đang lật từng trang thì điện thoại bổng reo vang làm nàng giật nẩy người, đánh rơi cuốn sổ điện thoại xuống chân. Nàng trấn tỉnh ngay, đặt bàn tay lên ngực và thở phào vì đoán là Hiếu gọi về. Ban ngày cả nhà đi làm hết, đâu có ai gọi vào giờ này? Chắc chắn chỉ có Hiếu hoặc con bé Mỹ Linh mà thôi. Nàng nhấc ống nghe, áp vào tay vừa nói " Hello " thì từ phía đầu giây bên kia vang lên một giọng nói rất mơ hồ lẫn trong tiếng gió thổi như vọng từ cõi xa xăm nào về....
- Chào cô Vân, tôi là Thọ đây, Thọ xe bus đây !
Vân thét lên, buông rơi chiếc điện thoại xuống bàn và bỏ chạy ra sân nhà, nàng xuống hẳn lề đường, mặt tái mét, đưa mắt nhìn ra trước sân và hai bên nhà hàng xóm. Con chó nhà bên cạnh vẫn nằm lừ đừ trước cửa dưới ánh nắng khô lạnh. Sực nhớ ra mình đang mặc đồ ngủ, hơi giá thấm nhanh qua lớp vải nội hóa. Vân lại trở vào, rón rén mở cửa, mắt mở trừng trừng, nhìn tứ phía căn nhà nàng cư ngụ đã 3 tháng hôm nay biến thành một cõi âm hồn lạnh lẽo mà nàng cảm nhận được trong không gian. Nàng muốn gọi phone cho Hiếu, nhưng cứ đứng nhìn cái điện thoại mà kinh hãi, chỉ sợ đến gần thì hồn ma ông Thọ lại từ thế giới bên kia kêu về.
Nàng mon men đi vào phòng, dáo giác ngó quanh, rồi thay bộ quần jean áo thun, rồi nàng qua buồn tắm lấy cái Jacket dày vẫn máng trong đó. Nhưng lạ quá, cái áo khoác ấy chỉ máng lên một cái đinh nhỏ sau cánh cửa mà nàng giật mãi không ra, như có bàn tay ai giữ lại. Vân dùng hết sức, kéo thật mạnh cái đinh sút luôn, làm nàng ngã té. Vân lồm cồm đứng dậy cầm cái jacket chạy luôn ra sân.
Buổi chiều vợ chồng Hiếu về tới nhà đã thấy Vân đứng chờ ngoài sân. Trời muà đông âm u gần như đã 7 - 8 giờ tối. Nhìn nét mặt xanh xám và cặp mắt lạc thần của em, Hiếu ưu tư hỏi:
- Sao giờ này không ngủ, ra đứng đây làm gì cho lạnh?
Chờ vợ Hiếu vào nhà trước, Vân mới níu cánh tay anh và vắn tắt kể:
- Anh Hiếu ơi, hồn ma ông Thọ đan gở trong nhà mình từ sáng tới giờ đó. Em đang ở trong buồng tắm thì ngửi thấy mùi thuốc lá. Em chạy ra không thây ai mà lại thấy điếu thuốc cháy dỡ trên tàn, bên cạnh điếu thuốc Mai. Ghê nhất là lúc em tính gọi phone vào sở cho anh thì em nghe tiếng ở trong phone, nhất ra thì chính là tiếng của ông ấy. Giọng ông ấy nghe...nghe ghê lắm, nghe kỳ lắm..em sợ quá..em sợ lắm anh ơi..em..em ở nhà một mình chắc em chết mất...
Giọng Vân cực kỳ thảm nảo khiến Hiếu đứng yên tại chỗ, đăm đăm nhìn xuống chân ngẫm nghĩ không biết giải quyết bằng cách nào để giúp em. Những điều Vân vừa kể như ông Thọ hiện về hút thuốc, và nhất là điện thoại cho Vân thì Hiếu chưa tin hẳn. Tin làm sao được? Y như trong phim ảnh, hay là em gái mình bị loạn trí thật rồi? Cũng không phải, dấu chân người và những dấu vết cào trên vách tường sau nhà Hiếu rõ ràng là điều có thật mà sáng nay chính anh đã tận mắt chứng kiến.
Muốn kiểm lại cho chắc, Hiếu không vào nhà vội, anh kéo Vân vòng ra hông nhà và ra phía sau. Dấu chân người đứng sát cửa sổ và những vết cào chằng chịt trên tường vẫn còn nguyên vẹn. Vân bảo:
- Anh..anh thay cho em cái đèn thật sáng ngoài này được không? Ma bao giờ cũng sợ sáng cả.
Hiếu vừa bước vòng về phía trước vừa nói:
- Tạm thời mày sợ thì nằm chung với con Mỹ Linh. Nhưng mà mày có ngủ ở nhà đâu mà mày sợ? Mày làm ban đêm mà ! Lát nữa tao đi với mày ra đón xe bus.
Giờ này thì Vân không phải chỉ sợ ông Thọ ngồi trên xe bus, mà chỗ nào hình như cũng có ông theo bước chân nàng. Hai người vừa tới cửa trước thì vợ Hiếu cũng vừa từ phía trong nhà bước ra, mặt hầm hầm nhìn Vân mắng lớn:
- Cô ở nhà làm gì mà phòng tắm bừa bãi như thế này? Thủy tinh vỡ đầy trong ấy mà không quét dọn gì cả, rủi ai đạp vào thì sao? Rồi bao nhiêu chai lọ lăn lông lốc ở trong buồng tắm ấy, cô để yên được à? Muốn vào đây thì phải gọn ghẽ chứ.
Vân cuối đầu nén tiếng thở dài, Hiếu không biết giải thích thế nào với vợ để bênh em gái, bèn dịu dàng bảo Vân:
- Vào quét đi, quét rồi lấy máy hút bụi hút lại cho thật kỹ đi. Vân vô buồng tắm rồi, vợ Hiếu đứng ở bếp chống nạnh nhìn quanh rồi chán nản nói:
- Um...ở nhà cả ngày mà bếp núc lạnh tanh như thế này. Không nấu được hộ nồi cơm. Chán thật !
Hiếu nghe vợ cằn nhằn em gái một cách oan ức, nhưng anh không biết nói sao, anh không muốn vợ biết rằng chính anh cũng đã bắt đầu tin những điều Vân kể, anh tò mò đứng ở trước cửa buồng tắm nhìn vào, Vân đang khom người quét những mãnh thủy tinh, vội đứng dậy và thì thầm kể:
- Em thấy tình hình ghê rợn lắm rồi, em..em chịu không nổi, anh phải làm cách nào giúp em. Trưa nay, em ngủ có khoảng ba tiếng đồng hồ. ban ngày nên em cũng đỡ sợ, ngủ dậy em vén màn cửa sổ thì không ngờ em lại thấy ông ấy. Đêm qua thì ông ấy đứng sát cửa sổ, trưa nay thì ông ấy đứng xa xa dưới gốc cây, chỗ cái bãi đất trống kia kià..Anh có biết cây đó là..là cái cây gì không? Đó đó cái cây đó đó, anh qua buồng em mà coi.
Rồi thấy em, ông ấy bỏ vào rừng. trời đất ơi, em mệt quá vì thiếu ngủ, mới vào buồng tắm vộc nước đắp vào mặt, ai ngờ mở mắt ra thì ngửi thấy mùi thuốc lá, chạy ra phòng khách thì thấy điếu thuốc đang cháy dỡ. Em chưa đứng tim mà chết là may đấy. Vào phòng tắm để lấy cái áo jacket thì có người giữ lại không cho em lấy. lôi mãi thì cái đinh nó tuột ra làm em ngã lăn vào buồng tắm suýt gãy xương sống.
..mà..mà lạ quá..cái ly thủy tinh này múc nước xúc miệng thường ngày nó nằm cạnh cái bàn rửa mặt, sao hôm nay nó nằm cạnh cái bồn tắm? rớt xuống vỡ tung ra, em..em chả hiểu ra làm sao hết.
Rùng rợn nhất là lúc em nghe tiếng ông ấy trong điện thoại. Từ nay....từ nay chắc em không dám nhấc điện thoại nữa đâu.
Hiếu chỉ nghe em kể cũng thấy rùn mình, lạnh buốt xương sống, mặc dù toàn những chuyện lạ lùng đầy tính hoang đường, anh bảo Vân quét dọn. Một mình vào buồng ngủ của Vân, đứng nhìn qua cửa sổ. trời đã tối xẩm, ngoài khu đất hoang, cảnh tượng thê lương như bải tha ma không một bóng người, không một chút ánh sáng vì nhà Hiếu ở dãy cuối cùng. Hiếu kéo màn cửa sổ lại, rồi trở qua buồng tắm và hỏi Vân:
- Ông Thọ lúc còn sống theo đạo gì?
Vân vừa quét vừa đáp:
- Dạ..hình như đạo Phật hiếu bảo:
- ở Toronto có nhiều chuà VN lắm, hay là mày nhờ chuà làm lễ cầu siêu cho ông ấy. Vân hăm hở đồng ý ngay:
- Vâng, em cũng định như vậy. Thứ bảy này nhờ anh đưa em đến chuà, chuà nào cũng được. Nhưng mà trước mắt phải giải quyết ngay chứ..để thế này đâu có được. Từ đây đến thứ bảy còn lâu quá.
Hiếu nhìn em gái tội nghiệp nói:
- Giải quyết cách nào bây giờ? Chính tao cũng không biết. À, mà mày gọi điện thoại về Vn chưa? Bảo người nhà ông ấy gửi gấp gấp hình ông ấy sang đây để mày mang lên chuà. Vân mệt mỏi đáp:
- Trời ơi, em chưa gọi, bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra, em chẳng còn tâm trí nào để nhớ là điện thoại về Vn, thôi hay là để sáng mai vậy.
Vân vừa dứt lời thì con bé Mỹ Linh cũng vừa về tới đẩy cửa bước vào, cất tiếng chào bố mẹ rồi đi thẳng lên lầu vào buồng riêng. Nó thay quần áo xong, xuống nhà chuẩn bị ăn cơm, thấy mẹ đứng nấu bếp, nó vô tình hỏi: - Ủa, cô Vân ở nhà không nấu hay sao mẹ?
Vợ Hiếu được dịp than:
- Chả biết làm gì cả ngày ở nhà mà bừa bải như bải rác, không dọn dẹp, cũng chả nấu nướng.
Những câu nhiếc móc ấy Vân đều nghe rõ cả vì vợ Hiếu cố ý nói lớn, nhưng nàng lờ đi vì đã có lời dặn của Hiếu, nàng dọn xong buồng tắm, treo tấm màn nylon lên thì nghe tiếng Hiếu gọi ra ăn cơm. Ít có gia đình nào chị dâu em chồng hoà thuận với nhau, nhất là trong hoàn cảnh của vợ Hiếu và Vân hôm nay. Hai chị em ngồi đối diện nhau không ai nói lời nào. Con bé Mỹ Linh vốn tính hồn nhiên, tươi cười hỏi Vân:
- Tối nay cô có đi làm không? Coi chừng cô lại gặp ma trên xe bus đó nha !
