Rồng Tiên lược truyện

57. CÂU CHUYỆN DUYÊN TÌNH

PHẦN 1

Ngày xửa ngày xưa ở vào thời Thượng Hùng Vương Bách Việt Văn Lang giàu mạnh, dân chúng an hưởng thái bình âu ca, nhiều câu chuyện xảy ra vô cùng tươi đẹp trong đó có câu chuyện duyên tình ly kì hấp dẫn.

Ở làng An Thọ, Huyện An Phú có một gia đình Ông Bà Cao Niên nổi tiếng là ăn ở hiền lành có người con trai tên là Hiếu không may lâm bệnh qua đời, từ đó Ông Bà Cao Niên không có đứa con nào nữa. Dù đi cầu con hết chỗ nầy đến chỗ khác cầu mãi cũng không được. Có người bày Ông Bà Cao Niên đến Trung Châu có Điện Thờ Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ cầu con. Một hôm Ông Bà Cao Niên đi cầu con ở Điện Thờ Cha Trời Mẹ Trời trở về bỗng nghe tiếng trẻ con khóc Ông Bà liền chạy đến thấy một bé trai nằm trong cái nôi. Không biết là con của ai hai Ông Bà chờ cho đến tối cũng không thấy ai đến nhận. Hai Ông Bà liền đem bé trai ấy về nuôi, đặt tên là Cao Minh.

Cao Minh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú thông minh kỳ lạ nhất là hiếu thảo đối với Cha Mẹ ít ai bằng. Ngày nào Cao Minh cũng đi bắt cá về cho Cha Mẹ ăn tuy mới sáu bảy tuổi, không may cho Cao Minh Ông Bà Cao Niên lần lượt qua đời Cao Minh trở thành mồ côi mồ cút. Dân làng thấy thương nên thường giúp đỡ năm lên 10 tuổi Cao Minh bị một trận lụt lớn xóm làng tiêu điều Cao Minh bị nước cuốn trôi về hạ lưu được một người cứu vớt đem về nuôi.

Với cái ơn cứu mạng Cao Minh coi như là cha mẹ thứ hai. Người cứu Cao Minh là ông bà Phổ làm trợ lý cho Ông Chủ Hiệp Gia một nhà giàu tầm cỡ ở Thương Châu. Ông Bà Phổ có một người con trai tên là Tú Sang tuy còn nhỏ mà đã có tính ăn chơi tối ngày lêu lỏng bạn bè hết chỗ nầy đến chỗ kia. Cao Minh lại khác thường theo ông Phổ đến nơi làm việc xem coi sổ sách.

Cao Minh càng lớn càng khôi ngô tuấn tú lại thông minh khác thường, học một biết mười thấy đâu nhớ đó. Ông Phổ thường nói với bà Phổ Cao Minh có lẽ là con Trời nước cuốn trôi không chết lại có nhiều cái tài mà người thường không thể nào có được. Ông Bà Phổ luôn coi Cao Minh như con ruột ra sức truyền dạy cho những ký hiệu cái chữ sau nầy tiếp nối Ông làm việc cho Hiệp Gia. Với tính thông minh trời ban Cao Minh học đâu nhớ đó sáng kiến, sáng tạo nhất là phát minh những cái hay cái mới Ông Chủ Hiệp Gia luôn khen vùi nói rằng Ông Phổ dạo nầy có nhiều sáng kiến mới lạ làm cho Hiệp Gia luôn trôi chảy trong công việc tính toán giao thương làm ăn thông suốt. Cao Minh tuy mới mười 11 tuổi nhưng đã giỏi hơn Ông Phổ. Nhờ sự trợ giúp của Cao Minh Ông Phổ luôn làm việc trôi chảy nhanh chóng Ông Chủ Hiệp Gia không hề hay biết chuyện nầy.

Gần nhà ông bà Phổ là dòng sông chảy về hạ lưu Cao Minh vốn thích miền sông nước vì thường ra đồng bắt ốc mò cua bắt cá từ nhỏ nên thường đến dòng sông hạ nầy để tắm thấy đủ loại cá nhiều vô số kể nhưng không cách nào bắt được. Cho đến một hôm Cao Minh đến cánh đồng bất ốc mò cua bắt cá bên dòng sông Hạ. Thấy một cụ Ông râu tóc bạc phơ tiên phong đạo cốt ngồi câu cá dưới bóng cây không biết cụ Ông từ đâu đến. Cao Minh tò mò đến hỏi, thưa Cụ Ông, Cụ Ông từ đâu đến con thường tắm nơi đây thấy nhiều cá lạ lắm, có một hôm con thấy một đàn cá độ tám chín con đủ màu sắc đẹp vô cùng nhưng con không cách gì bắt được chúng.

Nhưng từ đó đến nay hơn hai tháng con không thấy đàn cá ấy nữa. Ông Cụ kinh ngạc con nhìn thấy chúng sao? Cao Minh lễ phép nói thưa Cụ con đã thấy chúng. Ông Cụ nghe xong nói Ý Trời loại cá nầy không dễ gì thấy chúng được đâu. Chúng là cá Long Châu, có Long Đơn sống hơn nghìn năm có khi đến vài nghìn năm loài cá nào thấy loài cá nấy đều tránh xa không dám tới gần trong mình chúng thường phát ra những luồn điện cực mạnh. Loài cá nào trúng luồn điện đó đều bất tỉnh nên không có loài cá nào dám đến gần.

Cao Minh hỏi có phải Cụ Ông đến đây câu chúng không? Cụ Ông nói ta nhìn lên bầu trời xem thiên tượng biết cá Long Châu xuất hiện nơi đây trên dòng sông nầy nên ta đến đây để câu chúng. Không bao lâu nữa chúng sẽ ra biển rồi đi đến những dòng sông lớn trên địa cầu, không mong gì tìm ra chúng nữa. Xưa nay ít ai thấy chúng nói gì đến bắt được chúng, hơn nữa người thường không bắt được đâu. Không khéo mất mạng với chúng. Mọi sự vật trên đời nầy đều do Ông Trời sắp xếp Trời cho ai nấy được.

Con có duyên thấy chúng thời chúng thuộc về con. Nhưng bắt được chúng không dễ phải tu tập Long Trảo, đi đôi với pháp môn ngự thủy mới bắt được chúng. Cụ Ông nói ta ở đây đã ba ngày ba đêm rồi, chờ mãi không thấy chúng xuất hiện. Mà người xuất hiện gặp Ta chính là con. Ý Trời vậy Ta truyền cho con tâm pháp ngự thủy, cũng như Long Trảo để bắt chúng, khi bắt được chúng con mổ bụng lấy Long Dơn nuốt vào bụng sau đó đem chúng nướng ăn không bỏ sót chút xương. Cụ Ông nói xong liền truyền tâm pháp ngự thủy cũng như năm chiêu Long Trảo cho Cao Minh. Cao Minh nghe tới đâu thời nhớ tới đấy. Thấy Cụ Ông biểu diễn năm chiêu Long Trảo nhớ không sót một chỉ tiếc nào.

Cụ Ông lấy làm kinh ngạc thiên tài đúng là thiên tài. Cụ Ông nói Ta truyền cho con mười thần công lực con mới bắt được nói. Truyền xong Cụ Ông phi thân đi đâu mất Cao Minh cũng không biết là Cụ Ông đi đâu. Cao Minh liền xuống sông tắm thấy sức khỏe thần lực tăng lên một tăng lên một cánh kỳ lạ bơi không biết mệt, lặng sâu xuống đáy sông cũng không sao, và từ đó Cao Minh thường đến sông luyện tập năm chiêu Long Trảo sau đó bắt những con cá đắt tiền đem về cho cả nhà gia đình ăn.

Cao Minh ngày nào cũng ra sông bắt cá phát hiện ra đàn cá Long Châu lấy làm mừng rỡ bơi theo dùng long trảo công chụp bắt khó khăn lắm mới bắt được một con. Cao Minh làm theo lời dặn của Cụ Ông mổ ruột cá Long Châu thấy có viên Long Đơn tròn to bằng ngón tay út tỏa mùi thơm kỳ lạ bằng nuốt Long Đơn vào bụng sau đó đem nướng ăn. Cao Minh thấy trong người nóng rang bằng nhảy xuống sông lặn sâu xuống đáy ngồi thiền tĩnh tọa cho bớt nóng sau đó thời bắt mấy con cá đem về.

Cứ như thế lần lượt Cao Minh bắt hết chín con cá nuốt chín viên Long Đơn ăn hết chín con cá tịnh tu dưới đáy sông chín lần.

Cao Minh vừa ra đến bờ sông liền nhìn thấy Ông Cụ. Cao Minh vô cùng mừng rỡ chạy đến nắm lấy tay Ông Cụ nói hơn tháng nay ngày nào con cũng ra đây hầu mong tìm thấy Ông. May quá hôm nay Ông đã đến con đã ăn hết đàn cá Long Châu Ông Cụ hỏi ăn được mấy con? Cao Minh nói chín con Ông Cụ nghe xong lấy làm kinh ngạc. Ông nói con ăn hết chín con cá Long Châu mà vẫn bình yên vô sự sao? Chỉ cần một con nếu không có pháp môn tịnh thủy thời cũng khó mà chịu nỗi sức nóng của nó. Cao Minh kể mỗi lần ăn cá Long Châu thời cơ thể nóng ran như lửa con bằng lặn xuống đáy sông thiền tịnh. Ông Cụ nghe Cao Minh nói thế lấy làm kinh dị không ngờ Cao Minh lại tu luyện được Âm Dương thần công thượng thừa, đây không phải là Ý Trời là gì vô tình gặp hết kỳ duyên nầy đến kỳ duyên khác. Cụ Ông bắt kinh mạch thấy trong người Cao Minh ẩn chứa tiềm lực nội công vô biên mỗi con cá Long Châu cũng đã tăng đến mười năm công lực. Nay Cao Minh đã ăn hết chín con thời tìm năng bằng chín mươi năm công lực cộng thêm mười năm công lực trước đây Cụ Ông đã truyền cho Thần Công, Công lực Cao Minh hiện giờ khủng khiếp đến mức độ nào. Ông Cụ dặn rằng mỗi ngày con ra đây để ta truyền dạy võ công nói xong Ông Cụ biến đi đâu mất không rõ là đi đâu.

Từ đó Cao Minh thường ra sông học võ công cũng như bắt cá đem về phụ giúp gia đình toàn là những con cá ngon. Tú Sang vốn rất thích ăn cá nên nói Đệ bắt cá giỏi như vậy thời bắt cho gia đình để ăn. Theo Cha lên Hiệp Gia làm gì họ đâu trả thêm đồng lương nào bắt cá về ăn có lợi ích hơn. Hơn nữa mấy bạn Huynh cũng thích loại cá nầy lắm. Nên từ đó Cao Minh thường vắng mặt ít ở nhà chỉ ra sông bắt cá ngon đem về là xong. Thấm thoát thời gian đã được ba năm, Cụ Ông liền nói với Cao Minh Thầy đã truyền dạy hết võ công cho con rồi, giờ chỉ còn va chạm vào đường đời tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống, trở thành kỳ nhân trong đời nói xong Ông Cụ phi thân biến mất.

Cao Minh vốn là người thông minh tột đỉnh lại ham mê võ học thường tìm nơi vắng vẻ nghiên cứu võ học cũng như vận hành chân khí khai thông các huyệt đạo tai mắt chân tay Cao Minh trở nên linh hoạt lạ thường nhất là Môn Ngự Thủy có thể lặn xuống đáy sông cả ngày mà không sao.

Cao Minh giờ đây trở thành một thiếu niên đẹp trai khôi ngô tuấn tú, đã mấy năm rồi không theo Ông Phổ đến Hiệp Gia. Hiệp Gia mấy năm gần đây làm ăn tiền vô như nước giao thương tấp nập kẻ ra người vào Ông Phổ bận việc tối ngày còn đâu mà quan tâm đến Cao Minh.

Một hôm Ông Phổ nhìn Cao Minh đã lớn có thể làm thế Ông lần lần những ngày Ông mệt mỏi không đi làm được. Ông nói con khỏi ra sông bắt cá làm gì phải đi đến một việc làm ổn định là thay thế Cha làm trợ lý sổ sách, tiền lương cũng khá lắm dành dụng ít vốn liếng sau nầy lập gia đình. Cao Minh vốn trong người có chí lớn khác gì Thuồng Luồng nào chịu ở cạn bằng theo ông Phổ đến nơi làm việc vô tình nhìn thấy một tiểu thơ xinh đẹp tuyệt trần ngơ người ra đứng nhìn người đâu mà đẹp như tiên. Ông Phổ tằng hắng nói con gái của Ông Chủ đấy tên là Ngọc Kiều. Cô Ta hiền lành lắm không như cô chị Thúy Vân, cô chị cũng xinh đẹp nhưng không bằng. Thường thường hể có trà ngon Cô Ngọc Kiều thường bưng lên cho cha.

Cao Minh đi làm hơn mười ngày Ông Phổ bị ốm không đi làm Cao Minh đi làm thay đang chú tâm vào công việc nghe tiếng chân đi vào Cao Minh không để ý đó là ai, Chừng nghe tiếng nói ngọt ngào vang lên mời chàng dùng trà. Cao Minh ngước nhìn lên thời bắt gặp đôi mắt mê hồn đang chăm chú nhìn mình. Cao Minh trong lòng cảm thấy nóng rang cũng như rung động trước vẻ đẹp thiên kiều khiêu sa lộng lẫy. Liền ấp a ấp úm chào tiểu thơ. Ngọc Kiều bụm miệng cười nói thiếp biết chàng lâu rồi con nuôi của Chú Phổ. Chỉ trong vòng ba năm mà Chàng khác đi rất nhiều không còn là một đứa trẻ như hôm nào thường theo Chú Phổ đến đây thiếp đã xem qua những gì chàng đã làm việc, có khi còn xuất sắc hơn Chú Phổ. Không hiểu ba năm nay chàng đi đâu không thấy đến tưởng đâu là chàng không đến nữa. Nay chàng trở lại làm việc Thiếp rất mừng. Thiếp sẽ mang trà cho chàng hàng ngày.

Cao Minh nghe lời nói của Ngọc Kiều lan tỏa thấm đầy trong tim. Ngọc Kiều mỗi lần chạm vào ánh mắt của Cao Minh ánh mắt sáng quắc đầy uy nghi nhưng đầy tình yêu trìu mến làm tim nàng rung lên từng hồi. Thế là hai người ngày nào cũng gặp nhau rồi đi đến yêu nhau, sự yêu đương ấy bị Ông Chủ Hiệp Gia bắt được nhiều lần Ông vô cùng giận dữ tìm hiểu ra Ông mới biết Cao Minh là con nuôi của Ông Phổ. Ông gặp Ông Phổ nói từ nay Ông không được dẫn Cao Minh đến đây nữa cũng như nghiêm cấm Ngọc Kiều không cho gặp Cao Minh. Hai người từ đó cách xa nhau lòng thương nhớ vô cùng. Tú Sang quát mắn Cao Minh. Đệ quả là không biết thân phận dám đi yêu con Ông Chủ cũng may là Ông Chủ không đuổi cha của Huynh, Ông Phổ nhìn Cao Minh thở dài.

Cao minh vì muốn giải tỏa sự căng thẳng, đối với người Cha nuôi liền nói thưa Phụ Thân Phụ Mẫu con muốn về Tân Thọ thăm mồ mả Cha Mẹ. Tú Sang nói Đệ nên đi đi Ông Chủ mà thấy Đệ đến chỗ làm thời coi như gia đình Huynh không còn chỗ đứng.

Cao Minh trong lòng vô cùng buồn khi nghe lời nói của Tú Sang. Cao Minh từ biệt gia đình trở về Làng Tân Thọ. Khi đến nơi thấy Làng Tân Thọ làm ăn khấm khá giàu có hơn hồi xưa nhiều. Cao Minh nhớ rất rõ đường đi nước bước trong Làng. Nhìn ngôi nhà tranh rách nát cây cối um tùm thời dâng lên bao nỗi niềm cảm xúc. Cao Minh nhớ lại khi còn nhỏ có một cái hộp Cha Mẹ cất rất kỹ không biết đựng gì trong ấy nghe nói cái hộp đó có từ lúc mình sanh ra đời. Cao Minh vào trong ngôi nhà sụp xệ rách nát đến nơi cất giấu cái hộp may thay cái hộp vẫn còn nguyên chỗ cũ không bị trôi. Cao Minh lấy cái hộp bỏ vào túi rồi đi đến hai ngôi mộ Cha và Mẹ đến nơi thấy hai ngôi mộ cây cỏ mọc um tùm Cao Minh liền nhổ sạch vái lạy Cha Mẹ nói con về viếng thăm Cha Mẹ, Cha Mẹ ở trên trời có linh thiên thời phù hộ cho con gặp được nhiều sự may mắn.

Cao Minh nhớ đến chiếc hộp liền mở ra coi trong chiếc hộp không có gì cả ngoài một tấm da có vẽ sơ đồ một dãy núi trong đó có ngọn núi Thiên Sơn Lãnh. Cao Minh nghĩ tìm đến Thiên Sơn Lãnh may ra tìm thấy sự đổi đời. Thế là Cao Minh tìm người để hỏi được biết Thiên Sơn Lãnh cách nơi hơn nghìn dặm là một dãy núi cao ít người lui tới. Cao Minh dùng kinh công thượng đẳng vượt suối vượt núi vượt rừng ngày đi đêm nghĩ không bao lâu thời tới Thiên Sơn Lãnh. Cao Minh nhìn thấy dãy núi rộng lớn có một ngọn núi cao chọc trời Cao Minh biết đó là ngọn núi Thiên Sơn Lãnh. Cao Minh dùng kinh công thượng thừa phóng vút đi vượt qua bao ghềnh đá cheo leo hiểm trở.

Trước mắt Cao Minh là một cảnh quang phải nói vô cùng xinh đẹp không khác gì cảnh tiên. Cao Minh liền phi thân đến đó có nhiều trái cây đã chín đỏ thế mà không thấy loài chim đến để ăn. Cao Minh nghe mùi thơm từ trái cây chín lan tỏa liền nghe bụng đói như cồn hái vội vài trái bỏ vào miệng thấy rất ngon. Cùng lúc ấy một con khỉ trắng xuất hiện nhìn Cao Minh không nói gì trên trời có một đàn chim bay đến định ăn trái cây, nhưng con khỉ trắng đuổi đi. Sự nhanh nhẹn của con khỉ trắng đến nổi Cao Minh cũng phải kinh ngạc hình như con khỉ trắng nầy biết thuật phi thân. Cao Minh hỏi ngươi là chủ nhân ở đây con khỉ trắng lắc đầu Cao Minh sững suốt té ra con Vượn trắng nầy biết tiếng người. Cao Minh nói chủ nhân của ngươi ở đâu dẫn ta đến đó được không? Con khỉ trắng nghe xong liền gật đầu rồi phi thân bay qua thung lũng đến một sơn động.

Cao Minh vào trong sơn động thời thấy một bộ xương khô, trước mặt bộ xương khô là thanh cổ kiếm, với một cuốn bí kiếp võ công. Cao Minh cúi đầu vái lạy khấn rằng con là Cao Minh xin cúi đầu vái lạy Tiền Bối. Con Khỉ Trắng đứng bên như ra hiệu cầm lấy cuốn bí kiếp võ công, cũng như thanh cổ kiếm. Cao Minh hiểu ý bằng cầm cuốn bí kiếp võ công lên xem. Thì ra là Dịch Chân Kinh dạy phương pháp tu tiên luyện đạo. Cũng như võ công tuyệt học nội công tâm pháp thượng thừa, trong đó có ba chiêu kiếm pháp hàng Ma phục Quỷ. Cao Minh là người thông minh xem tới đâu liền lãnh hội tới đó. Thấy ba chiêu kiếm kỳ bí lạ đời bằng ở lại Thiên Sơn Lãnh tu luyện hơn một năm mới luyện xong, ngồi suy tư nhớ đến Ngọc Kiều. Không biết Ngọc Kiều còn nhớ đến mình không. Còn mình thời không thể nào quên Ngọc Kiều được. Bằng từ giả Vượn Trắng mang theo thanh kiếm cổ phi thân xuống núi trở về Hiệp Gia.

Nói về Hiệp Gia Cha Ngọc Kiều bận tiếp đón một người khách đặc biệt tên là Phú Hải ở Lô Châu, dẫn theo con trai là Phú Sinh một chàng trai giỏi kinh doanh không khác gì Ông Phú Hải,

một gia đình danh giá phải nói giàu có lừng danh cả mấy châu.

Ông vốn biết Hiệp Gia có hai người con gái xinh đẹp, nổi tiếng là thông minh. Ông đã nhìn thấy qua Thúy Vân và Ngọc Kiều lấy làm vừa ý. Nên hai bên có sự sắp xếp cho Phú Sinh gặp Thúy Vân, cũng như Ngọc Kiều.

Ngọc Kiều vì đã phải lòng Cao Minh, nên không có gì hứng thú gặp người mình không ưa thích trong lòng muốn yên tĩnh nên không diện kiến với Phú Sinh. Lại thấy Chị Thúy Vân hôm nay trông lộng lẫy hơn mọi ngày, chỉ cần một Thúy Vân cũng đủ cần chi đến mình. Ngọc Kiều đến một khu vườn hoa ngồi suy tư nhớ đến Cao Minh hơn năm rồi không gặp còn gì không biết bây giờ chàng ở đâu.

Ngọc Kiều vừa khảy đàn vừa hát để trút đi bao nỗi tâm tư.

Ôi nhìn về tương lai

Mịt mù và xa xăm

Ôi thời gian xa nhau

Bao nỗi nhớ niềm thương

Những ngày tháng cô đơn

Nhớ chàng trai

Đã ra đi

Thời gian vẫn lặng câm

Mơ về một giấc mơ

Về với em về lại với ngày xưa

Giòng lệ mi đã thấm đầy đôi má, ôi nghịch cảnh đâu dễ gì mà vượt qua.

Bỗng xa xa một giọng ngân nga trái tim nàng như muốn nổ tung.

Từng ngày dài trôi qua

Từng giọt lệ trên mi

Nỗi buồn và chia ly

Nhớ chúng ta bên nhau

Cùng ngắm hạt mưa rơi

Và giờ đây còn đâu

Chỉ là một giấc mơ

Ôi trái tim thương yêu

Như đông lại

Cũng lịm dần chết theo thời gian

Ngọc Kiều nghe những dòng thơ thương nhớ ngập tràn ấy liền chạy ngay đến nơi có tiếng hát. Ngọc Kiều nhìn thấy Cao Minh đứng dưới một gốc cây liền lao nhanh đến ôm chầm lấy Cao Minh, hai người cứ thế ôm nhau. Bỗng một cơn mây kéo đến những tiếng sấm sét làm hai người sực tỉnh. Ngọc Kiều cầm tay Cao Minh nói em sẽ không lấy bất cứ ai ngoài chàng dù cho cho có tan xương nát thịt. Cao Minh nói anh cũng thế trên đời nầy chỉ có em. Bỗng nghe tiếng gọi Ngọc Kiều đâu sao không thấy nó ở trong phòng khi ngoài trời đã sắp mưa. Biết không thể ở lại được nữa Cao Minh từ giả Ngọc Kiều rồi phi thân biến mất. Ngọc Kiều nhìn thấy thất kinh thì ra chàng là một cao thủ võ lâm tia hi vọng đã lé lên trong tim nàng.

Nói về Phú Sinh đã phải lòng ngay Thúy Vân vừa mới nhìn thấy Thúy Vân thời đã say mê ngây ngất với nụ cười hút hồn pha chút đáng yêu làm cho Phú Sinh càng thêm chết đứng. Thế là đi đến hôn nhân Thúy Kiều theo chồng về Lô Châu cùng chồng khuếch trương thương gia.

Nói về Hiệp Gia đã gả Thúy Vân cho một gia đình hết sức ưng ý con rể tài giỏi thời lấy làm mãn nguyện chỉ còn Ngọc Kiều. Ông cũng sẽ chọn một người xứng đáng như vậy nữa hoặc hơn. Nhưng ngọc Kiều không ưng một ai cả, dù cho đó là một người tài giỏi giàu có đến đâu, nhất quyết chỉ ưng Cao Minh mà thôi, vì sự từ chối của Ngọc Kiều làm mắc lòng những danh gia nổi tiếng đã làm cho Ông nhiều lần mất mặt. Ông quát mắng ầm ĩ đồ con bất hiếu. Nhưng là con Ông. Ông phải đành bó tay không lẽ giết chết. Ông nói cái thằng nghèo xơ nghèo xác mồ côi cha mẹ. Chỉ được cái khôi ngô tuấn tú, mầy mà ưng thằng đó không những nhan sắc tàn tạ mà còn khốn khổ vì cái nghèo của nói.

Ba năm nữa trôi qua Ngọc Kiều vẫn không chịu ưng người nào Ông phải đành gả cho Cao Minh, với một bữa cơm đơn sơ đạm bạc báo cáo Ông Bà không mời ai cả. Chỉ có vợ chống Thúy Vân tham dự mà thôi.

Ông nói có chồng là phải theo chồng Cha không cho ở đây, không nghe lời Cha thời thân tự lập thân để mà kiếm sống. Chiều nay vợ chồng con phải lên đường, những gì của con thời con lấy đi.

Cao Minh thời mừng quá vì đã được vợ chỉ có thế thôi đâu cần thứ chi nữa. Thời gian trôi qua rất nhanh mới đó mà trời đã xế chiều. Vợ Chồng Cao Minh từ giả khu biệt thự Hiệp Thương ra đi với hai bàn tay trắng. Thúy Vân nhìn theo nói với Cha, nhà mình quá giàu Cha nở nào để em Ngọc Kiều khốn khổ như vậy.

Cậu con trai Út Hiệp Gia tên là Gia Bảo cùng cha khác mẹ với Thúy Vân Ngọc Kiều tuy mới mười 13 tuổi nhưng tính tình quân phiệt rất giống Hiệp Gia. Gia Bảo nói tại Ngọc Kiều Tỷ Tỷ nào phải tại Cha. Ông Hiệp Gia tuy nói cứng như thế nhưng nước mắt của Ông đã chảy ra nhìn theo người con gái khuất dần. Cao Minh dẫn Ngọc Kiều đi một đoạn đường suy nghĩ. Anh Tú Sang đã có vợ giờ vợ anh Sang đã có bầu. Ngôi nhà lại chật không thể về ở chung được nhưng ta biết đi đâu. Thôi thì đi tới đâu hay tới đó vậy.

Bỗng có tiếng ngựa vang theo sau, thì ra Thúy Vân chị của Ngọc Kiều cưỡi ngựa chạy theo nói chị gửi cái nầy cho vợ chồng em tạm sống qua ngày chị không mang theo nhiều chỉ có vài lượng vàng lượng bạc. Thúy Vân trao xong thời quày ngựa trở lại Hiệp Gia, còn nói thêm rằng Chị sẽ liên lạc sau mà giúp đỡ.

Để đi đến quyết định nhanh chóng Cao Minh liền nghĩ ngay đến Hải Châu một nơi trù phú, nơi đây nhiều thương gia giàu có cửa cảng rộng lớn ghe thuyền tấp nập. Nhưng từ đây đến đó đi bộ phải mất hai ba ngày. Còn có xe ngựa thời hơn ngày là tới. Ngọc Kiều nhìn thấy Cao Minh luôn bóp trán suy nghĩ bằng nói chuyện của Chàng cũng chính là chuyện của Thiếp. Có phước cùng hưởng có họa cùng chia Cao Minh nói anh muốn đến Hải Châu tìm nơi đây cho mình một sự sống mới nhưng vì đường quá xa anh chưa nghĩ ra cách nào để đi đến đó.

Ngọc Kiều nói ch.uyện ấy cũng dễ thôi vợ chồng chúng ta vào thị trấn mua một xe ngựa bình thường, cũng như đồ ăn thức uống để lên đường. Với số bạc vàng châu báu khi mẹ Ngọc Kiều còn sống cho chị em Ngọc Kiều sau nầy làm vốn có chồng cũng kha khá, lại được Thúy Vân trao cho ít bạc vàng thừa sức mua xe ngựa cũng như chi tiêu cũng được vài ba tháng.

Trên đường đi người ta nhìn thấy một xe ngựa thuộc hạng bình thường đi về hướng Hải Châu. Xe đi hơn nữa ngày băng qua một cánh rừng thời nghe tiếng binh khí chạm nhau dữ dội với những tiếng quát lanh lãnh dù có chết bọn ta cũng không đi theo bọn ngươi. Tiếng một người đàn ông quát hai ngươi phải bỏ mạng nơi khu rừng nầy làm mồi cho sói ăn. Cao Minh liền giục ngựa chạy tới thấy ba người đàn ông hung dữ bao vây hai người con gái đôi tám trông cũng dễ coi. Võ công hai cô gái quả thật cao cường nhưng làm sao địch nổi ba người đàn ông lực lãm có lẽ là ba tay cao thủ võ lâm. Hai cô gái sắp bị hạ gục thời một tiếng quát nổi lên chiếc xe ngựa lao nhanh tới Cao Minh nhảy xuống nói ba người kia hãy tha cho hai cô gái nầy. Thấy có người đến cứu mình là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, nhưng người trông có vẻ nho sinh thời lắc đầu nói Công Tử hãy đi đi. Cô gái bận áo đen nói ba người đang định giết chị em tôi chính là Tam Yêu Sơn Tặc khét tiếng hai chị em tôi sẽ ngăn chặn chúng. Công Tử hãy lên xe ngựa chạy đi may ra còn mạng sống.

Cao Minh nói Tại Hạ nhất quyết cứu hai cô. Tam Yêu Sơn Tặc nghe Cao Minh nói thế thời xúm nhau cười lên chói tai Nhất Yêu nói ngươi đã muốn xuống âm phủ thời ta tiễn ngươi đi vậy tức thời một ánh đao chớp lên chém tới, cô gái áo đen liền lao tới chống đỡ choang một tiếng đinh tai nhức óc cô gái lảo đảo đứng không vững, không để cho cô gái hồi chân đứng vững Nhất Yêu liền chém tới một đao nhanh như tia chớp. Bỗng nghe một tiếng ầm dữ dội Nhất Yêu bị đánh văng bay xa bảy tám mét trào máu họng. Nhị Yêu Tam Yêu kinh hoảng la lớn vô cực Thần Công. Chúng lao nhanh tới dìu Nhất Yêu rồi chuồn mất. Hai cô gái tới quỳ trước mặt Cao Minh mạng hai chúng tôi là do ân nhân cứu nên hai chi em chúng tôi nguyện đi theo làm người hầu Công Tử đền ơn đáp nghĩa cứu mạng. Người áo đen nói chị em hầu nữ vốn mồ côi cha mẹ được một vị cao nhân đem về nuôi truyền dạy cho võ công. Tôi là chị tên là Tiểu Hắc còn đây là em tên là Tiểu Bạch. Bọn Tam yêu muốn thu phục hai chị em Hầu nữ nhập bọn, nhưng hai chị em hầu nữ nhất quyết không nhập bọn gian ác ấy thà chết đi còn hơn. Cao Minh khen thầm trọng bụng.

Lúc ấy Ngọc Kiều từ trên xe bước xuống nói với Cao Minh Thiếp muốn nhận hai chị em nầy coi như là ba chị em. Tiểu Hắc, tiểu Bạch vô cùng mừng rỡ lại thấy Ngọc Kiều xinh đẹp như người tiên thời càng cảm mến hơn nữa, nguyện theo làm hầu nữ cho Ngọc Kiều. Thế là gia đình Cao Minh lại thêm hai thành viên, xe chạy đến nữa đêm thời tới Hải Châu.

Bốn người thuê một khách sạn để ở Cao Minh thời đi dạo khắp nơi hầu tìm ra hướng đi cho mình.

Ngọc Kiều ngồi nhà một mình cũng buồn bằng rủ tiểu Hắc tiểu Bạch dạo chơi gần đó. Ngọc Kiều vì quá đẹp liền gây ra sóng gió một chàng thanh niên tướng người hung dữ dẫn theo nhiều thuộc hạ đến chọc ghẹo nói người đâu mà đẹp như tiên, về làm vợ Tạ Đôn nầy thời muốn gì được nấy.

Tiểu Hắc nói câm cái mồm lại, Tạ Đôn trợn mắt nhìn Tiểu Hắc ngươi coi cũng được đấy nhưng làm sao bằng cô kia xinh đẹp như tiên. Tạ Đôn ta quyết lấy cô nầy làm vợ thời không ai ngăn cản nổi, luôn cả ngươi nữa về làm nàng hầu cho bổn gia. Những người đến xem sợ vạ lây bỏ đi miệng thời nói tội cho ba cô gái xinh đẹp đó quá không biết con nhà ai gặp phải tay háo sắc võ nghệ cao cường nhất vùng nầy, đại ca của đám đàn em trấn lột, cho đến quan địa phương mà còn nể mặt bọn chúng huống chi chỉ là tay yếu chân mềm.

Tạ Đôn không cầm lòng được nữa trước sắc đẹp của Ngọc Kiều liền bước tới nắm lấy bàn tay Ngọc Kiều định lôi đi, người ta liền nghe chát chát mặt của Tạ Đôn sung lên bầm tím Tiểu Hắc quát cút đi. Tạ Đôn bị đánh sưng mặt giận dữ la lên chúng bây đâu chém chết con nhái ranh nầy cho tao, tức thời năm sáu thằng lâu la rút đao ra lao vào chém Tiểu Hắc. Tiểu Bạch nói để em trị bọn nầy cho với chiêu ngũ trảo đại bàng chụp hai bàn tay Tiểu Bạch cùng thân pháp kỳ diệu cướp sạch đao bọn chúng mà còn cho chúng mỗi đứa hai cái tát vào mặt thằng nào thằng nấy bầm tím sưng vù.

Tạ Đôn tưởng chừng như gặp quỷ hiện hình run lên cầm cập miệng nói xin tha mạng xin tha mạng rồi kéo nhau bỏ chạy. Từ đó bọn chúng bỏ đi đâu mất có lẽ đến nơi địa bàn khác làm ăn, dân chúng ở cảng Hải Châu bình yên làm ăn không còn quấy phá vì bọn nầy nữa. Từ đó danh tiếng Ngọc Kiều vang danh cảng Hải Châu.

Cao Minh là chàng trai luôn có chí tự lập lúc nào cũng nghiêng cứu con đường vươn lên, bằng nói với Thúy Kiều chúng ta mua chiếc thuyền nhỏ theo ngư dân ra biển tìm bắt hải sản chọn những hải vị có giá trị đem về bán mở màng cho sự nghiệp làm ăn. Dù nhiều hay ít Ngọc Kiều cũng giống cha có máu kinh doanh, và đây là cơ hội cho Ngọc Kiều trổ tài. Ngọc Kiều bán hết đồ trang sức cũng như vàng bạc châu báu của Mẹ trao cho mua một chiếc thuyền cũ kĩ bán lại của dân chài.

Cao Minh nhìn thấy Ngọc Kiều giờ đây không phải là người con gái tay yếu chân mềm tầm thường mà là gan dạ anh hùng ý chí phi thường dám nghĩ dám làm, cũng như đã từng vượt qua mọi trở ngại gian nan đến với tình yêu. Nhưng đối đầu với sóng gió biển cả, cũng như sự cạnh tranh hiểm ác của thế giới thương trường, dễ đi đến mất mạng. Cao Minh liền trao cho cuốn bí kíp Dịch Chân Kinh võ công thượng thừa cho Ngọc Kiều đọc chỗ nào không hiểu Cao Minh liền giải thích. Ngọc Kiều là người con gái thông minh lại đầy tâm huyết không chịu thua với số phận nghiệt ngã đã an bày. Cao Mimh quyết đào tạo Ngọc Kiều thành tay cao thủ người vợ đầy chung thủy son sắc nầy trở thành một bà thương gia văn võ song toàn léo lái cơ nghiệp sau nầy. Bằng đã thông huyệt đạo cho Ngọc Kiều truyền cho 20 năm công lực cũng như truyền dạy cho nội công tâm pháp, giải thích cặn kẽ những gì trong bí kiếp Dịch Chân Kinh, chỉ trong vòng mấy tháng nhờ có 20 năm nội công thâm hậu cũng như sự tận tình chỉ điểm của Cao Minh, Ngọc Kiều giờ đây không thua kém gì Tiểu Hắc Tiểu Bạch mà con hơn hẳn nữa là khác.

Với những bữa cơm đạm bạc nhưng vợ chồng Ngọc Kiều không bao giờ cho đó là khốn khổ mà là niềm động viên quyết chí vươn lên.

Cao Minh vừa bước lên chiếc thuyền cũ kĩ, Ngọc Kiều lấy khăn lau mặt cho chồng rồi hỏi chàng đã chọn theo đoàn thuyền nào đánh bắt hải sản chưa. Cao Minh nói Huynh vừa nghe được thông tin là có hai chiếc thuyền chuyên đi mò ngọc trai toàn là những tay thợ lặn giỏi, họ đã phát hiện ở một vùng biển nước sâu ngọc trai nhiều vô số nhưng vì độ sâu không làm sao đánh bắt được. Huynh vội về đây thông tin nầy cho Nàng chửng phương tiện khai thác chửng bị đồ ăn thức uống theo họ lên đường ra biển.

Lênh đênh trên biển khơi ba chiếc thuyền từ từ lao đi hai chiếc thuyền lớn đi phía trước, một chiếc thuyền nhỏ cũ kĩ theo sau đi được một ngày đêm thời hai chiếc thuyền lớn neo đậu lại họ chờ cho chiếc thuyền cũ kĩ của vợ chồng Cao Minh tới. Từ trên chiếc thuyền lớn những người thợ lặn nhìn xuống chiếc thuyền nhỏ cũ kĩ, lại chỉ thấy có mình Cao Minh cùng ba người con gái chẳng thấy có trang bị đồ lặn gì cả thời nói với nhau rằng bốn người trẻ tuổi kia không biết biển cả là gì. Có lẽ đem thân làm mồi cho cá tôm chắc.

Ê chàng thanh niên kia nơi đây là địa bàn của ta đánh bắt ngươi muốn đánh bắt hải sản quý hiếm thời đến nơi khác. Cao Minh liền nghĩ đến nơi vùng biển sâu có nhiều Ngọc Trai quý hiếm liền hỏi nơi đây chỗ nào là vùng nước sâu. Người trên thuyền lớn nói đi về hướng đông bắc cách 30 dặm thời tới. Có người nói nữa rằng chàng trai kia ngươi dẫn người yêu đi tìm Long Vương phải không? nói xong những thợ lặn đều cười lên. Cao Minh theo lời chỉ dẫn không nói không rằng lái thuyền buồm lao đi nhờ xuôi gió không bao lâu thời tới vùng biển sâu. Với nội công thâm hậu nên không ai bị say sóng cả mà coi như sự tập luyện vững vàng trên sóng nước.

Đúng là vùng nước sâu đến mấy mươi sải tay thả hết dây neo đậu mới tới đáy. Để có đầy đủ sức lực làm việc Cao Minh nhảy xuống biển lặng một hồi bắt những những con cua lớn tôm lớn đem lên thuyền nấu ăn lấy sức. Nhìn thấy tôm cua to lớn như vậy Ngọc Kiều nói có giá lắm đây.

Mặt trời đã lên cao mênh mông chỉ toàn là biển, những con sóng lăng tăng bạc đầu trắng xóa. Cao Minh phóng mình xuống biển mang theo những chiếc bao đựng trai lặn cả hàng giờ mà không thấy Cao Minh trời lên. Tiểu Hắc, Tiểu Bạch vô cùng sợ hãi nhưng nhìn qua Ngọc Kiều vẫn thấy ung dung như không có chuyện gì xảy ra, thời cũng an tâm. Ngọc Kiều hình như cũng biết sự lo lắng của hai em bằng nói Cao Minh có nội công Tâm Pháp Ngự Thủy có thể ở cả ngày dưới nước không sao. Thì ra Ngọc Kiều cũng đã bỏ ra nhiều thời giờ chú tâm nghiên cứu pháp môn ngự thủy mấy tháng nay.

Từ nơi dưới nước Cao Minh mang lên một bao đựng trai, nhảy lên thuyền đổ ra đủ hình thù nhiều dạng loại trai, những con trai to lớn xù xì đến một cách kỳ lạ có lẽ đã sống cả nghìn năm tách không ra đập không bể. Đến khi dùng nội công lấy mũi đao tách nạy ra mới được.

Ngọc Kiều nhìn thấy những viên ngọc đủ màu sắc, trắng, xanh, vàng, hồng, tím, đỏ, đen, to lớn lóng lánh tỏa sáng một cách kỳ lạ to như ngón tay cái. Ngọc Kiều mừng rỡ nói nghe cha thường kể về ngọc trai nghìn năm chỉ cần một viện hồng ngọc tỏa sáng nầy cũng đã trên 50 lượng vàng và còn nhiều hơn nữa. Nhìn cả trăm viên ngọc trai kỳ lạ Ngọc Kiều đã thấy mình giàu to rồi. Còn những viên ngọc bóng loáng tuy to lớn nhưng chưa có ánh sáng giá trị cũng rất cao thuộc loại quý hiếm trên đời, giá cũng không hề rẻ.

Đã nhận dạng được loại trai quý hiếm Cao Minh duy chuyển thuyền từ chỗ nầy đến chổ khác tìm kiếm những con trai quý hiếm thời gian trôi qua lênh đênh trên biển hơn nửa tháng, kiếm được hơn ba bao lớn ngọc trai. Nhìn thời tiết đã đi lần vào bất ổn Cao Minh liền cho thuyền trở về đất liền, không quên bắt những hải sản quý hiếm phơi khô trên thuyền đem về để ăn. Điều kỳ lạ khi thuyền trở về đất liền còn cách bờ khá xa, thuyền của Cao Minh gặp hai chiếc thuyền lớn kia cũng đi về cùng một lúc. Không hiểu là họ đã bắt được những loại trai nào giá trị đến đâu.

Cửa biển Hải Châu xa xa đã xuất hiện chỉ cần đi thêm hơn tiếng nữa là tới. Ngọc Kiều trong lòng mừng vô hạn vì một chuyển đi biển đổi đời nầy. Ngọc Kiều biết mình giờ đây giàu có hơn Cha cả hàng chục lần, chỉ trong thời gian hơn nửa tháng. Thuyền vừa cập bến Hải Châu cũng là lúc mặt trời sắp lặng. Bỗng có một chiếc thuyền đón đầu trên thuyền là một người trung niên tuổi trạc 45 chận thuyền Cao Minh. Theo sau là nhiều tay thợ lặng. Người trung niên nói chàng trai kia ngươi đã tìm được những gì bán hết cho ta.

Ngọc Kiều vì quá xinh đẹp nên thường lấy khăn che mặt nói Ông muốn mua gì ở chúng tôi. Người trung niên ấy nói những ai đến khu vực đó là thường đi mò ngọc trai. Ta tuy biết các ngươi không phải là thợ lặn nên không thể nào tìm bắt được những con trai quý hiếm. Nhưng vì độc quyền ngọc trai ta phải đón đầu các ngươi để mua, với giá phải chăng. Ngọc Kiều là người rất thông minh vốn là con nhà tông thương gia. Thấy có người chận đầu là biết có chuyện nên đã chọn trên mười viên ngọc trai không có ánh sáng bước vào cuộc đấu trí kinh doanh nầy. Ngọc Kiều nói với ghe thuyền nhỏ lại không có trang bị đồ lặn chúng tôi phải khó khăn lắm mới tìm được một ít ngọc trai không quá 20 viên cỡ lớn, còn những viên cỡ nhỏ chúng tôi cũng được cỡ 40 viên nữa vị chi được 60 mươi. Chúng tôi không có ý muốn bán vì chưa rõ giá cả thế nào.

Vị trung niên ấy nói, tôi được lệnh ông chủ là phải thua mua hết với số ngọc trai trên. Nếu không bán thời cũng không được xưa nay sở hữu độc quyền ngọc trai là ông chủ của tôi, trùm bá ở Hải Châu nầy.

Ngọc Kiều nói thôi được trước sau gì cũng bán, thôi thời bán ở đây cũng được. Ngọc Kiều liền lấy ra 20 viên ngọc trai cỡ nhỏ. Người trung niên kinh nhạc hỏi đây là 20 mươi viên ngọc trai lớn nhất phải không? Ngọc Kiều không trả lời hỏi giá cả bao nhiêu. Người trung niên nói đây là những viên ngọc trai cỡ lớn cỡ trai nầy cũng vài trăm năm thuộc dạng có giá mỗi viên 5 lượng vàng. Ngọc Kiều nói với giá cả như thế có ép không? Người trung niên nói việc mua bán đương nhiên phải có lợi đó là trong nghề kinh doanh. Ngọc Kiều nói còn những viên to lớn hơn gấp đôi thậm chí gấp ba, thời giá bao nhiêu. Người trung niên lấy làm kinh ngạc như không tin ở lỗ tai mình, có những viên ngọc trai lớn hơn gấp ba sao? Ngọc Kiều nói đúng vậy, người trung niên ấy nói nếu viên ngọc trai lớn hơn gấp ba lần ngọc trai trước mặt độ lóng lánh hơn thời có giá trị đến vài chục lượng vàng. Ngọc Kiều nghe xong lấy làm kinh hãi với giá trị to lớn như thế không khéo thời cuộc đổ máu sẽ xảy ra.

Với tài khôn khéo Ngọc Kiều nói tôi muốn gặp Ông chủ của Ông. Người trung niên nói Ông Chủ tôi đã có mặt trên thuyền từ lâu rồi. Nói về Ông Chủ Thuận Thành ngồi trên thuyền lớn nghe tất cả, bằng nói biểu cô ấy lấy ra những viên ngọc to gấp ba ra xem xong rồi mới định giá. Ngọc Kiều nói nhỏ với Tiểu Hắc muội phải làm như thế nầy trấn áp tinh thần bọn chúng trước khi đi vào mua bán.

* * *

Hết Phần 1 xem tiếp Phần 2

* * *
 
PHẦN 2

CÂU CHUYỆN DUYÊN TÌNH


Tiểu Hắc vai mang kiếm nhận lấy một viên ngọc trai to gấp ba lần long lánh phi thân nhảy lên thuyền lớn không tiếng động nhỏ có ý phô trương võ công của mình. Những người có mặt trên thuyền lớn đều giật mình kinh hãi biết gặp phải cao thủ võ lâm ngay cả người trung niên còn không có kinh công tuyệt đỉnh như thế. Ông Chủ Thuận Thành có vẻ e dè không dám coi thường nữa, biết ba người kia đều là cao thủ võ lâm. Tiểu Hắc lấy viên ngọc trai để xuống bàn ai nấy đều nhìn sững viên ngọc trai nầy cũng đến cả nghìn năm. Trên đời Ông cũng đã từng gặp nhưng không nhiều. Ông cầm viên ngọc trai nghìn năm có phát ra hơi lạnh Ông hỏi còn bao nhiêu viên nữa. Ngọc Kiều cũng như Tiểu Bạch đến lúc nầy cũng phi thân lên thuyền lớn. Người trung niên trong lòng kinh sợ may tí nữa là xảy ra chuyện lớn rồi không khéo mất mạng ở nơi đây.

Ngồi đối diện với Ông Chủ Thuận Thành Ngọc Kiều nói có tới 20 viên Ông Chủ xem đi. Ông Chủ Thuận Thành xem xong nói những viên ngọc trai nầy quả là vô giá. Những đã là nhà nghề kinh doanh thời giá nào cũng có thể mua được, cô ra giá đi, trước khi ra giá Ngọc Kiều kể hoàng loạt những thương gia nổi tiếng ở Văn Lang cũng như nước ngoài mà Cha nàng thường ca tụng. Ông Chủ Thuận Thành nghe xong liền tái mặt biết đụng độ phải thứ dữ, nên mới nắm rõ được như vậy. Liền nói mỗi viên lớn với giá 20 lượng vàng, còn những viên nhỏ mỗi viên ba lượng.

Nghe với giá cao ngất như vậy Cao Minh cũng lấy làm kinh hãi. Ngọc Kiều thời vô cùng mừng rỡ vì đã nắm bắt được giá cả thị trường, coi như bước đầu thành công trong giao thương làm ăn, Ngọc Kiều đồng ý với giá cả đó bán 20 viên ngọc lớn 20 viên ngọc nhỏ cầm trong tay trên 20 ký vàng khởi nghiệp thành công lòng mừng vô hạn, con đường làm giàu đã bắt đầu ba chị em liền phi thân trở lại thuyền cũ kĩ của mình.

Nói về Hải Châu có một gia đình Điền Chủ giàu đất, giàu ruộng có tiếng, có nhiều mảnh đất có thể nói là mảnh đất vàng nhưng phải ba bà vợ trẻ chỉ biết tiền và bạc, lại sanh ra nhiều thằng con ăn chơi trác táng lần lần bán đi đất đai giờ chỉ còn vài chục công ruộng với một khu đất rộng lớn ở gần cửa cảng Hải Châu. Khu đất địa thế nhất Hải Châu, trục lộ giao thương phải nói là vô cùng thuận lợi buôn bán đa chiều, nói chung giao thương buôn bán hàng chi cũng đều thuận lợi quả là khu đất vàng, nhiều thương gia thèm thuồng nhưng chưa có cơ hội để mua. Vì Điền Chủ chưa muốn bán.

Ở đời người ta thường nói nắm bắt Thiên Thời, tìm ra Địa Lợi, tạo ra thế Nhân Hòa đi vào giao thương đa chiều thời nhất định giàu to. Ngọc Kiều liền nghĩ đến mua khu đất để khởi nghiệp làm ăn bằng mua một chiếc xe ngựa sang trọng dạo khắp Phú Xuân Hải Châu thấy một mảnh đất trồng cây ăn trái rộng lớn phải nói là khu đất vàng. Ngọc Kiều dọ hỏi mới biết là của Điền Chủ Đa Thiếp. Trước đó nhiều thương gia đến mua nhưng không bán, sau đó thời định bán nhưng cái giá trên trời rất cao.

Ngọc Kiều liền nói với Cao Minh Thiếp định mua khu đất cách đây không xa ngay trung tâm Phú Xuân. Chàng ở nhà trông coi ghe thuyền Thiếp cùng Tiểu Hắc Tiểu Bạch đến đó thử vận may xem. Thế là Ngọc Kiều tìm đến nhà Điền Chủ. Điền Chủ nhìn thấy xe ngựa sang trọng chạy vào cổng thời nghĩ, cũng lại là khách mua đất, mua ruộng đến. Nhưng thật ra có ai mua nỗi đâu đã gọi là khu đất vàng đương nhiên cái giá phải cao ngút trời rồi, được thời bán không được thời để đó nó có đòi ăn đòi uống gì đâu mà sợ tốn kém.

Ngọc Kiều từ trên xe ngựa bước xuống Điền Chủ nhìn sững không nháy mắt, ba bà vợ trẻ thấy Ngọc Kiều đẹp như tiên còn mê nói gì đến Điền Chủ là tay máu gái. Ba bà vợ trẻ nhìn thấy Điền Chủ như không còn biết gì nữa liền tằng hắng nói khách đến nhà không lo tiếp mà còn ngẩn người ra đó làm gì. Điền Chủ như tỉnh hồn trở lại hỏi cô nương đến đây có việc gì? Ngọc Kiều nói tôi đến đây là để mua đất, Điền Chủ nói tôi chỉ còn một khu đất ở trung tâm Phú Xuân là khu đất vàng, giá không rẻ đâu. Những thương gia có tiếng đến đây còn mua không nổi Điền Chủ nhìn Ngọc Kiều lặng thinh không nói gì nữa. Ngọc Kiều cũng hiểu là Điền Chủ nói cô mua không nổi đâu.

Ngọc Kiều nói tôi đến đây cũng đã tự lượng sức của mình với giá bao nhiêu tôi cũng mua. Điền Chủ nghĩ Ngọc Kiều không bao giờ mua nổi nên nói vàng cũng phải vài nghìn lượng. Bạc thời cũng phải vài vạn lượng. Giàu có như Thuận Thành có ngọc trai nghìn năm mỗi viên ngọc có giá từ 25 lượng đến 30 lượng mỗi viên còn không mua nổi khu đất vàng.

Ngọc Kiều nhìn tiểu Hắc nói Muội vào xe lấy ra đây một viên ngọc trai nghìn năm cho Điền Chủ xem. Tức thời Tiểu Hắc vào xe lấy viện ngọc trai nghìn năm đưa cho Ngọc Kiều, Ngọc kiều cầm viên ngọc để lên bàn viên ngọc trai to hơn ngón tay cái lóng lánh tỏa hơi lạnh trông đẹp mắt lạ lùng. Điền Chủ cùng ba người vợ trẻ nhìn mãi không muốn thôi. Điền Chủ nghĩ trong lòng không biết cô ta là ai, nhưng đã có ngọc nghìn năm trong tay phải nói là tay giàu có nhưng sao mình chưa nghe nói đến người con gái đẹp giàu có như tiên nầy. Ngọc Kiều nhìn Điền Chủ rồi nói viên ngọc trai nầy 25 lượng vẫn còn rẻ nhưng để trao đổi mua bán đất thời tôi chỉ tính 20 lượng một viên. Tôi đã mất đi năm lượng một viên. Nếu như không nhận ngọc trai thời tôi bán ngọc trai cho thương gia Ông Chủ Thuận Thành lấy ngân lượng mua đất cũng được vậy, tôi kiếm thêm được 5 lượng vàng một viên. Vàng tuy quý nhưng lộ thiên dễ đãi, ngọc nghìn năm chìm sâu trong đáy biển dễ gì kiếm ra.

Ba bà vợ trẻ thấy ngọc đã mê bằng hối thúc bán đất. Điền Chủ thấy trước mắt là mỗi viên ngọc mình đã kiếm được ít nhất thêm năm lượng nữa. Bằng nói tôi bán khu đất vàng đó cho cô với giá 3.000 lượng vàng nếu ngọc thời 150 viên ngọc, nếu không đủ số ngọc còn lại thời tính giá trị bằng vàng vậy. Ngọc Kiều lặng thinh một hồi Điền Chủ nghĩ là người mua đất sẽ thối lui, với cái giá trên trời như vậy, lại nữa lấy đâu ra một trăm năm mươi viên ngọc trai nghìn năm.

Ngọc Kiều đứng dậy, Điền Chủ tưởng là Ngọc Kiều bỏ ra về, nào ngờ Ngọc Kiều nhìn Điền Chủ nói Điền Chủ chửng bị viết cam kết lăn ấn dấu tay. Ngọc Kiều liền vào xe lấy ra một cái túi đựng 150 viên ngọc trai đổ lên cái khay trao cho Điều Chủ. Ba bà vợ trẻ Điền Chủ thấy ngọc thời sáng cả mắt không còn biết gì nữa miệng hối thức Ông mau viết cam kết lăn ấn dấu tay đi.

Thế là Ngọc Kiều mua được khu đất vàng địa lợi nhất Phú Xuân địa thế nhất Hải Châu coi như bước một khởi nghiệp đã thành công.

Người ta nhìn thấy khu đất vàng lúc nào cũng có vài trăm người xây dựng nhà cửa kho bãi không bao lâu trở thành khu biệt thự lớn nhất Hải Châu. Ít người biết Ông Bà chủ đó là ai. Chỉ biết tên chủ nhân khu biệt thự rộng lớn ấy có tên là Phú Thương, nên gọi là Bà Thương Gia Phú Thương tuy chưa đi vào hoạt động nhưng đã nổi tiếng vang lừng.

Nói về Ông Chủ thương gia Thuận Thành thấy người con gái che mặt bán ngọc trai trên thuyền cho Ông, đã mua được khu đất vàng mà còn xây cơ sở rộng lớn bề thế nhất Hải Châu, Ông linh tính cơ sở Phú Thương nầy sẽ là Thương Gia trùm sò khó mà cạnh tranh làm ăn cho lại nếu xảy ra đi đến bất hòa, chuyện gì xảy ra đây. Ông nghĩ đến Bà Chủ Phú Thương võ công cao cường thời không dám chọc vào.

Để làm ăn liên kết hai bên cùng có lợi, Ông Chủ Thuận Thành cho người đến khu Biệt Thự Phú Thương, mời đến Thuận Thành để trao đổi làm ăn.

Ông Chủ Thuận Thành vừa trông thấy một chiếc xe ngựa chạy vào cổng thời cũng biết ngay là chủ nhân Phú Thương đã đến. Ông liền dẫn tay chân bộ hạ ra đón tiếp một cách nồng hậu coi như là đón một Ông Chủ ngang hàng với Ông.

Từ trên xe bước xuống một cặp đôi nam nữ vừa sang trọng vừa như Thần Tiên trên trời giáng hạ Ông sững sờ giây lát nhưng là một thương gia có tầm cỡ Ông lấy lại trầm tĩnh mới vợ chồng Ngọc Kiều vào trong ngôi nhà khách. Ông Thấy Ngọc Kiều ăn nói lưu loát nhất là trong môn đối tác làm ăn Ông chưa thấy người nào có tài như vậy trong thâm tâm liền nể phục.

Ngọc Kiều nói Ông Chủ Thuận Thành, vẫn là Ông Chủ Thuận Thành độc quyền buôn bán vàng ngọc châu báu, những gì chúng tôi có đều phải qua tay Ông. Ông Chủ Thuận Thành nghe lời nói của Ngọc Kiều vừa khiêm nhường vừa khôn khéo. Ông nổi lên bao cảm tình đối chủ nhân Phú Thương nầy. Càng trôi đổi làm ăn Thuận Thành càng khâm phục kính nể.

Cùng lúc ấy có người vào báo có thương gia người nước ngoài đến. Ông nói với Ngọc Kiều sẽ có cuộc mua bán lớn đây. Ông Chủ Thuận Thành ra tiếp đón. Vừa nhìn thấy người khách nước ngoài cũng như một số người đi theo toàn là cao thủ võ lâm. Ông Thuận Thành liền biến sắc, khi biết được tánh danh của người mới đến ông càng thêm lo lắng. Một nhân vật khắc tiếng phải nói là Ông Trùm Gia Tu buôn bán ngọc ngà châu báu hải ngoại. Trong tay Ông toàn là cao thủ thượng đẳng, Ông lại thâm độc vô cùng không biết bao thương gia đã mất mạng dưới tay Ông trùm vàng bạc ngọc ngà châu báu nầy. Những thương gia buôn bán với hải ngoại khi ra khỏi địa phận Văn Lang thiệt hại tổn thất lớn phần nhiều có dính dáng đến Ông Chủ Gia Tu. Như Ông Chủ Mẫn Đạt thiệt hại chuyến buôn lớn hải ngoại phá sản hơn phân nửa do bọn cướp biển chiếm lấy hết tài sản, nghe nói đến Ông Trùm Gia Tu hải ngoại nầy ai cũng kinh sợ.

Không hiểu Ông Gia Tu tìm đến Ông để buôn bán hay là có ý gì khác. Ông Chủ Gia Tu ngoại quốc được mời vào trong nhà khách. Ông Gia Tu chọn hai người theo mình vào trong ngôi nhà một người mang kiếm, một người mang đao theo sau hộ vệ hai con mắt sáng quắc cho thấy nội công vô cùng thâm hậu. Ông chủ Thuận Thành cũng không kém theo hầu Ông là hai tay võ công cao cường mang kiếm đứng hai bên. Một bàn tròn chia làm ba góc cạnh. Vợ Chồng Ngọc Kiều. Ông Chủ Thuận Thành. Ông Gia Tu Ngoại Quốc.

Gia Tu quan sát vợ chồng Ngọc Kiều nhìn thấy phong thái khác thường nam khôi ngô tuấn tú, nữ xinh đẹp tuyệt trần biết là vợ chồng với nhau có lẽ địa vị cũng khá mới ngồi chung bàn với Ông Chủ Thuận Thành. Ông Chủ Thuận Thành nhìn vợ chồng Ngọc Kiều rồi giới thiệu với Gia Tu nói đây là hai vị thương gia nổi tiếng Hải Châu Ông Bà Chủ Phú Thương.

Gia Tu có vẻ xem thường cũng chỉ vào hạng tiểu bối chỉ chào hỏi qua loa. Gia Tu đi vào vấn đề chính nói Tôi được tin là Ông Chủ Thuận Thành có mua được một số ngọc khá lớn toàn là hàng hiếm tôi đã bỏ thời gian lặn lội đường xa đến đây mua ngọc. Thuận Thành nói Gia Tu Ông Chủ tìm mua loại ngọc nào?

Ông Gia Tu liền móc trong túi ra một viện ngọc màu xanh to lớn lóng lánh phát sáng. Thuận Thành vừa nhìn thấy liền nói đây là Lục Ngọc vô giá. Thuận Thành như muốn nói gì đó nhưng thôi không nói nữa. Ông Gia Tu nói không bán à, Ông Chủ Thuận Thành nói có bán nhưng chỉ là viên ngọc trắng ngà nghìn năm thôi.

Ông Chủ Gia Tu nói đương nhiên là tôi sẽ mua những viên ngọc có giá trị trên nghìn năm tuổi. Nhưng Tôi rất cần những viên ngọc nầy cống lên nhà Vua.

Nhà buôn ngọc lớn như mình không lẽ nói không có, bằng nói nếu bán thời cái giá rất cao. Ông Gia Tu nói giá cao là bao nhiêu? Ông Chủ Thuận Thành vì không có ngọc loại vô giá đó để bán nên nói giá trên trời cho Ông Gia Tu không mua được nên nói ít lắm cũng 65 lượng vàng một viên. Với cái giá trên trời như thế nghĩ rằng Gia Tu sẽ thối lui, nào ngờ Ông Gia Tu người ngoại quốc không thối lui mà còn nói có bao nhiêu tôi mua hết bấy nhiêu. Ông Chủ Thuận Thành ngớ người ra tỏ vẻ hoang mang vì đã nói là mình có ngọc vô giá ấy. Ông Chủ Gia Tu nhìn thấy sắc mặt Thuận Thành như vậy tưởng là giỡn mặt với mình mấy ngón tay vừa chạm xuống bàn thủng liền mấy lỗ lớn. Ông Chủ Thuận Thành nhìn thấy khiếp vía.

Ngọc Kiều là người rất thông minh biết Ông Chủ Thuận Thành không có loại ngọc vô giá nầy, nói giá trên trời để cho người mua thối lui, nào hay đâu sự thể ngược lại bên mua không chê mắc mà là mua với số nhiều dẫn đến gay cấn hiểu lầm lẫn nhau.

Ông Chủ Gia Tu rót ly nước mời Ông Chủ Thuận Thành nói chúng ta bàn tính lại. Ông Chủ Thuận Thành không dám tiếp nhận vì đã khiếp sợ thần công Ông Chủ Gia Tu. Cao Minh thấy vậy liền nói để tôi tiếp thay ông. Cao Minh vừa chạm vào chém nước tức thời Gia Tu vận thần công làm cho ly nước sôi lên bốc khói ngun ngút ai nhìn thấy cũng phải kinh hãi, nào ngờ Cao Minh vừa chạm vào chén nước tức thời chén nước đóng băng lại ngay truyền hơi lạnh qua người Gia Tu. Gia Tu lấy làm kinh hãi thụt tay lại, nhìn sững Cao Minh như nhìn một con quái vật, không còn dám xem thường nữa nghĩ thầm trong bụng không ngờ đất Hải Châu nầy có tuyệt đỉnh cao nhân như vậy.

Ngọc Kiều muốn lèo lái việc buôn bán nầy vừa có lợi cho mình vừa giải tỏa sự căng thẳng của đôi bên liền đi vào đề ngay, Vợ chồng tôi đến đây là để mua số ngọc Châu vô giá ấy. Nhưng không đủ ngân lượng để mua với giá cao như vậy. Ông có thể bán cho Gia Tu Ông Chủ hải ngoại đây hẹn địa điểm ngày giao hàng.

Ông Chủ Thuận Thành là người thông minh, hiểu rõ bà chủ Phú Thương giải tỏa sự căng thẳng giữa hai bên, cũng như giữ danh giá thương gia của mình nên mới đề nghị như vậy. Ông vô cùng cảm ơn đặc niềm tin vào vợ chồng Ngọc Kiều. Ông nói vào giờ thìn sáng mai sẽ giao hàng tại thương gia Phú Thương.

Gia Tu nói tôi không những mua hết số ngọc vô giá, mà con mua hết với số ngọc nghìn năm có bao nhiêu mua bấy nhiêu.

Trời chuyển sang thu khí trời thật mát mẻ ai cũng cảm thấy dễ chịu, Khu biệt thự rộng lớn Phú Thương hôm nay trông rộn rịp khác thường có lẽ đây là lần đầu tiên khu biệt thự Phú Thương đi vào hoạt động trao đổi mua bán.

Người ta nhìn thấy một đoàn người khiêng 10 chiếc rương nặng không biết là đựng những gì trong ấy. Đi phía trước 10 chiếc rương là những cao thủ võ lâm vai mang đao kiếm theo hầu Ông Chủ Gia Tu.

Từ trong khu biệt thự Ông Chủ Thuận Thành, cùng một số người hầu giỏi võ công cùng Ông Bà Chủ Phú Thương ra tận cổng đón tiếp Ông Gia Tu ngoại quốc.

Tất cả đều được mời vào một ngôi nhà rộng lớn đã bày sẵn những bình trà hảo hạng mùi hương thơm dìu dịu làm cho tinh thần sảng khoái, loại trà quý hiếm nầy chuyên tiếp đãi những khách quý.

Để nhanh chóng đi vào mua bán Ông Gia Tu nói. Cuộc hẹn đã đến Ông Chủ Thuận Thành giao hàng ra đi, với giá cả có thể đi vào thương lượng lại. Ông Chủ Thuận Thành lấy ra một túi vải đổ ra một cái khay với trăm viên ngọc nghìn năm tuổi. Nhìn những viên ngọc lóng lánh phát ra hơi lạnh Gia Tu hỏi giá bao nhiêu. Ông Chủ Thuận Thành nói, nếu mua với số ít thời 30 lượng một viên. Còn số nhiều thời 25 lượng một viên. Vị chi 2 nghìn 500 lượng. Ông Gia Tu không có ý kiến gì cả chấp thuận giá cả bên nhận vàng bên nhận ngọc coi như đã xong.

Ông Gia Tu nhìn Ông Chủ Thuận Thành nói cho coi hàng vô giá. Ông Chủ Thuận Thành nhìn Ngọc Kiều. Ngọc Kiều liền lấy một túi vải đổ ra khay một trăm viên ngọc đủ màu sắc phát tỏa ánh sáng Ông Chủ Gia Tu liền đứng dậy trố mắt ra nhìn Ông Chủ Thuận Thành kinh ngạc đến ngẩn người cả đời ông đến bây giờ mới thấy lần đầu tiên. Ông Gia Tu không kìm h.ãm nỗi lòng h.am m.uốn định hốt những viên ngọc vô giá ấy vào túi, bàn tay Ông vừa chạm vào thời một luồng thần công vô hình ngăn chặn lại không cho Ông đụng vào Ông giật mình vì đã quên mất một đại cao nhân trước mặt, mỗi lần ông nghĩ đến là nổi da gà.

Ông Gia Tu ngồi xuống bàn trầm tĩnh trở lại rồi nói theo giá hôm qua thời 100 viên ngọc châu hiện có mỗi viên là 65 lượng vàng dị chi là 6 nghìn 500 lượng vàng, nhưng tôi chỉ có 5 nghìn lượng vàng còn lại 1. 500 lượng vàng trị giá theo bạc, theo giá cả đã trao đổi hôm qua. Ông Thuận Thành nói nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy, ý nói một lời nặng chín đỉnh, bốn ngựa cũng khó theo. Ngọc Kiều cho người đếm bạc đếm vàng. Ông Chủ Gia Tu đếm ngọc.

Thế là cuộc làm ăn lớn đã đi vào thành công viên mãn như ý không xảy ra vấn đề gì.

Chờ cho Ông Gia Tu rời khỏi khu biệt thự Phú Thương. Ông Chủ Thuận Thành bằng chắp tay bái phục nói, tôi làm Ông Chủ đã nhiều năm nhưng chưa thấy Ông Bà Chủ nào như Phú Thương, trí huệ đạo đức, nhân cách hơn người lại biết bảo bọc cho người yếu thế. Không cao ngạo dù biết rằng mình trên đầu trên cổ thiên hạ, tôi nguyện gia nhập đi theo Thương Gia Phú Thương, có phước cùng hưởng có họa cùng chia. Ông Chủ Thuận Thành bái phục tùng phục tuyệt đối. Vợ chồng Ngọc Kiều mừng rỡ đỡ Ông Chủ Thuận Thành dậy nói Thương Gia Thuận Thành, cùng Thương Gia Phú Thương liên kết làm ăn tạo ra thế đứng vững chắc trước những cơn sóng gió của thương trường không ai thiệt thòi cho ai.

Thương Gia Thuận Thành đã bán ngọc với giá cao, đem lại nguồn thu lớn cho Phú Thương. Phần hưởng lợi của Thuận Thành là 5 lượng vàng một viên ngọc vô giá vị chi tổng cộng là 500 lượng vàng cho lần đầu hợp tác làm ăn. Ông Thuận Thành quá bất ngờ với vụ việc không bỏ vốn mà có nầy. Ông nói tôi không dám nhận. Ngọc Kiều nói trong thương trường không phải có vàng mới kiếm ra vàng đâu mà là nhờ cơ trí để kiếm ra vàng. Chỉ cần qua trung gian mối lái sang tay, chỉ trong vòng tích tắc đã kiếm được hàng khối vàng bạc, cần gì phải bỏ vốn ra. Ông Chủ Thuận Thành nghe Ngọc Kiều nói thế liền thức tỉnh thương trường đỉnh cao là như thế. Ông càng phục vợ chồng Ngọc Kiều hơn nữa. Ông nguyện kết giao với Phú Thương hết đời nầy.

Nói về Ông Chủ Mẫn Đạt, Ông Chủ của tơ tằm nhung, lụa, không may bị hải tặc cướp sạch hàng hóa. Không còn đủ vốn mua lại hàng hóa để giao cho chỗ hợp đồng khác, nếu không giao đúng hẹn thời bồi thường rất lớn có thể nói là mất sạch chẳng còn gì. Ông liền nghĩ đến một thương gia giàu có nổi tiếng từ lâu Thương Gia Thuận Thành. Ông Chủ Mẫn Đạt liền đi xe ngựa đến đó hầu tìm kiếm sự vay mượn nơi đây.