Vân chưa kịp đáp thì Hiếu lên tiếng:
- Ừm...lát nữa ba sẽ đi với cô Vân ra trạm xe, chờ cô lên xe xong thì ba mới về.
Lập tức vợ Hiếu đặt bát và gắt lên:
- Ơ hay ! Tại sao phải như thế? Không lẽ đêm nào cũng đưa từ nhà ra bến xe à? Thế thì ở nhà cho rồi, đi làm làm cái gì? Đi làm mà phiền người khác thì nghĩ phức cho rồi. Hiếu gắng nhẫn nhục phân trần:
- Anh đi với cô ấy tối nay thôi, để xem ông lái xe bus là ai mà con Vân nó sợ?
Mỹ Linh chen vào:
- Ba cho con đi theo luôn đi, để xem ông ấy có phải là ma không nhá?
Vợ Hiếu quát lên:
- Thôi thôi, vẽ chuyện, không có đi dâu hết á, ăn xong lên phòng học bài đi. Hiếu bực mình chịu không nổi, lạnh lùng bảo vợ:
- Em cũng nên đi với anh, và con nữa. Đi ra xem ông tài xế xe bus là ai? Người hay là ma?
Vợ Hiếu quẳng đôi đũa xuống bàn mà gắt:
- Cái gì? Hóa ra là anh cũng tin là ông Thọ chết ở Vn, rồi bây giờ sang đây lái xe bus à? Đúng là mê ngủ ! Ma nào mà đi xa vậy? Anh em giống hệt nhau, tin vớ tin vẩn chuyện dị đoan.
Hiếu cải:
- Không gặp thì làm sao mà biết được? Lát nữa anh ra xem sao?
Con bé Mỹ Linh nhìn bố dè dặt nhắc lại:
- Um...con đi được không ba?
Hiếu gật đầu:
- Ừ, con đi với ba xem cô Vân nói thật hay là chỉ tưởng tượng?
Vợ Hiếu bực mình bỏ dỡ bửa cơm, đứng dậy bước vào buồng tắm, rồi lên lầu. Con bé Mỹ Linh đưa mắt nhìn theo mẹ một lúc rồi quay lại Hiếu, nó tò mò hỏi:
- À.... Bộ ma cũng lái được xe hả ba?
Hiếu gật đầu giải thích:
- Ma là hồn người chết con ạ. Tuy xác chết, nhưng hồn không chết. Có nhiều điều người sống làm không được, nhưng hồn ma nó làm được. Huống chi là lái xe thì quá dễ. Cơm nước xong, hai cô cháu xuống dọn dẹp để Vân chuẩn bị đi làm. Nàng hồi hộp lắm. Nhưng có hai cha con Hiếu đi theo, nàng cũng đỡ sợ. Nàng tự đặt ra trong đầu hai trường hợp sẽ xảy ra: Nếu lát nữa ông Thọ lái xe thật thì nàng có leo lên xe hay không? Mà nếu tài xế không phải là ông Thọ, hai cha con trở về không, thì cả nhà sẽ khổ với sự đay nghiến của vợ Hiếu. Lúc đó nàng sẽ ăn nói làm sao với bà chị dâu khó tính?
Trong lúc Vân rửa chén, thì Hiếu lên lầu nói chuyện với vợ, vợ Hiếu bây giờ đâm ra bực chồng hơn cả bực Vân, bởi lẽ Hiếu tỏ ra tin chuyện ma vô lý của em gái, Hiếu biết thế, nên phải tìm cách vuốt, anh giả vờ nói theo ý của vợ:
- Em à, anh thấy là cả em cũng nên đi với anh ra trạm xe bus, biết đâu con Vân nó lấy cớ là sợ ma, nó ở nhà không chịu đi làm đúng như em nói? Mình ra tận nơi chứng kiến, nó sẽ hết đường chối cãi em thấy không? Chính vì vậy anh mới quyết định ra trạm xe với nó chỉ một lần thôi, từ mai nó không bịa đặt chuyện được nữa. Em đi với anh đi, em đi với anh để xem nó ăn nói ra làm sao?
Vợ Hiếu thấy chồng có lý, chị ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Đi thì đi, thời buổi này mà nói chuyện gặp ma, nghe chán thật.
Hiếu vuốt theo:
- Chả hiểu con bé nó bị khủng hoảng cái gì mà sinh ra lẩn thẩn như vậy?
Anh quay bước xuống nhà, mà lòng nặng trĩu. Nổi lo âu dùm cho em gái, anh mong mỏi là mọi chuyện êm xui. Vân từ nay đi làm đều đặn để vợ anh cảm thấy thoải mái hơn. Đúng 8 giờ rưỡi, bốn người nai nịch quần áo muà đông, bước ra khỏi nhà để lên đường đi gặp...ma. Vợ Hiếu mặc jacket dày lặng lẽ theo chồng, không nói lời nào. Vợ Hiếu khóa cửa, rồi cả nhà cắm đầu cùng rảo bước. Hiếu định lái xe, nhưng vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh đều đòi đi bộ vì quảng đường không xa lắm. Vợ Hiếu lúc này hơi lên cân, nên thấy có dịp đi bộ để tập thể dục, đòi đi ngay. Trời rét căm căm, mà gióo lại rít từng cơn qua cánh đồng trống, như hắt hơi lạnh vào bốn người. Hiếu và vợ đi trước rầm rì nói chuyện. Hai cô cháu lặng lẽ đi sau.
Vân kiểm điểm lại bao nhiêu nổi kinh sợ xảy đến dồn dập trong ngày hôm nay. Nàng thầm nguyện trong đầu:
- Ông Thọ ơi, lúc sống ông là người thân của tôi, ông sống khôn thác thiên, xin đừng hiện về làm tôi sợ. Tôi hứa sẽ đặt bài vị ông trong chuà mà.
15 phút sau thì ra tới con lộ chính, trạm xe không có ai. Cả bốn người đứng khuất hẳn vào trong nhà lồng kiếng chờ đợi. Vân hồi hộp lắm, để đỡ sốt ruột, nàng hỏi Hiếu: - Bộ..bộ anh không nhớ mặt ông Thọ hay sao?
Hiếu lắc đầu nói:
- Không ! Cứ như mày kể thì hồi trước muốn đi lính ít khi về nhà. Sau 75 thì ông ấy về nhà, tao vượt biên rồi còn đâu. Gặp thì chắc là cũng nhớ, nhưng bây giờ thì tao không có hình dung được mặt mũi ổng ra làm sao.
Vợ Hiếu ngồi trên ghế băng, không nói gì, mặc dù chị vẩn nhớ mặt ông Thọ. Hiếu chưa nói xong dứt câu, thì Mỹ Linh đứng bên cạnh lên tiếng:
- Ơ...Xe tới kià ba !
Cả Hiếu và Vân cùng hồi hộp quay về hướng xe bus đang từ từ chạy đến. Vợ Hiếu còn hồi hộp hơn bởi chị mong cái giây phút này để cười vào mặt cô em chồng. Bốn người đứng thành một hàng, không ai nói một lời nào. Dưới ánh đèn đường chiếu qua làn hơi sương ảo ảo. Chiếc xe màu xám hiện ra như bóng dáng một con quái vật khổng lồ đang ám ảnh tâm trí của Vân. Nàng nín thở đăm đăm nhìn và thầm nhắc lại câu nói lúc nãy:
- Ông Thọ ơi ! ông sống khôn thác thiên, xin đừng hiện về làm tôi sợ.
Hình như xe trống, không có khách. Tới gần trạm, xe giảm tốc độ, và tấp vô lề và dừng hẳn lại. Vợ chồng Hiếu, Vân và Mỹ Linh, cả bốn người cùng căng thẳng, trố mắt chờ đợi. Rồi cánh cửa xe bus mở toang, người tài xế quay đầu nhìn ra bằng ánh mắt dửng dưng. Vân cứ đứng yên như pho tượng tại chỗ, khiến Hiếu phải đẩy lưng nàng, giục nàng bước lên. ông tài xế chỉ là một người đàn ông Canada bình thường, mặc đồng phục, tay cầm sẳn tờ giấy jo- en -phơ để trao cho khách theo thói quen. Hiếu mừng lắm, anh thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân, nhưng phải làm bộ mắng Vân để làm vợ vui lòng:
- Mày thấy chưa, chỉ trông gà hóa cuốc. Thôi, đi làm đi ! Sáng mai về gặp lại. Con bé Mỹ Linh hỏi nhỏ Hiếu:
- Ông này đó hả ba? Cô Vân nói ông này là ma đó hả ba?
Vợ Hiếu cười khẩy bảo con:
- Hứ, ông này mà cô mày bảo ma, thì mỗi ngày tao gặp đến cả trăm con ma, ma đầy đường.
Hiếu nhún vai, bảo vợ:
- Nhưng mà mình có ra tận nơi thì con Vân nhà mình nó mới hết đường chối cãi. Thôi, thế là yên chí, đi về ngủ.
Vân bước lên, tìm chỗ ngồi tuốt phía sau, nàng vừa vui mừng, vừa hồi hộp. Mắt cứ dán chặt vào lưng ông tài xế, nàng tin vào lời thầm khẩn của nàng với hồn ma ông Thọ đã khuất. ông không hiện về làm nàng kinh sợ nữa. Hy vọng từ nay, Vân thoát nạn. Dầu sao, nàng cũng sẽ làm lễ cầu siêu cho ông và đặt hình ôn gtrên chùa thường xuyên. Hành khách trên xe thưa thớt chưa tới 10 người, Vân quan sát từng khuôn mặt đàn ông, nàng an tâm thở phào nhẹ nhõm.
Dưới lề đường, chờ cho xe đóng cửa và lăn bánh, vợ chồng Hiếu mới an tâm trở về, vợ Hiếu bắt đầu lên mặt trách chồng:
- Đã nói là nó làm bộ mà anh đâu có tin, anh bây giờ chỉ tin em gái anh thôi, còn em nói cái gì anh chả tin.
Hiếu biết là Vân không tưởng tượng bởi bao nhiêu việc đã xảy ra trong nhà anh từ tối hôm qua đến giờ, nhưng anh không muốn vợ biết, nên đành phải xuống nước: - Anh đã nói rồi, mình ra đây là để nhìn tận mắt cho nó hết cãi. Vợ Hiếu vẫn chưa buông tha:
- Em có tiếc cái công ra đây đâu. Nhưng tức là nó nói cái gì anh cũng nghe, chuyện vô lý đến thế, anh không mắng vào mặt nó, mà lại có vẻ siêu lòng nghe theo nó.
Hiếu không nói nữa, lặng lẽ đi bên vợ con, vì anh biết có phân trần thì vợ anh cũng không tin, bởi vốn đã có thành kiến với Vân. Con bé Mỹ Linh góp ý:
- Um... Con chắc là cô Vân bị ám ảnh vì ở nhà coi tivi nhiều quá !