Ông Chủ Thuận Thành không lạ gì thông tin thương gia Mẫn Đạt đang gặp khó khăn không nói là đi đến phá sản, Nhưng ông cũng đón tiếp niềm nở trong lúc trao đổi qua lại Ông Chủ Thuận Thành tươi cười nói ngọn gió nào đưa Ông Chủ Mẫn Đạt ghé thăm chơi vậy.

Ông Chủ Mẫn Đạt thở dài nói họa phúc bất thường, thành bại ẩn chờ khắp nơi khó mà lường. Ông kể lại tất cả những rủi ro của Ông. Tôi đến đây là để vay vốn về mua đủ chuyến hàng như đã cam kết giao cho thương Gia Phú Hải ở Lô Châu. Với tiền lãi vay vốn là 10 phần trăm coi như phần lời tôi đã mất đi một nửa. Ông Thuận Thành quá hiểu rõ trong con đường thương trường không chỉ có tài giỏi về giao thương kinh doanh mà được. Mà phải có tiền, có quyền, có thế lực, có võ công cao cường, mới nói đến sự tồn tại đứng vững thương trường được. Ông Chủ Mẫn Đạt phần lớn dựa vào Luật Pháp, có tiền, có tài giao thương, nhưng lại thiếu về thế lực, cũng như võ công mười cái may chỉ cần một cái rủi cũng đi đến tan gia bại sản.

Ông Chủ Thuận Thành nói tôi đủ sức cho vay mượn, nhưng tôi giới thiệu Ông đến một người là bề trên của tôi Ông Bà chủ Phú Thương. Dựa vào tài giao thương ăn nói khéo léo của Ông tôi tin là Ông Bà Chủ Phú Thương sẽ cho Ông vay mượn.

Ông Chủ Mẫn Đạt cùng Ông Chủ Thuận Thành đến khu biệt thự thương gia Phú Thương. Vừa đến cổng Ông Chủ Mẫn Đạt trông thấy bề thế Phú Thương phải nói là hoành tráng nguy nga đồ sộ lớn nhất Hải Châu.

Nói về Vợ chồng Ngọc Kiều bước đầu khởi nghiệp giao thương làm ăn đạt những kết quả như mong muốn những viên ngọc tìm từ vùng biển nước sâu với giá rất cao nhờ qua Ông Chủ Thuận Thành, có thể nói thời vận cơ may có đủ thuận lợi xuôi chiều bao sự may mắn đem đến sự khởi nghiệp làm giàu như diều gặp gió.

Ngọc Kiều tính toán những bước đi tiếp theo bằng nhiều con đường có lợi cho Phú Thương. Cao Minh thời đi tìm những võ sĩ có võ công cao nhận về bảo vệ khu biệt thự Phú Thương. Vợ chồng Ngọc Kiều đang tính toán thời thấy hai xe ngựa đi vào cổng một chiếc là của Ông Chủ Thuận Thành còn chiếc kia thời không rõ là ai.

Nói về Ông Chủ Mẫn Đạt lần đầu tiên đến khu biệt thự Phú Thương thấy bề thế còn hơn Ông Chủ Thuận Thành không biết Ông Bà Chủ Phú Thương nầy là người như thế nào mà giàu có như vậy.

Khi diện kiến vợ chồng Ngọc Kiều Ông vô cùng kinh ngạc Ông Bà Chủ Phú Thương còn quá trẻ phong độ xinh đẹp thời khỏi nói tuổi mới độ 25 thời ngơ ngác, nhìn Ông Chủ Thuận Thành.

Ông Chủ Thuận Thành như hiểu ý nói người có bản lĩnh kinh thiên động địa đâu chỉ ở những người có tuổi, mà ngay những đứa trẻ mới lớn lên. Ông Bà Chủ Phú Thương tuy còn quá trẻ nhưng bản lĩnh trong thương trường không còn trẻ đâu.

Ngọc Kiều là người luôn cho rằng đã gọi là thương trường tài giỏi chính là nắm bắt thông tin, thông tin càng nhiều càng chính xác thời càng làm ăn hiệu quả. Và chỉ có thông tin mới nắm bắt được toàn diện về cuộc diện xã hội. Nhất là theo dõi diễn biến thế cuộc thương trường nắm rõ thời cơ, cũng như sự làm ăn của các thương gia.

Khi nghe Ông Chủ Thuận Thành giới thiệu đây là Ông Chủ Mẫn Đạt thời Ngọc Kiều đã hiểu rõ Ông Chủ Mẫn Đạt đến đây để làm gì.

Qua tuần trà Ngọc Kiều nhìn Ông Chủ Mẫn Đạt rồi nói trong thương trường lúc thừa ngân lượng, lúc thiếu ngân lượng là chuyện bình thường. Thừa và thiếu chưa có gì là quan trọng, quan trọng là xoay xở thế nào để đi vào thuận lợi mới quan trọng. Ông Chủ Mẫn Đạt quả thật là nhậy bén nên mới tìm đến đây để vay vốn. Chuyện vay vốn trả lãi là lẽ thường trong thương trường. Thương gia Phú Thương cũng không ngoại lệ. Nhưng việc vay vốn cần phải nói trước với số ngân lượng là bao nhiêu, nếu quá khả năng cho vay thời điều đó cần phải xem lại.

Ông Chủ Mẫn Đạt vô cùng kinh ngạc mình chưa mở miệng thời Bà Chủ Phú Thương đã hiểu rõ mình đến đây để làm gì, mà còn luôn giữ thể diện của người đến vay. Ông nhìn Ông Chủ Thuận Thành như nói rằng tôi rất thán phục Bà Chủ xinh đẹp trẻ tuổi nầy. Ông Chủ Mẫn Đạt không còn e ngại gì nữa trình bày sự vay mượn của Ông. Với giá lãi mỗi tháng là 10 phần trăm. Ngọc Kiều nghĩ chỉ 4 phần trăm một tháng thời coi như khó mà trả lãi nổi huống chi là 10 phần trăm, đây là việc vay để xoay xở trong điều kiện cần thiết không thể không vay, nếu đưa ra lãi suất ít thời người ta sẽ không cho vay mượn, thời coi như mình đứt bóng luôn.

Ngọc Kiều nhìn Ông Chủ Thuận Thành nói, Ông Chủ đã dẫn người đến đây đương nhiên tôi nể mặt Ông Chủ cho Ông Chủ Mẫn Đạt vay mượn, nhưng để xem Ông Chủ Mẫn Đạt vay mượn ngân lượng là bao nhiêu thời mới đi vào quyết định được.

Ông Chủ Mẫn Đạt nói tôi vay mượn số lượng là 3 nghìn lượng vàng.

Ngọc kiều nghe Ông Chủ Mẫn Đạt trình bày vay ngân lượng xong, thời ra chiều suy nghĩ Ông Chủ vay mượn ngân lượng nhiều đến thế sao? Thôi thời như thế nầy Ông Chủ Thuận Thành đây cho vay mượn một nửa, còn tôi thời một nửa. Nếu cần thuê mướn người bảo tiêu thời giá bảo tiêu hiện nay là rất cao trả công cho một người với những ngân lượng được thỏa thuận. Ông Chủ Mẫn Đạt nói chuyến hàng chỉ vận hành trong nước tôi có thể tự lực được.

Qua cuộc làm ăn nầy Ông Chủ Thuận Thành đã mở rộng thêm nhiều kiến thức mới mẻ đã là thương gia thời phải đa phương hóa kiếm tiền, đụng đâu là kiếm tiền ra đó. Đâu phải giao hàng bán hàng mới kiếm ra được tiền như Ông Chủ Mẫn Đạt đây. Qua ngày sau Ông Chủ Mẫn Đạt nhận ngân lượng rồi trở về, thương gia Mẫn Đạt nằm ở phía bắc Phú Xuân Hải Châu. Ở Phú Xuân có ba Ông Chủ Thương Nghiệp nổi tiếng.

Một là Ông Chủ Thuận Thành. Chuyên về ngân lượng, vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu.

Hai là Ông Chủ Tiến Nông. Chuyên về nông, lâm ngư, hải sản.

Ba là Ông Chủ Mẫn Đạt. Chuyên về, tơ tằm nhung lụa. Ba Ông chủ nầy nổi tiếng giàu có ở Hải Châu.

Ông Chủ Tiến Nông giao thương rất rộng đến nhiều châu trong đó có Thương Châu làm ăn với Hiệp Gia Cha của Ngọc Kiều.

Ông Chủ Tiến Nông bị Ngọc Kiều từ chối sự cầu hôn của con trai Ống là Tấn Lợi. Thương Gia Tiến Nông bị cú sốc dẫn đến tiệt giao cắt đứt quan hệ làm ăn với Hiệp Gia. Hiệp Gia mất mối làm ăn với Thương Gia Tiến Nông nên không còn làm ăn hưng chấn nguồn lợi cũng giảm hẳng. Ông Hiệp Gia vô cùng tức giận quát mắng Ngọc Kiều, cho Ngọc Kiều là đồ con bất hiếu. Cũng may là Ngọc Kiều cùng Tấn lợi chưa thấy mặt nhau.

Nói về Ông Chủ Tiến Nông mấy tháng qua làm ăn trúng lớn ngân lượng dồi dào, nghe nói Ông Chủ Thuận Thành có báu châu ngọc trai như huyết ngọc, Hắc Ngọc, Thanh Ngọc, Bích Ngọc, Hồng Ngọc. Kim Ngọc, Lục Ngọc. Thời mơ tưởng được nhìn thấy. Ông cùng con trai đến thương gia Thuận Thành để mua.

Nói về Thuận Thành vừa từ thương gia Phú Thương trở về thời đã thấy một xe ngựa đã đứng trước ngõ. Ông đã nhận ra Cha Con Tiến, Nông, nên vồn vã chào hỏi. Tiến Nông nói nghe người nhà nói Ông Chủ đã đi khỏi Cha Con tôi định quay trở về hôm khác sẽ đến, không ngờ Ông Chủ trở về may quá.

Ông Chủ Thuận Thành mời Cha Con Tiến Nông vào nhà khách tiếp đãi nồng hậu, rồi nói không biết Cha Con Ông Chủ tìm đến tôi sai bảo điều gì. Ông Chủ Tiến Nông cười nói ai mà dám sai khiến Ông Chủ Thuận Thành, chẳng qua đến đây là nhìn qua ngọc châu vô giá mà thôi. Ông Chủ Thuận Thành hỏi, Ông Chủ Tiến Nông muốn nhìn loại ngọc nào? Ông Chủ Tiến Nông đi vào chủ đề ngay tôi đến mua Thất Châu bảy màu. Ông Chủ Thuận Thành nói giá cả không rẻ đâu, Ông Chủ Tiến Nông nói Cha Con tôi đã nghe giá cả rồi 65 lượng cho mỗi viên. Cha con tôi đến đây mua bảy viên cho đủ bộ Thất Châu. Nếu đủ Thất Châu Cha Con tôi trả thêm ngân lượng. Ông Chủ Thuận Thành nói giá trước đây chỉ là 65 lượng vàng cho mỗi Ngọc Châu, còn giờ đây giá cả đã khá 70 lượng một viên. Cha Con Tiến Nông giật mình 65 lượng là cái giá trên trời rồi còn lên giá nữa sao. Ông Thuận Thành nói không phải lên giá mà là giá cả thị trường. Nếu Ông Chủ quyết mua thời Thuận Thành tôi dẫn đến một nơi để mua, vì những viên ngọc vô giá ấy tôi đã bán hết cho người nước ngoài rồi.

Ông Chủ Tiến Nông không ngờ người mà Ông Chủ Thuận Thành dẫn đến mua ngọc là con gái của Hiệp Gia ở Thương Châu, nay trở thành Bà thương gia Phú Thương giàu có nổi tiếng trùm Hải Châu.

Nói về Ông Chủ Thuận Thành cho người báo trước với vợ chồng Ngọc Kiều là có Ông Chủ Tiến Nông đến mua ngọc châu với số lượng không nhiều đủ bộ bảy màu là đủ. Ngọc Kiều liền nhớ lại cách đây ba hơn năm năm về trước Ông Chủ Tiến Nông đến cầu hôn mình cho con trai Ông là Tấn Lợi. Bị từ chối Ông Chủ Tiên Nông cắt đứt làm ăn giao thương với Hiệp Gia. Từ đó đến nay không còn quan hệ làm ăn nữa.

Nhìn thấy hai xe ngựa từ ngoài cổng chạy vào thời đã biết Cha Con Tiến Nông đã đến, hôm nay không có Cao Minh ở nhà Ngọc Kiều thay mặt Cao Minh tiếp khách. Cha Con Tiến Nông nhìn thấy sự giàu có Phú Thương cũng phải kính nể không nói là khâm phục hơn hẳn bề thế thương gia Tiến Nông nhiều.

Nói về Tấn Lợi nhìn thấy Ngọc Kiều liền nghĩ đến một người là vợ của Phú Sinh nổi tiếng là Phu Nhân đẹp nhất Lô Châu, Tấn Lợi đã một lần diện kiến chỉ nhìn một lần là nhớ mãi không quên. Ngọc Kiều thấy Tấn Lợi nhìn sững mình thời có vẻ không thiện cảm lắm. Thì ra chỉ là tên háo sắc, so với Cao Minh thời thua xa như rắn với rồng. Nhưng để giữ lịch sự Ngọc Kiều mời Cha Con Tiến Nông dùng trà cũng như tiếp đãi thật nồng hậu. Tấn Lợi lấy làm kinh ngạc Bà Chủ Phú Thương đây sao.

Ngọc Kiều đi vào vấn đề ngay, hiếm khi các thương gia gặp nhau âu cũng là cơ may khó gặp nay đã gặp thật là hân hạnh cho tôi quá. Tôi cũng có ý định đến thương gia Tiến Nông trao đổi làm ăn, nhưng chưa có dịp thuận lợi để đến.

Trong việc làm ăn đương nhiên phải có chữ tín nhưng thị trường giá cả luôn biến động, sự sốt giá của nhiều mặt hàng là chuyện bình thường. Những mối làm ăn cũ không theo kịp giá thị trường thời coi như chữ tín ấy không cần thiết nữa mà chuyển sang giao thương làm an với người khác.

Tôi định mua cao giá những gì thương gia Tiến Nông đã bán cho họ, đi vào lâu dài làm ăn với Tiến Nông. Nghe lời đề nghị Bà Chủ Phú Thương Tiến Nông ra chiều suy nghĩ.

Trong khi ấy Tấn Lợi bị sắc đẹp cũng như sự quý phái của Ngọc Kiều đã làm cho mê mẩn tâm hồn chỉ ngồi nghe Ngọc Kiều nói không có ý kiến gì cả. Ông Chủ Tiến Nông nói hàng hóa của tôi chuyên bán cho người nước ngoài họ đến tận nơi để chuyên chở đi. Chuyện nầy để tính lại sau vậy. Ông chuyển sang chủ đề mua ngọc Châu. Ngọc Kiều vì có người nói trước nên chửng bị bảy viên ngọc phát sáng bảy màu, bằng lấy trong túi ra để lên khay. Cha Con Tiến Nông vừa nhìn thấy bảy viên ngọc phát sáng thời mê mẩn cả tâm hồn từ hồi nhỏ đến giờ Ông chưa bao giờ nhìn thấy. Ngọc Kiều đi vào vấn đề ngay Ông Chủ mua Ngọc Châu của tôi, tôi mua hết nông, ngư, hải sản của Ông với giá cao. Tôi cam kết là mua đến khi nào Ông Chủ không bán nữa thời thôi. Cái lợi là Ông Chủ bán cho tôi với giá cao, buôn bán lâu dài. Những khách mua của Ông Chủ xưa nay họ mua không tới giá đó thời họ đi mua chỗ khác rẻ hơn có lợi hơn. Trong nghề nghiệp giao thương là như vậy.

Nói về Tấn Lợi đã say mê Bà Chủ Phú Thương muốn buôn bán qua lại với Ngọc Kiều để hàng ngày nhìn thấy Ngọc Kiều. Bằng nói Phú Thương với Thương Gia Tiến Nông không xa hơn nữa làm ăn gần trong địa phận Hải Châu rất an toàn về mặt giao thương. Cần chi phải bán cho người ngoại quốc. Ông Chủ Tiến Nông vì mê thất Thất Châu nên gật đầu bằng lòng bán Nông, Ngư, Hải sản chó Phú Thương với giá cao.

Ngọc Kiều nói đáng lý ra tôi bán với giá 70 lượng vàng một viên Thất Châu, nhưng đã là người quen không ai vào đây, lại là giao kết làm ăn lâu dài tôi vẫn giữ nguyên giá cũ 65 lượng vàng một viên. Hai bên đi vào cam kết Tiến Nông bán nông, lâm, ngư, hải sản với giá thỏa thuận, bên nào làm sai phải bồi thường thiệt hại rất nặng.

Ngọc Kiều thở phào nhẹ nhõm nói với Thuận Thành việc nầy tôi giao quyền thu mua tất cả nông, ngư, lâm, hải sản Tiến Nông do Ông Chủ Thuận Thành quyết định.

Nói về Ông Chủ Mẫn Đạt nhờ vay được ngân lượng mua đủ hàng giao cho cho thương gia Phú Hải ở Lô Châu. Vận hành doanh nghiệp thương gia Phú Hải là vợ chồng Phú Sinh. Thúy Vân là chị Ngọc Kiều tuy tài ba về đường thương gia nhưng không bằng Ngọc Kiều.

Thúy Vân nhìn Ông Chủ Mẫn Đạt nói tin đồn Ông Chủ đã bị hải tặc cướp sạch hàng hóa hơn 20 chiếc thuyền thế mà Ông Chủ vẫn đứng vững trên thương trường, thương gia Phú Hải tôi thật sự là khâm phục.

Ông Chủ Mẫn Đạt nhìn Thúy Vân giống Ngọc Kiều liền hỏi Phu Nhân có quen biết Bà Chủ Phú Thương không, sao hai người giống như hai chị em quá. Thúy Vân nghe nói liền suy nghĩ ở đời người giống người là chuyện thường, Ngọc Kiều không biết bây giờ Ngọc Kiều lưu lạc nơi đâu thật tội nghiệp cho Ngọc Kiều quá hơn năm năm rồi còn gì mình chưa tìm thấy. Thúy Vân nhìn Ông Chủ Mẫn Đạt nói Ông có quen biết với Bà Chủ Phú Thương. Ông Chủ Mẫn Đạt nói tôi còn đứng được trên thương trường là nhờ Bà Chủ Phú Thương, một Bà Chủ vừa xinh đẹp vừa tài giỏi phải nói là không ai sánh kịp hiện nay giàu có nhất Hải Châu. Ông Chủ Mẫn Đạt ca ngợi quên thôi làm cho vợ chồng Phú Sinh cũng phải lấy làm kinh ngạc. Thúy Vân là người Phụ Nữ thông minh cũng đoán ra được phần nào nhờ vào Phú Thương Ông đã vượt qua.

Đúng hẹn trả lãi Ông Chủ Mẫn Đạt đến khu biệt thự Phú Thương trong lòng dấy lên bao suy nghĩ. Tiếp tục hoạt động thương nghiệp thời không đủ vốn để làm, mua bán giao dịch nhỏ thời không còn gì mặt mũi. Thôi thời gia nhập Phú Thương theo kiểu của Thuận Thành. Làm ăn thuận lợi không ai dám đụng đến tất cả đều dựa hơi vào Phú Thương ngân lượng vô như nước nghe đâu Phú Thương đã chiếm lĩnh thị trường độc quyền về nông, lâm, ngư, hải sản. Mới trong vòng một tháng mà thương gia Phú Thương bành trướng đến như vậy, không gia nhập thành viên thời còn đợi gì nữa.

Ông Chủ Thuận Thành đang cho người điều khiển đoàn xe ngựa chở hàng từ thương gia Tiến Nông tập kết về nhập nhập hàng vào Phú Thương, kẻ đến người lui dập dìu tấp nập. Ông Chủ Mẫn Đạt liền tìm gặp Ông Chủ Thuận Thành. Hai bên gặp nhau tâm tình cởi mở. Ông Chủ Mẫn Đạt nhờ Ông Chủ Thuận Thành giới thiệu với Ông Bà Chủ Phú Thương cho gia nhập vào Phú Thương. Ông Chủ Thuận Thành lấy làm vui có thêm Ông Chủ Mẫn Đạt khác gì hổ thêm cánh. Ông Mẫn Đạt về mặt nào cũng giỏi nhưng vì thiếu đi thế lực bảo vệ. Muốn đứng vững trên thương trường cơ bản là phải có Thế Lực. Nhất là võ học rất cao ai cũng nể sợ không dám đụng đến cả, sơn lâm Tam Quái, cả Đại Bàng hải tặc.

Thế là cuộc gia nhập đi vào viên thành. Ông Chủ Thuận Thành, Ông Chủ Mẫn Đạt trở thành cặp bài trùng điều hành Phú Phương lớn như thổi. Một Phú Thương hùng mạnh độc quyền giao thương hàng hóa từ ngân lượng, ngọc ngà châu báu, đến nông, lâm, ngư, hải sản, tơ tằm nhung lụa tiếng tăm lừng lẫy ai nghe đến cũng thán phục.

Thời gian 10 năm đã trôi qua kể từ ngày Phú Thương được thành lập. Từ nơi khu biệt thự người ta nhìn thấy hai đứa trẻ một trai một gái đùa chơi với Tiểu Hắc Tiểu Bạch họ cũng nghĩ đây là con Bà Chủ Phú Thương những tương lai đang chờ phía trước. Từ trong ngôi nhà chính nguy nga đồ sộ rộng lớn một người trung niên bước ra nói Cao Danh. Ngọc Phụng mẹ con đang gọi kìa. Cao Danh, Ngọc Phụng liền chạy vào nhà nói mẹ gọi con. Thì ra người gọi Cao Danh, Ngọc Phụng chính là Bà Chủ Phú Thương Ngọc Kiều. Ngọc Kiều nhìn hai con liền nhớ đến người Cha là Ông Chủ Hiệp Gia mười mấy năm rồi còn gì.

Nói về Ông Chủ Hiệp Gia, từ ngày Ngọc Kiều ra đi Ông Thương nhớ vô cùng, nhưng biết tìm nó ở đâu khi đã ra đi biền biệt chị nó là Thúy Vân còn tìm không ra nói chi đến Ông. Tuổi đã cao Ông giao thương gia lại con trai út là Gia Bảo, nhưng Gia Bảo không tài giỏi như Ông nên làm ăn cũng cầm chừng không phát triển được mấy.

Ánh mặt trời đã ngả về tây như nói rằng cái gì đến đỉnh thời phải đi lần về xế chiều Ông Hiệp Gia cũng thế tóc đã hoa râm Ông càng nghĩ đến Ngọc Kiều ông càng rơi nước mắt. Bỗng từ ngoài ngõ xuất hiện một chiếc xe ngựa sang trọng nhưng đối với Ông Chủ Hiệp Gia thời chiếc xe ngựa nầy quá thân quen đó là xe Thúy Vân.

Thúy Vân vừa xuống xe miệng nói con đã tìm ra nơi ở Ngọc Kiều rồi. Ông Hiệp Gia vui mừng quá vợ chồng nó hiện giờ đang ở đâu chắc là khốn khổ lắm. Thúy Vân nói khốn khổ gì Ngọc Kiều hiện nay là Bà Chủ Phú Thương giàu có quyền lực nhất Hải Châu. Hiệp Gia nghe xong thời ngớ người ra hỏi có ch.uyện ấy sao? Thúy Vân nói con đã cho người tìm hiểu rồi, hơn nữa những hàng hóa của nhiều thương gia đều qua trung gian Phú Thương. Phú Thương trở thành độc quyền phân phối trong nước cũng như ngoài nước, Ngọc Kiều giàu lắm Cha ơi.

Ông Hiệp Gia nghe Ngọc Kiều trở thành Bà Chủ Phú Thương danh tiếng lừng lẫy thời vừa mừng vừa ăn năng những chuyện xưa không phải với nó, có thể nói là quá tàn nhẫn. Ông vừa suy nghĩ vừa rơi nước mắt.

Ông nói Ngọc Kiều có lẽ đã quên người Cha nầy rồi, quên từ khi nó đã ra đi và không bao giờ trở lại đây nữa bằng chứng mười mấy năm Ngọc Kiều không cho biết tung tích của vợ chồng nó.

Không phải vậy đâu Cha Thúy Vân nói. Con biết rõ tánh Ngọc Kiều thương Cha lắm nhưng nó không trở về vì sợ Cha còn giận về chuyện nó đã không nghe theo lời Cha, chọn một người chồng nghèo khổ. Ông Hiệp Gia như hối hận Cha không có con mắt nên Cha không nhận ra con Rồng đang ẩn trong lớp nghèo khổ. Còn Ngọc Kiều lại khác nó có con mắt hơn hẳn Cha, nên ngày nay mới được như vậy.

Ông liền đi đến một quyết định là cùng vợ chồng Thúy Vân đến khu biệt thự Phú Thương xem thật hư ra làm sao. Thúy Vân nói vợ chồng con có thiệp mời đến dự lễ cuối năm cùng 20 thương gia trong nước ngoài nước, tuy Cha không có thiệp mời nhưng chắc Gia Bảo thời có vì đã quan hệ làm ăn trở lại với Tiến Nông. Lại một sự trùng hợp ngẫu nhiên Gia Bảo từ nơi giao hàng hóa trở về đưa cho Ông Hiệp Gia thiệp mời do Ông Chủ Tiến Nông mời đến Phú Thương làm lễ tổng kết hiệp hội thương gia.

Từ mờ sáng tinh sương từng đoàn xe ngựa lần lượt chạy vào khu biệt thự Phú Thương, cảnh vật bề bộn khác thường cớ xí lồng đèn treo khắp chỗ. Có cả gánh hát đến biểu diễn mua vui. Người ta nhìn thấy ba chiếc xe ngựa sang trọng chạy vào có lẽ là những xe ngựa cuối cùng của những các thương gia nổi tiếng.

Ông Chủ Hiệp Gia choáng ngợp với vẻ hoành tráng nguy nga tráng lệ của khu biệt thự Phú Thương. Ông không ngờ Ngọc Kiều lại giàu đến như vậy. Ngọc Kiều đã nhận được một phong từ người cưỡi ngựa đưa tin là có Ông Hiệp Gia cũng đến đây. Đó là tin Thúy Vân gửi đi trước vậy để cho Cha con có sự gặp gỡ đầy tốt đẹp.

Nhận được thông tin nghe nói Cha không còn giận mình nữa nên đến thăm Ngọc Kiều lấy làm vui mừng vô kể bàn với Cao Minh sẽ tiếp đãi người Cha vô cùng nồng hậu với nghi lễ long trọng nhất.

Từ ngôi nhà rộng lớn tiếng nhạc vang lên với hơn 20 vị thương gia nổi tiếng trong nước ngoài nước, dẫn đầu là vợ chồng Ngọc Kiều theo phái sau vợ chồng Ngọc Kiều là ba Ông Chủ lừng danh.

Ông Chủ Thuận Thành.

Ông Chủ Tiến Nông.

Ông Chủ Mẫn Đạt.

Cùng 20 vị thương gia nổi tiếng trong nước ngoài nước ra tận cổng khu biệt thự Phú Thương đón tiếp Ông Chủ Hiệp Gia.

Ông Chủ Hiệp Gia vừa nhìn thấy Ngọc Kiều Ông không cầm được giọt nước mắt. Ngọc Kiều lao tới ôm chầm lấy Ông Hiệp Gia khóc nức nở. Làm cho ai nấy cũng cảm động trước sự gặp gỡ nầy. Thúy Vân bước đến nắm lấy tay Ngọc Kiều nói em bí mật quá làm ăn với chị bấy lâu mà chị không hề hay biết.

Ông Chủ Tiến Nông bước tới bắt tay Ông Chủ Hiệp Gia nói chúng ta lại gặp nhau. Chúc mừng Ông con gái Ông nay là chủ nhân của Tiến Nông tôi. Thúy Vân cười thầm trong bụng chúc mừng Ông sui gia hụt.

Trong ngôi nhà lộng lẫy to lớn đang đi vào yến tiệc và những lời chúc nhau nghe êm tai nhưng không kém phần nói lên bề thế của mình.

Trên 20 thương gia đang vui vẻ yến tiệc chúc tụng nhau thời có người vào báo là có ba vị hiệp khách muốn diện kiến Bà Chủ Phú Thương là có việc quan trọng.

Vợ chồng Ngọc Kiều lấy làm kinh ngạc những vị khách không mời liền bước ra xem là ai thời phát hiện ba cao thủ lạ mặt không biết từ đâu đến, và đến đây có chuyện gì bằng lễ phép mời ba hiệp khách vào trong.

Ba người mới đến nói chúng tôi là những vị khác không mời đến đây không phải dự tiệc mà là nghe danh Bà Chủ Phú Thương là người Tài, Sắc, trùm thiên hạ. Võ công cao cường ít người địch lại. Chúng tôi đến đây muốn lãnh giáo vài chiêu với Bà Chủ mở rộng tầm mắt. Nếu bà chủ thắng được chúng tôi thời Bà Chủ bảo sao ba chúng tôi làm theo nấy. Thậm chí ba chúng tôi trở thành những trung thành bảo vệ những hàng hóa chuyển đi hoặc trở về của Phú Thương.

Còn nếu Bà Chủ không thắng được thời coi như Bà Chủ đã gặp một đối thủ không mấy thuận lợi trên đường làm ăn của Bà Chủ. Tiểu Hắc Tiểu Bạch nhận ra ba người nầy liền thốt lên Tam Ma Hải Biển. Còn cao hơn Tam Yêu Sơn Tặc đến mấy bậc. Tôi nghe thầy tôi kể Tam Yêu Sơn Tặc bị Tam Ma Hải Biển đánh bại hể thấy Tam Ma là Tam Yêu Sơn Tặc khiếp kinh.

Hơn 20 thương gia nghe đến Tam Ma Hải Biển liền kinh hãi, nhất là Ông Chủ Mẫn Đạt bị cướp biển cướp sạch tài sản hàng hóa của Ông.

Cha của Ngọc Kiều là Ông Chủ Hiệp Gia thấy Tam Ma Hải Biển đến thách đấu với Ngọc Kiều Ông vô cùng kinh hãi. Bằng xen vào nói ba hiệp khách đến đây chỉ vì mục đích bấy nhiêu sao? Tam Ma nói đúng vậy, chỉ cần Bà Chủ Phú Thương từ chối không giao đấu thời Tam Ma chúng tôi sẽ bỏ đi ngay. Các thương gia quá hiểu những người có mặt hôm nay không ít là những võ lâm cao thủ được Phú Thương mời đến bảo hộ. Nhưng không ai có thể địch lại được một người trong Tam Ma nói chi đến ba người.

Không để sự chờ đợi của Tam Ma Ngọc Kiểu nói ta sẽ thách đấu với ba ngươi. Thúy Vân sợ quá nói không nên đâu em, Ngọc Kiều nói chị yên tâm đi. Ngọc Kiều nói ba vị Tam Ma chờ đợi giây lát tôi vào thay y phục rồi trở ra lãnh giáo ba vị.

Người ta nhìn thấy Bà Chủ Phú Thương mặc đồ gọn gàng trông còn gợi cảm hơn nữa vai mang kiếm không khác chi một nữ hiệp sĩ oai hùng. Trong số hơn 20 thương gia ai cũng lấy làm lo sợ chỉ có thương gia Thuận Mẫn vẫn bình thản như thường như không có chuyện gì đã xảy ra. Nếu không phải một Bà Chủ tài giỏi dễ gì Ông tùng phục tuyệt đối trung thành làm ăn với Phú Gia.

Nhích nhẹ cái chân thân pháp Bà Chủ Phú Thương biến hóa ảo ảnh ra làm ba người hàng trăm con mắt kinh hãi. Nhất Ma biết gặp phải đối thủ không dễ gì đánh bại được bằng dở hết tài ba ra tấn công, với chiêu pháp lừng danh trùng dương kiếm pháp với 12 thần công lực kiếm pháp như nước cuồn sóng cuộn cát bay đá chạy nhìn thấy kinh hồn, chém tới Ngọc Kiều Hiệp Gia bụm mắt không dám nhìn nữa, chừng nghe những tiếng ầm ầm nổi lên người lảo đảo muốn ngã không phải là Ngọc Kiều mà là Nhất Ma.

Nhị Ma không nói không rằng thi triển tuyệt chiêu sấm sét lưng trời tia kiếm chớp lên kinh khiếp chém tới Ngọc Kiều chỉ nghe tiếng quát lanh lãnh khá lắm xem đây. Tức thời thân hình xinh đẹp ngọc Kiều như rồng bay phụng múa thi triển tuyệt chiêu Tuyết Phủ Sương Sa thân hình Ngọc Kiều biến mất chỉ nghe tiếng nổ ầm ầm Nhi Ma lảo đảo muốn ngã. Tam Ma tức thời xuất chiêu Đoạt Hồn kiếm pháp nhanh như tia chớp tấn công vào người Ngọc Kiều. Thời kỳ diệu thay từ người Ngọc Kiều thần công hộ thể tuôn ra chạm vào chiêu kiếm tức thời tiếng nổ ầm ầm vang lên Tam Ma lảo đảo muốn ngã.

Vừa lấy lại khí thế Tam Ma đồng loạt tấn công hơn 20 thương gia tim như muốn rớt ra ngoài. Ngọc Kiều hét lên một tiếng ảo ảnh biến ra làm ba người đánh liền ba chiêu Thần Công tuyệt học. Vô Cực Thần Công Ầm Ầm Đùng Đùng Tam Ma té ngồi đứng dậy không nổi thất kinh quỳ lạy nói rằng chúng tôi tâm phục Bà Chủ chấp nhận phục vụ vì Phú Gia.

Đến lúc nầy hơn 20 thương gia mới thở phào nhẹ nhõm nhất là Hiệp Gia Ông không ngờ Ngọc Kiều lại tài giỏi đến mức vậy. Làm rạng rỡ gia đình tông môn của Ông, bỗng nghe hai tiếng đứa trẻ từ trong nhà lao ra Cháu chào Ông Ngoại chào Dì Dương, chào Cậu Út.

Thương Gia Phú Thương trời quang mây tạnh, sóng yên biển lặng trở lại vui vẻ như lúc ban đầu như cá thêm vây, như hổ thêm cánh, danh tiếng càng lẫy lừng, ai nghe đến danh Bà Chủ Phú Thương cũng đều nể phục kính trọng.
 
58. CÂU CHUYỆN CHÍN BỆNH, MƯỜI KHÁ

Công viên Mộng Mơ,

Thành phố biển nói đến.

Cô Mười Khá thời ai cũng biết. Khá học giỏi, khá giàu sang, khá xinh đẹp, khá ăn nói lưu loát, khá ăn diện thời trang, nói chung về mặt nào Cô cũng Khá, nên biệt danh của Cô là Mười Khá.

Nhưng Cô Mười Khá lại mang trong người mười thứ bệnh, nào là bệnh đường huyết cao, nào là bệnh áp huyết, nào là bệnh hay xẩm mặt, nào là bệnh tim, gan, bệnh ăn không ngon, bệnh mất ngủ, bệnh nhức mỏi, bệnh hay đau đầu, bệnh suy thận. Cô mang trong người mười thứ bệnh chúng thay phiên hành hạ Cô. Cô đi đủ bác sĩ chạy chữa cả Đông Y, lẫn Tây Y, uống đủ thứ thuốc nào là thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây lúc nào cũng có trong nhà. Ở đời người ta thường nói không bệnh không đau thời giàu biết mấy. Trong bốn cái khổ con người Sanh, Lão, Bệnh, Tử. nhưng bệnh là nỗi khổ hàng đầu, luôn hành hạ con người theo năm tháng. Bệnh nào để cho con người yên, chúng thi nhau mà hành mà hạ.

Cô Mười Khá ngày nào cũng trầm tư suy nghĩ luôn tìm kiếm những liều thuốc cấp cao hầu mong chữa lành bệnh cho mình.

Cô Mười Khá đang suy tư thời nghe tiếng chuông đổ ngoài cổng Cô vội ra mở cửa. Người mới đến tên là Hồng cô nhìn Mười Khá rồi hỏi Cô Mười Khá thấy đỡ chút nào chưa thuốc trị bệnh mất ngủ hay lắm đó. Cô Mười Khá nói đỡ thời có đỡ ngủ được, nhưng bệnh đau đầu chóng mặt không thấy bớt chút nào. Cô Hồng không lạ gì nhà Cô Mười Khá nhìn chỗ nào cũng thấy toàn là thuốc. Nào là thuốc tiểu đường, thuốc đau đầu chóng mặt, thuốc huyết áp, thuốc đau tim. Cô Hồng nhìn tủ thuốc nói bây giờ thuốc ngoại nhập thiếu chi có tiền thời lo gì cứ mua mà uống.

Cô Mười Khá nói, uống thuốc nhiều không có lợi vì mỗi loại thuốc đều có tác dụng phụ. Trước kia tôi chỉ có một bệnh là tiểu đường, uống riết thuốc tiểu đường sinh ra bệnh gan, thận, đôi lúc gây ra bệnh đầy bụng tiêu chảy. Tôi lại dùng thuốc chữa trị bệnh gan, thận. Uống riết sinh ra cao huyết áp, tôi lại dùng thuốc chữa trị huyết áp, thời sinh ra bệnh nhức đầu choáng váng, thân lúc nào cũng mệt mệt, trời chuyển mùa thường ho khan, ho dai. Nay tôi không còn là Cô Mười Khá mà là Cô Mười bệnh. Những căn bệnh thi nhau nổi lên hành hạ tôi.

Biết thế uống thuốc trị bệnh càng nhiều càng nguy hại, nhưng cơn đau nổi lên không uống thời làm sao chịu nổi, đành phải uống, uống thuốc chữa bệnh nầy thời bịnh khác lại sinh ra bởi tác dụng phụ của thuốc. Nhưng biết làm thế nào tiền mất thời tật bệnh cứ mang.

Cô Hồng như chợt nhớ ra điều gì, ở khu vực mình đây có Cô Chín Bệnh, nhưng tôi thấy Cô không bệnh một chút nào. Cô thường đi tập thể dục nơi công viên mộng mơ. Nghe đâu trước cô mang tới chín cái bệnh, nhà Cô lại nghèo lấy đâu ra tiền chữa bệnh thế mà Cô chữa khỏi hết bệnh mới là kỳ chớ. Nhà Cô Chín bệnh không xa chỉ ở gần đây thôi. Cô Mười Khá nghe Hồng nói thế lấy làm mừng Hồng dẫn chị đến nhà Cô Chín Bệnh đi. May ra Cô Chín Bệnh có thuốc đặc trị cũng nên.

Thế là hai người tìm đến nhà Cô Chín Bệnh. Cũng may là Cô Chín Bệnh vừa mới đi chợ về. Hồng không phải là người lạ liền mời vào nhà.

Cô Mười Khá nhìn Cô Chín Bệnh không thấy có dấu hiệu gì là mang bệnh cả trông khỏe người hẳn ra. Cô Mười Khá nói tôi nghe Cô trước kia người mang đầy bệnh, nên mới có biệt hiệu là Cô Chín Bệnh. Nhưng nay nhìn Cô tôi thấy Cô khỏe mạnh như không có bệnh gì, chẳng hay Cô dùng thuốc đặc trị gì vậy?

Cô Chín Bệnh không dấu diếm liền nói tôi dùng thuốc Trời chữa lành hết chín căn bệnh của tôi.

Cô Mười Khá nghe xong lấy làm kinh ngạc thuốc Trời. Cô Mười Khá liền hỏi thuốc Trời bán ở đâu, chỉ cho tôi mua với đắc bao nhiêu tôi cũng mua.

Cô Chín Bệnh nói thuốc Trời chỗ nào cũng có cần gì phải mua. Nhưng điều cần thiết phải hiểu bệnh sinh ra bằng cách nào thời mới chữa được tận gốc.

Một là ăn nhiều chất độc hại.

Hai là uống nhiều chất độc hại.

Ba là tiếp xúc cũng như hít nhiều chất độc hại.

Thời nhất định bao căn bệnh sẽ sanh ra. Khi sanh ra chúng ta lạm dụng thuốc trị bệnh dẫn đến tác dụng phụ sanh ra nhiều bệnh khác, nhiều bệnh sanh ra, đương nhiên phải uống nhiều loại thuốc, tác dụng phụ càng nhiều, thời nhiều chứng bệnh càng sanh ra.

Cũng may là tôi gặp được Văn Hóa Cội Nguồn chỉ cách uống thuốc Trời. Nên tôi mới khỏi chín căn bệnh, trở nên khỏe mạnh như xưa.

Cô Chín Bệnh nói, muốn chữa khỏi các bệnh cùng một lúc phải đi từng bước thời chữa bệnh mới có hiệu quả.

Bước Một;

1 là: phải hạn chế ăn nhiều chất độc hại,

2 là: hạn chế uống nhiều chất độc hại,

3 là: tránh hít thở không khí ô nhiễm độc hại. Đây là nền tảng bước đầu đi vào chữa bệnh.

Bước Hai;

Cơ thể đã mang nhiều bệnh tật, duy hại đến lục phủ, ngũ tạng, đương nhiên khí huyết bất ổn, các huyệt tắc nghẽn làm cho cơ thể suy nhược, sanh ra đau nhức cũng như tê bại. Giải pháp chữa trị là châm cứu, kết hợp với uống nước lá. Làm cho khí huyết, cũng như các huyệt đạo lưu thông trở lại, cơ thể dần dần hồi phục.

Bước Ba;

Khi cơ thể dần dần hồi phục thời giảm lần lượng uống thuốc trị bệnh. Và đi vào trị liệu Thuốc Trời. Cô Mười Khá nghe nói đến Thuốc Trời liền chú ý lắng nghe.

Cô Chín Bệnh nói, Thuốc Trời là loại thuốc tự nhiên đâu đâu cũng có không cần bỏ tiền ra mua. Đó chính là Dược Liệu Chân Khí. Các nhà vận động viên, các nhà võ thuật, các nhà vô ga nhờ luyện hít thở Chân Khí, các bệnh tiêu trừ khỏe mạnh vô cùng không phải là Thuốc Trời là thuốc gì. Càng thu nạp Chân Khí càng nhiều, thời bệnh gì cũng bị đẩy lùi thậm chí là bớt hẳn. Không gây ra một tác dụng phụ nào. Cho nên nhà nghèo như tôi cũng chữa khá được bệnh, không những một bệnh mà còn nhiều bệnh chữa trong một lúc, tu tập hít thở luyện Chân Khí phải nói trị bệnh hiệu quả vô cùng. Không có loại thuốc nào mà hơn được thuốc Trời. Tu Luyện hít thở thu nạp Chân Khí thời phải thường xuyên không được gián đoạn.

Uống Dược Liệu Thuốc Trời, cũng phải đi từng bước vì chúng ta là những con bệnh lâu năm, thậm chí có nhiều căn bệnh đã di căn trở thành ung thư.

Bước Một;

Vừa đi bộ vận động toàn thân, vừa hít thở sâu vào đan điền thu nạp Chân Khí dược liệu Thuốc Trời vào người dần dần làm cho lục phủ, ngũ tạng đi vào hồi phục các bệnh theo đó cũng bớt lần.

Bước Hai;

Là Tỉnh Tâm tu thiền luyện khí, đi đôi với các bài tập thể dục bình thường dễ tập, tùy theo sức khỏe mà tập những bài tập những động tác khó hơn.

Bước Ba;

Là dứt đi mọi lo lắng, buồn phiền Tâm Hồn an vui, dược liệu trị bệnh lo lắng, buồn phiền. Chính là dược liệu Văn Hóa Cội Nguồn. Văn Hóa Cội Nguồn chính là Cam Lộ Ma Ha. Tâm hết bệnh thời thân bệnh cũng tiêu trừ, chỉ còn bệnh về già là bệnh theo tự nhiên. Già sanh tật bệnh, đất sanh cỏ.

Cô Mười Khá nghe xong thời lấy làm mừng rỡ mấy ngày sau thời Cô đi vào thực hành ngay.

Với nhiều căn bệnh lâu ngày.

Để hạn chế ăn nhiều sự độc hại. Cô hạn chế ăn nhiều sự chiêng xào, tìm những thức ăn sạch ít hàm lượng hóa chất. Cô uống nước sôi để nguội, hạn chế các loại nước pha chế. Tránh xa những hôi hám môi trường.

Cô tìm đến một thầy tư châm cứu khai thông kinh mạch khí huyết, kết hợp với uống nước lá.

Cô Mười Khá sáng nào cũng đến Công Viên đi bộ vận động toàn thân, vừa đi vừa hít thở sâu vào đan điền. Thật bất ngờ hàng loạt căn bệnh trong người liền thiên giảm, người Cô khỏe mạnh trở lại.

Để hiểu rõ hiệu quả uống thuốc Trời đi bộ vận động thu nạp Chân Khí, Cô đến một khám tư kiểm tra tổng quát. Kết quả đến bất ngờ Tim, Gan, Thận, Tiểu Đường, Huyết Áp, Rối Loạn Tiền Đình, Nhức Đầu, Choáng Váng, không cánh mà bay. Niềm tin đã dâng lên Cô càng siêng năng tập luyện, tiến lên tầm cao hơn Cô tỉnh Tâm tu thiền luyện khí, tập luyện những bài tập thể dục khó. Cũng như tìm đọc kinh thơ Văn Hóa Cội Nguồn. Cô thấy trong nguồn nhẹ bổng đúng như cái tên của mình Cô Mười Khá.

Khá thông minh, khá giàu sang, khá xinh đẹp, khá ăn nói, lưu loát, khá ăn diện thời trang, giờ lại còn Khá tinh thông về chữa bệnh, nói chung về mặt nào Cô cũng Khá. Cô rất lấy làm vui.

Thường thường ở đời người ta thường nói hết rên quên thầy, nhưng Cô Mười Khá lại khác hết rên càng nhớ đến thầy. Cô liền mua những phần quà có giá trị tạ ơn Cô Chín Bệnh.

Nhà Cô Chín Bệnh nghèo nên chẳng có cổng chuông gì cả ai vô ra cũng được. Cô Chín Bệnh đang quét nhà thời thấy Cô Mười Khá đi vào tay xách túi xách. Liền dừng chổi chào hỏi. Chào Cô Mười Khá đến thăm chơi.

Cô Mười Khá tươi cười thân thiện nói tôi đi đứng khỏe mạnh được như ngày hôm nay là nhờ Cô chỉ bảo cho Dược Liệu Thuốc Trời. Một loại thuốc không tốn tiền mua nhưng mà hiệu quả thời không có một loại thuốc cao cấp nào bằng. Nghĩ đến thời gian chín mời năm tôi tốn không biết bao nhiêu là tiền bạc dùng đủ loại thuốc cao cấp, tiền cứ mất mà bệnh tật cứ mang. Nay thời không tốn đồng xu tiền có dư mà những căn bệnh cũng biến mất, không có niềm vui sướng nào bằng.

Tôi vừa mua được một ít linh chi Nhật, Hàn, cũng như sâm, nhung, mật gấu, cao hủ cốt, dùng để tăng lực trợ sức biếu tặng Cô.

Từ đó hai người thân nhau như chị em ruột, người ta nhìn thấy từ mờ sáng Công Viên Mộng Mơ thành phố biển Cô Mười Khá cùng Cô Chín Bệnh đi bộ vận động cơ thể, thu nạp Chân Khí diệu dược Thuốc Trời. Một loại diệu dược không tiền, luyện uống vào bao nhiêu cũng được, không bao giờ hết, dược liệu cho không. Càng uống càng khỏe không có cảnh uống thuốc chữa bệnh nầy rồi lại sanh ra bệnh kia.
 
59. ÔNG CHỦ VÀ ĐẦY TỚ

Nói đến Ông Cụ Bình ở làng Bàu Sen không ai là không biết, vì Ông Cụ có tài kể chuyện rất hay. Lũ trẻ làng Bàu Sen khi đến mùa nghỉ hè thường đến nhà Ông Cụ Bình để nghe kể chuyện.

Ngôi nhà tranh Ông Cụ Bình hôm nay chật kín những em trẻ chúng cười nói vui tươi hồn nhiên. Ông Cụ Bình thích lắm và luôn kể chuyện cho các em nghe.

Lũ trẻ nhìn Cụ Bình nói chúng con đến đây là muốn nghe Ông kể chuyện. Ông có chuyện gì hay kể cho chúng cháu nghe đi, chúng cháu tích nghe lắm.

Không để lũ trẻ đợi lâu Ông Cụ Bình kể rằng;

Ngày xửa ngày xưa, có một người nông dân phải nói là rất giàu, giàu lắm các cháu ạ. Giàu đến nổi có cả rừng vàng, biển bạc, do Tổ Tiên để lại cho người nông Dân.

Đã là nông Dân thời các cháu biết rồi chất phát thật thà lam lũ, không tính toán hơn thua lợi hại. Chỉ biết làm và làm trời cho trúng mùa thời có ăn, trời không cho trúng mùa thời đói.

Người nông Dân nầy có một cái tánh là thích trò ảo thuật, nghe đến trò ảo thuật thời mê dù xa mấy cũng tìm đến xem coi.

Và cho đến một hôm từ xa xôi có một người đầy tớ, đầy tớ chuyên đi gạt người hết xứ nầy đến xứ khác nghe người nông Dân giàu có liền tìm đến người nông Dân. Hầu chiếm đoạt tài sản người nông Dân mà Tổ Tiên Ông Cha để lại.

Người Đầy Tớ tìm gặp người nông Dân rồi nói tôi là một nhà ảo thuật tài ba nhất thế giới, trên đời nầy không có gì là tôi không biến ra được. Ông có muốn xem tài ảo thuật của Tôi không? Nghe nói đến tài ảo thuật thời người nông Dân đã mê tít rồi liền nói ngươi thử biến hóa cho ta xem.

Người đầy tớ liền biến ra vàng bạc nhiều vô số kể, người nông Dân hoa cả mắt không thể nào tin được muốn có vàng là có vàng, muốn có bạc là có bạc, muốn giàu bao nhiêu mà chẳng được cần chi làm. Người đầy tớ thấy người nông Dân mê mẫn cả tâm thần liền nói chưa hết đâu. Tôi có thể biến ra trâu, bò, dê, heo nhiều vô số kể nói xong người đầy tớ liền biến ra trâu, bò, dê, heo hàng nghìn con.

Người nông Dân lấy làm thích lắm nói ngươi có thể dạy cho ta được không?

Người đầy tớ nói chuyện đó dễ thôi chỉ cần Ông biến thành Đầy Tớ. Còn tôi thời biến thành Ông Chủ nông Dân. Khi đó Ông muốn biến ra bao nhiêu vàng bạc, trâu, bò, dê, heo tùy thích giàu có mấy cũng được mà không cần cực khổ gì cả.

Người nông Dân không cần suy nghĩ nói, ngươi cứ biến Ta thành Đầy Tớ, còn Đầy Tớ ngươi biến thành Ta. Người nông Dân nghĩ đến, khi mình biến thành Đầy Tớ thời tha hồ mà biến ra thật nhiều vàng nhiều bạc, biến hóa ra thật nhiều trâu, bò, dê, heo nên miệng luôn hối thúc người Đầy Tớ ngươi biến đi.

Người Đầy Tớ tức thời làm phép biến người nông Dân trở thành Đầy Tớ, còn người Đầy Tớ trở thành người nông Dân.

Người Đầy Tớ giờ đây trở thành Ông Chủ giàu có rừng vàng biển bạc có kẻ hầu người hạ ăn sung mặc sướng, ba bà vợ trẻ đẹp của người nông dân giàu có thi nhau phục vụ.

Người nông Dân đã biến thành đầy tớ tưởng mình muốn gì được nấy nằm ngủ trong một cái xó không lo lắng gì cả. Vì nghĩ rằng khi thức dậy sẽ biến ra thật nhiều vàng, nhiều bạc, trâu, bò, dê, heo, tha hồ mà làm giàu không cần làm gì cả. Nhưng người nông dân nào có biết đã là ảo thuật thời không có cái chi là thật, chỉ toàn là giả. Biến ra vàng giả bạc giả, trâu giả, bò, dê, heo giả, đụng đến là tan biến, cuối cùng chẳng có chi cả, khi thức tỉnh thời quá muộn không làm chi được nữa. Vì mình đã biến thành tên đầy tớ xa lạ, Người nông dân bụng thời đói, suốt từ hôm qua đến giờ chưa có một hột trong bụng đói thôi là đói. Nhà cửa mất sạch ba cô vợ đẹp thi nhau phục vụ cho ông chủ giả. Người nông Dân tức giận run lên vì bị tên Đầy Tớ lừa tìm tên lừa đánh cho một trận.

Người nông Dân bước vào trong nhà thấy tên Lừa ngồi chễm chệ ăn toàn thức ăn cao lương mỹ vị, ba bà vợ trẻ ra sức phục vụ cho tên Đầy Tớ hắn lấy làm sung sướng thích thú hả hê. Tức quá người nông dân lao tới la lớn thằng lừa tao đánh vỡ đầu mầy.

Người Đầy Tớ giờ là thân phận của Ông Chủ. Chỉ người nông Dân với thân phận là Đầy Tớ hét lớn chúng bây đâu lôi thằng Đầy Tớ nầy ra đánh cho một trận. Thế là bọn gia nhân lôi người nông Dân ra đánh bầm dập. Người nông Dân la lớn sao chúng bây lại đánh tao, bọn gia nhân còn đánh hơn nữa quá mắn đồ ăn mày cút đi nếu không muốn bỏ mạng nơi đây.

Người nông Dân sưng mình dập mẩy lê lết đi ra khỏi nhà bị thằng Đầy Tớ nó lừa mới nên nông nỗi nầy. Chỉ biết kêu trời khóc đất, không biết phải đi đâu khi không có một đồng xu trong túi. Đói đến nổi gầy còm ốm tong ốm teo.

Cho đến một hôm người nông Dân trở lại ngôi nhà của mình, thời ôi thôi mọi việc đều thay đổi những gì của người nông Dân trước đó đã biến mất, thay vào đó thay vào đó là ngôi nhà lộng lẫy khang trang, kẻ ăn người ở còn nhiều hơn trước, sự nghiệp Cha Ông để lại nay thuộc của người khác rồi. Tại ai do tại lòng Tham mà ra tất cả, không muốn làm mà muốn có, ham quá hóa ra thâm, mất đi tất cả. Với thân phận Đầy Tớ sợ người trong nhà phát hiện túm cổ đánh nữa đành lủi thủi bỏ đi.

Từ ngày cướp sạch gia sản sự nghiệp của người nông Dân. Tên Đầy Tớ bán lần đất đai, rừng vàng, biển đảo ăn chơi trác táng, cao lương mỹ vị, nem rồng chả phụng, gái gú hết con nầy tới con kia.

Người nông Dân mỗi lần đi ngang qua ngôi nhà của mình đã về tay người khác cứ rụt rè ngoài ngõ. Vô tình tên Đầy Tớ nay đã là Ông Chủ nhìn thấy được cho người ra tóm cổ vào hỏi ngươi rình mò cái gì muốn xin những cục xương thừa thải phải không? Chúng bây đâu cho tên Đầy Tớ ăn mày nầy vài cục. Nhìn những cục xương còn dính chút thịt, nhưng có còn hơn không ra sức mà gặm.

Tên Đầy Tớ đã biến thành Ông Chủ nông Dân lúc nào cũng ra bề phết sang cảnh. Nhìn Ông Chủ nông Dân đã biến thành Đầy Tớ trở thành ăn xin không chút thương hại mà còn nói. Trước kia ngươi chính là Ông Chủ, còn ta chỉ là tên Đầy Tớ, nhưng chỉ vì ngươi quá ngu lại chứa đầy tham lam nên mới bị Ta Lừa với cái giá ngu si cũng như đầy lòng tham lam đã biến ngươi thành thế nầy. Bụng làm dạ chịu còn trách ai.

Tên Đầy Tớ trở thành Ông Chủ nói Lòng tham của Ta cái tham đầy mưu mô xảo quyệt thuộc hàng Ông Nội. Còn cái tham của Ông Chủ ngươi. Cái tham thuộc hàng cháu chắt của Ta. Nên Ông Chủ ngươi mới mất trắng như thế.

Lũ trẻ nghe Ông Cụ kể đến đây cười lắc ngang lắc ngửa la lên bị đòn là phải, làm Ông Chủ mà ngu như thế, mất nhà mất cửa, mất mấy bà vợ trẻ cũng đáng, đánh vài hèo nữa cho bớt tánh ngu.

Nói về người nông Dân đã biến thành Đầy Tớ, ngày nào cũng trở về nhà của mình để gặm xương cũng như ăn đồ thừa của tên của tên Đầy Tớ giờ đang là Ông Chủ liền khôn lần ra. Một hôm quỳ xuống trước mặt Ông Chủ Giả, nói tôi giờ đây không còn gì nữa chỉ là thân phận Đầy Tớ. Làm Đầy Tớ ở đâu cũng vậy, tôi xin nguyện ở đây làm Đầy Tớ cho Ông Chủ, Ông Chủ biểu làm gì tôi cũng làm miễn là có cơm ăn là được.

Ông Chủ giả hiệu nói, thôi được Ta nhận ngươi làm Đầy Tớ, trông coi nhà cửa cho Ta.

Với cái tánh ăn chơi tiêu xài như nước, gái gú đầy nhà ăn một nửa đổ một nửa, của cướp được thời đâu có gì là tiếc mặc sức mà tiêu mà xài. Ở đời không làm ra mà xài quá của đống cũng hết. Với cái tánh tham lam lại ỷ mình có tài đánh bạc. Nên sanh ra bài bạc kiếm tiền, nào hay đâu con đường bài bạc là bác thằng bần nhà cửa hết sạch ra thân ăn mày. Ông Chủ giả hiệu chính là tên Đầy Tớ càng lún sâu vào nghề đánh bạc, càng đánh càng thua, thua ngày thua đêm không còn tiền để đánh bằng ăn trộm tiền của Bà Vợ Cả trước đây là vợ của Ông Chủ nông Dân. Bà vợ cả phát hiện mất tiền liền nói dạo nầy hay mất tiền coi chừng có ăn trộm.

Ông Chủ giả hiệu, kêu Đầy Tớ đến chính là Ông Chủ nông Dân dặn rằng ngươi phải coi nhà cẩn thận ngó trước ngó sau thấy ăn trộm là đánh chết cho tao. Ngày nào Ông Chủ Nông Dân cũng bị kêu lên mà căn dặn như vậy, để cho Bà vợ lớn yên lòng.

Người nông Dân với thân phận Đầy Tớ, bằng nghĩ ra một kế đánh trả thù, mà Ông Chủ giả hiệu không làm chi được.

Màng đêm buông xuống Bà cả đi đến nhà bạn. Ông Chủ giả hiệu thua liểng xiểng sạch túi, còn nợ thêm người Ta bằng trở về nhà kiếm hạt cơm vào bụng. Ông Chủ giả hiệu thấy không có bà lớn ở nhà cho đây là cơ hội ăn trộm tiền.

Vội vã mò vào phòng bà lớn, trong phòng Bà Lớn tối om nên không thấy gì cả lục lạo kiếm tìm, tiền lấy chưa được. Thời bị một trận đòn tới tấp, người nông Dân với thân phận Đầy Tớ đánh thôi là đánh, đánh cho hả dạ cơn tức bấy lâu. Tay thời đánh miệng thời hét lớn có ăn trộm, có ăn trộm. Tao đánh cho mầy chết có lẽ bị đánh quá chịu không nổi la lớn. Tao là Ông Chủ đây, ngừng tay ngay ngừng tay ngay đau quá chết mất.

Lũ trẻ nghe đến đây thích thú quá cười ồ lên đánh nữa đi đánh nữa đi, đánh cho dập mật đập mề, đánh cho chừa cái tội lừa đảo.

Nói về Đầy Tớ nông Dân không ngừng tay mà còn đánh tới tấp miệng thời la hét ăn trộm ăn trộm, Cả nhà kéo nhau chạy tới thời Ông Chủ giả hiệu đã ngất xỉu, hiện nguyên hình là tên Đầy Tớ. Phép đã hết người Đầy Tớ nông Dân hiện nguyên hình trở lại thành Ông Chủ.

Phòng Bà Cả đèn đã được thắp lên thấy tên Đầy Tớ bị đánh bầm dập bởi tay Ông Chủ. Bà cả nói Ông giỏi lắm đã là Đầy Tớ không biết thân phận mà còn mò vào đây ăn trộm tiền của Bà. Bà Cả liền bước tới đá cho mấy cái rồi nói lôi cổ nó ra đánh thêm cho một trận nữa. Tên Đầy Tớ khiếp hoảng xin Bà Lớn tha cho.

Ông Cụ Bình kể đến đây lũ trẻ reo hò hay quá đáng đời cho tên lừa đảo. Ông Cụ ra hiệu bảo im Ông Kể tiếp.

Nói về người nông Dân đã trở về là thân phận Ông Chủ chỉ tên Đầy Tớ nói. Mầy đã đưa ra cái lợi để nhử tao, bởi tao ham cái lợi, nên chẳng còn cái răng để mà ăn. Lợi thời có lợi hàm răng không còn.

Ngươi đưa cho Ta những miếng mồi không thật có, lại dai nhách Ta còn răng đâu để mà nhai ăn, ăn không được trở thành ốm tong ốm teo, Nhờ cơm thừa canh cặn ngươi cướp được của Ta, nên Ta mới sống đến ngày hôm nay.

Những gì ngươi gạt Ta, nay Ta trả lại cho ngươi. Ông Trời có mắt quả báo nhãn tiền báo ứng không sót mảy lông. Nay Ta đã lấy lại tất cả những gì của Ta thuộc về Ta, nên Ta không làm hại hay đánh đập ngươi nữa, đây là bài học quả báo nhãn tiền hãy làm người tử tế mà sống. Cả nhà ngồi nghe Ông Chủ nông Dân nói với thằng Đầy Tớ không hiểu nếp tẻ gì cả. Hay là Ông Chủ đánh quá cũng hóa khùng luôn, nhưng là Ông Chủ ai dám phê phán nên tất cả đều lặng thinh. Người hiểu được lời nói Ông Chủ nông Dân chính là Đầy Tớ bị đánh bầm dập.

Tên Đầy Tớ bị đánh bầm dập lại không còn gì nữa trắng tay, lủi hủi ra đi luyến tiếc những gì mình cướp được trong bỗng chốc trở thành mất trắng cốt khỉ hoàn khỉ cuối cùng Đầy Tớ cũng trở về là Đầy Tớ người tính không bằng Trời tính xưa nay vốn là như vậy. Gieo nhân Ác mà muốn gặt quả Phúc Lành là điều nghịch lý khó mà đạt được. Ngược lại gieo nhân Thiện, không cầu mong gặt quả phúc lành, thời quả phúc lành cũng tự đến, đó là Định Luật Hóa Công.
 
60. THẦY CHÙA VÀ VỊ CƯ SĨ

Vào thời mạt pháp có một ngôi chùa Năm Vàng, thờ đủ vị Phật, đủ vị Bồ Tát, phải nói là trang nghiêm. Khi đến đây thành tâm lễ bái cả tiếng cũng chưa kính lễ hết các chư Phật cũng như chư vị Bồ Tát. Sự cúng dường lễ lạy ấy không biết là được xóa tội lỗi hay không, cũng như siêu thoát về trời, nhất là không còn sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Nhưng niềm tin là mình đi lễ Phật, thời được Phật độ Phật Cứu, Bồ Tát phù hộ che chở, cứ thế mà hành hương Cầu Phật, lễ lạy Chư Tăng hết lớp nầy đến lớp khác.

Nhưng mấy ai hiểu, thật ra không có Phật nào xóa tan tội lỗi khi trong Tâm đã hành ác không có lòng cải hối làm lành. Đã hành ác mà không cải hối làm lành thời phải theo nghiệp ác báo gặt lấy tai ương, hể làm Ác thời Linh Hồn sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, như một Định Luật tự nhiên. Đừng nói là người Phàm, mà ngay cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ cần phạm giới hành Ác thời cũng bị sa đọa như thường. Như vậy không phải là Phật độ, Bồ Tát cứu vớt mà chính mình tự độ cho chính mình, gieo nhân hành Thiện. Nhờ vào gieo nhân hành Thiện ấy sẽ đưa Linh Hồn con người trở về Thiên Đàng Cực Lạc hưởng an vui hạnh phúc trên Thiên Giới. Biết Tánh tự tu, biết Tâm tự độ, không sa vào con đường ác, ấy là Đạo giải thoát. Không cần cầu cũng siêu lên Thiên Đàng cực lạc. Không cần lạy cũng trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát là điều tốt vì đã gieo hạt giống Nhân Duyên Lành. Nhưng muốn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, mà chỉ biết kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát. Thời không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Mà phải biết Chân Tánh Tự Tu, Biết Chân Tâm Tự Độ. Biết điều ác xa lánh, biết điều thiện cần phải làm. Thông suốt được căn bản nói trên mới là Đạo Giải Thoát. Có nghĩa là phải hiểu căn gốc các Ngài vì sao trở thành Phật, trở thành Bồ Tát hưởng phước báo an vui tự tại, là vì các Ngài Biết Tánh Tự Tu, biết Tâm Tự Độ. Xa lánh điều ác, đi trên con đường Nhân Thiện Từ Bi, Bác Ái, cứu người không di hại đến người.

Kính lạy Phật, tôn vinh Bồ Tát nhưng Tâm hành ác, Tánh hành hung, không có lòng Từ, thường làm hại con người, thời dù cho lạy khắp mười phương chư Phật. Cúng dường mười phương chư Bồ Tát cũng không siêu thoát được tội lỗi của mình. Phải chịu theo Định Luật Thiên Ý Vũ Trụ gieo nhân kết quả mà thọ lãnh. Những người không lạy Phật, cũng chẳng tôn vinh Bồ Tát nhưng Tâm hành thiện rất tốt. Tánh Từ Bi, Bác Ái thương người, không cầu thành Phật cũng thành Phật. Không lạy Bồ Tát cũng trở thành Bồ Tát.

Sự mê tín, tin vào những chuyện hoang tưởng hành Ác chuyên làm hại con người. Chỉ cần cúng dường lễ Phật là được siêu sanh lên các Cõi Trời, Tầng Trời. Không phải cuồng tín hoang tưởng là gì. Đã hành ác gieo nghiệp ác muốn siêu thoát về trời, chỉ còn một cách duy nhất là cải hối làm lành, bỏ ác tùng thiện mà thôi. Muốn về trời cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa như các Ngài, thời phải gieo nhân hành Thiện, dùng Văn Hóa Thiên Ý tận độ nhân loại con người, xa lìa tội lỗi thời nhất định siêu sanh về trời, cũng như thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

Thế nhưng ở đời mấy ai hiểu được điều nầy. Tự thần thánh hóa đi đến ảo tưởng trở thành cuồng tín, tin những chuyện không bao giờ có thật. Nếu hành Ác mà chỉ cúng dường chư Phật, kính lễ Bồ Tát siêu sanh về thiên giới thời cần gì xa lìa tội lỗi, cần gì hành thiện, cần gì đi tu. Cúng dường lễ Phật là xong. Nơi chùa Năm Vàng có vị Đại Sư được cho là chứng đắc thông thái, thông suốt kinh Phật, kinh nào cũng biết. Lời nói của vị Đại Sư có trọng lượng lên đến hàng tấn, hàng Cư Sĩ đều phải cúi đầu lắng nghe.

Cho đến một hôm, vị Đại Sư giảng Đạo thao thao bất tuyệt. Sư nói: Những người để tóc theo hạnh Cư Sĩ, Đạo hạnh còn thấp, chỉ có các Tăng, Ni cạo đầu là người trí huệ, chứng Đạo thâm cao. Vì thế những người còn để tóc phải luôn cung phụng cúng dường Tăng, Ni. Vì những Tăng, Ni cạo đầu có phước báo lớn, nhân duyên lớn, cũng như sự giác ngộ lớn về Đạo. Vì vậy muốn thành Phật thời phải xuất gia Cạo đầu tức là cầu Đạo mới thành Phật. Cạo Đầu trở thành Tăng, Ni là đi vào giác ngộ trí huệ cao siêu, phước báo thù thắng. Hàng Cư Sĩ không cạo đầu tu hành còn thấp, nói chung là muốn cho người ta kính lạy thời phải cạo đầu, xuất gia.

Lời của Cao Tăng Đắc Đạo ai dám không nghe, hay biện luận hỏi lại, nên im thin thít cho đây là lời dạy Chân Thật nghĩa. Lời dạy vàng. Khi ấy có vị Cư Sĩ đứng dậy lên tiếng: Bạch Đại Sư, theo như Sư nói, những người để tóc Đạo Hạnh chưa cao, trí huệ thấp kém, không bằng người Cạo Đầu trở thành Sư Sãi. Lời dạy nầy có đúng là Chân, Thật, Nghĩa không? Đúng như những gì Phật dạy không?

Vị Đại Sư nghe vị Cư Sĩ nói thế không được vui còn cho là thiếu hiểu biết. Nên nói: Hạnh Cư Sĩ là hạnh Tam Quy Ngũ Giới. Còn hạnh Tăng, Ni là hạnh 250 giới, 350 giới. Hàng Cư Sĩ phải coi Tăng, Ni là bậc Thầy. Người có tóc phải lạy người Cạo Trọc.

Vị Cư Sĩ nói: Thưa Đại Sư, Đại Sư có bao giờ lạy người có tóc chưa? không những lạy mà còn lạy sói đầu.