Vợ Hiếu bắt ngay nhận xét ấy để nhắc lại:
- Chứ còn gì nữa ! Tao đã nói rồi mà. Chỉ có mình ba mày tin là có ma chứ chuyện vô lý như thế, đứa con nít nó cũng chả nghe nữa.
Về đến nhà vợ Hiếu bước lên mở cửa, mặt vẫn còn hầm hầm. Hiếu và con gái đứng dưới sân. Con bé nó đòi Hiếu thứ bảy này chở ra Toronto dự tiệc sinh nhật con bạn. Hiếu gật đầu bảo:
- Ừ cũng được, đằng nào ba cũng đưa cô Vân lên chùa.
Vợ Hiếu đẩy rộng cánh cửa bước vào, thò tay bật đèn, và treo xâu chìa khóa lên cái móc trên vách. Bỗng chị nhíu mày bực bội vì nghe trong phòng tắm có tiếng nước chảy, và đèn còn để sáng. Phòng tắm dưới nhà thì chỉ có mình Vân xài, như vậy trước khi đi, Vân đã quên tắt đèn và tắt nước. Chị uất ức đi nhanh vào và nghiến răng nghĩ đến sự bất cẩn của Vân để tốn tiền điện, tiền nước một cách phí phạm, nhiều lần chị đã nhắc mà bửa nay Vân vẫn quên.
Đứng trước cửa buồng tắm, chị lại càng bực hơn vì Vân chỉ quên tắt vòi nước nóng ở bồn rửa mặt, nước đã xả ra cả nữa tiếng đồng hồ nên hơi nước bốc lên mờ mịt che kín khắp phòng, chị vói tay lấy cái khăn tắm khua đi khua lại trước mắt mới thấy đường mà bước vào. Chị mò mẩm vặn chặt vòi nước nóng, rồi đưa khăn lau sạch lớp hơi nước phủ dày đặc tấm gương soi trước mặt. Chị thở phào, và ngẩng lên nhìn trong gương. Bổng chị thét lớn, buông cái khăn và ngã bật ngữa ra phía sau, té lăn vào buồng tắm là bởi vì khi nhìn vào trong gương, chị không thấy mặt mình mà chỉ thấy khuôn mặt sáp bóng loáng trắng bệch của ông Thọ.
 
Thằng bé ăn mày
Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó. Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi. Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó. Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó.
Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.
Thằng bé ăn mày kêu ới ới , hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước. Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!... Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng thơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.
Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này.
Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp. Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà...
Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.
Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng. Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến.
Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ. Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là Ông. Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội (người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói). Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác - Làng Ăn Mày!
*
Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông M. thở dài nói.
Ông là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau chứ giữa nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.
Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết, - ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia. - Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?
Không , tôi đáp.
Ông có tin vào báo ân, báo oán không?
Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?
Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:
Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa. Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?
Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào.
Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh, - cuối cùng tôi lên tiếng. - Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi , tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.
Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M., và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.
Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.
Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng ông tổ ăn mày của làng. Ngôi mộ của ông đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên.
Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:
Ông nhìn kìa. Ngài đấy!
Ngài nào? tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.
Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày...
Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:
Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại... Con chỉ đùa... Lúc ấy con còn nhỏ... Con xin ngài tha tội! Con xin ngài...
Ông làm sao thế? - tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. - Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?
Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.
Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:
Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?...
Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng, như để xác minh về sự hiện diện có thật của ngài , ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.
Ngài để lại đấy!
*
Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.
Một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.
Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp , ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.
 
Con Dơi Trắng Khổng Lồ
Có rất nhiều chuyện lạ kể về quyền uy của các vị tu sĩ Ai Cập cổ đại, đặc biệt là những lời thần chú của họ yểm giữ cho các ngôi mộ khiến chúng trở thành bất khả xâm phạm. Dân Ai Cập thường chôn theo người chết rất nhiều của cải và không có gì lạ nếu những phần mộ đó bị lũ kẻ cướp, hết thế hệ này sang thế hệ khác, đến cướp phá.
Trong số những kẻ cướp phá đó, có không ít người là các nhà Ai Cập học hiện đạị Họ cướp phá dưới danh nghĩa khoa học, nhưng điều đó chẳng làm nên sự khác biệt nàọ Những lời nguyền linh ứng với tất cả những kẻ nào xâm phạm tới nơi thiêng liêng của ngôi mộ, bất kể mục đích của họ là gì. Có rất nhiều câu chuyện lạ, ví dụ như chuyện kể về lời nguyền ở ngôi mộ của Tutankhamen và số phận của những kẻ cả gan xâm phạm.
Trong những ngày đầu thế kỉ, giới Ai Cập học hết sức đông đảọ Những kẻ đào bới thuộc mọi quốc tịch bận rộn khai thác ở thung lũng, bất chấp những lời nguyền xa xưạ Đó là thời gian các nhà khoa học tiến bộ không còn coi trọng những lời nguyền xưa nữạ Phần lớn những người đột tử đều có thể đã đồng tình với đồng nghiệp của mình rằng cái chết của họ không có liên quan gì tới những điều mê tín dị đoan vớ vẩn.
Tuy nhiên, quan điểm của Michael Hendry lại hoàn toàn khác. Sự trải nghiệm quá kinh khủng tới mức không còn nghi ngờ gì nữa sự trả thù của các tu sĩ Ai Cập đã ứng nghiệm vào ông bằng một cách thức thật ghê rợn.
Hendry không phải là chuyên gia Ai Cập học mà cũng chẳng phải là một nhà khoa học. Ông vốn là người Ailen, sang Mỹ từ khi còn trẻ và đã kiếm được lưng vốn kha khá tại Sở chứng khoán New York vào thời của những tên tuổi như Astor, Rockefeller và Vanderbilt, khi mà bất kỳ một người buôn bán khôn ngoan nào cũng có thể trở thành triệu phú - đó là thời đại kinh tế hoả tiễn của Hoa Kỳ thế kỷ XIX.
Hendry làm giàu rồi về hưụ Ông kết hôn với một goá phụ già hơn ông hai mươi tuổị Đó không phải là một cuộc hôn nhân vì vật chất. Ông đã rất yêu bà và bà cũng vậỵ Bà không lấy ông vì tiền.
Niềm say mê lớn trong cuộc đời ông là Ai Cập học, một sở thích vô thưởng vô phạt ở nước Mỹ tự dọ Nhưng Mary Hendry nhanh chóng phát hiện ra ngôi nhà đẹp, yên tĩnh ở Long Island, ngôi nhà bà đã từng ước ao, không phù hợp với bà. Hendry thì muốn dùng thời gian cuối đời để theo đuổi đam mê lớn của mình và điều đó đồng nghĩa với việc sang Ai Cập, đào bới ở những khu vực chôn cất cấm kị của các vị Pharaon vĩ đạị
Mary vì không thích lắm nên cũng không mấy hưởng ứng. Theo bà, ông nên từ bỏ ý định ấy đi vì dù sao ông cũng không còn trẻ. Khí hậu ở thung lũng sông Nile không có gì tốt cho ông và bà cho rằng phải nhanh chóng thuyết phục ông cư trú ổn định ở một nơi nào đó thật thoải mái và thuận tiện. Với bà, châu Âu hay châu Mỹ đều không quan trọng. Bà nghĩ nên về sống ở Ailen - quê hương ông - nơi đó, mức sống vào những ngày ấy cũng khá cao, nếu không nói là cao hơn ở Mỹ.
Nhưng chuyến đi Ai Cập thật thú vị. Họ ở khách sạn Shepheard, Cairọ Đó là những ngày thanh bình, một vài năm trước khi chiến tranh thế giới nổ rạ Bà Hendry đi theo các điểm du lịch thông thường, thăm các kim tự tháp, tượng nhân sư ở Giza, cưỡi lạc đà và du thuyền trên sông Nilẹ
Hendry không sang Ai Cập với mục đích du lịch thông thường. Với ông, đây là chuyến du lịch tới vùng đất của các Pharaon. Ông vùi mình vào việc khai quật nhiều loại mộ ở thung lũng các Hoàng đế với niềm đam mê mãnh liệt. Hiểu biết của ông đã gây ấn tượng đối với nhiều nhà Ai Cập học chuyên nghiệp và sự giàu có của ông cũng khiến họ vị nể. Thời ấy, phần lớn các cuộc khám phá đều do tư nhân tự bỏ vốn và các nhà triệu phú Mỹ luôn được hoan nghênh, đặc biệt với một người có kiến thức như Hendrỵ
Cũng vào thời điểm Hendry tới Ai Cập, cái chết bí ẩn của một nhà khảo cổ học người Đức mang tên Schaffer đã làm xôn xao dư luận. Ông ta đang tiến hành khai quật ngôi mộ của một tu sĩ có đẳng cấp cao của "Trường đại học các tu sĩ bí ẩn Hoàng Gia", được Cheops thành lập vào triều đại thứ tư, khoảng 4000 năm trước Công nguyên.
Các bác sĩ nói rằng Schaffer chết là do chứng tim đột quỵ nhưng theo những công nhân Ai Cập mê tín thì lúc ấy, ngôi mộ đầy những linh hồn quỷ dữ và đó mới là nguyên do cái chết của Schaffer.
Ngôi mộ mới chỉ đào được đến phần bên ngoài, và người Ai Cập cho rằng chắc chắn phải có một phòng rộng hơn ở bên trong, đó là nơi để xác ướp của vị tu sĩ, chứa đầy ma quỷ quyền năng mang cái chết đến cho kẻ nào dám cả gan đột nhập vàọ
Hendry quyết định tiếp tục công việc khai quật của Schaffer. Những câu chuyện về sự tận số và tai họa không hề làm Hendry lay chuyển. Hơn nữa, ông cho rằng những ngôi mộ cổ đều đã bị đột nhập và bị không biết bao nhiêu kẻ đến cướp bóc từ trước đến nay và nếu lời nguyền của vị tu sĩ linh ứng thì những kẻ cướp bóc mê tín đã không mò đến.
Vì thế, Hendry đã kiếm được giấy phép hợp lệ để tiếp tục công việc của Schaffer. Ông để người vợ muộn phiền lại Cairo, tới vùng thung lũng của các Hoàng đế.
Tất cả những công nhân đã làm việc cho Schaffer, không ai còn dám tới gần ngôi mộ và Hendry phải mua chuộc những người bản địa khác để họ giúp ông, nhưng ai cũng từ chối vào phòng trong, nơi có xác ướp.
Với sự trợ giúp của họ, Hendry đã mở tung được ba phòng và cuối cùng cũng tới được phòng chôn xác. Cánh cửa mang dấu niêm phong của Cheops - một con dơi có đôi cánh lớn. Đằng sau dấu niêm phong là nơi bất khả xâm phạm.
Dùng ánh điện lắp tạm thời, Hendry tiếp tục công việc một mình. Vào phòng trong, ông tìm thấy một cái quách lớn bằng vàng. Căn phòng được trang hoàng xa hoa, vì triều đại thứ tư là vương triều của sự giàu có huy hoàng, khi nghệ thuật vương giả đạt đến đỉnh cao nhất. Nhấc nắp quan tài bằng vàng lên, ông nhìn thấy xác ướp của vị tu sĩ vẫn còn hoàn hảo, thậm chí bộ râu trắng của ông ta vẫn còn nguyên vẹn.