Vị Đại Sư cố dằn lòng tức giận để tỏ ra là người không còn Tham, Sân, Si. Bình tĩnh hỏi: Nầy vị Cư Sĩ kia không được phỉ báng Tăng Ni như thế. Vì lời nói nầy thời phải chịu sa đọa vào Tam Đồ Khổ. Tức là sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Vị Cư Sĩ không lấy gì làm giận, lại tôn kính nói: Thưa Sư, bao lâu nay Sư lạy người có tóc hay người trọc đầu? Vị Sư nghe xong chưng hửng nói: Đương nhiên là lạy người trọc đầu. Vị Cư Sĩ nói: Trong hành Thập Thiện, Phật dạy là không được nói láo, nói đâm thọc, nói thêu dệt, nói ác khẩu. Ý phải chân chính không được vọng ngữ. Nếu vi phạm một trong bốn điều vọng ngữ ác khẩu nầy dù tu vạn kiếp làm Tăng, Ni cũng không bao giờ trở thành Phật hay Bồ Tát được. Để minh chứng những gì Cư Sĩ tôi nói. Đại Sư ngày đêm luôn lạy người có tóc, không phải lạy người trọc đầu. Thế mà Đại Sư nói người có tóc phải lạy người trọc đầu, mới gọi là tu hành chân chính.

Đại Sư hãy dẫn toàn bộ Cư Sĩ nơi đây đi vào Điện Thờ, xem lâu nay Đại Sư thờ lạy người có tóc hay người trọc đầu. Thật ra nhiều vị Phật trên điện đâu có vị Phật nào Cạo Đầu, toàn là để tóc. Như Phật Thích Ca, Phật A Di Đà. Phật Nhiên Đăng và còn nhiều vị Phật khác. Cũng như các vị Bồ Tát, như Quan Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đâu có vị nào là Cạo Đầu. Như vậy Cạo Đầu đi tu mới thành Phật, Mới thành Bồ Tát, chính Là nói không đúng sự thật, không có căn cứ về mặt Pháp Lý cũng như Chân Lý. Chỉ có vị Phật Di Lặc là Cạo Đầu nhưng ngài chưa ra đời, không thể chứng minh là Phật Di Lặc cạo đầu hay không. Từ xưa đến nay Tăng, Ni đều lạy người có tóc, coi người có tóc là Phật, là Bồ Tát. Không những lạy ngày mà còn lạy cả đêm.

Nếu Đại Sư biết xưa nay mình lạy người có tóc, thời Sư đã không dám xem thường người để tóc. Xa lìa sắc tướng, chú trọng về Tâm. Chỉ có tu Tâm hướng thiện mới đi đến kết quả Chân Thiện, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chứ Không phải ở chỗ xuất gia, hay tại gia. Cạo đầu hay không cạo đầu. Chân Tâm vốn Bình Đẳng. Lương Tâm vốn là Phật Tánh. Phật tại Tâm không cầu, cầu Phật ngoài Tâm làm sao thành Phật được. Thiện, Ác do mình gieo ra. Muốn xuống Địa Ngục thì hành Ác, không hành Ác làm sao xuống Địa Ngục được. Lời nói Thật chính là lời nói Thiện. Lời nói không thật chính là lời nói Ác. Đã nói sai sự thật lừa dối Tâm mình lừa dối mọi người Địa Ngục không mời cũng tự mình sa đọa xuống đó.

Theo Định Luật Vũ Trụ:

Tâm tạo Ác thành Quỉ.

Tâm Từ Bi cứu khổ là Phật

Tâm hành Luật là Thánh

Tâm hiểu Đạo an nhàn là Tiên

Tâm bảo hộ lẽ phải là Thần

Tâm không nhiễm cảnh trần là người giải thoát.

Tâm không hại người là Tâm Bồ Tát

Chỉ có một cái Tâm, khởi động thành Pháp. Chỉ một cái Tánh mê chấp biến ra đủ dạng đủ hình. Đủ loại tướng. Nào là Phật, nào là Thánh, nào là Tiên, nào là Thần, nào là Chúa. Nào là Thinh Văn, nào là Bồ Tát. Nào là Thiện, nào là Ác, nào là Quỉ, nào là Ma. Chỉ một Chân Tâm, Chân Tánh mà biến ra vô lượng nghĩa như vậy.

Biết Tâm Tự Độ, biết Tánh Tự Tu, thường làm Chủ Chân Tâm, thường tịnh không Chân Tánh, an trụ tự nhiên, có nghĩa là Vô Trụ, không khởi niệm an trụ, an định Tự Nhiên. Tùy duyên mà hóa độ chúng sanh, lập ra nhiều phương tiện bệnh nào thuốc nấy. Chúng sanh có 8 muôn 4 nghìn tật bệnh. Thời phải có 8 muôn 4 nghìn pháp môn để chữa trị. Thầy thuốc giỏi rời xa chấp Pháp tức là chấp Văn Tự, rời xa chấp Tướng tức là chấp hình tướng để không đi đến phân biệt chấp ngã thọ giả rơi vào Ma Đạo Kiến Chấp.

Cạo Đầu, không Cạo Đầu đâu liên quan gì đến Tu Tâm. Tại Gia, xuất Gia đâu liên quan gì đến sự Giác Ngộ. Để tóc mà sống Thiện, còn hơn Cạo Đầu trở thành Ma Tăng. Tại Gia mà biết tôn kính Ông Bà, Cha Mẹ, còn hơn Xuất Gia mà quên Cội, quên Nguồn. Sự sống của những bậc Đại Giác Ngộ. Sự – Lý bao giờ cũng Viên Dung. Lý thường gắn liền với Sự. Sự thường hiển bày rõ Lý. Đó chính là Chân, Thật, Nghĩa của Giáo Pháp. Đem lại niềm tin cho Đời lẫn Đạo. Nói xong vị Cư Sĩ biến mất, để lại những lời Châu Ngọc cho cả Cư Sĩ và Tăng, Ni.

Vị Đại Sư từ đó trở đi, không còn xem thường hạnh Cư Sĩ nữa. Vì Hạnh Cư Sĩ cũng chính là Hạnh Phật, hạnh Bồ Tát, hạnh Thánh, hạnh Tiên, hạnh Thần, hạnh Chúa. Gần Bùn Mà Chẳng Hôi Tanh Mùi Bùn. Nhất thời tu ở tại Gia, thứ hai tu Chợ, thứ ba tu Chùa.
 
61. ĐỈNH CAO CỦA SỰ GIÁC NGỘ

Ngã tư Kỳ Hòa quẹo vào con hẻm 37 số nhà 56 là nhà Ông Bà Hưng. Thường đến chơi nhà Ông Bà Hưng là Ba Hiệp và Tư Lợi. Lần nào cũng vậy khi bộ ba đủ mặt thời cuộc tranh luận sôi nổi lại xảy ra, bộ ba nầy nổi tiếng là ba nhà thông thái. Đề tài tranh luận thời đa dạng nhiều chủ đề, trong đó có sự đàm luận con đường giải thoát đi đến tự tại là sôi nổi nhất.

Ông Hưng nói: Ba Hiệp, Tư Lợi, nghĩ xem: Tạo Hóa đã tạo lên các Tầng Trời, và cũng tạo ra các Tần Địa Phủ, là để chi vậy, thành phần nào được ở trên trời. Thành phần nào thời ở nơi các tần Địa Phủ. Theo như các Tôn Giáo, Đạo Giáo nói theo Phật thời về cõi Phật trên các tầng trời, theo Chúa thời về nước Chúa trên các tầng trời. Còn những người không theo Chúa, không theo Phật, nhưng họ biết tu tâm dưỡng tánh thời họ về đâu?

Ba Hiệp nói: Còn về đâu nữa nếu hành thiện không hành ác thời tất cả đều siêu sanh về các cõi trời gần trời. Nếu truyền kinh thuyết giáo tận độ nhân loại con người thời làm Vua, làm Chúa các cõi trời. Cõi Phật cũng ở trên trời, nước Chúa cũng ở trên trời, nói chung là các cõi Thiên Đàng Cực Lạc. Nếu được siêu sanh về trời thời dù ở cõi nào. Cõi Phật, Cõi Chúa, Cõi Tiên, Cõi Thần đều hưởng sự an vui ngang nhau. Sống trên Ngọc Ngà Châu Báu như nhau. Ai cũng có Thần Thông pháp thuật bay biến như nhau, Tưởng ăn có ăn tưởng mặt có mặt như nhau. Lầu đài cung điện như nhau, tùy theo ý thích của mỗi chư thiên tạo ra cảnh giới mình ưa thích. Đã siêu sanh về các tầng trời, thời tần trời nào cũng như tầng trời nào đất đai châu báu. Nhưng khác ở đây là khác xây dựng tạo lập lên kiến trúc cảnh quan lầu đài cung điện, tùy ý thích xây dựng cõi nước trời. Cũng như trí huệ thần thông, đạo đức, sự giác ngộ của mỗi người khác nhau. Nên sự uy linh có khác nhau. Kẻ làm Vua Trời, người làm thiên chúng dân trời.

Ba Hiệp trầm ngâm suy nghĩ rồi nói. Thượng Thiên, Trung Thiên, Hạ Thiên Vũ Trụ, có 28 tầng trời, Tu Di Sơn, Năm Non Bảy Núi, Thất Sơn Châu Báu. Mỗi tần trời, mỗi Non Tiên đều có vô lượng cõi nước. Mỗi nước trời, mỗi cõi nước Non Tiên tùy theo công hạnh độ người của mỗi người mà có cõi nước trời khác nhau. Như Cõi Nước Phật. Cõi Nước Thánh. Cõi Nước Tiên. Cõi Nước Thần. Cõi Nước Chúa. Đã là con người tức là con cháu Tiên Rồng con cái Nhà Trời, nếu không đánh mất Cội Nguồn Tôn Thờ Tổ Tiên Tạo Hóa, thời ai ai cũng có Quyền thành lập Cõi Nước Trời, cõi nước Non Tiên cho riêng mình. Thiên Chúng đông hay ít là do mình ra công tận độ vậy.

Tư Lợi xen vào theo như Tôi biết cơ bản cái Gốc để về trời không cần theo Phật, Chúa gì cả. Chỉ cần hành thiện không hành ác, không quên Cội Nguồn là coi như đã được về trời rồi. Phật, Chúa cũng chỉ là những con người Hành Thiện có lòng Từ, biết thương người. Những ai có lòng Từ biết thương người chính là Phật, Chúa, cần gì theo Phật, theo Chúa để về trời. Huống chi làm theo Thiên Ý sống theo Lương Tâm truyền Văn Hóa Cội Nguồn tận độ nhân loại về trời thành lập quốc độ, trở thành các vị Vua Trời. Đâu cần theo Tôn Giáo, Đạo Giáo tu luyện mới được về trời, cũng như làm Vua Trời.

Bằng chứng ở vào thời xa xưa chưa có Chúa, Phật ra đời nhân loại cũng về trời như thường sống trên Thiên Giới đông vô số vô biên. Trở thành Vua trời cũng đông vô số vô biên.

Như vậy cái Gốc để về trời chính là giác ngộ con đường Chân Thiện, nhất là yêu nước thương dân sáng lòng Trung, Hiếu rời xa hành ác đi vào hành thiện Nhân, Nghĩa tu luyện, hướng về Cội Nguồn nơi sanh ra Tiểu Linh Hồn cũng như thể xác con người. Không muốn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không muốn về trời thời cũng được về trời.

Lại nữa cái Gốc làm Vua Trời nào đâu phải xa vời chính là dùng Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời tận độ nhân loại về trời. Thành lập Quốc Độ cõi nước trời. Nhiều người lầm tưởng chỉ có theo Phật, theo Chúa mới được về trời. Nên phải quy y Phật, quy y Chúa, cầu độ về trời.

Nhưng họ nào có hiểu Quy Y Phật chính là Quy Về Chân Tâm, Chân Tánh của mình. Căn cốt của Phật Tánh chính là Lương Tâm con người, không phải quỳ lạy van xin mà có. Quy Y Chúa có nghĩa là hướng về Cội Nguồn tôn thờ Tổ Tiên Tạo Hóa Như Lai. Ấy là trách nhiệm bổn phận của mỗi Tiểu Linh Hồn, hướng về Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Như con phải nương vào Cha, như cành lá phải nương về Cội Gốc. Như một Định Luật Tự Nhiên. Mỗi con người đều có quyền thành lập cõi nước trời. Có quyền tận độ nhân loại về trời theo hạnh nguyện của mình, không ai có quyền ngăn cản.

Lại nữa theo Phật theo Chúa mà hành ác thời bị sa đọa xuống các tầng địa phủ theo Định Luật Vũ Trụ làm sao về trời, đã hành ác lại không biết ăn năng sám hối bỏ ác hành thiện, dù cho hằng hà sa số Phật, hằng hà sa số Chúa cũng đành bó tay không cứu nổi, đây chính là sự thật. Phật, Chúa mà cứu nổi người ác thời nơi Địa Phủ không có tội nhân để mà hành hình.

Những ai hành động không trái ngược lại Lương Tâm chính là Tự Độ, ( biết tâm tự độ ) ( biết tánh tự tu ) Chân Tánh không thiện không ác, hay còn gọi là Tâm Điền. Hễ gieo sao thời mọc vậy gieo Ác tích Ác, cái Ác lớn lên từ nơi Tâm để rồi gặt họa không biết đến bao giờ cho hết. Gieo Thiện tích Thiện cái Thiện từ Tâm nẩy tạo ra hằng hà sa số phước báo hưởng không bao giờ hết. Vì vậy chọn giống Thiện Lành để mà gieo. Gặt hái phúc báo về sau ( nên gọi là biết Tánh tự tu, biết Tâm tự độ ) đạt đến cảnh giới làm chủ Chân Ông, Minh Tâm Kiến Tánh chính là như vậy.

Ông Hưng nói xen vào có nhiều người cho rằng Tu Thiền Luyện Khí chứng đắc nầy đắc kia mới được trường sanh bất tử là không đúng. Vì sao lại nói như thế.

Vì chỉ cần nghe qua mỗi Linh Hồn đã trải qua vô lượng ức kiếp thời cũng hiểu rõ mỗi Linh Hồn sống mãi chưa bao giờ mất đi, vô lượng thọ sống ngang Linh Hồn Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Chúa Tổ, Thần Tổ. Có thể nói là trường thọ ngang Tạo Hóa. Chỉ khác nhau ở chỗ Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa hưởng vô lượng phước báo an vui tự tại làm chủ sanh tử của mỗi kiếp đi qua. Có nghĩa là tạm mượn xác thân, rồi trả lại xác thân, cũng như cởi bỏ lớp áo già cũ nầy, mặc vào lớp áo non trẻ mới. Đường sanh tử của xác thân, là cái lối đi ra đi vào của mỗi kiếp Linh Hồn. Đầy sự vui của những người đã chứng lý giác ngộ không thân.

Những Linh Hồn hành ác phải chịu vô lượng kiếp quả báo chịu nhiều tai ương khốn khổ hết kiếp nầy sang kiếp khác.

Linh Hồn Phật Tổ, Linh Hồn Phàm Phu Chúng Sanh. Linh Hồn Tà Ma Ác Quỉ trường thọ ngang nhau. Đâu phải tu cao hay chứng đắc gì mà tăng tuổi thọ của Linh Hồn.

Thọ lâu hay thọ ít là chỉ cho thể xác tạm mượn mà thôi. Hể có vay mượn đều phải trả. Dù cho đó là Kim Thân của Phật, hay của Chúa.

Sanh tử là chỉ cho lớp áo da thể xác, bỏ lớp áo da nầy mặc lớp áo da khác. Sự già cỗi của lớp áo da phải bỏ đi, phải thay thế bằng sự non trẻ của lớp áo da mới. Đó cũng chính là Định Luật tự nhiên. Hễ có sanh thời phải tử lâu hay mau mà thôi. Mượn thân tứ đại, phải trả lại cho tứ đại đó là định luật Thiên Ý ai cũng như ai không ai khác ai. Dù cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên trời, phàm phu chúng sanh trần gian sự sống thân xác, hể vay mượn thời phải trả nào có khác gì nhau.

Xác thân tiên thiên thọ vài tiểu kiếp già cỗi, rồi cũng phải thay xác thân tiên thiên non trẻ mới. Theo Định Luật Hóa Công là như thế nào ai khác ai cùng chung một quy luật sanh tử mượn xác, trả xác như nhau.

Sự vay mượn thân xác nơi trần gian ở vào giai đoạn gần hết tiểu kiếp sự vay mượn thân xác quá ngắn chớp mắt thời đã già, sự trả lại xác thân tứ đại cũng đi vào nhanh chóng không ai khác ai.

Phật Thích Ca cũng trả lại xác trần.

Chúa Giê-su cũng thế.

Vua, Chúa dân thường cũng vậy. Đã vay mượn xác trần, thời phải trả lại cho trần. Rồi thọ lãnh mặc qua lớp áo da khác. Cứ như thế hết kiếp nầy đến kiếp khác, vay mượn không biết bao nhiêu là xác thân.

Vì thế những người giác ngộ Sanh Tử, đã gieo trồng nhiều nhân thiện thời lấy đó làm vui, giải thoát kiếp khổ qua kiếp khác vui sướng hơn, nên không sợ hãi vì cái chết trả lại thân xác của mình. Luôn chuẩn bị cho mình một tương lai đi vào sự sống mới. Ví như mãn trần Linh Hồn lìa xa bể khổ siêu sanh lên thiên giới để sống. Với thân xác Tiên Thiên cõi trời sống lâu vài tiểu kiếp, hoặc sống lâu hơn nữa. Làm chủ sanh tử cũng như làm chủ sự thay áo, sống theo Định Luật tuần hoàn xoay chuyển, thời đâu còn sợ hãi cũng như sự lo lắng mà phải cho đó là sự an vui Công Bằng Tạo Hóa.

Người hành thiện chuyển kiếp sẽ có thân xác Thiên Tiên xinh đẹp. Người hành ác chuyển kiếp sẽ có thân xác Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Như vậy sanh tử là quy luật tự nhiên thân xác già nua sẽ bỏ đi, thay vào đó là thân xác non trẻ đi vào cuộc sống mới. Sự vay mượn thời phải trả thời gian vay mượn dài hay ngắn mà thôi. Không ảnh hưởng gì đến Linh Hồn chỉ là thân xác lớp áo da thay ra mặc vào. Linh Hồn là Linh Giác Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ bất sanh bất diệt vô lượng thọ, sống ngang Linh Hồn Phật Tổ Di Đà hay Linh Hồn Phật Tổ Thích Ca. Thậm chí sống ngang bằng Tổ Tiên Như Lai Tạo Hóa. Tiểu Linh Hồn sống ngang Đại Linh Hồn Vũ Trụ.

Ba Hiệp nói; từ lâu tôi đã thấu rõ dù tu hay không tu Linh Hồn vẫn trường thọ ngang nhau. Sự sanh tử là chỉ cho thân xác vay mượn mà thôi. Nhưng sự chứng đắc thời tôi chưa rõ lắm. Người cho mình đã chứng đắc quả vị nầy, người cho rằng chứng đắc quả vị kia.

Tư Lợi nói; Chẳng có sự chứng đắc nào cả. Ví như tấm kính bụi bám lâu ngày càng lau càng chùi càng sáng ra cảnh giới bên ngoài lần lần hiện rõ trong gương.

Hội ngộ Bổn Lai Diện Mục là như thế, mỗi Chân Tâm Chân Tánh đều là Minh Tâm Kiến Tánh, đâu phải tu thiền luyện khí mà thêm. Đâu phải không tu thiền luyện khí mà bớt. Sự chứng đắc chẳng qua Chân Tâm được thanh tịnh không còn phiền não thấy rõ mọi cảnh giới. Ví như lau chùi tấm kính sáng lần ra mà thôi. Nhờ sáng lần ra mà thấy rõ nhiều cảnh giới. Tu thiền luyện khí chẳng qua là sự vay mượn thu nạp Tinh, Khí, lâu ngày kết tụ nhị xác thân liền có pháp thuật Thần Thông cho đó là sự chứng đắc.

Sự vay mượn xác thân tứ đại, nói chung là có bốn cách, đầu thai vào bụng mẹ sanh ra ( gọi là thai sanh) Sự vay mượn tinh hoa tứ đại bằng tu thiền luyện khí lâu ngày kết tụ thành nhị xác thân ( gọi là hóa sanh) sự vay mượn xác thân qua hình thức, Noãn Sanh, Thấp Sanh.

Đã vay mượn thời phải theo Định Luật tiến hóa Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Như một Định Luật Tự Nhiên. Dù cho vay mượn xác thân Tiên Thiên. Thời Tâm cũng chẳng thêm. Dù vay mượn xác thân Phàm Tục thời chân Tâm chân Tánh cũng không bớt. Nên không có sự chứng đắc nào cả. Chân Tâm Chân Tánh trước sau như một Bất Sanh, Bất Diệt, Không Cấu Nhiễm, Trong Sạch Vô Vi. Dù ở kiếp Yêu Tinh cũng Không Giảm Bớt. Dù thành Phật Tổ Cũng Không Thêm Vào, Tu cũng bấy nhiêu, không tu cũng bấy nhiêu. Chỉ khác nhau ở chỗ Mê với Ngộ. Thiện với Ác. Siêu với Đọa. Gặt hái Phúc Báo, nhận lấy tai họa mà thôi.

Nói về Linh Hồn thời không ai khác ai đều là Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ, khởi sanh ra từ Đại Linh Hồn Vũ Trụ. Đại Linh Hồn Vũ Trụ là Cội Nguồn của Tiểu Linh Hồn Vũ Trụ. Ví như Nước khởi sanh ra Bọt Nước. Cội Nguồn của Bọt Nước chính là Nước.

Linh Hồn nào đoạn diệt phiền não đi vào thanh tịnh thời Linh Hồn ấy càng sáng lần ra, cảnh giới quá khứ vị lai đều hiện rõ trong Tâm từng giai đoạn tạm gọi đó là chứng đắc. Thật ra không chứng đắc gì cả. Vì Chân Tâm, Chân Tánh có thêm, bớt gì đâu mà chứng đắc.

Tu vô lượng kiếp Chân Tâm Chân Tánh cũng chẳng thêm, luân hồi sanh tử thay đổi xác thân vô lượng kiếp Chân Tâm Chân Tánh vẫn không bớt như như thường còn.

Sự chứng đắc chẳng qua Chân Tâm Chân Tánh thanh tịnh sáng lần ra mà thôi, do sự sáng lần ra nên có sự chứng biết khác nhau tạm gọi đó là đắc quả vị. Ví như tấm gương càng lau chùi càng sáng mọi cảnh giới đều hiện rõ trong gương.

Từ cảnh giới đời thường, cho đến cảnh giới quá khứ vị lại. Thậm chí thấy rõ cảnh giới tam thiên đại thiên thế giới, thấy rõ cảnh giới Tiểu Linh Hồn của mỗi Linh Hồn. Cho đó là sự chứng đắc. Nhưng thật ra có chứng đắc gì đâu. Đó là Định Luật hiển nhiên Chân Tâm, Chân Tánh vốn Minh Tâm Kiến Tánh là như vậy. Tự Thể Linh Giác thấy biết tất cả. Chính Là Chánh Đẳng Chánh Giác.

Những ai không rõ sự diệu dụng tự nhiên của Chân Tâm Chân Tánh nghĩ do tu luyện mà chứng đắc rơi vào Ma Đạo. Bị Ma cảnh xoay chuyển. Khó mà làm tan biến căn bản phiền não vi tế trong nội Tâm. Lẩn quẩn trong kiến chấp khó mà đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tư Lợi nhìn Ông Hưng, rồi nhìn sang Ba Hiệp nói những người có chút trí thức đều biết Chúa, Phật không có tạo lập ra thế giới vật chất Vũ Trụ. Chúa, Phật sống trong thế giới vật chất vũ trụ. Chúa, Phật cũng không tạo lập ra Đất, Nước, Gió, Lửa tứ đại. Mà vay mượn từ Đất, Nước, Gió. Lửa tứ đại kết tụ thành thân. Phật, Chúa cũng không tạo ra Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mà vay mượn từ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo ra pháp thuật Thần Thông. Như vậy Phật, Chúa không tạo lập lên thế giới vật chất vũ trụ. Nên không có quyền quyết định vận mệnh vũ trụ. Mà chỉ sống theo những Định Luật Vũ Trụ. Thuận theo Thiên Ý thời còn, nghịch lại Thiên Ý thời mất.

Trời Tạo Lập lên vũ trụ thời chỉ có Trời mới quyết định những gì nơi vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa chỉ nghe theo làm Thiên Ý Cha Trời mà thôi, gieo nhân lành để rồi hưởng phúc báo. Nên mới có câu Đại Phú do Thiên trở về với Cha Trời có thể nói là muốn gì đặng nấy.

Những người giác ngộ đều biết tiểu Linh Hồn, từ Đại Linh Hồn Vũ Trụ khởi sanh ra, ví như Bản Thể của nước sanh ra Bột Nước. Đại Linh Hồn Linh Giác Vũ Trụ sanh ra Linh Thức tiểu Linh Hồn vũ trụ. Trở về Cội Nguồn là chỉ cho Linh Thức tiểu Linh Hồn Vũ Trụ, trở về với Đại Linh Giác Cội Nguồn Vũ Trụ, để rồi nhận lấy vô lượng vô biên phúc báo từ nơi Cội Nguồn ban cho.

Như vậy con cháu Tiên Rồng là con cái Nhà Trời. Tự mình làm chủ Chân Tâm Chân Tánh, lại biết Lương Tâm chính là Phật Tánh, Thánh Tánh, còn phải quy y Phật, quy y Chúa làm gì.

Đã hiểu rõ Phật Tánh, Thánh Tánh, Chúa Tánh, từ Chân Tâm, Chân Tánh sống theo Lương Tâm mà ra. Nơi Vũ Trụ không có kiểu Phật Quy Y Phật. Thánh Quy Y Thánh, Chúa Quy Y Chúa. Mà chỉ tôn trọng lẫn nhau sống Hòa Đồng quy nguyên trở lại Cội Nguồn, sống theo Thiên Ý hành theo Thiên Ý thời coi như đã đi vào viên mãn. Có thể nói là muốn gì được nấy an vui tự tại.

Những người lạc Cội lạc Nguồn, chưa liễu ngộ được Chân Tâm Chân Tánh, cũng như chưa nắm vững được Lương Tâm của chính mình rời xa Phật Tánh, Thánh Tánh. để rồi Phật đi cầu Phật. Chúa đi cầu Chúa. Muôn đời không thành Phật, và cũng không bao giờ thành Chúa. Vì bỏ Phật Lương Tâm đi tìm Phật bên ngoài nên không bao giờ thành Phật. Vì bỏ Thánh Tánh trong Tâm đi cầu Thánh cầu Chúa bên ngoài cầu mãi cầu hoài hết kiếp nầy đến kiếp khác không bao giờ thành Chúa, thành Thánh được.

Còn Quy Nguyên trở lại Cội Nguồn tôn thờ Nguồn Cội. Tôn thờ Cha Trời, Mẹ Trời. Là tiểu Linh Hồn trở về căn Cội của mình là Đại Linh Hồn. Bọt Nước trở về với Nước. thành con Trời chính là Thiên Tử, Thánh Mẫu. Đã là Con Trời thời có quyền làm chủ vũ trụ. Cai quản tam thiên đại thiên thế giới. Trở thành Vua, Chúa, các tầng trời cõi trời.

Chỉ có trở về Cội Nguồn làm chủ những Quyền cơ bản Tạo Hóa ban cho những Quyền Bất Khả Xâm Phạm. sống theo Thiên Luật vũ Trụ. Tôn vinh Nhân Quyền. Thực thi Dân Chủ. Đời Đạo viên dung, tốt Đạo đẹp Đời, tốt Đời đẹp Đạo.

Quá bất ngờ với sự hiểu biết của Tư Lợi. Ông Hưng, Ba Hiệp nói. Kiến thức của Tư Lợi có thể nói là vượt qua Tôn Giáo, Đạo Giáo đạt đến cảnh giới đại giác đại ngộ giải thoát tất cả. Giải thoát nô lệ Thần Quyền, Giải thoát nô lệ kiến chấp, Giải thoát sự ràng buộc Tôn Giáo, Đạo Giáo. Đi đến tự tại an vui.

Ông Hưng nhìn Ba Hiệp rồi quay sang Tư Lợi nói. Theo Tư Lợi. Ba Hiệp hai vị muốn ở ngôi vị Thiên Tử con Trời, Thánh Mẫu con Trời. Phật Mẫu con Trời, Tiên Mẫu con Trời. Hay mãi mãi chỉ là người đi cầu Phật cầu Chúa, cầu Thánh, cầu Tiên.

Tư Lợi không cần suy nghĩ trả lời. Ở ngôi vị con Trời bao giờ cũng hay hơn là đi cầu Phật, cầu Chúa, cầu Thánh, cầu Tiên, để rồi được Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ban cho chút phúc đức.

Lại nữa những gì Trời tạo lập ra con Trời sẽ làm chủ cai quản thừa hưởng đó là Định Luật Tự Nhiên. Những người chỉ biết cầu Phật, cầu Thánh, cầu Tiên, cầu Thần, cầu Chúa làm gì được quyền năng ấy.

Ở đời người ta thường nói Cha Mẹ giàu thời con cái hưởng. Cha Trời Tạo Lập vũ trụ thời chỉ có con trời thừa hưởng mà thôi. Quả đúng như vậy.

Ví như Tự Lợi có năm người con đứa nào nhận Tư Lợi làm Cha, thời những gì của Tư Lợi tạo lập khai ra được quyền kế thừa thọ hưởng. Còn những đứa không nhận Tư Lợi là cha thời phải tự mình tìm kiếm sanh nhai vậy. Đại phú do Thiên những ai theo Trời, nhận Trời là Cha thời được Cha Trời ban cho đại phú, Phước. Lộc, Tài tràn đầy bao nhiêu sự may mắn kéo đến muốn gì đặng nấy.

Còn những người không nhận Trời làm Cha thời phải ra sức tìm kiếm bươi mổ. Tiểu phú do cần ra sức làm ăn mới có của không có phúc phần Trời Cho.

Ông Hưng xen vào nói, phúc phần Trời cho không phải là sự giàu có tầm thường trần gian bạc tỉ. Mà là phúc mệnh làm Vua làm Chúa cao hơn nữa là Vua, Chúa các tầng trời. Phúc phần giàu có ở nhân gian chẳng qua là phúc phần từ bản thân hành thiện, phúc phần từ Ông Bà Cha Mẹ. Không phải là đại phúc do Thiên. Trời đã ban thời ban cho cõi nước giàu có quyền lực không ai sánh kịp.

Tư Lợi nói, có người theo Phật cho Phật lớn hơn Trời, những người như thế tự phỉ báng Cội Nguồn của chính mình. Trở thành những con người Bất Hiếu đối với Đấng Tạo Hóa. Bao sự may mắn cũng theo đó biến tan.

Sự tôn sùng đề cao quá đáng, trong khi Phật còn hít không khí để sống, ăn thức ăn để tồn tại, uống nước duy trì th.ân thể. Không khí, thức ăn, nước uống do Trời tạo, nào phải Phật, Chúa tạo ra. Dù ở trên trời cũng vậy, ở trần gian cũng thế. Vậy mà có người dám cao ngạo nói rằng Phật lớn hơn Trời. Với lời nói thiếu khoa học sắc mùi ngu si cao ngạo nầy khó mà hưởng được phước trời phải trôi lăn vô lượng ức kiếp khốn khổ.

Ba Hiệp nhìn Tư Lợi nói, có luận chứng pháp lý khoa học chứng minh Phật nhỏ hơn Trời không?

Tư Lợi nhìn Ba Hiệp rồi hỏi có vì sao nào lớn hơn Mặt Trời không? Ba Hiệp không cần suy nghĩ trả lời ngay. Đương nhiên Mặt Trời lớn hơn các vì sao rồi. Vì Mặt Trời chỉ có một, còn sao thời nhiều vô lượng vô biên.

Tư Lợi nhìn Ba Hiệp rồi hỏi. Tam thiên đại thiên thế giới có lớn hơn Hư Không Vũ Trụ không? Ba Hiệp nói Hư Không Vũ Trụ chỉ có một. Còn tam thiên đại thiên thế giới là số nhiều làm sao lớn hơn Hư Không Vũ Trụ được. Vũ Trụ Hư Không bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới.

Lại nữa Trời chỉ có một Pháp Thân rộng lớn như hư không, pháp thân Trời chỗ nào cũng có. Còn Phật thời hằng hà sa số. Những gì hằng hà sa số thời không bao giờ lớn hơn có một không hai. Hằng hà sa số Phật cũng chỉ ở trong Pháp Thân Cội Nguồn của Trời mà thôi. Những Định Lý vũ trụ đã cho ta thấy những gì hằng hà sa số không bao giờ lớn hơn chỉ có một. Vì vậy Phật không bao giờ lớn hơn Trời, chỉ là con cháu của Trời mà thôi.

Những người cho Phật lớn hơn Trời xem thường Trời thời khó mà tìm thấy sự yên vui hạnh phúc, khó mà siêu sanh lên các miền thượng giới. Xem thường Trời thời những Định Luật của Trời xoay chuyển gieo nhân cuồng ngạo thời phải nhận quả báo tai ương.

Đó là Định Lý Thiên Ý Định Luật vũ trụ mãi mãi vẫn là như thế, vũ trụ nầy mất đi vũ trụ khác thành lập Định Lý vẫn y như thế mà thôi.

Ba vị Thông Thái Ông Hưng, Ba Hiệp, Tự Lợi đàm luận với nhau chưa đến đâu chỉ làm sáng tỏ một ít vấn đề mà đã trải qua mấy tiếng. Bà Hưng đã dọn lên những món ăn tuy đạm bạc nhưng chứa đựng đầy tình người. với giọng ngọt ngào mời ba cao thủ đương đại dùng cơm.

Nói tóm lại: Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng con cái Nhà Trời cần gì phải theo Tôn Giáo nầy, Đạo Giáo kia mới được về trời. Chỉ cần làm chủ Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền bá Thiên Ý tận độ nhân loại về trời thành lập quốc độ trên thiên giới trở thành các vị vua trời. Chúa Trời, cõi nước Phật, cõi nước Thánh, cõi nước Tiên, cõi nước Thần, cõi nước Chúa. Hưởng phước báo vô tận vô biên. Có hướng đi riêng đi theo Đại Đạo Vũ Trụ. Chúa về trời bằng đường Bộ. Phật về trời bằng đường Thủy, con cháu Tiên Rồng về trời bằng Đường Hàng Không, nhanh nhất, mau đến nhất, đơn giản nhất, không cần tốn sức nhiều.
 
62. TÀI KỂ CHUYỆN

Trường trung học Vạn Hoa, có một học trò có tài kể chuyện đến nỗi thầy Giáo Nhàng cũng mê.

Thầy Giáo Nhàng đang dạy môn lịch sử nói về Nhân Quyền, Dân Chủ. Liền nhớ đến người học trò kể chuyện rất hay tên là Hậu. Hậu là con mọt sách đọc đủ loại truyện nhất là về chuyện xã hội mang tầm vóc chính trị. Thầy Giáo Nhàng nhìn xuống Hậu nói em có mẩu chuyện nào nói về Nhân Quyền, Dân Chủ không?

Hậu nói dạ thưa Thầy em có mẫu chuyện Nhân Quyền Dân Chủ rất hay. Thầy Giáo Nhàng kinh ngạc sao mà trùng hợp với môn học đến thế, vậy em kể cho cả lớp nghe đi. Hậu liền bước lên mục giảng kể chuyện.

Thưa các bạn;

Ngày xửa ngày xưa, ở vào thời ấy có một đất nước tên là Nam Đu, vì đất nước nầy chuyên đu hết nước nầy sang nước kia, đu đến nỗi rớt lên tuột xuống lỗ tráng mẻ đầu mà cũng không chừa cả lớp bụm miệng cười.

Hậu tiếp tục kể đất nước Nam Đu luôn bị mẻ đầu lỗ tráng đã khổ lại sinh cái khổ chồng lên. không may cho đất nước Nam Đu ấy sinh ra một thủ lĩnh tên là Bất Minh phải nói là thiên tài vì tài quá nên đất nước Nam Du gánh lấy tai họa bầm dập. Đúng là chữ tài Bất Minh tài quá làm cho tai họa sanh ra đến nỗi ăn, uống, ca, hát. Thậm chí hang rắn, ổ chuột mà cũng bị tai họa. Nói gì đến dân chúng thời tai họa nhiều như lỗ chân lông, có nghĩa là đụng đâu thời mang họa đó.

Càng gánh tai họa chúng dân càng ca ngợi tài Lãnh Đạo của Bất Minh.

Cái tài Lãnh Đạo của Bất Minh không ai có thể hiểu được, tất cả mọi hoạt động của cấp dưới không ngoài sự sắp xếp của Bất Minh không một ai hay biết gì cả. Bất Minh muốn thi hành một chính sách nào đó, hoặc đề cử một người nào đó lên giữ trọng trách quan trọng, liền cho triệu tập cuộc họp thảo luận lấy ý kiến tập thể, thể hiện đẳng cấp Dân Chủ, nhưng khi nào bàn trúng ý Bất Minh thời cuộc thảo luận coi như là đạt kết quả.

Ví dụ; Bất Minh muốn chọn anh a thời khi nào tập thể bàn đề cử trúng anh a thời coi như dạt kết quả.

Nếu bàn chưa trúng anh a thời nói rằng bầu chọn chưa sâu sát tiếp tục bầu chọn ra người tài giỏi, đến khi bầu trúng anh a mà Bất Minh ưng ý thời coi như đạt kết quả.

Kiểu Dân Chủ như vậy thời phải nói là độc nhất vô nhị không ai làm được chỉ có Bất Minh mà thôi.

Tài không các bạn tài đến nỗi không có sự lựa chọn nào của tập thể. Mượn tập thể lựa chọn đúng người mình chọn, một nước cờ sắp sắp tuyệt đỉnh không ai có thể nhận ra.

Bất Minh muốn hại một người nào đó mà Bất Minh sinh nghi không bao giờ ra tay, mà thăng cấp người đó làm một nhiệm vụ quan trọng, liền mượn tay địch thủ có nghĩa là chỉ điểm cho địch thủ hạ sát.

Các bạn thấy tài giết người Bất Minh không để lại dấu viết khiếp đảm chưa, ớn lạnh chưa.

Nghe tin người mình muốn hại đã chết liền tới khóc lóc ra vẻ thảm thương đòi trả thù nầy nọ, gia đình người bị hại càng thêm cung kính. giết người thân của họ không ai oán hận mà được cả gia tộc sùng kính, ca ngợi là có Đức. Các bạn có thấy Bất Minh tài không? đã hại người ta mà còn thu phục nhân tâm cả gia đình người ta, tùng phục mình hơn nữa, đúng là một con Cáo Già thành tinh.

Cái hay của Bất Minh là muốn làm một việc gì đó để đi đến thắng lợi không những Bất Minh không bao giờ làm.

Vì làm một là thành công, hai là thất bại, nếu thành công thời không nói gì, nếu lỡ thất bại thời mất huy đâu còn ở ngôi vị thiên tài Lãnh Tụ. Cũng vì vậy mà Bất Minh luôn tìm người thế thay cho việc tính toán của mình. Chỉ có thành công không có thất bại.

Ví dụ; Bất Minh muốn cướp hết tài sản của Dân, bằng tìm người thay thế cho mưu đồ của mình, bằng đưa ra một cuộc thảo luận Dân Chủ đi vào sôi nổi bàn luận. Bàn cho đến khi nào người nào bàn trúng ý định chọn người của Bất Minh, thời Bất Minh bằng hỏi người ấy lý do nào đồng chí đưa ra ý kiến nầy, đồng chí có thể giải trình trước cuộc họp được không?

Có nghĩa mưu đồ của Bất Minh là muốn anh A làm việc đó thay mình và đã có người đề cử trúng anh A coi như Bất Minh đã đạt một nửa thành công về mưu đồ chọn người thay thế cho mình thực hiện theo kế sách của mình. Và chỉ cần người ấy giải trình đúng ý định của mình là Ô Kê. Nên Bất Minh nói Đồng Chí A có thể giải trình những kế sách cướp lấy sạch của dân, mà dân không kêu ca gì được cho cuộc hợp nghe để thảo luận.

Đồng Chí A thưa rằng thưa đại hội Dân còn của là nói Dân không nghe, ví như con gà ăn no thời cú nó không chạy, phải là con gà đói chỉ cần khua cái kiểng là lao tới bất kể sống chết tranh giành nhau mà ăn. Khi Dân no Dân chỉ nghe cái gì có lợi cho Dân cho Nước. Khi Dân đói Dân chỉ lo cho cái bụng Dân thôi, nếu muốn Dân nghe thời Dân luôn ở cảnh nghèo. Vì cảnh nghèo Dân luôn tùng phục những người nắm hết của cải. Sự thành công là ở chỗ nầy.

Bất Minh nghe sự giải trình đúng theo kế sách của mình liền nói đồng chí A phân tích có khoa học quá. Việc nầy giao cho đồng chí thế là cuộc họp đi vào kết thúc.

Nếu đồng chí A thực hiện thành công thời Bất Minh tài tình lãnh đạo. Nếu đồng A thực hiện bất thành, bị dân phản kháng chống đối quyết liệt thời đồng chí A gánh thay cho sự đen tối âm mưu của mình Bất Minh không hề liên can.

Giống như Bất Minh cho người chỉ đạo vụ mùa cấy lúa, trồng ngô, trật thời đổ thừa cho thiên tai, trúng thời nói là tài lãnh đạo. Với tài lãnh đạo nầy Bất Minh chưa bao giờ thất bại một việc làm nào. Vì có người đã thế thay sự thất bại của mình. Bất Minh ra quân hàng trăm trận nhưng không có trận nào là Bất Minh thua cả vị sự thua đã có người gánh thay.

Với cái tài Ma không hay Quỉ không biết ai mà qua được được Bất Minh. Bất Minh có nhiều phương pháp làm cho người ta đi theo. Mà không biết tại sao mình đi theo. Rất nhiều mẫu chuyện Bất Minh làm cho những người tài đi theo, trong đó có câu chuyện không mời mà cũng tự nguyện đi theo.

Ở vào thời ấy có vị kỳ nhân ra đời ở Thủ Đô không chịu theo ai cả không theo bên nầy, cũng không theo bên kia, vì thấy không bên nào cũng gian hùng không chân chính. Nên vị kỳ nhân theo hạnh nho sĩ hưởng nhàng, vì bên nào Vị Kỳ Nhân cũng chê. Người tài như thế mà không dùng được thời phí quá.

Cho đến một hôm Bất Minh nói với những người theo mình, ai mà hàng phục được vị Nho Sĩ ấy theo phe ta thời được phong hàng đầu có công chiêu mộ nhân tài, thế là tay chân thuộc hạ của Bất Minh thi nhau tìm đến nhà vị Nho Sĩ ấy ra công thuyết phục tìm đủ mọi cách cũng không thuyết phục được vị Nho Sĩ tài ba ấy.

Đàn em tay chân thuộc hạ liền nói với Bất Minh rằng thưa thủ lĩnh người tài không theo phe mình thời chỉ có giết đi tránh hậu họa về sau, nhở vị nho sĩ ấy theo phe khác chống lại phe của mình.

Bất Minh nói không ai thu phục nổi thời để Bất Minh vậy. Bất Minh kéo theo một số anh em đồng chí đi theo có vẻ phô trương để cho Dân chúng thấy là mình đã đến nhà Nho Sĩ.

Vị Nho Sĩ tiếp đãi Bất Minh trọng hậu. Bất Minh không đá động gì đến lời chiêu mộ chỉ hỏi thăm sức khỏe cũng như khen tặng lời ca tụng sự tài giỏi của vị Nho Sĩ ấy mà thôi rồi ra về. Những tay chân thuộc hạ lấy làm ngạc nhiên tới thăm chơi như thế thời làm sao thu phục được vị Nho Sĩ đó. Khi ra về Bất Minh đánh động thêm Dân chúng là có Bất Minh tới thăm vị kỳ nhân Nho Sĩ.

Bất Minh trở về căn cứ bí mật cho người theo dõi. Thời biết vị Nho Sĩ ấy bị triều đình mời lên mời xuống mời lần thứ hai. Bất Minh nói với anh em tay chân thuộc hạ hãy chững bị cho ta thêm một cái chắn với một đôi đũa để chiều nay ta tiếp đãi Nho Sĩ vì đã đến với chúng ta.

Những tay chân bộ hạ không lấy làm tin cho lắm vì thủ Lĩnh có chiêu mộ gì đâu mà đi theo trong khi những anh em làm đủ kiểu cách mua chuộc hù dọa, đủ mọi thứ cũng không làm cho Nho Sĩ đó đi theo mà đôi khi có ý chống trả lại.

Quả đúng như lời Bất Minh nói trời vừa sẩm tối thời có đồng chí người được Bất Minh cho ở lại theo dõi Nho Sĩ dẫn vị Nho Sĩ đến gặp Bất Minh. Bất Minh chờ đợi đến ăn cơm.

Tay chân thuộc hạ theo Bất Minh, vô cùng kinh hãi Thủ Lĩnh liệu việc như Thần biết trước mọi việc xảy ra. Số tay chân thuộc hạ nào biết Bất Minh chỉ sử dụng một mẹo nhỏ đưa vị Nho Sĩ vào thế bí là cấu kết với Bất Minh phản lại Triều Đình nên mới hẹn hò quân cách mạng như vậy.

Vị Nho Sĩ ấy là người rất thông minh Triều Đình mà mời lên lần thứ hai là bỏ tù luôn đôi khi còn mất mạng vì tưởng rằng mình không chịu khai ra sự thật, âm thầm cấu kết với quân cách mạng, trong khi bằng chứng dân nhìn thấy sờ sờ. Vị Nho Sĩ ấy chỉ còn một cách là bỏ nhà ra đi tìm thủ Lĩnh Bất Minh.

Vừa ra khỏi nhà đi một đoạn, thời có người đến làm quen dẫn vị Nho Sĩ đi gặp Bất Minh.

Nói về vị Nho Sĩ thấy Bất Minh ở trong một cái hang thời lấy làm kinh ngạc liền tỉnh ngộ hóa ra là thế.

Tin đồn lan khắp Bất Minh tài hơn cả Thần Thánh biết trước mọi việc trên đời có một không hai

Thế dân chúng ủng hộ đi theo sự lớn mạnh như nước thủy triều với một bài hịch tuyệt vời. Là xóa bỏ chủ nghĩa Phong Kiến độc tài độc trị Vua Chúa, đem lại sự Độc Lập Quyền Tự Do, Quyền Công Bằng, Bình Đẳng cho người dân.

Thế là Quân Dân vùng lên như nước thủy triều đi vào khởi nghĩa xóa sổ chủ nghĩa Phong Kiến độc tài Vua Chúa về tay Nhân Dân. Quân, Dân suy tôn Bất Minh lên làm Lãnh Tụ. Khi lên làm Lãnh Tụ Bất Minh thường nói nào là Dân là Chủ, nào là Nhà nước của Dân, nào là Chính Quyền do Dân, vì Dân, nào là Chính Quyền là đầy tớ của Dân.

Nghe mùi tai không các bạn cái gì cũng của Dân nhưng đi vào thực tế thời Đảng Lãnh Đạo, Chính Quyền Quản lý. Dân làm chủ không biết là chủ cái gì ở đây? Có làm chủ đấy các bạn làm chủ cái miệng để ăn. Làm chủ cái chân để chạy. Làm chủ cái tay để làm, sự làm chủ tuyệt đối không ai tranh giành sự làm chủ nầy cả, cả lớp đều cười ồ lên bạn Hậu kể chuyện hay quá.

Các bạn có biết không trong thời gian lãnh đạo đất nước. Bất Minh thường nói đến sự công bằng bình đẳng cao nhất chính là sự Công Bằng Bình Đẳng trong giai cấp công quyền. Theo Thể Chế độc tài độc trị. người có công nhiều hưởng nhiều, người có công ít hưởng ít.

Còn thường Dân chỉ là thường Dân. Người nào cũng là Dân Công Bằng Bình Đẳng gì nữa, dân tự làm tự ăn đó là Công Bằng, đã là Dân ai cũng như ai đó là bình đẳng.

Bất Minh thường nói Chế Độ Ta hơn hẳn triều đại phong kiến là ở chỗ một Đảng Phái lãnh đạo theo kiểu tập thể, không giống Vua, Chúa độc tài lãnh đạo. một mình muốn làm gì thời làm không có Nhân Quyền, Dân Chủ. Còn chế độ thể chế Ta một tập thể lãnh đạo Công Bằng Bình Đẳng ai cũng như nhau. Người được tập thể chọn bầu lên làm lãnh đạo, thời có quyền lãnh đạo.

Ông Bà xưa thường nói, ăn cây nào rào cây ấy, người được bầu chọn lên làm lãnh đạo. Là phải trung thành tuyệt đối với Đảng. Vì Đảng còn là đất nước còn. Đảng mất là đất nước mất. Các bạn nghĩ xem cái Đảng Phái của Bất Minh còn quan trọng hơn đất nước Nam Du rồi. Nhưng thật ra đất nước Nam Đu có hơn mấy nghìn năm Văn Hiến. Bao Lớp Ông Cha ngã xuống, nước Nam Du mới tồn tại đến ngày nay.

Hồn Thiên sông núi nghe đến tài Lãnh Đạo kiểu nầy cũng lắc đầu. Đất nước Nam Du lớn như con voi lần lần chỉ còn bằng con Chuột.

Mất đi chủ quyền mấy nghìn năm dựng nước giữ nước Nam Du. Mất lần đất đai không còn cơ hội đòi lại đất đai mà ngoại xâm, xâm lấn. Đúng là tài không đức thường gây tai hại. Mở đầu câu chuyện ngoại giao thường học chữ Đu. Đu hết thế lực nầy Đu qua thế lực khác. Đu tới Đu lui u đầu bể trán.

Khi ấy có một người Dân có thể nói ảm hiểu Về Nhân Quyền, Dân Chủ bằng nói thưa Lãnh Đạo. Thời Vua, Chúa độc tài độc chỉ có một mình còn lợi hại như vậy, nay nâng cấp lên một Đảng độc tài độc trị phải nói là quản lý sát dáng một con kiến cũng không lọt nói gì con người to gấp vạn lần con kiến thời càng khó chui lọt hơn. Dân càng khổ thời quan càng béo mập sinh bệnh gút (gout) đau nhức cả đêm lẫn ngày lại thêm tốn của chữa trị. Cuộc chạy đua thừa đạm chỉ có ở trong quan. Dân còn xương da làm gì chạy đua bệnh gút thừa đạm nổi! Cả lớp cười ồ lên.

Cuộc nổi dậy thành công xóa sổ độc tài Vua, Chúa dưới sự lãnh đạo tài tình của Bất Minh Dân thoát miệng sói liền rơi vào miệng Beo. Các bạn biết không con Beo chính là con Báo đó, răng nanh con Báo to lớn hơn con Sói ngoạm một cái là tơi xương, móng vuốt to dài nhọn hoắt gấp mười lần móng vuốt của Sói vồ một cái là mạng đi đời, lên bàn thờ mà ngồi giáp một năm chỉ hửi hơi nhang khói một bửa khỏi tốn kém cơm gạo của Lãnh Đạo,

Sự quản lý tính toán của nhà nước mặt nào cũng lợi cho quan, nên quan càng ngày càng béo phì thi đua cái bụng với mấy bà bầu. Quan hàng Bộ thi nhau lên lầu đài cung điện nguy nga tráng lệ. Hàng quan cấp nhỏ không được cung điện lầu đài, thời cũng mang hình hài dáng dấp đỉnh cao của biệt thự.

Các bạn thấy chưa độc tài Vua, Chúa Phong Kiến chỉ một Ông Vua ở hoàng cung mà Dân phải ăn cơm độn củ, độn ngô, độn chuối. Còn độc tài Đảng trị ít nhất cũng hàng trăm Ông Vua thi nhau mà xây cung vàng điện ngọc, Dân không hết sạch là may, bửa đói bửa no là khá lắm rồi. Cả lớp không khỏi nín cười.

Hậu tôi không phải kể đùa chỉ có người nào mang bệnh trí mù là không thấy mà thôi. Còn không cũng dính chút xôi mở miệng mắt quay mất trắng chỉ còn nước là húp cháo.

Cả lớp nghe Hậu kể chuyện hay quá liền cười ồ lên. Thầy Nhàn đang nghe mùi tai vì tiếng ồn làm cho mất hứng gõ cây thước xuống bàn im lặng im lặng để nghe Hậu kể tiếp.

Hậu nói nhà Lãnh Tụ thiên tài không phải là không biết Nhân Quyền, Dân Chủ. Nên mới nói được câu Dân là Quyền Lực Tối Cao (Dân Chủ) Mỗi con người sanh Tạo Hóa ban cho con người những Quyền cơ bản, trở thành (Nhân Quyền) có Quyền hưởng Độc Lập, có Quyền hưởng Tự Do, có Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc, những Quyền ấy không ai có Quyền xâm phạm. Nếu làm đúng Nhân Quyền, Dân Chủ, đi vào Công Bằng, Bình Đẳng thời Đảng, Quan, Dân như nhau.

Quyền kiểm soát của Dân tối cao lấy đâu ra một chốp bu năm bảy bà vợ bà nào cũng trẻ trung xinh đẹp ngực nở mông to lưng eo thắt đáy, cung son lầu đài chín mười cái. Mỗi lầu đài cung điện nuốt trọn vài mẫu đất của Dân.

Một bữa ăn chơi xa xí chớp bu tốn vài chục triệu. Mười gia đình người dân ăn cả tháng cũng chưa hết. Những nhà hàng dư thừa đồ ăn sơn hào hải vị mấy con bặc-rê nhìn thấy rùng mình ăn không nổi, còn người dân thời làm ăn chạy bữa, có người đi mót từng cái cũ để mà ăn.

Thể Chế Độc Tài là như thế, người thời giàu quá, người thời áo rách khố ôm tự trong nội thể Chế Độ tao ra mất Công Bằng, Bình Đẳng nghịch lại Thiên Ý. Vì Nghịch Thiên Ý Hóa Công, nên Hóa Công luôn cào chỗ cao lấp xuống chỗ trũng. Nên mấy cung son biệt thự thường lúc lắc rung rinh. Những con chuột quan càng đào hang thủ thế hơn nữa.

Dân coi vậy mà bình yên vì ở nhà tranh vách lá. Còn Quan thời sợ sắt, thép, gạch ngói đè chết nên phập phồng lo sợ ngày đêm, tội nghiệp cho mấy vị Quan Tham quá. Vợ con bồ nhí hàng tá có bề gì thời tiếc mà đứt ruột. Đâu phải bồ nhí cho không mỗi cô nàng cũng phải mất vài tỉ.

Người tài quá mà không có đức thường là nghịch Thiên cướp hết Quyền Tạo Hóa ban cho mỗi con người (Nhân Quyền), cướp hết Quyền Công Dân tức là (Quyền Dân Chủ) nên mới ló ra cái ngu ẫn tàn sau cái tài. Nên mới có câu chữ tài liền với chữ Tai một vòng, đất nước Nam Đu vì đi theo Thể Chế Độc Tài Độc Trị luôn bị mẻ đầu lỗ tráng Dân Tộc Nam Du ăn không ngon ngủ không yên, đã khổ lại sinh cái khổ chồng lên. Gánh lấy tai họa bầm dập, tai họa sanh ra đến nổi thậm chí ăn, uống, cũng sợ. Còn dân khổ đến nỗi bắt được con gì cũng ăn, trừ con bồ lon ốc vít ra, tai họa nhiều như lỗ chân lông, có nghĩa là đụng đâu thời mang họa đó. Cũng bởi lãnh tụ quá tài mà không có đức.

Thầy Nhàng nghe xong liền nói hay quá, hay hết biết luôn còn nữa không thầy muốn nghe tiếp. Hậu nói câu chuyện Lãnh Tụ Thiên Tài đến đây là hết. Thầy Nhàng như có vẻ luyến tiếc vì câu châu chuyện hết mất, những em không hiểu chính trị như vịt nghe sấm. Còn những em hiểu chút ít chính trị thời đây là câu chuyện tuyệt vời. Chuyện để đời những bài học vô giá.
 
63. VẠN CỐC SƠN

PHẦN 1

Ngày xửa ngày xưa vào thời Hùng Vĩ Lang đời thứ 20 thượng Hùng Vương. Hùng Vĩ Lang lên ngôi thay cho Quốc Vương Nội là Hùng Yên Lang thiên hạ thái bình an lạc, thi đua phát triển làm giàu.

Khi ấy ở Hoa Sơn Động có vị kỳ Nhân hội nhập Cội Nguồn trí huệ sáng soi chuyện gì cũng biết, nhưng không bao giờ thâu đệ tử. Biết bao người tìm đến chỉ nghe lời giảng dạy rồi về.

Cũng vào thời ấy có hai chàng trai phải nói là thông minh ít ai bằng một người ở Trung Châu, Một người ở Hồng Châu, hai người gặp nhau ở dưới Hoa Sơn Động. Đồng chung cảnh ngộ là chờ đợi gặp cho được vị kỳ Nhân, sự chờ đợi cả tháng nên hai người dần dần đi đến làm bạn kết nghĩa Huynh, Đệ, với nhau tâm đầu ý hợp không khác gì anh em ruột thịt. Một người tên là Đào Hoa nhỏ tuổi hơn làm Đệ, một người tên là Chí Thiện lớn tuổi hơn làm Huynh, sự kiên nhẫn chờ đợi của hai chàng trai trẻ cuối cùng vị Kỳ Nhân cũng xuất hiện.

Vị Kỳ Nhân nói hai con đều có nhân duyên với Ta. Ta nhận hai con làm đồ đệ, đây là chuyện hi hữu chưa từng có xảy ra trong đời của Ta. Chí Thiện và Đào Hoa mừng quá quỳ lạy bái sư.

Vị Kỳ Nhân nắm lấy tay hai đệ tử phi thân bay qua dãy núi đến dòng thác Hoa Sơn Động. Nơi đây cảnh sắc rực rỡ hoa nở khắp cùng cảnh vật xinh đẹp lạ lùng khác xa nơi trần thế khác gì Bồng Lai Tiên Cảnh trên cõi Tiên. Hương thơm thoang thoảng làm cho người thư thới nhẹ nhàng, bao phiền não không còn. Hai chàng trai trẻ ở Vạn Cốc Sơn tu tiên học thuật. Thời gian mới đó đã được ba năm. Chí Thiện và Đào Hoa cùng luyện một chiêu cuối cùng trong Vạn Kiếm Hoa Tiên. Nhìn đường kiếm của hai chàng trai trẻ đã luyện đến xuất thần nhập quỉ, kiếm pháp lúc thời như mây bay. Lúc thời như thác đổ. Lúc thời như mưa sa bão táp.

Bỗng một người xuất hiện khen hai con đã luyện thành công chiêu cuối cùng trong Vạn Kiếm Hoa Tiên. Ở chốn giang hồ khó kiếm người đỡ nổi vài chiêu của các con.

Nay thầy cho hai con xuống núi, hai con chửng bị rồi lên đường.

Chí Thiện cùng Đào Hoa quỳ lạy Sư Phụ rồi nói chúng con khờ dại, trường đời thời rộng lớn, khó tìm ra phương hướng để đi xin Thầy chỉ dạy cho.

Vị Kỳ Nhân liền dạy bảo chỉ cần sống đúng Lương Tâm làm theo Lương Tâm, sự thành đạt sẽ như ý nói xong vị Kỳ Nhân biến mất.

Hai chàng trai trẻ chưa hiểu gì về lời dạy của Thầy nhất là những thâm sâu trong ấy. Hai chàng trai nhớ mãi lời dạy của Thầy trong từng bước đi cũng như nằm ngồi.

Trên đường trở về Đào Hoa và Chí Thiện luôn đem ra bàn luận với nhau, nào là không hại người, thường giúp đỡ người nào là làm ăn chân chính tất cả những đề tài đưa ra đều có lý. Về tới Trung Châu hai người chia tay Đào Hoa trở về nhà nằm trong thành phố Trung Châu. Còn Chí Thiện trở về Hồng Châu.

Cha của Đào Hoa là Ông Chậm Tiến, nhưng là người có đầu óc thương gia, tuy có võ công nhưng lại ít vốn thường buôn bán nhỏ lẻ kiếm sống qua ngày.

Thấy con trở về Ông Chậm Tiến vui mừng khôn xiết lại thấy Đào Hoa trông khôi ngô tuấn tú hơn xưa. Vai mang thanh kiếm Ông nghĩ ngay đến một thương gia nổi tiếng trùm Trung Châu. Có tài thời đương nhiên sẽ làm nên nghiệp cả. Huống chi Đào Hoa đã tu tiên học đạo thời chuyện làm giàu như trở bàn tay.

Nói về Chí Thiện trở về Hồng Châu trở lại quê nhà là một xóm nghèo trong huyện Hồng Ngự. Cha Mẹ mất sớm Chí Thiện lớn lên trong tình thương xóm làng. Nhưng nhờ sự thông minh Chí Thiện đã đóng góp nhiều phát minh giúp cho xóm làng kiếm ra cái ăn cái mặc. Sau ba năm xa quê không ngờ nơi đây đã trở nên thay da đổi thịt.

Một ngôi nhà tranh trong cơn mưa tầm tã, lẻ loi cô độc cách xa xóm làng, một chàng trai trẻ đang phóng tầm nhìn vào cơn mưa. Như đang tìm kiếm cái gì mà chàng trai chưa nắm bắt được. Bỗng nghe tiếng binh khí choảng nhau phát ra từ ngôi nhà bên kia. Không biết ngôi nhà bên kia mọc lên từ lúc nào, nhưng ít ai dám đến nghe đâu là một tên cướp đến ở nhưng không phá phách dân làng, mà thường bảo vệ dân làng nữa là khác. Nên dân làng không cho đó là cướp mà người từ phương xa đến ở.

Tiếng binh khí chạm nhau mỗi lúc một vang rền. Thiện nghĩ, thấy người gặp nạn Ta nên cứu là sống đúng Lương Tâm, làm theo Lương Tâm, cứu người đâu phân biệt kẻ tốt người xấu, đâu phân biệt kẻ nghèo người giàu. Chí Thiện liền phi thân đi trong cơn mưa hoàng hôn cũng dần dần lịm tắt cơn rét buốt lạnh thấu xương. Đến nơi Chí Thiện nhìn thấy người đàn ông trung niên đang bị sáu người bịt mặt tấn công, người đàn ông trung niên trúng nhiều nhát đao máu tuôn xối xả, một tên bịt mặt quát lớn mạng ngươi đã hết tức thời ánh đao chớp tới.

Bỗng một tiếng quát lớn dừng tay tức thời một ánh kiếm chớp lên ken đinh tai nhức óc tên sát thủ kinh hãi nhìn sững Chí Thiện như không tin người đỡ được nhát đao của mình là một chàng thanh niên còn rất trẻ. Lấy lại bình tỉnh tên sát thủ quát ngươi là thằng ranh ở xứ nào tới đây can thiệp vào chuyện bọn Ta. Khôn hồn thời cút đi may ra còn mạng sống.

Người trung niên thấy có người đến cứu mình liền nói chúng nó là bọn cướp với biệt danh là Hổ Báo. Đến đây giết Ta cướp lại túi vàng mà chúng đã cướp của nhà quan. Ta tuy là cướp nhưng không cướp của Dân, không cướp của Quan mà chỉ cướp của bọn cướp. Nên Ta bị bọn cướp truy sát tìm đến đây để giết Ta lấy lại túi vàng cũng như loại trừ tên cướp, cướp trên kẻ cướp làm chúng mất ăn mất ngủ ngày đêm.

Nghe được lời ấy Chí Thiện thầm nghĩ đây cũng là một hành động tốt cướp của kẻ cướp một việc làm không ai dám làm. Đúng là bậc anh hùng có khác. Chí Thiện nhìn sáu tên cướp nói các ngươi luôn sống trái lại Lương Tâm các ngươi chuyên đi giết người cướp của, các ngươi cho là đúng, nhưng khi người Ta cướp của các ngươi thời các ngươi cho là sai tìm đến để giết.

Các ngươi biết quý mạng sống của mình, lại xem thường mạng sống của kẻ khác thậm chí giết đi như con gà con chó. Của các ngươi các ngươi không cho ai lấy, ai đụng đến thời các ngươi giết.

Thế mà các ngươi chuyên đi cướp của thiên hạ, làm cho thiên hạ đã mất của còn mất luôn cả mạng.

Theo Công Lý thời các ngươi đều là đáng tội chết, nhưng Ta vẫn mở cho các ngươi một con đường sống là từ bỏ trộm cướp đi, không được làm hại những người dân vô tội.

Người Trung niên bị bọn cướp truy sát nghe được những lời ấy trong lòng liền tỉnh ngộ nói nếu tôi còn sống, tôi sẽ bỏ nghề trộm cướp trở thành người hầu cho Công Tử sống theo Lương Tâm của chính mình.

Tên đầu đảng quát Lương Tâm là cái chó gì, các ngươi không một ai sống sót. Bọn Ta chỉ cần vàng và bạc anh em đâu giết tên nầy cho Ta. Chí Thiện nói với người trung niên tạm thời lui vào nhà băng bó vết thương để bọn chúng cho bổn Công Tử. Người trung niên nói lòng tốt Công Tử tôi xin ghi nhận, tốt hơn hết là Công Tử hãy cao bay xa chạy may ra còn được sống bọn cướp Hổ Báo là những tay cao thủ chỉ cần một tên cũng khó đánh lại huống chi tới sáu tên.

Chí Thiện nghe xong nói bảy đáp bỏ đao thành Bụt. Người hiểu rõ Lương Tâm của mình là bậc kỳ nhân trên đời, tôi quyết cứu người cho bằng được.

Bọn bịt mặt kẻ kiếm người đao đồng loạt ra tay kiếm đao chơm chớp thân pháp như Ma. Tiến lui như quỷ hầu lấy mạng Chí Thiện trong chớp mắt. Chí Thiên nhanh như tia chớp ra chiêu chống trả binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc, những tên bịt mặt ra chiêu càng hiểm hóc, một đấu sáu vẫn ngang ngửa bên năm lạng người nửa cân trận giao tranh rền trời rền đất. Người trung niên đến lúc nầy hầu như lấy lại bình tĩnh nhìn chàng thanh niên lạ mặt, kiếm pháp tuyệt vời không dễ gì bọn bịt mặt hạ gục trong vòng vài trăm chiêu.

Nói về Chí Thiện vì không muốn giết người nên chỉ dùng có năm thần công lực, cũng không sử dụng đến tuyệt chiêu, bằng không thời sáu tên bịt mặt bỏ mạng lâu rồi. Không thể kéo dài trận chiến Chí Thiện quát lên một tiếng như sấm nổ đường kiếm cuồn cuộn nổi lên kiếm khí thét gào khủng khiếp ầm ầm đùng đùng sáu tên bịt mặt kẻ thời bay đao người thời gãy kiếm trào máu họng kinh hoàng khiếp vía thi nhau trốn chạy.

Người trung niên người tuy đầy những vết thương ráng chịu đựng chứng kiến tài nghệ siêu phàm của chàng trai trẻ như nhìn thấy thái sơn xuất hiện. Mạng sống của mình là do chàng trai cứu mạng liền quỳ xuống xin làm gia nhân. Chí Thiện bước tới đỡ người trung niên dậy móc trong túi ra một viên thuốc trị thương đưa cho người trung niên nói đây là viên thuốc Thần Đan quý báu vô cùng không những tăng công lực trị lành vết thương nhanh chóng.

Quả đúng như Chí Thiện đã nói, người trung niên vừa uống xong Thần Đan trong người liền nóng lên những vết thương kéo da non chóng lành trở lại. Người trung niên thấy mình khỏe mạnh còn hơn trước thời biết là thuốc Tiên, liền nói chủ nhân không những cứu mạng sống của tiểu nô mà con ban cho Tiên Dược ơn như trời biển kiếp nầy khó mà trả được.

Người trung niên mời Chí Thiện vào nhà rồi kể lại những gì đã xảy ra.

Gia Nô vốn mồ côi cha mẹ tên là Từ Nhân lớn lên theo thầy học võ nhờ ra công khổ luyện nên cũng có chút căn bản hơn người, có một lần Gia Nô nhìn thấy bọn cướp, cướp của giết người làm những điều tàn bạo ác độc trái với Lương Tâm. Chúng sống trên xương máu đồng loại. Từ đó Gia Nô nguyện làm tên cướp, cướp lại những gì bọn cướp đã cướp của dân của quan, đã là cướp thời Chính Quyền nhà nước không tha, nên Gia Nô phải tìm nơi hoang vắng để sống duy chuyển hết nơi nầy đến nơi khác tránh sự truy sát của bọn cướp.

Một hôm Gia Nô nhìn thấy bọn cướp Hổ Báo dấu một số kim ngân châu báu không biết là cướp được của nhà nào, chờ cho bọn cướp ăn uống no say lơ là cảnh giác, nhờ vào thân pháp kỳ diệu ẩn hiện như bóng ma Gia Nô đã cướp đi những kim ngân châu báu cũng chúng.

Đến khi bọn cướp phát hiện thời Gia Nô đã cao bay xa chạy, thế mà bọn cướp cũng đánh hơi được mò đến đây. Võ công bọn cướp Hổ Báo rất cao không ai làm gì chúng nổi nếu một chọi một thời Gia Nô có thể thắng, nhưng đằng nầy có tới sấu tên Gia Nô đành phải thất bại trúng nhiều nhát đao tí nữa thời bỏ mạng may sao Chủ Nhân đến cứu kịp thời.

Người trung niên vào phòng lấy ra một túi vải lớn đổ xuống đất thời ra trong túi vải đựng toàn là vàng bạc ngọc ngà châu báu. Chí Thiện nhìn thấy vô cùng kinh ngạc bọn cướp, cướp của ai mà nhiều đến vậy.

Từ Nhân nhìn Chí Thiện nói số vàng bạc châu báu nầy thuộc về Chủ Nhân, nếu không có Chủ Nhân đến cứu không những mạng sống Gia Nô không còn mà số vàng bạc châu báu cũng trở về tay bọn cướp. Chí Thiện nghĩ Từ Nhân đã đi theo mình của mình cũng là của Từ Nhân bằng nói Ta giao số châu báu vàng bạc này cho Từ Nhân gìn giữ khi nào cần Ta sẽ sử dụng.