Trên ngực xác ướp có con bọ hung có cánh, hình dáng như một con dơi chứ không giống một con bọ cánh cứng thông thường. Con bọ bị buộc chặt vào chính những dải băng đã gói xác chết sau quá trình làm héo xác ướp. Ông nhặt nó lên, xé ra khỏi những lần vải buộc đã mục theo thời gian. Đó là một con bọ hung lớn và được khắc chạm bằng những câu viết bí ẩn.
"Hình như," sau đó ông nói, "hình như một cơn giận dữ khủng khiếp bao trùm lên tôi như một đám mây lúc tôi đụng vào con bọ. Ngọn đèn chỉ còn le lóị Một cơn gió lạnh lan toả khắp ngôi mộ và tôi nghe thấy tiếng vi vu trong không khí lướt qua mặt tôị Tôi đoán đó là những con dơi".
Quá khiếp sợ, ông chạy ra khỏi phòng, trong tay nắm chặt lấy con bọ. Trước đây ông cho rằng lũ dơi chỉ là sự hư cấu và lúc này đây, ông chỉ muốn thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt rùng rợn của phòng huyệt, ra ngoài bầu trời trong lành. Ông thấy quá mệt và đau nên không đi tiếp được.
Ông lập tức trở lại Cairo, trong lòng còn quá hoảng sợ vì những gì đã xảy rạ Ông đã đọc được ở đâu đó rằng trong suốt thời gian trị vì, hoàng đế Cheops rất sùng bái một con dơi và ông lập ra "Trường đại học của các tu sĩ bí ẩn" vì lòng sùng bái của mình. Liệu hoàng đế có hình dung ra rằng có dơi trong phòng huyệt? Và phòng huyệt có thể sẽ không được mở ra trong mười thế kỷ. Chẳng có con dơi nào lại có thể sống ở đó.
Về tới Shepheard, ông thấy mặt vợ trắng bệch và đang hết sức hốt hoảng.
"Michael, em lo cho anh quá. Suốt ngày nay, em linh cảm như có chuyện gì đó thật khủng khiếp đã xảy rạ Cảm ơn Chúa, anh vẫn bình an".
Hendry cũng cảm ơn Chúạ "Anh không thích nơi đó, anh sẽ không quay lại đó nữa," ông nóị "Chúng mình hãy cùng nhau xuôi sông Nile xuống Luxor. Thay đổi không khí sẽ có ích cho chúng ta".
Mary tán thành ngay nhưng bà vẫn muốn rời khỏi Ai Cập càng nhanh càng tốt. Bà chẳng bao giờ muốn chồng mình cứ đi đào bới xung quanh những nơi kì bí cũng như ở các ngôi mộ cổ. Bà thấy có một chút sự thực trong những câu chuyện kể về các lực lượng siêu nhiên hiển linh tại nơi đó. Có lần bà nghe người ta kể rằng việc lấy xác ướp ra khỏi quan tài là một hành động cực kỳ báng bổ thánh thần và sẽ chỉ mang lại toàn tai họạ Còn nếu ai sờ hay đọc những chú giải thần bí ở chỗ xác ướp thì người đó nhất định phải chết.
Chuyến du ngoạn xuôi sông Nile làm cho Hendry dần dần phục hồi khỏi cú sốc kinh hoàng nọ. Ông vẫn ngoan cố giữ con bọ vì ông không tài nào từ chối một kho báu từ thời cổ đại hiếm và quý đến vậỵ Ông giấu kĩ trong tư trang, không hề nói với ai, kể cả vợ mình về điều đó.
Trong khi cắm trại nghỉ bên bờ sông Nile, cách Luxor không xa, ông bị một tiếng động lạ đánh thức. Hé mắt nhìn ra cửa lều, ông thấy một con dơi khổng lồ, trắng toát, bay nhẹ nhàng không ngớt quanh căn lều, phát ra tiếng kêu chít chít. Nó khiến ông sợ hết hồn. Ông cố gắng đuổi nó đi nhưng nó cứ chao liệng vòng tròn, đôi lúc sà xuống gần ông và nhìn chòng chọc vào mặt ông bằng đôi mắt xoi mói rùng rợn. Ông chưa bao giờ thấy một con dơi nào như thế. Trong nó không giống như sinh vật ở thế giới nàỵ
Ông quay vào và đóng chặt cửa lềụ Vợ ông nằm ngủ trên chiếc gi.ường dã ngoạị Cám ơn Chúa và ít nhất bà ấy đã không bị đánh thức bởi con vật đáng sợ của đêm đen.
Hendry không tài nào ngủ được. Ông nằm đó, lắng nghe con dơi the thé báo điềm gở cứ chao liệng bên ngoàị Có lúc cánh của nó tức tối đập vào vải bạt như muốn tìm cách chui vào lềụ
Hendry để ý thấy mặc dù vợ mình không tỉnh giấc nhưng bà cứ liên tục trở mình. Khi nhìn gần hơn vào mặt vợ, ông thấy mặt bà căng ra vì sợ, mồ hôi lấm tấm trên trán. Liệu tiếng kêu chít chít của sinh vật thuộc đêm đen ấy có ảnh hưởng đến giấc ngủ của con người không?
Tiếng đập cánh ngưng được một lúc thì Hendry cẩn thận mở cửa lều nhìn rạ
Ông thấy con dơi trắng khổng lồ lượn vòng tròn quanh căn lều một lần cuối rồi bay qua sông Nile, theo hướng Luxor. Ông thấy nó bay cao trên nền trời trắng bạc của đêm trăng tròn, về lại nơi nó đã xuất phát. Bên dưới nó, đằng xa là cảnh hoang tàn, đổ nát của "Ngôi đền Thebes" do Amenhotep đệ tam cho xây cất, cha của Pharaon dị giáo và Akhenaton. Nhưng giữa vị tu sĩ đắc đạo của Cheops và "Ngôi đền của Thebes" là khoảng thời gian sáu thế kỷ và cách xa nhau hàng trăm dặm.
Chẳng có gì liên quan giữa con dơi trắng khổng lồ với con bọ ông vẫn cố tình cất giữ cẩn thận trong đống hành lí.
Ông quay lại lều, cố dỗ giấc ngủ. Ông thấy, từ lúc con dơi bay đi, vợ ông ngủ bình thản hơn. Còn ông đêm đó chẳng được an giấc. Ông nằm đó, trằn trọc, bị nỗi sợ hãi ám ảnh. Trong lúc nửa tỉnh nửa mơ lúc rạng sáng, ông thấy mình quay lại ngôi mộ của vị tu sĩ đắc đạo; ở đó tối om và toàn những cảnh khủng khiếp rợn ngườị
Buổi sáng ngủ dậy, vợ ông u sầu, chán nản ghê gớm, bà chẳng hiểu tại sao mà cũng chẳng rũ bỏ được. Bà nói rằng mình có một cơn ác mộng kinh khủng. Khi ông nài ép, bà cố gắng tả lại nhưng bà không nói được gì ngoài câu, trong mơ, bà thấy có rất nhiều dơi và có một con dơi kỳ dị, khác thường cứ cố săn đuổi bà.
Bà chán ngấy Ai Cập. Đây là nơi khiến bà bị căng thẳng thần kinh nhất. Hendry cũng quá ngán đất nước nàỵ Ông đã mất gần hết lòng nhiệt thành đối với Ai Cập học nhưng ông vẫn không chịu chia tay với con bọ - kết quả thực tế trong lần khai quật duy nhất của ông giữa những đổ nát của quá khứ. Ông không tin vật đó lại có thể gây hại cho mình và ông không hề nghĩ rằng Mary sẽ gặp phải bất cứ hiểm họa gì.
Họ sẽ rời Ai Cập, chuẩn bị tới Hi Lạp và sau đó tiếp tục sang ý - nơi ông thấy vẫn còn tồn tại thế giới cổ kính mà không bị bao trùm bởi những đám mây thần bí và không bị phù phép bởi các ma thuật khó hiểu của các tu sĩ.
Nhưng không gì khiến họ có thể thoát ra khỏi sự đày ải, tai họa đã vây lấy họ. Kể từ đêm đó, bên bờ sông Nile, Mary Hendry mắc chứng nghẹt thở đến lịm đi rất kỳ lạ. Bà không còn vui vẻ, hoạt bát mà chìm sâu vào những cơn u sầu liên miên, ảnh hưởng đến cả tinh thần và thể xác. Bà rất ít khi ngồi dậy, ăn không thấy ngon miệng, mất hết sức sống. lúc nào cũng muốn nằm.
Hendry đưa bà tới hết bác sĩ này đến bác sĩ khác, vị nào cũng đưa ra một loạt chẩn đoán có vẻ hợp lý nhưng không ai thực sự tìm ra bệnh hoặc kê được đơn thuốc làm thuyên giảm bệnh tình của bà. Bà như không còn ở bên ông nữa, tự tuột ra khỏi cuộc sống. Sự việc không xảy ra từ từ mà chỉ trong vòng vài tuần, quá nhanh đến nỗi ông không kịp đưa bà quay lại Mỹ, nơi ông cho rằng có thể chạy chữa cho bà vì các bác sĩ bảo bà không thích nghi được với một chuyến đi vượt Đại Tây Dương.
Còn với Hendry, giấc ngủ của ông chỉ toàn ác mộng. Vào một đêm, vợ ông có vẻ khá hơn suốt cả ngày, ông đi ngủ với trái tim tràn trề hy vọng thì ông có một giấc mơ rùng rợn, khủng khiếp.
Ông đang đi qua một hội trường lớn, tiếp theo đó là nhà thờ rộng mênh mông, trong đó có những hình người Ai Cập khổng lồ được chạm khắc trên những công trình bằng đá. Đôi chân ông đi nhanh như chạy, như muốn vượt qua những căn phòng tráng lệ của thế giới sông Nile cổ xưa và ông cảm nhận rõ hương thơm kỳ lạ, hương thơm ấy càng lúc càng ngào ngạt hơn khiến ông không kìm nén được cơn buồn nôn.
Giờ đây, những hội trường lớn Ai Cập khổng lồ được thay bằng những hành lang đá vô tận. Lúc đầu ông nghĩ đó là những hành lang trong kim tự tháp nhưng ông rảo chân qua các hành lang ngày càng hẹp hơn và ông biết đó là con đường dẫn tới trung tâm trái đất. Ông cũng biết mình đang bị săn đuổị Ông không dám nhìn xung quanh nhưng ông biết rõ cái gì đang truy đuổi mình. Chính là hương thơm tỏa mùi đến phát ốm, chế ngự khắp nơi và mỗi lúc một ngào ngạt hơn.
Cuối cùng, ông cũng kết thúc được hành trình và thấy mình nằm trong một hầm mộ bằng đá không có lối thoát. Khi đứng lên, mồ hôi lạnh túa ra, ông thấy căn phòng càng ngày càng hẹp hơn, tính đến từng giây, các bức tường và tấm trần cứ ép sát vào người ông.