Nói về Chí Thiện rời bỏ làng quê Huyện Hồng Ngự phía bắc Hồng Châu dẫn theo Từ Nhân tìm về phía nam Hồng Châu tìm nơi sanh sống đi gần một ngày còn hơn một dặm thời đến Đèo Lao Dốc, ánh hoàng hôn cũng dần dần lịm tắt rừng đồi bạt ngàn hoang vu xa xa thôn làng chìm lần trong làn sương khói. Từ Nhân phát hiện trước mặt vài trăm mét có một ngôi nhà nhỏ bằng nói với Chí Thiện thưa chủ nhân phía trước là ngôi nhà nhỏ đến đó xin tá túc qua đêm. Chí Thiện nói ngôi nhà phía trước sợ không có người ở vì nơi đây hoang vu quá, lại xa làng xốm ba bốn dặm hai ta tạm đến ngôi nhà nhỏ nghĩ nơi đây cũng được.

Khi còn cách vài chục mét hai người vô cùng kinh ngạc nhìn thấy một thanh nữ tuổi trạc 25 cũng khá xinh đẹp đang dọn dẹp trước sân. Nhìn đôi chân nhanh nhẹn đôi bàn tay lanh lẹ vai mang thanh kiếm cũng đón là người có võ công.

Chí Thiện chấp tay thi lễ nói. Tại Hạ là người Huyện Hồng Ngự lỡ bước qua đây trời lại sắp tối nên không thể đi qua Đèo Lao Dốc xin tạm vỉa hè qua đêm. Người thanh nữ nhìn qua hai người rồi bước vào nhà lác sau thời bước ra nói.

Nhà tôi toàn là phụ nữ không nhận khách qua đường nhất là về đêm. Một là các hạ tạm nghỉ nơi đây một lác chúng tôi sẽ đưa quý khách qua Đèo Lao Dốc với số tiền không rẽ vì qua đèo về đêm.

Hai là quý khách quay trở lại tạm nghỉ chân nơi làng xóm sáng mai sẽ qua đèo. Nếu các hạ cảm thấy cần người bảo tiêu. Chủ Nhân tôi sẽ đưa hai vị qua đèo đến nơi làng xóm bên kia với giá rẻ hơn phân nửa giá về đêm. Chí Thiện nói trời cũng đã tối ánh trăng đã hiện về trở lại xóm làng cách đây khá xa đường đi hoang vu dù cho tới được xóm làng cửa nhà nào cũng cài then đóng kín khó mà cho hai chúng tôi trọ ở lại nhà của họ. Xin Cô thông cảm nói với chủ nhân chúng tôi là những người lương thiện không có ý gì xấu. Chỉ tạm nghỉ vỉa hè qua đêm mà thôi.

Bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, từ trong nhà tiếng nói ngọt ngào thanh tao vọng ra. Hạnh Cô đưa hai người đó vào trong nhà nhanh. Hạnh Cô nói mau lên hai người theo tôi vào trong nhà không được bước ra ngoài.

Hai người vừa bước vào trong thời đèn đuốc cũng tắc hết tối om. Nhưng với đôi mắt của Chí Thiện thời nhìn thấy người trong nhà một cách rõ ràng một thanh nữ tuổi trạc mười tám mười chín phải nói là xinh đẹp ăn mặc gọn gàng vai mang cung tên vai mang thanh kiếm không khác gì một nữ hiệp. Ngoài đường vó ngựa đã dừng Chí Thiện nhìn thấy năm người xuất hiện. Bọn chúng người nào người nấy mặt mày hung dữ. Một tên quát lớn đã thấy bọn Ngũ Sát ta sao không quỳ lạy, một tên nói coi bộ cũng xinh gái đấy chớ, đại ca để cô ấy cho ngũ Sát, chỉ là một con gà mái cần gì đến Sói chúa Đại Ca.

Tên ngũ Sát liền xuống ngựa nhích chân một cái là di chuyển năm sáu mét chụp vào tay của Hạnh Cô. Hạnh cô liền né tránh tên Ngũ Sát chụp hụt quát lên ra là thế thảo nào ngươi dám ở đây. Tên Ngũ Sát hai tay nhanh như chớp tấn công vào ba nơi thượng, trung, hạ hầu điểm huyện Hạnh Cô. Hạnh Cô nào phải tay vừa, vừa né tránh vừa phản công. Tên Ngũ Sát biết dùng tay khó mà khống chế đối thủ bằng rút đao chém tới những thế đao bí hiểm.

Hạnh Cô rút kiếm chống trả hai bên đánh nhau chưa bên nào hạ được bên nào. Thời một tiếng quát nổi lên tùng phục ngũ sát ta thời sống chống lại ngũ sát ta thời chết. Ngũ Sát lui ra để con nhỏ đó cho Nhị Sát ta làm thịt cho rồi. Với đường đao mạnh như sấm sét chém vào Hạnh Cô, Hạnh Cô ra chiêu chống trả ken một tiếng đinh tai nhức óc Hạnh Cô lảo đảo muốn ngã hình như đã bị thương tuy không nặng nhưng cũng khá sâu nơi vai. Nhị Sát liền nhanh tay chụp tới Hạnh Cô khó mà chống đỡ. Bỗng một tiếng quát nổi lên hay cho bọn ngũ sát tới đây tìm cái chết ầm một tiếng Nhị Sát trúng liền một chưởng trào máu họng thất kinh. Nhất Sát thấy một người con gái xinh đẹp cười lên hô hố không ngờ Đèo Lao Dốc nầy có người xinh đẹp như vậy. Ta tuy đã có nhiều bà, như không bà nào xinh đẹp bằng cô nầy quy thuận ta thời sống chống ta thời chết. Người con gái xinh đẹp quát hỗn láo xem nầy tức thời thân hình như con chim phụng bay lên thanh trường kiếm loang loáng chém tới. Nhất sát quát lên khá lắm hắn chém liền mười mấy đao vào người con gái xinh đẹp binh khí chạm nhau chói tai không ai nhường ai xông vào xáp chiến, hai tiếng quát nổi lên Tam Sát, Tứ Sát xông vào mỗi người đồng ra chiêu tử thần thế là ba người đánh một, người con gái xinh đẹp coi bề yếu thế đồn lần đến chỗ chết.

Nói về Hạnh Cô lảo đảo bị thương Nhị Sát từ trên ngựa phóng xuống nhanh tay chụp tới tưởng đâu là tóm được Hạnh Cô nào hay đâu trúng một chưởng học máu bị thương khá nặng. Vì ráng sức đánh ra một chưởng Hạnh Cô lảo đảo muốn ngã. Ngũ Sát không để cho Hạnh Cô đứng vững chém tới một đao Hạnh Cô ra sức né tránh, Ngũ Sát truy Sát tới cùng. Nhị Sát như lấy lại sức lực chém nhanh một đao về Hạnh Cô. Bỗng Nhị Sát rú lên một tiếng kinh hãi cánh tay cầm đao của Nhị Sát đứt lìa máu tuôn lênh láng.

Ngũ Sát nhìn thấy một người trung niên không biết từ đâu đến lạnh lùng đứng nhìn bọn chúng không nói không rằng.

Sự thể xảy xa quá bất ngờ người trung niên như bóng ma tống cho Ngũ Sát một quyền bị trúng đòn ngã nhào hộc máu hắn kinh hãi rú lên như heo bị chọc huyết.

Nói về người con gái xinh đẹp bị ba tên ác sát dồn lần đến chỗ chết ba ánh đao ba hướng chớp lên thế là xong đời người con gái xinh đẹp. Bỗng nghe một giọng nói lạnh lùng lũ các ngươi thật đáng chết ầm ầm đùng đùng ba tên ác sát mỗi người trúng một chưởng trào máu họng khiếp kinh bỏ chạy, người con gái xinh đẹp nào để yên bắn liền ba mũi tên bọn chúng rú lên cố sức tẩu thoát thế là năm tên ác sát biến mất.

Nói về Hạnh Cô thấy người cứu mình không ai khác hơn là người xin nghỉ qua đêm, không ngờ võ công lại cao cường đến thế, đúng là chân nhân bất lộ tướng Hạnh Cô đỏ mặt vì đã xem thường người ta. Hạnh Cô nhìn đi nhìn lại trông người trung niên cũng dễ coi tim liền rung động mỉm cười nói thì ra người là một cao nhân. Thật ra Từ Nhân không lợi hại như vậy nhờ uống Tiên Đơn công lực tăng lên gấp bội nên mới lợi hại như vậy bọn Ác Sát nầy không kém gì bọn cướp Hổ Báo võ nghệ vô cùng cao cường.

Người con gái xinh đẹp nhìn Chí Thiện nở nụ cười duyên trông càng xinh đẹp hơn lên e thẹn nói thiếp quả có mắt như mù không nhìn thấy thái sơn. Với võ công cái thế như vậy thời đi qua đèo như đi trên đất bằng, chẳng có con Ma nào dám động đến. Cảm ơn Công Tử ra tay cứu mạng. Thiếp tên là Bảo Trâm quê Thiếp cũng ở Huyện Trạch Châu nầy cách đây không xa gia đình thiếp bị bọn cướp Hổ Báo cướp sạch của còn bị chúng giết khi ấy thiếp theo thầy học võ trở về thời ôi thôi chẳng còn gì chỉ còn một người hầu sống sót chính là Hạnh Cô đây.

Thiếp truyền thụ võ công cho Hạnh Cô nghe đâu bọn cướp thường hoành hành đèo lao dốc thiếp đến đây làm nhà trước thời kiếm sống bằng con đường bảo tiêu người đi qua đèo, hai là truy tìm tông tích bọn cướp Hổ Báo đã cướp sạch vàng bạc châu báu nhà thiếp, trả mối hận thù giết cha giết mẹ giết người thân tiện thiếp hơn chục người. Chí Thiện ngớ người một sự trùng hợp ngẫu nhiên có lẽ gia đình Bảo Trâm không phải là người ác đức. Nên Ông trời xui khiến của chủ trả về cho chủ, ôi thế gian rộng lớn nhưng có bàn tay vô hình che chở.

Bảo Trâm nhìn thấy Chí Thiện như ngẩn người ra mà nhìn mình thời càng e thẹn nói mời Công Tử vào nhà. Bốn người ngồi chung một cái bàn Chí Thiện chưa kịp giới thiệu thời Từ Nhân đứng dậy nói đây là Gia Chủ của tôi tên là Chí Thiện còn tôi tên là Từ Nhân theo hầu Gia Chủ của tôi.

Chí Thiện như sực nhớ ra điều gì bằng hỏi Bảo Trâm tiểu thơ có thể nhận ra được số châu báu ngọc ngà bị mất không? Bảo Trâm nghe xong lấy làm kinh ngạc nhưng cũng nói đương nhiên thiếp biết rõ vì thiếp thường đùa chơi với số châu báu ấy.

Chí Thiện nói tiểu thơ có thể kể sơ những gì đã mất không? Gồm có những gì. Bảo Trâm liền kể có hai con ngựa bằng vàng mỗi con nặng ba ký. Vàng bốn trăm tám chục lượng. Ngọc ngà châu báu ba trăm viên. Còn bạc thời rất nhiều.

Chí Thiện nhìn Từ Nhân rồi nói có hai con ngựa bằng vàng không? Vàng có đủ bốn trăm tám chục lượng không?

Từ Nhân nói thưa chủ nhân Bảo Trâm tiểu thơ đây nói trúng không sai tí nào Chí Thiện không còn nghi ngờ gì nữa bằng nói đưa số ngọc ngà châu báu ấy cho Bảo Trâm tiểu thơ nhận dạng xem có phải là vàng bạc châu báu nhà tiểu thơ không? Từ nhân liền cởi cái bao đang mang đưa đến trước mặt Bảo Trâm nói tiểu thơ xem đi, những thứ nầy có phải là của tiểu thơ không. Bảo Trâm nói không cần mở nếu là của gia đình Bảo Trâm thời có hai con ngựa bằng vàng mỗi con nặng ba ký. Để xác minh là mình nói đúng Bảo Trâm liền lấy cái cân ra để trước mặt Chí Thiện nói. Nếu trong bao kia có hai con ngựa bằng vàng thời đem cân thử có đúng như những gì tôi nói không. Nếu không đúng là không phải của tôi. Từ Nhân liền lấy hai con ngựa bằng vàng để lên cân thời đúng là mỗi con ba ký. Chí Thiện thấy Bảo Trâm nói trúng phóc như thế thời không còn nghi ngờ gì nữa nói của chủ hoàn trả về cho chủ đây cũng là ý của Ông Trời. Chí Thiện trao bao vải nặng hơn ba chục ký cho Bảo Trâm. Bảo Trâm liền đổ số châu báu ra nền nhà liền la lên đúng là số châu báu của gia đình nhà Bảo Trâm rồi. Chí Thiện nói chính Từ Nhân cướp lại từ tay bọn Hổ Báo. Từ Nhân nói bọn cướp Hổ Báo có lẽ đã cao bay xa chạy vì chúng sợ Chủ Nhân của tôi.

Có lẽ cơ duyên tiền định do Ông Trời đã sắp xếp cho đôi cặp gặp nhau, để rồi yêu nhau, đi đến trăm năm hạnh phúc. Mới có cảnh hội ngộ ly kỳ như vậy.

Đây nói về Đèo Lao Dốc là đèo huyết mạch giao thương liên thông qua nhiều Quận, Huyện thuận lợi vô cùng, dân chúng không dám đi qua đây vì thường có trộm cướp. Nên đi đường vòng rất xa.

Không biết từ lúc nào ba gian quán mọc lên trên đỉnh đèo như nói rằng đỉnh Đèo Lao Dốc đã đi vào bình yên nên mới có người ở từ đấy không thấy bóng dáng trộm cướp xuất hiện nữa, thay vào đó là sự an toàn bình yên cho lữ khách qua đèo tiếng đồn càng lúc càng lan rộng người qua đèo vì thế càng ngày càng đông lên. Người ta qua đèo không những quan cảnh đèo rất đẹp mà còn nhìn thấy ba gian quán trông bề thế rộng lớn có thể vài chục người nghĩ qua đêm cũng còn rộng. Ngôi quán lúc nào cũng hơn mười người dừng nghĩ nơi quán thưởng thức nước trà miễn phí, ăn những quả chuối từ rừng núi cũng chẳng trả tiền, có thể nói là phục vụ từ thiện chỉ nhận những đồng tiền tùy lòng hảo tâm mà thôi hoặc khách có thể mua những đặc sản của rừng núi.

Người Chủ Quán Đèo Lao Dốc không ai khác hơn là vợ chồng Chí Thiện. vợ chồng Từ Nhân, cũng như thêm mấy gia nhân người ở.

Bà Chủ quán là một người con gái xinh đẹp lại ăn nói ngọt ngào được lòng khách đến vừa lòng khách đi. Bà Chủ quán để kiếm thêm thu nhập nên phục vụ cơm chay. Cho những lữ khách đi đường hoặc nghỉ qua đêm. Quán Đèo Lao Dốc vì thế nổi tiếng khắp vùng nổi danh với cái tên quán Thiên Đạo.

Thật đúng vậy nơi quán Đèo Lao Dốc phong cảnh rất đẹp suối chảy mây bây chim ca hoa nở, cảnh quan thiên nhiên đã đẹp lại thêm có bàn tay kiến tạo của con người trông như một Bồng Lai chốn nhân gian. Đèo Lao Dốc không cao lắm nhưng uốn khúc quanh co, như rồng bay, phụng múa, người qua lại rất đông khối người dừng chân nghỉ ngơi trên đỉnh đèo không khí trong lành thưởng thức cảnh quan xinh đẹp.

Có lần người ta nhìn thấy Bà Chủ quán phi thân qua thác suối như một nàng tiên, từ đấy tiếng đồn vang xa cho rằng bà chủ quán là người tiên. Nên khách dừng chân không ai dám dở thói trêu hoa ghẹo nguyệt. Bọn cướp giặc không ai dám lảng vảng nơi Đèo Lao Dốc. Nên những người nghỉ chân trên Đèo Lao Dốc không bị mất cắp gì cả.

Nói đến sống theo Lương Tâm, làm theo Lương Tâm không phải ai cũng làm được, kể cả người tu cũng khó mà thực hành. Thế mà Quán Đèo Lao Dốc họ đều sống như vậy. Đức Độ của họ đã cảm hóa không biết bao nhiêu người, có nhiều người bỏ ác làm lành, lánh xa điều dữ. Chí Thiện nhìn những đám mây lơ lửng trên bầu trời liền nhớ đến Vạn Cốc Sơn, nhớ đến người bạn kết giao Đào Hoa không biết bây giờ ra sao.

* * *

Hết Phần 1 xem tiếp Phần 2

* * *
 
PHẦN 2

VẠN CỐC SƠN


Nói về Đào Hoa trở về Trung Châu.

Cha của Đào Hoa là Ông Chậm Tiến tuy có đầu óc thương gia nhưng võ công không cao khó mà làm ăn cạnh tranh những thế lực mạnh hơn, lại ít vốn thường buôn bán giao thương nhỏ kiếm sống qua ngày. Đã đi vào trung lộ thương gia không giàu thời cũng sướng. Ông Chậm tiến có ba người con hai trai một gái. Chị gái lớn tên Cẩm Nhung có chồng là Ông Chủ Sầm Sơn tiêu cục vận chuyển hàng cho các thương gia. Người anh kế chị Cẩm Nhung tên là Vũ Dũng làm cho anh rể là Ông Chủ Sầm Sơn. Nhưng có quen biết Ông Chủ bảo tiêu Chu Thương.

Trong các bảo tiêu Ông Chủ Chu Thương là hùng mạnh nhất, nên được các thương gia mướn vận chuyển hàng hóa những hàng cao cấp, nên kiếm được tiền khá lớn. Nhờ kiếm tiền khá lớn nên Ông Chủ Chu Thương trả lương cho người làm khá cao nhất là những người có võ công cao.

Anh của Đào Hoa là Vũ Dũng đang làm việc cho anh rể là Sầm Sơn, nhưng có quen biết với Ông Chủ Chu Thương biết em mình học thuật tiên đạo nên võ công rất cao, có thể vào Bảo Tiêu Chu Thương với tài năng Đào Hoa thời kiếm tiền rất dễ bằng giới thiệu Đào Hoa cho Ông Chủ Chu Thương.

Ông Chủ Chu Thương nghe nói Đào Hoa theo Vạn Cốc Tiên Ông học đạo thời biết Đào Hoa võ công rất cao bằng thuê với giá đặc biệt, một chuyến bảo tiêu ngắn ngày lên đến chín mười lượng vàng.

Đào Hoa khá đẹp trai nên nhiều cô nàng để ý trong đó có con gái Ông Chủ tên là Chu Ngọc vừa thấy Đào Hoa liền mê tít ngay. Đào Hoa đánh bại nhiều đối thủ cạnh tranh không còn ai dám cạnh tranh với Chu Thương. Những mối làm ăn ngon kiếm được kim ngân rất khá do Chu Thương đảm nhiệm. Chu Ngọc theo tiêu cục bám sát Đào Hoa Ông Chủ Chu Thương không muốn mất người con rể tài ba nầy liền gả Chu Ngọc cho Đào Hoa.

Từ khi lấy Chu Ngọc làm vợ, Đào Hoa hết lòng trợ giúp cho Nhạc Phụ theo nghề bảo tiêu vận chuyển hàng hóa cho nhiều thương gia Chu Thương càng ngày càng làm ăn như diều gặp gió, tiền vô như nước.

Không may Nhạc Phụ lâm bệnh Ông Chu Thương không thể tiếp tục vận chuyển hàng hóa được nữa, bằng kêu vợ chồng Chu Ngọc vào nói. Cha vốn có bệnh về tim gan dùng không biết bao nhiêu là thuốc nhưng không khỏi nay bệnh tái phát càng trầm trọng không thể đảm nhiệm tiêu cục được nữa Cha giao lại cho vợ chồng con điều hành phát triển tiêu cục bảo tiêu.

Thế là Đào Hoa thay thế Cha Vợ mở rộng bảo tiêu có thể nói sau nhiều chuyến vận chuyển an toàn tiêu cục Chu Thương lại càng hùng mạnh, nắm bắt thị trường cung cầu qua nhiều Châu, Bộ. Nên việc lớn mạnh Chu Thương nhanh như thổi.

Ông Chủ Chu Thương vì bệnh quá nặng chỉ mấy tháng sau là qua đời Ông chỉ có một người con gái duy nhất là Chu Ngọc. Chu Ngọc thừa kế cả gia tài đồ sộ Đào Hoa nhờ đó mà làm nên nghiệp lớn. Đào Hoa phát triển tiêu cục bảo tiêu lớn mạnh, mở rộng nhà kho bãi chứa thành thương gia tiêu cục bảo tiêu Hoa- Ngọc. Thương Gia bảo tiêu Hoa- Ngọc, vừa vận chuyển hàng hóa cho các thương gia, vừa tự mình làm thuê cho chính mình qua trung gian cung cầu phân phối. Theo đường lối của Cha Vợ chiêu hiền đãi sĩ nên được nhiều nhân tài theo về làm ăn mỗi ngày mỗi ngày một lớn mạnh, không nói là trùm bá cả Trung Châu.

Trong nhiều tiêu cục có tiêu cục Vạn Hà, tiêu cục Đồng Cố hơi yếu không thể cạnh tranh lại những tiêu cục hùng mạnh, bằng gia nhập Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc.

Con gái Vạn Hà là Hồng Thắm khá xinh đẹp, con gái Đồng Cố là Chân Chân cũng khá xinh đẹp, nhìn thấy Đào Hoa vừa đẹp trai vừa phong độ, vừa tài giỏi mặt nào cũng ưu việt thời mê tít thi nhau bám sát Đào Hoa miệng nói giao dịch làm ăn nhưng thật ra đưa miếng mở sát miệng mèo. Đã có tên là Đào Hoa thời đâu có chịu một bà cũng đưa mắt làm tình hành động tán tỉnh thế là như nam châm càng ngày càng hít mạnh. Chu Ngọc lúc nầy có bầu sắp sanh con thứ hai phản đối la lối nhưng không làm gì được, Đành phải chấp nhận thêm hai bà nhỏ nữa cùng chung một chồng.

Ở Vân Châu có một thương gia giàu có tên là Nhất Gia chuyên buôn bán vàng, bạc, ngọc ngà châu báu. Thuê nhiều tiêu cục vận chuyển vàng, bạc, ngọc ngà châu báu đến kinh đô Văn Lang giao hàng cho thương gia Mạnh Tiến giàu nhất kinh đô Văn Lang.

Nhưng không tiêu cục nào dám nhận, thứ nhất là vận chuyển kim ngân châu báu. Thứ hai là đi qua nhiều đoạn đường nguy hiểm. Như thung lũng tử thần có yêu tinh quỷ dữ, như rừng Hổ Man bọn cướp Hổ Báo. Qua Đèo Lao Dốc ngũ cướp Ác Sát. Thứ ba là đường sá xa xôi gặp phải giang hồ hắc đạo thời khó mà chống trả.

Nhất Gia liền đến Trung Châu tìm gặp Đào Hoa Ông Chủ nổi tiếng lẫy lừng thuê vận chuyển ngọc ngà châu báu đến kinh đô Văn Lang với số kim ngân lên đến cả tấn. Đào Hoa cho đây là thời cơ đã đến chỉ cần một chuyến làm ăn nầy bằng ba bốn năm làm ăn. Ngoài vận chuyển kim ngân châu báu, còn kết hợp vận chuyển hàng hóa trao đổi cung cầu hai chiều giữa Trung Văn Lang và Nam Văn Lang.

Hai bên giao kết xong chờ tháng sau thời đi vào vận chuyển. Để nắm chủ động về cung cầu Nam Văn Lang cũng như thủ đô Văn Lang. Đào Hoa liền thân hành một mình một người vào kinh đô Văn Lang tìm hiểu cũng như giao dịch buôn bán với các thương gia ở kinh đô. Các thương gia kinh đô cũng đã nghe tiếng về Ông Chủ Đào Hoa thế là cuộc trao đổi làm ăn hai chiều đi vào thuận lợi.

Đào Hoa trở về Trung Châu dốc toàn lực lượng nhân lực cũng như mua hàng chở về Nam Văn Lang để bán, với giá cả thỏa thuật cam kết với các thương gia Nam Văn Lang.

Qua tháng sau người ta nhìn thấy trên đường đi đoàn xe gần trăm chiếc trên đường xuôi về nam. Đi trước dẫn đường đoàn xe là chàng trai tuổi trạc độ 30 mươi cùng hai người vợ xinh đẹp đi sát bên, chàng trai nhìn hai người vợ nói biểu ở nhà lo cho con cái lặn lội đường xa chi cho mệt. Người phụ nữ đi bên trái nói chàng yên tâm đi thiếp đã gởi con cho Cha chăm sóc rồi. Người bên phải nói thiếp nhờ ngoại chăm sóc rồi. Người phụ nữ bên phải nói chàng là tay Đào Hoa ở nhà sao được không khéo mấy cô ả nơi kinh đô Văn Lang cột chân mất. Đào Hoa nín thinh giây lát rồi lại nói có thêm vài bà nữa cũng không sao, của dư của để ăn sao hết nói xong thời cười lên ha hả, hai bà vợ nguýt một cái dài tận bên tây, mắt liếc ngang rồi nhìn nghiêng tỏ ý không bằng lòng nói, con mèo nào dòm ngó muốn phỏng tay trên thời biết tay với bà.

Trước mặt xa xa là thung lũng Tử Thần trời cũng đã xế chiều Đào Hoa thầm nghĩ nếu đi bình thường qua khỏi thung lũng Tử Thần mặt trời cũng sắp lặng Đào Hoa ra lệnh cho đoàn xe đi nhanh lên. Không bao lâu thời đoàn xe tới thung lũng tử thần. Nhìn thung lũng Tử Thần xa hàng bảy tám dặm cây cối rậm rạp âm u đến rợn người ít ai dám đi qua đây, phải đi đường vòng rất xa đường đi gập ghềnh quanh co tốn nhiều sức lực đi hơn nửa ngày mới qua khỏi thung lũng Tử Thần. Hồng Thắm và Chân Chân đã từng theo Cha đụng độ nhiều trận chiến ác liệt. Nên Hồng Thắm cùng Chân Chân có khác hơn những cô gái tay yếu chân mềm. Nhưng nhìn qua cảnh thung lũng Tử Thần cảm thấy rùng mình như linh cảm có yêu tinh trong ấy.

Bằng nói với Đào Hoa chàng cho đoàn xe quay trở lại đi theo đường vòng tránh đi những rủi ro không đáng có, thiếp biết chàng võ công tuy cao nhưng đối với yêu tinh thời khó mà chống trả cho được không khéo bỏ mạng nơi thung lũng Tử Thần nầy. Đào Hoa nói sợ thời quay ngựa trở về theo mà chi. Chân Chân nói cứng đi thời đi sợ gì miệng thời nói thế nhưng trong bụng đã khiếp hoảng, Hồng Thắm cũng thế hơi run.

Đoàn xe đi sâu vào thung lũng Tử Thần khí âm u càng rùng rợn có lẽ đi hơn một nửa Tử Thần đến một khúc quanh thời mây đen kéo tới phủ kín, hơi lạnh thấu xương cuồng phong nổi dậy hàng trăm người la hoảng thét lên yêu tinh xuất hiện. Quả đúng là như vậy một con hổ to lớn đứng trên một tảng đá to thổi ra những luồng cuồng phong dữ dội như muốn cuốn phen con người cùng xe bay lên.

Đào Hoa không thể chần chờ được nữa bằng phi thân rời khỏi mình ngựa bay lên không trung trước sự kinh ngạc của hai bà vợ lần đầu tiên nhìn thấy kinh công siêu đẳng như thế. Đào Hoa từ trên không lao xuống chém con Hổ. Con Hổ gầm lên rung chuyển cả núi rừng phóng tới chụp vào Đào Hoa. Thế là Hổ Tinh cùng Đào Hoa đánh nhau cát bay đá chạy cây cối ngã đổ ầm ầm giao tranh hơn nửa giờ bất phân thắng bại. Bỗng nghe Hổ Tinh thét lên đau đớn vì đã trúng một chưởng Đào Hoa liền thi triển tuyệt chiêu với 12 thần công lực chém vào Hổ Tinh chỉ nghe một tiếng nổ rền trời Hổ Tinh trúng liền ba nhát kiếm bỏ mạng, tức thời thung lũng Tử Thần yên tỉnh trở lại. Hạ được Hổ Tinh Đào Hoa lột da, cắt lấy móng vuốt làm của quý. Lấy xương cốt về sau nấu cao hổ cốt, rất tốt cho người luyện võ. Hàng trăm võ sĩ chứng kiến sự tài nghệ của Ông Chủ vô cùng khiếp đảm. Tin đồn lan xa là Ông Chủ Ngọc Hoa giết chết Hổ Tinh còn lột da lấy móng làm cho bọn cướp tránh xa không dám đụng tới. Đoàn xe rời xa thung lũng Tử Thần bảy tám dặm thời mặt trời mới lặng, đi thêm ba bốn dặm nữa thời tới thị trấn Trung Sơn đoàn xe dừng nghỉ tại đây, sáng hôm sau mới lên đường.

Nói về đoàn xe gần trăm chiếc ngày đi đêm nghĩ thường dừng chân nơi thị trấn để ăn uống cũng như nghĩ qua đêm. Ngày lại ngày qua vượt qua rừng Hổ Mang vẫn bình yên vạn sự. Xa xa trước mắt là Đèo Lao Dốc, Đào Hoa hỏi một võ sĩ trước mặt chúng ta có phải là Đèo Lao Dốc không. Tên võ sĩ nói đúng vậy thưa Ông Chủ. Đào Hoa nói nghe nói Đèo Lao Dốc trộm cướp dữ lắm có thiệt như thế không. Hồng Thắm nói đoàn xe ta qua đèo tuy là ban ngày nhưng cũng phải ra lệnh cho các võ sĩ đề phòng bất trắc khi đi qua đèo nầy. Khi đoàn xe gần đến Đèo Lao Dốc thời vô cùng kinh ngạc vì thấy người đi qua lại trên đèo khá đông, đường sá qua đèo hình như phát dọn sạch sẽ không như lời đồn. Đoàn xe lên dốc không tốn sức lực là mấy vì đã thông thương. Đào Hoa cùng hai người vợ đi trước đoàn xe khi lên tới lưng đèo thời không khỏi ngạc nhiên phong cảnh nơi đây đây vô cùng xinh đẹp rất đông người dừng chân trong ngôi nhà tranh rộng rãi thoáng mát.

Đào Hoa ra lệnh cho đoàn xe dừng lại vì đẩy xe lên dốc cũng đã thấm mệt cần nghỉ ngơi ăn uống lấy sức tiếp tục lên đường. Đào Hoa cùng Hồng Thắm, Chân Chân xuống ngựa bước vào quán, ai nấy cũng giương mắt ra nhìn vì nghe các võ sĩ lễ phép khiêm cung gọi ba người trẻ tuổi là Ông Bà Chủ cả một đoàn xe đứng chật cả lưng đèo.

Đào Hoa vô cùng kinh ngạc vì thấy Bà Chủ quán lưng đèo là một người phụ nữ xinh đẹp còn hơn còn hơn Hồng Thắm và Chân Chân, ngồi bên người phụ nữ xinh đẹp là hai em bé một trai một gái, trai khôi ngô tuấn tú, gái xinh đẹp không khác gì mẹ. Thưởng thức mấy ngụm nước trà ăn mấy trái chuối từ thiện. Đào Hoa cảm thấy ngon miệng vô cùng. Đào Hoa nào có biết chủ quán Lưng Đèo là của vợ chồng Chí Thiện người bạn thâm giao cũng là Huynh, Đệ một thầy. Nhưng hôm nay Chí Thiện đi vắng nên Huynh Đệ không gặp nhau. Đoàn xe bảo tiêu dừng chân Quán Lưng Đèo gần tiếng lại tiếp tục lên đường. Đào Hoa không quên lời cảm ơn tiếp đãi nước chuối miễn phí phục vụ từ thiện của Bà Chủ xinh đẹp quán Lưng Đèo.

Chuyến vận chuyển hàng hóa thành công, lại bán trôi chảy hơn chín mươi xe hàng phải nói là chuyến đi hốt ngân lượng Đào Hoa giàu lên như thổi. Lại mua hàng từ Nam Văn Lang chở ra Trung Văn Lang có đi ngang qua Đèo Lao Dốc nhưng về đêm nên không dừng nghĩ. Chí Thiện không biết chủ nhân tiêu cục bảo tiêu là ai mà giàu đến như vậy. Đào Hoa vận chuyển hàng hóa về tới Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc một vốn bốn lời, tức là mua một đồng bán được năm đồng. bỏ ra nghìn lượng vàng kiếm được bốn nghìn lượng vàng. Bảo Tiêu Thương Gia Hoa- Ngọc vàng bạc kim ngân thi nhau mà chảy vào túi, không bao lâu trở thành giàu có nhất Trung Văn Lang. Tuổi trẻ tài cao nhiều cô gái bu theo có lẽ số phận đa thê nên về sau Đào Hoa có đến bảy bà vợ người nào cũng xinh đẹp.

Nói đến Trung Châu thời ai cũng biết Bảo Tiêu, Thương Gia Hoa- Ngọc nổi tiếng giàu có lại nhiều vợ, có tới 15 người con do năm bà vợ sanh ra, còn hai bà tuổi còn trẻ mới nhập gia nên chưa có con.

Ở đời người ta thường nói.

Một vợ thời ở gi.ường lèo

Hai vợ thời nằm chèo queo

Ba vợ ra chuồng heo mà nằm

Đào Hoa ngược lại thường tình

Có vợ càng nhiều sung sướng như vua

Ăn ngon kẻ đấm người xoa

Kẻ hầu người hạ lên mây cuộc đời

Mười năm trôi qua kể từ khi vận chuyển hàng hóa vào Nam Văn Lang Đào Hoa cũng đã hơn bốn mươi tuổi một hôm rảnh rỗi nhớ lại Chí Thiện người bạn thâm giao cũng là người anh cùng học một thầy, cũng như nhớ lại lời dạy Sư Phụ Vạn Cốc Sơn hai con sống theo Lương Tâm làm theo Lương Tâm thời hai con sẽ có tất cả.

Đào Hoa nghĩ mình đã sống theo Lương Tâm là không trộm cướp ra sức làm ăn. Lại giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm người cơm no áo ấm. Đem cái cần đến cho mọi người trang trải cung cầu hàng hóa. Làm cho xã hội phát triển đi lên. Sống đúng Lương Tâm hành sự chánh nghiệp muốn gì được nấy nơi trần gian phải nói là tột đỉnh sung sướng rồi. Đào Hoa lại nghĩ không biết Chí Thiện có được như mình không. Liền nói với bà vợ lớn là muốn đi đến Hồng Châu, nơi Huyện Hồng Ngự một chuyến tìm thăm sư huynh Chí Thiện.

Bà vợ lớn chính là Chu Ngọc xưa nay vẫn trợ giúp chồng điều hành Thương Gia Hoa- Ngọc chỉ huy sáu bà vợ quán xuyến gia môn, nghe đến Thất Nương thời ai cũng ớn, bảy bà hết năm bà là con tiêu cực võ nghệ cao cường không ai dám giỡn mặt đụng vào, không những mất việc làm mà còn toi mạng nữa là khác.