Giờ đây, ông đang nằm trên sàn, hoảng sợ tột độ, nghẹt thở vì hương thơm, hình như toàn bộ mùi thơm ở những ngôi mộ cổ Ai Cập đều ập đến. Khi ngửng lên, ông mới thấy kinh hoàng - con dơi trắng khổng lồ từ từ đậu xuống, hút dần sinh khí của ông.
Hendry tỉnh hẳn, tiếng kêu nghèn nghẹn như bị bóp cổ, ông ngồi dậy, mồ hôi túa ra như tắm và cảm giác khó chịu như có cái gì đó bám chặt ở cổ họng.
Nỗi sợ tột cùng từ lúc tỉnh dậy vẫn chưa xua tan được thì khi nhìn quanh căn phòng tràn ngập ánh trăng, ông lại thấy con dơi trắng bay ngang qua, thoát ra ngoài cửa sổ để ngỏ.
Ông nhảy khỏi gi.ường, không chỉ sợ cho riêng mình. ý nghĩ đầu tiên của ông là phải tiến lại cửa sổ, đuổi cái sinh vật ghê tởm ấy ra ngoàị Khi ông làm vậy, con dơi đậu yên bên ngoài tấm kính, đôi tai nhọn vểnh lên, đôi mắt thú tính sáng rực của nó nhìn ông chằm chằm. Ông lùi trở lại phòng và con dơi cất đôi cánh lên kèm theo tiếng đập cánh uyển chuyển và nhẹ nhàng bay theo hướng mặt trăng qua các ngôi nhà, bên trên các tán cây đến lúc nó chỉ còn là một chấm nhỏ trên cái thiên thể bạc.
Từ phía cửa sổ, Hendry quay mình lại, nhanh chóng chạy sang buồng vợ qua cánh cửa thông với phòng ông. Vừa bước vào phòng, ông vừa nhìn thẳng về phía trước, miệng gọi tên bà. Ông thấy bà nằm trên gi.ường, trong tư thế không mấy tự nhiên như thể bị đánh thức bất ngờ. Bà không tỉnh dậy nữạ Bà nằm đó, hồn lìa khỏi xác, đôi mắt hoảng sợ mở trừng trừng. Hendry biết đó là tại con dơi trắng, nó đã bay vụt sang phòng bà khi ông vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng.
"Chứng đột tử vì tim", bác sĩ kết luận. Tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào khác, có lẽ là một cú sốc. Vâng, điều đó hoàn toàn có cơ sở, trong tình trạng u uất như vậy, một giấc mơ mạnh cũng có thể giết chết bà ấỵ"
Hendry vô cùng đau khổ. Ông yêu vợ và họ càng yêu nhau hơn từ khi những chuyện rắc rối ở ngôi mộ vị tu sĩ đắc đạo bắt đầu xảy rạ
Mọi thứ trượt dần khỏi quỹ đạọ Vào ngày đưa tang vợ, ông nhận được tin tức nghiêm trọng từ New York. Hai nơi ông tập trung phần lớn tài sản của mình để đầu tư bỗng nhiên thất bại và ông phải hứng chịu thiệt hại rất lớn trong việc phá sản tiếp saụ Tiếp đến, một người bạn đáng tin cậy ở New York biển thủ 50.000 đô la của ông rồi tự tử. Người cha già ở New Orleans cũng bỗng nhiên chết vì cơn đột quỵ không rõ nguyên nhân.
Trong tình trạng tuyệt vọng, Hendry đi hết nước này sang nước khác nhắm thoát khỏi con dơi trắng toát giờ đây cứ liên tục săn lùng ông. Nó luôn xuất hiện vào ngày rằm, và mỗi lần nó đến, ông đều gặp phải cùng một cơn ác mộng: ông nằm trong phòng huyệt của vị tu sĩ, không khí ngột ngàt toàn mùi hương ngạt ngào ấỵ Căn phòng cứ hẹp vào, hẹp vào mãi, áp sát vào ông khiến ông bị ngạt thở vì hương thơm trong nỗi hãi hùng. Ông tỉnh dậy với cảm giác kinh hoàng là có cái gì đó cứ bám chặt ở cổ, hút dần sinh lực của ông. Bên ngoài cửa sổ, trong ánh trăng sáng của đêm rằm, con dơi cứ nhìn ông bằng đôi mắt linh lợi y như mắt ngườị Không giống những con dơi khác ông đã gặp, nó chỉ mang đến toàn điềm gở, chứa đầy tai họa và ông cho rằng nó không thuộc về thế giới nàỵ
Mặc kệ những nỗi sợ không tên, Hendry với bản chất ngoan cố, vẫn giữ con bọ, bỏ ngoài tai những lời khuyên của các bạn bè, những người ông kể chuyện, rằng ông phải trả nó về nơi ông đã lấy nó. Nhưng Hendry như đã bị bỏ bùa mê. Ông không hoàn trả nó về chỗ cũ. Ông đã mất hết mọi thứ trong cuộc đời và có lẽ, bất kể con dơi có làm gì thì cũng không còn có nghĩa với ông nữạ
Ở Luân đôn, ông tham khảo ý kiến các nhà Ai Cập học và các sinh viên về chuyện huyền bí nàỵ Đầu tiên, người ta nghi ngờ câu chuyện của ông và có người đã bảo với ông rằng, những con bọ không hề được biết đến ở triều đại thứ tư, đó là thời gian trị vì của Cheops, hay Khufu gì đó và con bọ được tìm thấy trên xác ướp của vị tu sĩ đắc đạo có lẽ đã được đặt vào ở triều đại saụ
Nếu thực thế, Hendry tin rằng, một thời gian sau, trong thời kỳ Ai Cập cổ đại, các vị tu sĩ đã đưa ra những lời nguyền độc địa đầy quyền năng. Và chắc họ, khi thấy ngôi mộ bị đột nhập đã niêm phong nó bằng những lời nguyền khủng khiếp, hơn thế, họ còn cho gắn con bọ có cánh lên xác ướp. Hendry nhớ ra ông đã gặp con dơi trắng khổng lồ ở "Ngôi đền của Thebes", được xây dựng hai nghìn sáu trăm năm sau thời Cheops.
Điều huyền bí ấy đã được tìm ra, không phải nhờ các nhà Ai Cập học hay những chuyên gia về chuyện bí ẩn, những người có thừa lòng ham mê, đầy một mớ lý thuyết nhưng không giúp được ông điều gì. Có người mượn ông con bọ rồi ngay ngày hôm sau đã trả lại cho ông không chút do dự và kể rằng ông ta đã có một cơn ác mộng cực kỳ rùng rợn, sau đó ông nhìn thấy con dơi trắng nhẹ nhàng đập cánh ngoài cửa sổ. Ông ta nài nỉ Hendry mang con bọ quay lại Ai Cập trả nó về với xác ướp của vị tu sĩ nọ. Nhưng Hendry không đời nào lại đi hứa làm việc đó.
Đêm đêm, ông hoảng sợ lê bước đến bên gi.ường và càng trì hoãn được việc đó càng lâu càng tốt. Sau những cơn ác mộng liên tiếp về dơi, ông tỉnh dậy, thấy cổ họng mình sưng lên và cứng lạị Bác sĩ chẩn đoán ông bị một loại côn trùng có nọc độc cắn.
Câu chuyện kết thúc tại Paris. Con dơi trắng xuất hiện lần cuối cùng khi ông đang ngụ tại một khách sạn ở đường Fayettẹ Nửa đêm, trong khách sạn vang lên một tiếng thét dài ghê sợ. Sáng hôm sau, người ta thấy Hendry chết cứng trên gi.ường. Bác sĩ nói rằng ông bị đột tử vì tim ngừng đập. Người hầu phòng nói rằng, tối hôm trước, ông nhất định đóng chặt các cửa chớp phía ngoài khuôn cửa sổ phòng ông. Nhưng khi ông chết, các cửa chớp và cửa sổ đều mở rộng.
Người ta không tìm thấy con bọ trong đống hành lý của ông. Nó đã biến mất, và từ đó trở đi, con dơi trắng khổng lồ cũng không xuất hiện nữa
 
Sáu kẻ tình nghi
Họ đều đã có mặt ở đó, tất cả sáu người. Ông Sen trong bộ “đồ lớn” lịch sự, đi đi lại lại tỏ vẻ sốt ruột. Ông Huyện Lý hai tay chắp sau lưng, ngắm nghía bức vẽ thủy mặc, thản nhiên như một khách dự cuộc triên lãm. Ngồi trên hai chiếc ghế gỗ trắc, khảm xà cừ đối diện nhau là Phan Vỹ và Dương Ba. Họ không trò chuyện cùng nhau, vì cả hai cùng như đương mê mải suy tính một việc gì... Còn hai vợ chồng ông Ba Cự thì đứng ở bên cửa sổ, trò chuyện thầm thì bằng tiếng Quảng Đông, vì tuy ăn vận Việt phục, bà Ba Cự, một Hoa kiều, thường nhật vẫn rất ít khi dùng tiếng Việt...
Khi thanh tra Trúc Tâm tay xách chiếc cặp da bước vào phòng thì mọi người cùng dồn nhìn về phía chàng thám tử. Lê Vương đi theo sau, lặng lẽ ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, sửa soạn giấy tờ đê sẵn sàng ghi chép...
Mọi người đều đã ngồi xuống ghế, chung quanh chiếc bàn rộng kê ở giữa phòng... Trúc Tâm đằng hắng, rồi mở đầu:
- Thưa quý vị, hôm nay tôi mời quý vị tới họp tại đây là vì tôi đã tìm ra manh mối vụ án mạng ông Phạm Viên, xảy ra trong ngôi biệt thự này, cách đây mấy ngày, đúng vào ngày 14 tháng mười...
Nói tới đây, Trúc Tâm ngừng lại, liếc mắt nhìn cử tọa, như muốn tìm xem phản ứng họ ra sao... Một lát, chàng thám tử trẻ tuổi mới lại tiếp:
- Tôi chỉ xin nhắc sơ lược lại câu chuyện đã xảy ra... Thứ bảy tuần trước, ông Phạm Viên, giám đốc hãng xuất nhập khẩu đã bị ám sát. Quý vị sáu người đều có mặt khi xảy ra án mạng. Quý vị đều là bạn quen biết lâu ngày của ông Phạm Viên, nên thường lệ, hàng tuần, cứ tối thứ bảy thì ông lại mời tới chơi đây, họp mặt làm vui... Như chỗ tôi biết thì ông Huyện Lý là một người bạn cũ từ thời cắp sách đi học của ông Phạm Viên, còn ông Dương Ba thì là người vẫn thường giao dịch buôn bán với kẻ bị thiệt mạng cũng đã có tới non chục năm nay.
Ông Dương Ba gật đầu, công nhận lời nói của Trúc Tâm là đúng. Viên thanh tra lại tiếp:
- Còn ông Phan Vỹ thì lại là cháu của Phạm Viên. Thường thường mỗi khi ở dưới tỉnh lên có công chuyện gì thì ông vẫn thường lưu lại ở nhà chú ông, như nhiều người đều biết. Ông Sen thì tuy giữ chức trưởng văn phòng trong hãng xuất nhập khẩu nhưng có thê cũng là một thư ký riêng của Phạm Viên, hơn nữa lại là một người bạn thân tín mà có lẽ Phạm Viên không hề giấu giếm một chuyện gì. Hình như kẻ bị thiệt mạng, bữa đó mời ông dự bữa cơm tối thứ bảy, cũng còn có ý muốn nhân dịp này tính toán kỹ lại một vụ “làm ăn” gì đó...
Ông Sen gật đầu:
- Ông nói đúng, tối hôm ấy, hãng cũng đang dự định đê xin xuất cảng lông vịt sang Nhật Bản...
Trúc Tâm hỏi lại:
- Hình như ông Sen tới nhà riêng của Phạm Viên dùng cơm là lần đầu, phải không?
- Vâng... và tôi nói thêm đê ông biết rằng: tuy ý ông Phạm Viên định bàn bạc với tôi về vụ lông vịt, nhưng rốt cuộc, câu chuyện lan man ông cũng không có dịp nói riêng với tôi lúc nào cả...
Trúc Tâm gật đầu, đồng ý rồi quay sang phía vợ chồng ông Ba Cự, nói tiếp:
- Ông bà Ba đây thì ai ai cũng biết là người đại diện cho hãng tại Hương Cảng. Ông bà mới về chơi thăm quê, nên tiện dịp, ông Phạm Viên mới mời ông bà lại ăn cơm tối.
Bà Ba Cự quay sang nói với chồng một câu tiếng Tàu. Kế đó ông Ba gật gù mà bảo thanh tra Trúc Tâm rằng:
- Nhà tôi đương tỏ ý lo lắng rằng ông Phạm Viên đột ngột chết đi như thế này thì không hiêu rằng chi nhánh của chúng tôi ở Hương Cảng sẽ hoạt động cách nào đây?
Trúc Tâm gật đầu, nói:
- Việc ấy kê ra cũng hơi phiền phức đấy, nhưng chắc sao rồi cũng có cách tiếp tục mọi công việc doanh thương... Ngay bây giờ, chúng tôi cùng quý vị sẽ cố gắng tìm cho ra thủ phạm đê cho người thiệt mạng đỡ phần uất hận. Trước hết, tôi xin phép quý vị tường thuật lại việc xảy ra trong đêm ấy như thế nào... Sau khi mọi người ăn uống xong xuôi, thì ông Phạm Viên xin lỗi mọi người trở về phòng riêng, vì trong người ông hơi mệt mỏi.
Chủ nhân có nói:
- Xin quý bạn hãy cứ tự nhiên ở chơi đây... Vị nào ưa âm nhạc thì nghe nhạc... vị nào muốn xoa mạt chược thì cũng cứ tùy thích lập bàn. Có lẽ lúc nãy tôi uống hơi quá chén, nên bắt nhức đầu... Tôi xin phép về phòng riêng nằm nghỉ trong chốc lát, không chừng, tôi sẽ trở qua.
Chừng một giờ sau, lúc ấy đã 11 giờ 15, ông Phan Vỹ vừa đánh xong ván mạt chược, đứng dậy, nói:
- Quý ngài có ai dùng Bisquit không? Đê tôi đi rót vài ly uống chơi cho hứng thêm!
Mọi người cùng đồng ý nhưng khi Phan Vỹ cầm chai Bisquit lại thì rượu chỉ còn vừa rót đầy hai ly thôi... Phan Vỹ bèn đi xuống nhà dưới đê lấy chai khác lên uống... Mọi việc xảy ra như vậy có đúng không?
Chính Phan Vỹ gật đầu, bảo:
- Đúng, tôi thường ở đây, nên biết nhà chú tôi cất rượu, ở căn phòng thứ hai, tầng dưới...
Trúc Tâm kê tiếp:
- Ông Phan Vỹ xuống dưới nhà, và trong khi ông cầm chai rượu lên tầng trên, ông có khai rằng: không hề nghe thấy tiếng gì khác lạ cả. Lại theo lời khai của toàn thê quý vị thì sau chừng ba, bốn phút, ông Phan Vỹ cầm chai rượu lênvừa kịp mở cửa phòng ra, vừa toan bước vào, thì có tiếng súng nổ ở phía trên lầu ba, tức là nơi phòng riêng của ông Phạm Viên...
Mọi người cùng gật đầu:
- Mọi việc đã xảy ra đúng thế!
Trúc Tâm lại tiếp:
- Sau đó, mọi người cùng nhau chạy lên trên lầu, và thấy cửa phòng ông Phạm Viên mở hé, chiếc tủ cũng như mấy ngăn kéo bị kẻ lạ mặt lục tung, vứt bừa bộn, còn chính chủ nhân thì nằm sóng sượt trên chiếc ghế xích-đu, ngực bị trúng một viên đạn súng lục cỡ 6,35 xuyên thủng phổi, nên đã chết tự lúc nào... Cuộc điều tra tiến hành cho biết: hung phạm vào hạ sát ông Phạm Viên có lấy được số bạc chừng 7, 8 ngàn đồng mà ông bỏ trong hộc tủ...
Nhìn khắp mọi người một lượt, Trúc Tâm lại thong thả tiếp:
- Theo lệ thường, trong các cuộc điều tra, trước hết chúng tôi tìm biết: kẻ nào sẽ được lợi sau khi Phạm Viên chết đi. Nhưng đối với tất cả 6 vị ở đây, tôi đều thấy ai ai cũng có thê có duyên cớ hợp lý đê... hạ sát Phạm Viên đê hoặc là cầu lợi, hoặc là trả một mối thù riêng, mà họ đã giữ kín từ lâu nay...
Thấy cử tọa có vài người muốn nói, Trúc Tâm giơ tay cản lại, mà tiếp luôn:
- Những điều tôi nói đây đều có chứng cớ xác thực, vậy xin bất tất ai phải chối cãi làm gì... Riêng có điều: khi tiếng súng nổ, kết liêu đời Phạm Viên, thì tất cả 6 quý vị ở đây, đều có mặt trong phòng khách cả, vậy lý đương nhiên, không một ai có thê nhúng tay vào vụ ám sát này...
Nghe Trúc Tâm nói tới đây, mọi người như trút được gánh nặng, thở phào khoan khoái... Ngưng lại ít phút, Trúc Tâm lại nhìn mọi người mà hỏi:
- Trong quý vị đây, mấy bữa trước có ai đi xem chiếu bóng hay tuồng kịch gì không?
Ông Ba Cự đáp:
- Tôi và nhà tôi mấy bữa trước có đi coi gánh Hoàng Thanh diên vở Huyền Châu Nữ...
Vừa nói, ông Ba Cự vừa sờ vào túi, như có ý định tìm hai cuống vé vào cửa, nhưng ông bỗng lắc đầu:
- Quái, tôi nhớ lúc tôi móc túi lấy gói thuốc hút, còn thấy hai cuống vé trong túi, không hiêu tôi lại vứt đâu lúc nào rồi...
Trúc Tâm mỉm cười, nói:
- Cái đó không sao... Bây giờ, tôi chỉ xin quý vị hãy chú ý lắng nghe tôi nói...
Tuy tuyên bố như vậy, nhưng Trúc Tâm chỉ vén tay áo coi giờ, rồi ngồi lặng thinh, như chờ đợi cái gì, chứ chửa nói năng chi hết. Khoảng năm phút sau, chàng thanh tra thám tử mới lớn tiếng hỏi:
- Anh Năm có đấy không?
Một tiếng trả lời vọng lại, đáp:
- Có, cái chi đó, anh?
Trúc Tâm ra lệnh:
- Khởi sự đi anh Năm!
Thế là chưa đầy hai phút sau, một tiếng nổ rền từ lầu ba vọng xuống... Trúc Tâm hỏi mọi người:
- Quý vị có nghe thấy gì không?
Mọi người cùng đáp:
- Có tiếng súng nổ, đúng như đêm xảy ra vụ án mạng.
Trúc Tâm mỉm cười, rồi đúng lúc Phan Vỹ vùng đứng lên thì Trúc Tâm cũng đã áp tới, rút khóa tay, còng ngay hắn lại. Và Trúc Tâm cắt nghĩa:
- Phan Vỹ giết ông Phạm Viên không ngoài ý muốn sang đoạt gia tài, vì ông Phạm Viên không có con cái chi hết. Tên cháu bất lương này có lẽ đã tính toán từ lâu... Mà không chừng, hắn đã tập diên thử và thấy mọi lớp lang sắp đặt đều hoàn toàn đúng nhịp... Chai Bisquit, hắn cũng đã đê sẵn từ trước, chai gần cạn thì là một cớ cho hắn đi ra ngoài, còn chai đầy hắn đê sẵn giấu trong chiếc giỏ đựng đầy giấy, bên phòng làm việc bên cạnh đấy.
Nghe tới đoạn này, ông Ba Cự nói:
- A, tôi nhớ ra rồi, hai cuống vé coi hát, hồi chiều hôm ấy, tôi có vứt vào giỏ đựng giấy, khi ngồi tính toán công chuyện với ông Phạm Viên...
Trúc Tâm mỉm cười nói tiếp:
- Chính nhờ có cuống vé coi hát, dính ở dưới trôn chai rượu mà tôi biết được rõ rệt vụ này... Khi nói đi lấy rượu thì Phan Vỹ đã lên nhanh trên lầu, bắn chết Phạm Viên, rồi hắn đặt một chiếc pháo vào trong một chiếc lư đồng lớn, bày trên tủ chè, châm ngòi đốt. Nhanh nhẹn, Phan Vỹ trở xuống dưới nhà, lấy chai rượu đầy, mở cửa vào phòng khách... Vì lần trước cửa đóng nên không ai nghe thấy tiếng súng nổ, còn lần sau, tiếng pháo nổ mọi người cùng nghe vì hung phạm đã khôn ngoan mở rộng cửa lúc bước vào trong... Tất cả kế hoạch của Phan Vỹ chỉ nhằm một mục đích: làm sao cho mọi người tưởng ông Phạm Viên bị bắn khi hắn lại có mặt ở đây!
 
Trường học toàn là ma
Nhà ông Khương Bộ Lang ở phía nam sông Vị, có nhiều ma quỷ, thường nhát người ta, vì thế ông phải dời đi chỗ khác, bỏ nhà trống cho một lão bộc giữ cửa bên ngoài thôị Lão này bị ma làm chết. Thay thế mấy người khác cũng chết nốt, thành phải bỏ hoang.
Trong làng có Đào Sinh, tên Vọng Tam, tánh ưa phóng khoáng, thích chơi gái, nhưng uống rượu ngà ngà rồi bỏ về.
Bạn cố bảo mấy ả chạy theo lôi vào, chàng cười mà không cự tuyệt ở lại cách đêm song chớ hề đụng chạm tới bao giờ. Có lần ngủ đêm ở nhà ông Bộ Lang một nàng hầu đêm khuya đến tự hiến cho chàng, thế mà chàng khăng khăng chối từ, không chịu làm quấỵ Bởi thế, ông Bộ Lang càng trọng là người đứng đắn.
Có điều nhà nghèo, vợ lại mới chết, nhà tranh mấy gain, ẩm thấp nực nội khó chịu, bèn xin Bộ Lang cho ở tòa nhà bỏ hoang kiạ Bộ Lang nghĩ nhà ấy nhiều ma, cho nên từ chốị Chàng viết bài luận vô quỷ đưa cho ông xem, và nói:
- Ma có làm gì được mình mà sợ !
Bộ Lang thấy nài nĩ quá, đành chọ
Chàng dọn đến ở nhà giữa, mới chặp tối để quyển sách đó. về lấy đồ vật khác đêm đến, thì sách đã biến đâu mất rồi, liền nằm ngữa trên gi.ường, lặng lẻ chờ coi sự biến.
Giây lát nghe tiếng giày đi lẹp kẹp, liếc nhìn có hai thiếu nữ từ trong buồng đi ra, đặt quyển sách vừa mất trên bàn. Một cô chừng hai mươi tuổi, một cô độ mười bảy, mười tám, đều đẹp tuyệt trần, đứng quanh quẩn bên gi.ường, ngó nhau mà cườị Chàng làm thinh không nhúc nhích. Cô lớn co một chân lên gác trên bụng chàng; cô nhỏ bụm miệng cười khúc khích. Chàng nghe trái tim hồi hộp, dường như bồn chồn không làm sao cầm được, liền ngồi lên chửng chạc trong trí suy nghĩ đứng đắn trở lại rồi thì ngảnh mặt ngó lơ.
Cô lớn thò tay trái vuốt râu chàng, còn tay mặt gỏ nhẹ trên trán kêu lộp bộp, cô nhỏ thích chí, càng cười dữ. Bây giờ chàng vùng dậy quát tháo:
- Lũ quỷ sao dám hỗn xược thế à?
Hai cô hoảng sợ bỏ chạy mất. Chàng sợ bị quấy nhiễu cả đêm, ý muốn dọn về, nhưng đã lỡ nói cứng mất rồi, bỏ đi thì xấu hổ. Nghĩ vậy rồi khêu đèn sáng ngồi đọc sách, thoáng thấy bóng ma chập chờn trong xó tối, nhưng chàng mặc kệ.
Gần nửa đêm, để đèn mà ngủ, nghe như có người lấy vật gì nhỏ ngoáy vào lỗ mũi bắt hắt hơi bắn người lên, trong xó có tiếng cười sặc sụạ Chàng không nói chi, giả đò ngủ để xem còn làm trò gì nữạ Một lát, hé mắt dòm thấy cô nhỏ mon men đến nơi, chàng nhỏm dậy mắng rầm cả hai lui lủi trốn mất.
Chừng dỗ được giấc ngủ vừa thiêm thiếp, lại bị ngoáy lỗ taị Suốt đêm họ nghịch ngợm quấy nhiễu, hết trò này đến trò kia, mãi đến gà gáy mới yên. Lúc ấy chàng mới được ngon giấc, cả ngày không nghe không thấy gì lạ.
Đến mặt trời lặng trở đi, ma lại xuất hiện. Chàng bàn tính cách nấu cơm đêm, cho được thức luôn tới sáng. Cô lớn dần dà ngồi xếp bằng trên ghế xem chàng đọc sách, rồi thò tay bịt lấy sách, chàng giận chụp bắt, nàng vụt biến đị Chốc lại mò đến, chàng để tay chận trên sách mà đọc. Cô nhỏ lén đến sau lưng, đưa tay bưng lấy mắt chàng, rồi chạy vụt ra đứng xa xa mà cườị Chàng phát cáu điểm mặt nhiếc mắng:
- Con ma bắt tì kia, hễ tao bắt được thì giết chết cả đôi !
Nàng cũng chẳng sợ, nhơn dịp, chàng nói giỡn chơi:
- Cái trò lăn lóc trên gi.ường, tôi không thiện nghệ đâụ Các cô chọc nghẹo làm chi, vô ích !
Hai cô mỉm cười day mình đi vô trong bếp, chia nhau chẻ củi nhen lửa, vo gạo nấu cơm hộ chàng. Chàng ngó và khen:
- Hai cô làm việc có ích như thế, không hơn là nghịch ngợm ư?
Cơm nấu chín rồi lại tranh nhau lấy thìa muỗng đũa chén bày trên bàn, chàng nói:
- Cảm ơn phục dịch, lấy gì báo đền được nhau đây?
Nàng cười đáp:
- Trong cơm có bỏ thuốc độc đó, coi chừng kẽo chết.
Chàng trả lời:
- Xưa nay tôi có thù oán gì hai cô, lẽ đâu hại nhau đến thế?
Chàng ăn hết chén cơm, hai cô dành bới chén khác bưng lại, bôn tẩu xăng xái, chàng thấy rất vuị

Ngày ngày thành ra quen thân, cùng người nói chuyện, hỏi đến tánh danh, cô lớn nói:
- Em là Thu Dung, họ Kiều; con bé kia Tiểu Tạ, họ Nguyễn đó.
Chàng tò mò hỏi đến nguyên do tại sao ở chốn này, Tiểu Tạ cười và nói:
- Anh này ngốc quá! Đến mình mẩy còn chẳng dám phô ra cho người ta xem, ai mượn anh hỏi tới dánh tánh cửa nhà, dễ thường muốn xin cưới đó sao?
Chàng nghiêm nét mặt, nói:
- Đối diện người đẹp, bảo tôi vô tình sao được? Có điều âm khí nặng nề, người ta đụng vào tất là phải chết. Vậy, không vui ở chung với nhau thì nên đi, nếu vui ở chung với nhau thì cứ ở, ai yên phận nấỵ Ví bằng tôi chẳng được thương yêu, thì làm sao tôi xâm phạm được tới hai cô, ví bằng tôi đáng được thương yêu, thì chắc hai cô không nỡ lòng nào vật chết một thằng cuồng sị Hai cô thử nghĩ như thế có phải không?
Hai nàng nghe nói, ngó nhau có vẻ động lòng, từ đó trở đi không nghịch ngợm tinh quái nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn chơi đùa thọc tay vào bụng chàng, có khi lột quần xuống tới đất, chàng không lấy làm lạ.
Một hôm chàng chép quyển sách chưa xong, thì có việc gấp phải đi, lúc trở về thấy Tiểu Tạ đang cúi mình trên bàn, cầm bút chép nốị Nàng trông thấy chàng về, ném bút xuống đất mà cười; chàng đến gần xem, chữ viết tuy còn xấu, nhưng hàng lối ngay ngắn, tấm tắc khen:
- Cô viết khá đấy; nếu thích học thì tôi sẽ dạy chọ
Đoạn, ôm nàng vào lòng, cầm tay dạy viết.
Thu Dung ở ngoài chạy vô, mặt hơi tái, như có vẻ ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:
- Hồi em con bé, ông thân em đã dạy viết chữ song bỏ lâu ngày, giờ cầm bút như bỡ ngỡ mới tập vậỵ
Thu Dung chẳng nói gì, chàng hiểu ý, giả đò không biết, rồi cũng ôm nàng vào lòng, trao cây bút cho và nói:
- Tôi xem cô có viết được không nào?
Cầm tay nàng viết mấy chữ, đứng lên nói tiếp:
- Chữ cô Thu viết tố đáo để !
Bấy giờ Thu Dung mới hả lòng.
Liền đó chàng rọc hai tờ giấy làm nòng, cho hai nàng cùng tập viết, còn mình thì ngồi học với một ngọn đèn riêng, trong bụng mừng thầm ai cũng có việc làm, hết quấy rối nhaụ
Viết xong, hai nàng đem đến cho chàng sửa chữa phê bình.
Từ trước, Thu Dung vốn chưa từng đi học, cho nên chữ viết nguệch ngoạc bất thành tự. Sau khi nghe chàng chỉ bảo, nàng tự xét thua kém Tiểu Tạ, mặt có vẻ thẹn, chàng phải vỗ về yên ủi rất khéo, nhan sắc nàng mới tươi trở lạị
Hôm đó về sau, họ coi chàng như một thầy đồ, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp cẳng, đã không dám lớn mặt, lại còn tranh nhau chiều chuộng.
Cách mấy bữa, Tiểu Tạ viết chữ coi ngay ngắn tốt đẹp, chàng buộc miệng khen mãi, Thu Dung tủi thân, nước mắt rưng rưng, chàng phải khuyên giải đủ cách mới êm. Nhân đó, chàng lấy sách ra dậy học, cả hai cùng thông minh lạ thường, chỉ dạy qua một bận là nhớ, không hỏi tới hai lần. Thầy trò thi nhau đọc sách ê a, thường khi suốt đêm tới sáng.
Tiểu Tạ lại dắt thằng em là Tam Lang đến thọ nghiệp. Cậu này mới mười lăm, mười sáu tuổi, mặt mày điển trai, đem dâng lễ nhập môn là cái móc bằng vàng.
Chàng để Tam Lang học chung một sách với Thu Dung. Từ đó, chàng làm như mở trường dạy học toàn ma, cứ tối đến, tiếng đọc sách vang rân cả nhà. Ông Bộ Lang nghe lấy làm mừng, thỉnh thoảng cho người mang gạo củi tới giúp đỡ.
Được mấy tháng Thu Dung với Tam Lang đều biết làm thơ, thường cùng nhau xướng họạ Tiểu Tạ ngầm bảo chàng đừng dạy Thu Dung, chàng ừ; Thu Dung ngầm cũng bảo chàng đừng dạy Tiểu Tạ chàng cũng gật.
Một hôm, gần tới khoa thi, hai nàng cùng khóc lóc sắp tiễn đưa chàng ứng thí, nhưng Tam Lang nói:
- Chuyến này thầy nên cáo bịnh đừng đi thì hơn. Không vậy, e gặp sự chẳng lành đó.
Chàng nghĩ sự cáo bịnh trốn thì là nhục, cho nên cứ đị
Nguyên trước, chàng làm thơ chê bai thời sự, đã được chạm tới một nhà quý phá trong bản hạt; lão này vẫn ghi mối thù, đêm ngày tìm cách làm hạị Nay lão đem tiền đút lót quan đốc học, vu chàng hạnh kiểm không tốt, bắt giam vô ngục dây dưạ Chàng hết sạch tiền túi, khải xin ăn quanh bạn đồng tù, trong lòng tự nghĩ mình đến chết khô ở chốn này, không trông gì được sống nữạ
Bỗng thấy một người thoáng vào chỗ giam, nhìn ra chính là Thu Dung đem cơm đến nuôi chàng. Hai người ngó nhau khóc thút thít, nàng nói:
- Tam lang từng lo thầy đi chuyến này gặp sự chẳng lành, nay đã quả nhiên. Tam lang cùng đi với em, nhưng hắn cầm đơn vào phá viện kêu oan rồị
Nói qua loa một hai câu rồi nàng đi ra, nội ngục chẳng ai trông thấy gì cả.
Hôm sau, quan Hình bộ đi ra, Tam Lang đón đường kêu là có chuyện oan khuất, quan chấp đơn và giữ cả người để xét.
Thu Dung lại vô ngục báo tin cho chàng, rồi trở ra đi dò thăm, luôn ba ngày không thấy mặt, cah`ng buồn lòng đói bụng, coi một ngày đằng đằng như một năm.
Chợt thấy Tiểu Tạ đến, mặt mài ủ rủ muốn xỉu, nói Thu Dung bữa kia ở đây về, đi qua miễu Thành Hoàng, bị Ông Phán quan mặt lọ nồi ở hành làng mé tây chạy ra bắt đi, ép nàng làm vợ bé. Nàng không chịu khuất , hiện đang bị giam kín. Em rong ruổi hơn trăm dặm đường, vất vả muốn chết, khi đến cửa bắc lại bị gai gia đâm vào giữa gan bàn chưn đau buốt thấu xương tủy, em bận sau em không tới đây được nữạ
Nói đoạn, đưa bàn chưn ra phô, máu còn đóng giây đóng cục; vội vã trao tay cho chàng ba lượng vàng, rồi khập khễnh biến đị
Quan Hình bộ xét vụ Tam Lang khiếu nại, thấy và chẳng có họ hàng thân thuộc chi với bị cáo mà tự nhiên thay mặt kêu oan, cho thế là sự trái nghịch, toan thét lính căng nọc đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất, quan lấy làm kinh dị, xem tờ khiếu nại, thấy lời lẽ tha thiết, liền gọi lính giải chàng đến trước mặt xét hỏi Tam Lang là người thế nàọ Chàng giả đò không biết. Quan biết chàng oan uổng, lập tức thả về.
Chàng về nhà suốt cả buổi tối chả thấy một người nào tới, mãi đến nửa đêm mới thấy Tiểu Tạ bước vào sầu thảm và hỏi:
- Tam Lang biến ở sân quan Hình bộ, lập tức bị thần áp giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy và có nghĩa, đã phú cho đi thác sanh vô nhà giàu sáng rồị Còn Thu Dung thì vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu Thành Hoàng, lại bị ngăn trở không được vô, giờ làm thế nào?
Chàng nghe nổi doá nắng chửi um sùm:
- Thằng quỷ lọ nồi, sao dám ỷ thế hiếp người như vậy kìa? Để mai tao đạp pho tượng nó mà chà thành đất bùn, lại điểm vào mặt Thành Hoàng hỏi tội lão, tại sao để cho thuộc hạ bạo tàn đến thê? Lào ta say sưa mê mộng không biết hay sao?
Hai người bi phẫn nhìn nhau, mãi tới gần hết canh tư, bỗng Thu Dung vụt đến, làm cho hai người mừng rỡ sửng sốt vô cùng. Thu Dung khóc và nói:
- Thật là vì chàng mà em phải chịu muốn vàn khổ nhục. Lão phán quan lọ nồi hàng ngày đưa dao gậy ra hiếp bức. Đêm nay tự nhiên thả cho em về nói rằng: "Ta không có ý gì khác đâu, chỉ vì thấy người đẹp mà thương yêu, nếu lòng chẳng khứng thì ta cũng chẳng nỡ ép nhau mãị Giờ tha nàng về, cảm phiền nói nhắn với ông Đào Thu Tào, chớ hiềm thù trách giận ta nghe".
Chàng nghe chuyện vui lòng hả dạ đôi chút. Nhân dịp cao hứng, muốn cùng ngủ chung một gi.ường, nói rằng hôm nay vì khanh mà chết cũng cam. Hai nàng nhăn nhó và nói:
- Bấy lâu nhờ chàng dạy bảo, chúng tôi hơi biết nghĩa lý ít nhiều, nỡ lòng nào lấy sự yêu chàng để giết chàng cho đành?
Hai nàng nhứt định không chịu ngủ chung, nhưng nghiêng đầu bá cổ, tình thân mật y như vợ chồng. Vì có gặp tai nạn, ý nghĩa ghen tương của họ đà tiêu đi hết.
Một vị đạo sĩ gặp chàng ngoài đường, bảo chàng có quỷ khí; chàng nghe nói lạ, bèn ngỏ chuyện thật. Đạo sĩ nói:
- Ma đó tốt lắm, chớ nên phụ nó.
Rồi viết hai lá bùa trao cho chàng, căn dặn:
- Về trao cho mỗi cô ma một lá bùa này, để tùy theo phước mạng run rủi, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc con gái, thì nuốt lá bùa chạy ra tức khắc, cô nào ra trước thì sống lạị
Chàng cảm tạ, đem bùa về trao cho hai nàng, căn dặn như lời đạo sĩ.
Hơn tháng sau, quả nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái, hai cô tranh nhau chạy rạ Tiểu Tạ lật đật quá, quên nuốt lá bùạ Khi thấy đám táng vừa đi ngang, Thu Dung chạy thẳng tới, chun vô quan tài, còn Tiểu Tạ không chun vô đặng, khóc lóc trở về.
Chàng liền ra xem, thì ra đám táng người con gái nhà giàu, họ Hác; ai nấy cùng trông thoáng thấy một cô thiếu nữ chun vô quan tài rồi mất, đều xầm xì bàn tán, cho là chuyện quái lạ. Giữa lúc đó, nghe trong quan tài có tiếng động, người ta bèn đỗ lại để mở ra xem, thấy Hác nữ đã tỉnh lạị Tang gia bèn xin tạm ký ở ngoài cửa nhà học của chàng, sai người canh giữ.
Bỗng nàng mở mắt, hỏi Đạo Sinh đâu? Hác gia lấy làm lạ, xúm lại gạn hỏi nguồn cơn, nàng đáp:
- Ta không phải là con gái nhà ngươi nữa đâụ
Rồi kể rõ sự tình đầu cuốị Hác gia không tin, muốn khiêng về nhà. Nàng không nghe, chạy tuốt vô nhà học, nằm lỳ không dậỵ Hác gia đành nhận diện ở chàng là chú rể, rồi kéo nhau đị
Chàng đến gần xem, tuy diện mạo có khác, nhưng vẽ kiều diễm không kém gì Thu Dung, mừng quá sở vọng cùng nhau nhắc chuyện bình sanh một cách niềm nở. Chợt nghe góc nhà có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang khóc một mình trong xó tốị Hai người rất thương cầm đèn đến soi và kiếm lời yên ủi, thấy nàng vẫn khóc nức nỡ, áo xuống đẫm lệ, cứ thế cho tới gần sáng mới đị
Sáng ngày, Hác gia đem rương hòm y phục vào cho mấy người hầu hạ sang ở nhà chàng, nghiễm nhiên thành nhạc gia và gia tế vậỵ
Tối lại, chàng vô buồng vợ, thì Tiểu Tạ lại khóc thảm thiết, kéo luôn sáu bảy đêm khiến hai vợ chồng cùng xót thương cảm động, không thành lễ hiệp cẩn với nhau đặng. Chàng lo nghĩ nát ruột không tìm ra kế gì. Thu Dung nói:
- Đạo sĩ chắc là tiên, vậy mình lại đi tìm ông mà cầu khẩn, may ra ổng thương tình cứu giúp.
Chàng lấy làm phải, liền đi tìm đến Đạo sĩ, quỳ mọp xuống dất bày tỏ sự tình. Đạo sĩ một mực trả lời rằng không có phép gì giúp được. Chàng ai cầu mãi, Đạo sĩ cưới, nói:
- Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta thôị Nhưng, thật anh có duyên số với con ma đó nữa, thôi để ta ráng sức giúp chọ
Đạo sĩ liền theo chàng về nhà, dời ở riêng một gian tĩnh mịch, đóng cửa ngồi bên trong, bảo không ai được gọi hỏi gì cả. Luôn mười đêm ngày không hề ăn uống. Lén dòm, thấy ông ngồi thiếp như ngủ.
Một hôm mới tảng sáng, có một thiếu nữ vén màn bước vô, mắt sáng miệng tươi, vẻ rất kiều diễm, mỉm cười và nói:
- Tôi bương chải suốt đêm, mệt quá. Bị ngà ngươi đeo theo làm rộn, mà phải bôn tẩu hơn trăm dặm đường, mới tìm ra một tòa nhà tốt đặng vô nghỉ chưn. Đạo sĩ đi rước và cùng đến đâỵ Chờ nàng vô để giao phó thì xong.
Chặp tối, Tiểu Tạ đến, thiếu nữ vội vàng đứng lên đón, ôm chầm lấy nàng, tức thời hai người nhập chung vào một th.ân thể, rồi ngã gục xuống đất, cứng đơ.
Lúc ấy, Đạo sĩ từ trong phòng bước ra, vòng tay chào rồi đi thẳng.
Chàng cảm tạ, tiễn chưn ra tới ngoài; chừng trỏ vô thì nàng đã tỉnh, liền ôm đặt lên gi.ường. Hơi thở dần dần điều hòa, nhưng vẫn ôm cẳng la đau, mấy hôm sau mới đứng dậy đi lại được.
Sau, chàng đi thi, được khôi nguyên ghi tên va danh sách sĩ tử. Có bạn cùng số là Thái Tử Kinh, nhơn việc đến nhà chàng, ở chơi mấy ngàỵ Tiểu Tạ qua thăm lối xóm trở về, Thái trông thấy, rảo bước theo dõị Tiểu Tạ kiếm đường tránh đi, trong trí thầm giận người khách vô lễ. Thái về nói với chàng:
- Có một chuyện quái lạ vô cùng, anh có cho phép tôi nói chăng?
Chàng hỏi chuyện chi, Thái đáp:
- Ba năm về trước, cô em gái tôi chết yểu, cách hai đêm thì mất thi thể, đến nay hãy còn ngờ vực khó hiểụ Mới rồi dòm thấy phu nhơn sao mà giống cô em tôi hết sức.
Chàng cười:
- Vợ tôi là người quê mùa, làm sao sánh được quý muội, nhưng tôi với anh đã là bạn đồng phả với nhau, nghĩa rất thân thiết, vậy để tôi cho nhà tôi ra chàọ
Nói đoạn vô nhà trong, bảo Tiểu Tạ lấy đồ tuẫn táng hôm nọ mà mặc, rồi ra chào khách. Thái thất kinh nói:
- Chính em tôi đấy mà.
Rồi khóc rưng rức. Chàng thuật chuyện gốc ngọn cho nghe, Thái mừng rỡ nói:
- Thế là em gái tôi chưa chết, tôi phải về liền, báo tin cho bà thân mẫu tôi yên lòng.
Mấy hôm sau, cả Thái gia kéo đến thăm, từ đó về sau, thường thường lui tới như Hác gia vậỵ
 
k ngờ truyện ma mà kết thúc cũng có hậu ghê
 
Ngày xửa ngày xưa có một con ma nó dọa người ta! HẾT!!! Thôi ghê quá hem kể nữa!:KSV@19:
 
truyen ma hay that nhung minh so doc dem lam
 
cái này có file nghe thì hay hơn nhỉ?
 
Nghe cứ như là viết ra(tự chế)..Nghe hủm hay..
 
×
Quay lại
Top