Nơi làng Tân An, xã Tân Bình, Huyện Hồng Ngự có một khách lạ sang trọng từ phương xa đến tìm nhà Chí Thiện. Người Dân cho biết Chí Thiện đã bỏ quê mười mấy năm về trước nghe đâu đến ở Đèo Lao Dốc tu hành thời phải. Đào Hoa liền nhớ lại cách đây hơn mười năm có đi qua Đèo Lao Dốc không lẽ quán Lưng Đèo Lao Dốc là quán của Chí Thiện. Một người anh tài giỏi đâu thua kém gì mình, không thể nào trở thành người tầm thường chỉ biết ăn những đồng tiền hảo tâm người qua đường sinh sống.

Nói về vợ chồng Chí Thiện làm ăn không khá giả gì, chỉ đủ sống nếu có dư dả chút ít thời bồi dưỡng cho người ăn kẻ ở, cuộc sống không cao lương mỹ vị nhưng vô cùng hạnh phúc, trên nói dưới nghe trên thuận dưới hòa lúc nào cũng vui cười thỏa mái, ai nấy nét mặt cũng rạng rỡ, nhà cửa lúc nào cũng sạch sẽ, nhất là nhiều loại hoa khoe sắc tỏa hương khách ra vào nhộn nhịp đông vui quả là chốn thần tiên không khác. Hai người con lớn Chí Thiện một nam một nữ, nam tên là Nhật Quang anh cả, nữ tên là Thu Nguyệt chị kế cũng đã lớn theo thầy đồ học văn, học giỏi nổi tiếng ở thị xã Hồng Châu Với số vàng bạc ngọc ngà châu báu vợ chồng Chí Thiện không phải là nghèo ăn suốt đời chơi không cũng không hết, việc trang trải cho con ăn học thành tài đồng ra đồng vô buôn bán cũng đủ.

Võ thời có Cha Mẹ truyền dạy khi còn nhỏ, qua mười hai tuổi thời theo học thầy Đồ vốn là quan văn triều đình về ở thị xã giỏi văn đệ nhất Hồng Châu. Trung Sơn người con út mới lên năm tuổi ở nhà với cha mẹ tu luyện võ học.

Nói Về Từ Nhân từ ngày nên duyên với Hạnh Cô hai người thương yêu hết mực điều hành gia nhân phục vụ lữ khách. Từ Nhân thường lên rừng cùng Chí Thiện phát hoang trồng chuối, trồng cây thuốc quý cả thuốc Bắc lẫn thuốc Nam mấy mẫu hàng năm kiếm được cũng khá tiền, bán cho thương lái, nên Từ Nhân nuôi hai con ăn học không mấy là khó theo học thầy đồ ở thị trấn Huyện Trạch Khê cách Đèo Lao Dốc chín mười dặm cũng chẳng lấy gì làm xa chỉ cần đi ngựa nửa giờ là tới nên đi đi về về ở gần cha mẹ.

Không hiểu hôm nay là ngày gì Quán Lưng Đèo vắng khách thơi thớt người qua lại, gia nhân rảnh rỗi chăm sóc cây cảnh thời thấy một người trung niên lớn tuổi rất là sang trọng có người nhìn ra Đào Hoa Ông Chủ đoàn xe đã đi qua cách đây hơn mười năm thời vô cùng kinh ngạc, không biết Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu đến đây để làm gì.

Đào Hoa xuống ngựa hỏi hôm nay có Chủ Nhân ở nhà không? Một người nói dạ thưa có, Đào Hoa mừng rỡ theo chân một gia nhân đi vào gian quán. Hạnh Cô cũng nhận ra liền tươi cười nói Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu ghé thăm hay có chuyện gì.

Đào Hoa nói có Chí Thiện ở nhà không? Hạnh Cô nghe xong biến sắc nói thưa Ông Chủ. Ông chủ tìm Chủ Nhân tôi có chuyện gì? Bảo Trâm từ nơi nhà khách cũng nhận ra Ông Chủ Bảo Tiêu năm xưa có ghé qua đây liền ra gian quán mời Đào Hoa vào nhà khách.

Đào Hoa nhìn nhà khách trang trí đơn sơ một cái bàn mấy cái ghế khay trà theo kiểu cách trung lưu dân dã. Bảo Trâm chế nước pha trà mời khách hỏi Ông Chủ tìm Phu Quân tôi có chuyện gì.

Đào Hoa liền đứng dậy chấp tay thi lễ nói xin Tẩu Tẩu thứ tha cho Tiểu Đệ vì không biết Tẩu Tẩu là vợ của Sư Huynh Chí Thiện. Bảo Trâm cùng vợ chồng Hạnh Cô lấy làm kinh ngạc hỏi có phải Ông Chủ tên là Đào Hoa không? Đào Hoa gật đầu chính là Tiểu Đệ, Bảo Trâm nói thì ra Tiểu Đệ là người nổi tiếng giàu nhất Trung Châu. Đào Hoa nói không dám không dám Tẩu Tẩu phá khen. Nghe tiếng vó ngựa quen thuộc từ xa Bảo Trâm nói anh Chí Thiện đã về vì đi mua một số đồ ở thị trấn.

Đào Hoa từ trong nhà khách bước ra đón Chí Thiện hai anh em gặp nhau vui mừng khôn xiết ôm nhau rơi nước mắt. Chí Thiện nắm lấy tay Đào Hoa rồi nói. Đệ đến đây hồi nào sao không thông báo cho Huynh tiếp đón. Đào Hoa nói Tiểu Đệ đã tìm đến quê của Sư Huynh họ mới mách bảo Sư Huynh đến đây để ở. Nếu Đệ biết sớm thời anh em ta gặp nhau cách đây hơn mười năm. Chí Thiện kinh ngạc Đệ có đi qua đây. Bảo Trâm xen vào Đào Hoa Tiểu Đệ chính là Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc giàu nhất Trung Châu cách đây hơn mười năm vận chuyển đoàn xe gần trăm chiếc dừng nghĩ lại đây giây lát rồi xuôi về Nam đến Kinh Đô Văn Lang.

Chí Thiện nghe xong vô cùng kinh ngạc cách đây mười năm mà Hiền Đệ giàu đến mức ấy quả là thiên tài không có ai sánh kịp. Đào Hoa ở lại chơi mấy ngày thấy vợ chồng Chí Thiện sống đơn sơ đạm bạc thời nghĩ rằng, anh Chí Thiện hình như không có ý làm giàu, nên mới sống kiểu nầy. Liền nói rằng nếu nói về tài võ công cũng như học rộng hiểu nhiều Sư Huynh còn giỏi hơn Đệ nhiều. tội gì phải sống khổ như thế nầy.

Tiểu Đệ chỉ là phận em đâu thể xem vào hay chỉ vẻ gì cho Sư Huynh Được. Trước khi Huynh Đệ anh em chúng Ta xuống núi thầy có chỉ dạy con đường tương lai muốn gì được nấy chính là sống theo Lương Tâm hành động theo Lương Tri. Đệ cũng đã thấu hiểu được thâm ý trong câu nói Thầy dạy:

Nên Đệ luôn sống đúng Lương Tâm hành động theo Lương Tri không làm hại người mà thường hay giúp đỡ người bằng chứng hàng trăm người làm việc cho Đệ thường ca tụng Đệ là Ông Chủ ăn ở có nhân có đức, nên ai nấy cũng hết lòng phục vụ cho Thương Gia Bao Tiêu Hoa- Ngọc.

Nhất là bảy bà vợ sống hòa thuận với nhau hiếm thấy trên đời, con cái rất đông đến 15 người con trên dưới có ngăn có nắp đúng là đa thê đa tử đa phú quý khác gì vua. Đệ muốn gì đặng nấy thỏa mãn vô cùng, nghe đến bảy bà vợ Bảo Trâm, Hạnh Cô không khỏi bụm miệng cười.

Chí Thiện nghe xong liền hiểu Đào Hoa muốn nói gì, ý Đào Hoa muốn nói sao không đi con đường như Đào Hoa.

Chí Thiện nghe xong liền khen rằng Đệ thông minh mới khám phá nổi lời dạy cao siêu ấy nên Đệ mới được như ngày hôm nay muốn gì được nấy Huynh khó mà theo kịp. Nói đến Lương Tâm, Lương Tri xưa nay ít người thấu đạt nổi, nếu có hiểu đi chăng nữa thời mỗi người hiểu mỗi khác. Trình độ cao hiểu theo cao, trình độ thấp hiểu theo thấp, bậc giác ngộ hiểu theo cảnh giới giác ngộ, do vì Huynh hiểu theo cách của huynh sống biết đủ thời coi như muốn gì được nấy rồi lúc nào cũng an vui tự tại.

Đào Hoa nghe Chí Thiện giải về theo Lương Tâm hành động theo Lương tri khó hiểu như thế, nhưng cũng khen là Huynh giảng nghe thông suốt.

Đào Hoa nói Đệ ở đây chơi cũng đã được ba ngày công việc của Đệ vô cùng bề bộn. Đệ không thể ở lại lâu hơn Đệ

Xin cáo từ Sư Huynh cùng Tẩu Tẩu cũng như gia nhân ở đây hẹn lại dịp khác anh em Huynh Đệ gặp lại nhau lâu hơn, trước khi từ giả lên đường.

Đào Hoa nói vì đi tìm Sư Huynh nên Đệ không mang theo nhiều vàng chỉ có một ít phần quà nho nhỏ. Đệ biếu cho mấy cháu mua quà xin anh chị nhận cho. Đào Hoa nói xong liền trao túi vải cho Chí Thiện.

Chí Thiện không đành từ chối nhận lấy túi vải rồi đưa cho Bảo Trâm. Bảo Trâm vừa cầm túi vải thời biết ít nhất cũng 20 lượng vàng. Cuộc hội ngộ nào rồi cũng phải chia tay, hai người chia tay trong bịn rịn, nhìn Đào Hoa khuất dần theo những rặng cây như nói theo rằng, đâu thể một kiếp tu thành chính quả nhưng Đệ cũng là người tốt không ai làm khó dễ được Đệ. Bảo Trâm trao túi vải cho Chí Thiện nói trong ấy có hai mươi cây vàng. Chí Thiện bằng đem 20 lượng vàng trợ giúp cho người khốn khổ cầu nguyện lên Cha Trời Mẹ Trời ban phước lành cho Đào Hoa.

Cho đến một hôm Chí Thiện ngồi trầm tư suy nghĩ ôn lại quá khứ mới đây mà đã trải qua ba năm rồi từ khi chia tay với Đào Hoa ở Vạn Cốc Sơn, liền thở dài đời người như bóng câu qua cửa sổ như nước chảy qua cầu mới đó mà đã gần năm mươi tuổi cái tuổi đi lần về xế chiều trần gian chỉ là cõi tạm khác gì ngôi nhà trọ đến rồi đi.

Chí Thiện linh tính như có chuyện gì khác thường thời có hai vị khách vào quán nghỉ chân, một vị khách nói với vị khách kia Ông Chủ Thương Gia Bảo Tiêu Hoa- Ngọc không biết mang chứng bệnh lạ gì đã qua đời, bỏ lại bảy bà vợ cùng 15 người con, chỉ tội cho hai bà vợ sau cùng còn quá trẻ lại chưa có con ở vậy sao được chắc phải đi bước nữa.

Chí Thiện nghe Đào Hoa qua đời thời không khỏi bồi hồi. Một lúc sau thời xây xẩm mặt mày do luồng gió lạ ngang qua, đây là chuyện không bao giờ xảy ra đối với người có võ công cao kinh mạch đã thông suốt như Chí Thiện nắng mưa thời tiết bất xâm, nhất là Tâm Hồn định tỉnh an trụ Chân Tâm. Chí Thiện bất tỉnh giây lát rồi tỉnh lại. Chí Thiện bằng nói với gia đình ta phải đi xuống Thập Điện Điện Diêm Vương gặp Đào Hoa trả lại cái ơn đến thăm gia đình mình cũng như đã biếu cho 20 lượng vàng tình nghĩa Huynh Đệ khó mà bỏ nhau cho được gia đình nghe xong lấy làm kinh hãi không biết lành dữ thế nào.

Tắm rửa sạch sẽ ăn cơm xong Chí Thiện lên gi.ường ngủ thiếp đi Linh Hồn Chí Thiện xuất ra khỏi thể xác bay xuống Âm Phủ. Thập Điện Diêm Vương cho người ra tận cửa đón Chí Thiện vào. Bằng nói Đại Thánh xuống Âm Cung tìm ai? Chí Thiện nói thưa Diêm Vương tôi có người Đệ tên là Đào Hoa học cùng thầy mới mất cách đây mấy ngày có lẽ Linh Hồn đã xuống đây tôi muốn gặp Đệ ấy. Diêm Vương nói trời có Luật Đạo Trời, dương thế có Luật dương thế. Đường sanh tử con người là do Thiên Định, nhưng con người có thể làm giảm tuổi thọ chết trước căn số Thiên Định vì sa vào dục lạc quá lớn.

Diêm Vương nói Hắc Bạch vô thường dẫn Linh Hồn Đào Hoa ra gặp Đại Thánh. Hắc Bạch vô thường đi một lúc dẫn Đào Hoa đến. Đào Hoa nhìn thấy Chí Thiện thời sững sờ nói Huynh cũng chết rồi sao? Chí Thiện nói số Huynh chưa mãn kiếp trần chỉ xuất Hồn xuống đây gặp Đệ mà thôi.

Thập Điện Diêm Vương mời Đào Hoa ngồi rồi nói Chí Thiện. Đào Hoa đây không làm gì nên tội, nhưng nói đến công thời chẳng có công gì đối với trời đất đáng lý ra hưởng thọ đến 70 tuổi mới hết số mãn trần. Thường thường hưởng dục lạc nhiều thời tuổi thọ suy giảm, nên các vị Vua Chúa thường là chỉ ở vào tuổi hưởng dương khó mà đi vào hưởng thọ. Vì nhiều vợ làm suy kiệt sinh khí, ăn nhiều cao lương mỹ vị Âm- Dương không được điều hòa nhất là hai bà vợ trẻ bắt ngày đêm phục vụ cho theo kịp mấy bà lớn Tinh, Khí, Thần, suy kiệt dẫn đến chết sớm chưa được 50 tuổi. Muốn đầu thai chờ cho mãn số Thiên Định mới được đầu thai. Đó là nói những người không đánh mất Lương Tâm vẫn còn Lương Tri. Còn những Linh Hồn hành ác thời sa đọa vào Địa Ngục chịu sự hành hình có khi cả nghìn năm chưa được đầu thai.

Chí Thiện chắp tay nói với Diêm Vương. Diêm Vương có thể cho Đệ tôi biết trước được tương lai tái sanh làm người trần trở lại không? Diêm Vương nói mời hai vị theo Bổn Vương. Diêm Vương dẫn Chí Thiện cùng Đào Hoa đến nghiệt kiến đài.

Diêm Vương chỉ Nghiệt Kiến Đài rồi nói chỉ cần đứng trước nghiệt kiến đài nghĩ về quá khứ thời thấy rõ quá khứ, nghĩ về hiện tại thời thấy rõ hiện tại, nghĩ về tương lai thời thời thấy rõ về tương lai.

Đào Hoa vì muốn biết rõ về tương lai của mình liền bước lên nghiệt kiến đài nghĩ về tương lai. Thời thấy một viễn cảnh xảy ra hết sức kỳ lạ thấy một em bé sanh ra đời bị dị tật nơi tay, lớn lên mang nhiều bệnh tật, bị vợ con xem thường hành hạ, cuộc sống nghèo khổ không đủ ăn, áo quần không đủ mặc, khốn khổ vô cùng. Chí Thiện thấy hoàng cảnh của một kiếp người khốn khổ như vậy liền hỏi người trong nghiệt kiến đài kia là ai? Diêm Vương nói đó là kiếp tới của Đào Hoa.

Đào Hoa liền nghĩ về quá khứ tất cả quá khứ đều hiện ra không sót một chi tiết nào từ khi mới sinh cho đến khi chết đi. Nhất là nhìn thấy cảnh, bảy bà vợ đánh nhau sứt đầu mẻ trán vì tranh của, không ai nhường nhịn ai. Nhưng người con cũng thế con nào mẹ mấy không có anh em gì cả chỉ có kim ngân châu báu vàng bạc tranh giành cơ đồ sự nghiệp là trên hết. Hai bà vợ trẻ đã liếc mắt đưa tình với người đàn ông khác. Đào Hoa ôm mặt khóc ròng, lại thấy cái xác đem chôn đã sình chương hôi thúi giòi tửa sinh ra lúc nhúc thấy mà ghê.

Bằng quỳ lạy Thập Điện Diêm Vương nói tôi làm gì nên tội mà Ông Trời ban cho tôi nhiều thảm họa như vậy, nào tương lai nào quá khứ thấy mà kinh khiếp.

Chí Thiện nói với Diêm Vương. Đệ tôi phạm tội gì mà Thiên Ý chuyển xoay như vậy.

Diêm Vương nói hiện tại Đào Hoa không có tội nên không bị sa đọa vào Địa Ngục bị hành hình, sống tự do nơi cõi Âm Phủ chờ ngày đầu thai. Nhưng cũng không có công gì đối với người. Những người làm công ra sức vì Đào Gia. Đào Gia trả công xứng đứng thời coi như hai bên chẳng nợ gì nhau. Đóng thuế nhà nước, nhà nước bảo vệ sự bình yên làm ăn cũng như cuộc sống, không có công vì dân vì nước, chỉ có công làm giàu cho bản thân. Cũng không có công vì xã hội như xây cầu. làm đường, giúp đỡ người nghèo, phát thuốc miễn phí, giúp người chữa bệnh, bố thí làm lành. Sống có Tâm nhưng hành động chưa phải là làm theo Lương Tâm. Làm theo Lương Tâm là phải sống vì nhân loại. Tình thương yêu rộng lớn. Cống hiến đời mình vì nhân loại không phải vì mình, giúp người không cầu trả ơn. Nói chung là không có công với đời, tái kiếp sanh ra làm người phải chịu nghèo khổ. Thích ăn cao lương mỹ vị tiếp tay cho những người sát sanh, nên kiếp tới mang nhiều bệnh tật. Không có công với Trời, nên không được Trời ban cho phúc lành nên kém sự may mắn trong đường đời thường gặp toàn xui xẻo chịu nhiều sự khốn khổ đau thương. Làm ăn giàu to quên kẻ khuất mặt giúp đở không cúng kiến tạ ơn, hưởng hết phước thời gặt họa không ai che chở cho.

Chỉ có công nuôi thân xác tốn nhiều công phu, như h.am m.uốn nhiều bà thỏa mãn dục lạc, ăn toàn cao lương mỹ vị cho sướng cái miệng, ở nhà cao cửa rộng, gi.ường xịn chiếu êm cho sướng cái thân, nói tóm lại đổ bao công sức chỉ vì thân xác. Nhưng nay thân xác đã đem chôn hôi thối sình chương giòi tửa thi nhau mà xơi nuốt.

Tốn bao công sức cuối cùng chẳng được cái gì, gia đình tan nát, con cái tranh giành, vợ nhiều nên tranh của dữ dội. Sao cho bằng Đại Thánh đây sống không trái ngược lại Lương Tâm. Hành sự theo Lương Tri, tạo nhiều phúc đức cho xã hội, làm từ thiện giúp người mấy mươi năm. Phước Đức hà sa không thể kể hết đi vào Hiển Thánh muốn gì được nấy không ai bằng, muốn lên thiên đàng thời lên. Muốn tái sanh làm vua thời được như ý.

Đào Hoa nghe xong liền ngộ chân lý hiểu rõ lời dạy của Thầy căn số liền thay đổi. Chí Thiện nói khi Đào Hoa còn tại thế có trao cho vợ chồng tôi 20 lượng vàng tôi đã dùng nó giúp đỡ người ghèo, người tàn tật, người lâm trọng bệnh người neo đơn khó khăn, đều hồi công đức về cho Nghĩa Đệ của tôi là Đào Hoa. Đào Hoa nghe xong lấy làm cảm động, Đệ vô cùng biết ơn Huynh, nói xong trên đầu Đào Hoa có hào quang.

Chí Thiện liền nói Đệ nhìn về Nghiệt Kiến Đài nghĩ tưởng về tương lai xem sao, Đào Hoa liền làm theo thời lạ thay, một cảnh giới nhiện ra không giống như trước. Đào Hoa liền thấy một em bé sanh ra khỏe mạnh không khuyết tật, tuy mồ cô cha mẹ, thân lớn lên không bệnh tật, thông minh trí huệ hơn người. gặp người vợ chung thủy đảm đang, cuộc sống không giàu nhưng dư giả đủ ăn. Sống theo lương Tâm hành xử theo Lương tri, không việc lành nào không làm, sanh được bốn người con đều thành đạt. Hưởng thọ 70 tuổi thời về trời. Diêm Vương nói số mạng con người là do con người quyết định, gieo nhân kết quả. Có nghĩa là hể gieo Thiện thời gặt phước báo theo Định Luật của Huyền Cơ. Một mảy lông gieo ra thời cũng phải nhận lấy. Nên có câu lưới Trời lồng lộng mảy lông cũng không lọt.

Chí Thiện nhìn thấy được tương lai của nghĩa Đệ Đào Hoa liền từ biệt Diêm Vương biến mất.

Chí Thiện trở về trần gian nhập hồn vào thể xác mở mắt ngồi dậy cả gia đình đều mừng rỡ. Bảo Trâm lau nước mắt nói tưởng đâu chàng bỏ thiếp đi luôn bảy ngày rồi còn gì.

Chí Thiện vô cùng kinh ngạc đã bảy ngày không ăn uống gì cả. Chí Thiện liền nghe bụng đói cồn cào liền nói còn đồ ăn thức uống gì không đói quá. Chí Thiện quất một bụng no cành thấy trong người vô cùng sảng khoái liền kể chuyện Âm Phủ cho cả nhà nghe. Chí Thiện kể lại tất cả không bỏ sót một chi tiết nào ai nấy cũng kinh hãi đúng là lưới trời lồng lộng mảy lông cũng không loạt. Mỗi việc làm hành động của mình gieo nhân kết quả ở tương lai kiếp tới.

Từ đó quán Lưng Đèo càng làm nhiều việc thiện hơn nữa,

Nhật Quang thi đỗ sau trạng nguyên được bổ nhiệm về làm quan Châu Phủ Hồng Châu. Trung Sơn đổ đậu cao nhưng không làm quan sau nầy trở thành Ông Chủ Quán Lưng Đèo nối nghiệp Cha Mẹ. Chị gái là Thu Nguyệt ưng một thương gia giàu có cũng ở Hồng Châu.

Từ An con trai Hạnh Cô thi đổ Thám Khoa về làm quan Huyện Trạch Khê em gái của Từ An gả cho Tùng Lâm con của võ sư Đại Hãn chủ cơ sở võ đường Bình Mỹ ở gần Nha Môn Huyện Trạch Khê.

Chí Thiện thọ 80 tuổi thời về trời con cháu đầy nhà, nhờ biết tu nhân tích đức. Về sau có câu Dầu Rằng Để Của Bằng Non, Không Bằng Để Đức Cho Con Ở Đời. Khen Ai Ăn Ở Khéo Tu, Mai Sau Con Cháu Võng Dù Nghênh Ngang. Dẫu Rằng Để Của Bằng Non, không Bằng Để Đức Cho Con Ở Đời.
 
64. VAY TRẢ, TRẢ VAY

Ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ 17 Hùng Nghị Vương. Bảo Quang Lang.

Dân chúng không được bình yên có nhiều thứ giặc nổi lên, như giặc đói, giặc cướp, giặc ôn địch, giặc chia bè rẽ phái chống bán lẫn nhau trong triều đình, còn ngoài biên cương giặc xâm lấn biên cương. Giặc mê tín dị đoan, nói chung là nhiều thứ giặc nổi lên làm cho cuộc sống bất an.

Khi ấy nơi Huyện Hạ Long có một gia đình Phú Hộ giàu có nổi tiếng Hà Châu, sinh được bốn người con, một người tên Đại, một người tên Phá, một người tên Gia. Người con gái Út tên là Hạnh Duyên.

Ba người con trai càng lớn càng ăn chơi, không lo học hành gì cả đánh lộn quậy phá, hết người nầy đến máng vốn đến người kia đòi bồi thường cơm thuốc, cuộc sống vốn đầy khốn khó, đã không làm ra của nhưng tiền bạc cứ tuôn ra của đống của kho cũng hết Bà Phú Hộ càng suy nghĩ càng buồn rầu sinh bệnh rồi qua đời.

Ông Phú Hộ vừa nhớ thương vợ vừa buồn cho gia cảnh luôn gặp phải những rắc rối hết tai họa nầy đến tai họa khác do ba người con gây ra đúng như ba tên chúng nó Đại, Phá, Gia, Ông tường nhớ đến câu thơ.

Người ta sinh con để nhờ

Nhiều con có phúc về già cậy nương

Còn mình thời lại thảm thương

Nhiều con thời lại khốn nguy cuộc đời

Lao tâm khổ tứ tháng ngày

Sinh con nghịch tử đứng ngồi không yên

Đôi lúc Ông buồn quá than rằng Bà đi trước bỏ tôi ở lại một mình chịu sự hành hạ của ba thằng nghịch tử. Người con gái út Hạnh Duyên thấy Cha buồn rầu thời lòng đau như cắt ruột, sợ Cha buồn rầu sinh bệnh ra đi như mẹ thời hoang mang sợ hãi.

Còn Cha gót đỏ như son

Mai kia cha mất góc con như chì.

Còn Cha còn Mẹ ăn cơm với cá, mất Cha Mẹ nắm rau nắm lá cũng không có mà ăn, nói gì áo ấm cơm no. Hạnh Duyên ra sức an ủi những lúc Cha buồn, có ngày ba anh sẽ thức tỉnh hiểu rõ công ơn sanh thành dưỡng dục công lao trời biển của Cha của Mẹ, lo làm ăn không còn làm khổ Cha nữa.

Ông Phú Hộ nhìn người con gái thở dài nói, nếu ba đứa nó bằng một nửa như con, thời hay biết mấy. Cha cứ nghĩ ra sức làm ăn giàu có là có hạnh phúc, nhưng ở đời không phải thế hạnh phúc không phải là giàu hay nghèo mà ở lòng người có đạo đức hay không? Nhiều gia đình nghèo khổ nhưng con cái rất có hiếu. Giàu như Cha đây luôn mơ ước. Ước gì được như nhà nghèo con có hiếu nhưng nào có được. Vậy mới biết giàu tiền giàu bạc chưa phải là tất cả có những thứ tiền bạc không bao giờ mua được.

Gia tài giàu có của Ông Phú Hộ dần dần bị ba thằng con trai phá sạch chỉ còn lại một ngôi nhà lớn rộng ba giang khu vườn rộng hơn mẫu. Đâu còn gì nữa để mà bán Ông thường nghe người ta nói Quốc Tổ linh lắm thành tâm cầu nguyện sẽ có linh ứng. Ông liền làm theo lập bàn thờ để thờ Quốc Tổ. Ông khấn rằng tên của con là Gia Bần như nhờ biết cách làm ăn nên trở thành Phú Hộ. Không biết đã phạm vào tội lỗi gì sinh ra ba người con trai nghịch tử như vậy. Con cũng đã đi cầu hết nơi nầy đến nơi khác tốn biết bao tiền của nhưng ba thằng con vốn tánh nào tật nấy chẳng thấy ăn năng quay đầu gì cả.

Và cứ như thế hể nghe nơi nào linh thiên thời con không bao giờ bỏ sót dâng lên nhiều của cải để cúng dường cầu cho ba người con trai tỉnh ngộ, không ăn chơi, bài bạc trai gái đàn đúm, đâm chém chí thú làm ăn. Càng cầu càng mất tiền, càng lạy càng mất bạc ba thằng con tính nào tật nấy chẳng thấy thay đổi gì cả.

Ông Phú Hộ thành tâm ngày nào cũng thắp hương khẩn cầu lên Quốc Tổ ba tháng liền, một hôm Ông đang cầu nguyện thời một cơn gió thổi đến Ông xây xẩm mặt mày không còn biết gì nữa. Trong giấc mơ Ông thấy mình đến một nơi xa lạ đất lưu ly sáng ngời, đường sa lác bằng kim cương châu báu, cung vàng điện ngọc đẹp chưa từng thấy bao giờ. Hào quang trùng trùng tỏa sáng chóa. Ông còn đang say sưa nhìn ngắm, thời thấy một người con gái xinh đẹp vô cùng hiện đến nói với Ông rằng Ông theo tôi.

Phú Hộ đi theo người con gái xinh đẹp không bao lâu thời đến nhiều tòa cung điện nguy nga lộng lẫy kiến trúc cầu kỳ cổ kính đẹp lạ chưa từng thấy bao giờ nhất là chất liệu bằng bảy báu vàng, bạc, trân châu, pha lê, kim cương, xà cừ, hổ phách, người con gái dẫn Phú Hộ vào cung điện đẹp nhất đẹp đến nổi ngoài sức tưởng tượng của Ông. Bước vào tòa cung điện càng xinh đẹp lộng lẫy hơn nữa. Nơi tòa bá bảo kim cương có một thiếu phụ xinh đẹp vô cùng đang ngồi có hai tiên nữ đang hầu.

Ông còn đang sửng sốt, thời nghe tiếng người con gái xinh đẹp dẫn ông đến nói. Trước mặt Ông là Quốc Mẫu Phụng Cơ Nương Nương hiện đang là Vương Mẫu trên cõi trời. Phú Hộ nghe nói đến Quốc Mẫu Nương Nương thời thất kinh quỳ lạy nói con là Gia Bần kính lạy Quốc Mẫu Nương Nương. Vương Mẫu Thiên Đế.

Quốc Mẫu Phụng Cơ Nương Nương nói Ta cai quản các tầng trời dục giới hạ thiên vũ trụ. Non Tiên Cực Lạc Thất Sơn Châu Báu, trong đó có bốn cõi trần gian, mười tám tầng Địa Phủ. Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, Thiên Hà, Ngân Hà Càn Khôn Hạ Thiên Vũ Trụ. Nên Ta biết rõ tất cả những gì xảy ra trong Hạ Thiên Vũ Trụ.

Ta thấy Ông cầu lên Quốc Tổ Chí Tôn Thiên Đế Đương Kim Vũ Trụ, ở cõi Long Vân Trung Thiên Giới. Ta thay mặt Quốc Tổ đưa Ông đến đây giải rõ những việc Ông đang cầu.

Phú Hộ quỳ lạy nói; cúi xin Vương Mẫu cứu ba người con của Con để chúng ăn năng thức tỉnh, không còn sa đọa vào con đường ăn chơi, bài bạc, quậy phá, đánh lộn, cũng như sự bất hiếu. Phụng Cơ Vương Mẫu nói mọi sự ở đời không phải tự nhiên mà có. Đều do căn cơ theo Luật Nhân Quả gieo ra thời phải gặt lấy, theo luật Vay Trả, Trả Vay xoay vần không hay không biết cứ thế oan oan tương báo, nợ nợ đáo đầu, sự vay trả nặng nhất chính là luân hồi tái sanh trở thành Cha, Con, với nhau, khi ông gieo quẻ đặt tên cho con. Huyền Cơ Thiên Ý đã khiến Ông đặt tên cho ba người con là Đại, Phá, Gia. Nhưng Ông không hề hay biết với ba cái tên do Ông đặc ra nầy.

Vương Mẫu Nương Nương nói xong liền phát tay một cái tức thời một cái gương lớn hiện ra. Vương Mẫu nói Ông hãy tập trung tinh thần mà nhìn vào gương ấy hồi tưởng về quá khứ. Phú Hộ nhìn vào cái gương hồi tưởng về quá khứ thời thấy một cảnh giới hiện ra. Phú Hộ nhìn thấy có mình trong đó khi lên mười sáu tuổi kết nghĩa cùng ba người con trai thân nhau như ruột thịt. Một hôm nghe đồn bọn cướp bị quan triều đình truy sát bỏ mạng. Trước khi bị truy sát bọn cướp có chôn một số vàng, bạc châu báu một nơi bí mật.

Thế là bốn người cùng nhau đi tìm, khi tìm được nơi vàng, bạc, châu báu bọn cướp cất giấu, nhìn số vàng, bạc châu báu quá nhiều. Lòng tham của Gia Bần nổi lên giết ba người bạn độc chiếm vàng, bạc, châu báu, tưởng đâu là Trời không hay Quỷ Thần không biết. Chỉ mình mình biết, mình không nói ra thời ai mà biết.

Nào ngờ ba người bạn chết oan Linh Hồn luôn bám sát có cơ hội là trả thù. Gia Bần nhờ độc chiếm số vàng, bạc ngọc ngà châu báu đổi đời trở thành giàu có. Sợ quê xóm xầm xì nghi ngờ sự giàu có ở đâu ra bằng đến xứ khác mua ruộng đất trở nên giàu có thành Phú Hộ.

Lúc nào cũng có cả trăm người làm công cho mình. Vì giàu có cưới được một người con gái xinh đẹp sinh ra được bốn người con. Ba người con trai càng lớn càng sa đọa vào con đường ăn chơi, cờ bạc hút xách tiêu pha không biết bao nhiêu là tiền của. Bởi sự ám ảnh của ba người bạn do mình giết chết, Phú Hộ nghe chỗ nào linh thiên đều đến đó để cúng hầu giải đi kiếp nạn, cũng như trấn ếm vì Ông nghĩ ba linh hồn chết oan theo phá ba đứa con nhà ông.

Ông tập trung nhìn vào ba người con thời ôi thôi đó là ba người bạn mình đã giết. Ông kinh hãi thì ra là thế thảo nào ba người bạn đầu thai làm con của Ông phá nát gia nghiêp của Ông, dù Ông có thương đến đâu chúng nó vẫn cứ bất hiếu, dù biết Ông đang đau khổ vô cùng chúng nó cũng không quan tâm gì đến.

Chúng đã làm cho người mẹ thương tâm buồn rầu mà chết, gia đình tan nát chúng vẫn tỉnh bơ Ông đã rõ tất cả ác lai ác báo gieo gì gặt nấy không có thần linh nào cứu nổi. Khi duyên nghiệp đã hết thời nó tự tan biến chẳng còn. Ông nhìn thấy rõ ba người con của Ông là Đại, Phá, Gia không còn gì để đòi nữa khi Ông bán vườn nhà còn lại trả nợ cho chúng nó thời chúng nói cũng ra đi.

Ông nhìn sang người con gái út tên là Hạnh Duyên năm đó trời lụt to Dân làng vớt xác một người con gái Ông liền bỏ tiền ra an táng, cũng vì việc làm thiện nầy Dân Chúng ca ngợi Ông là người nhân từ. Người con gái bị chết oan muốn trả ơn Phú Hộ liền đầu thai làm con của Ông. Ứng vào Thiên Cơ Ông đặt tên con là Hạnh Duyên. Hạnh Duyên càng lớn càng có hiếu thương yêu Cha Mẹ hết mực.

Ông Phú Hộ tên thật Gia Bần, Ông đã rõ tất cả Nhân Quả báo ứng luân hồi Vay Trả, Trả Vay. Luật Trời công minh mảy lông cũng không lọt.

Ông quỳ lạy rồi nói con muốn cải hối làm lành muốn siêu sanh về cực lạc. Vương Mẫu liền phát tay một cái tức thời Năm Non Bảy Núi Châu Báu hiện ra Gia Bần thấy cảnh giới Non Tiên Cực Lạc xinh đẹp vô cùng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đông vô số vô biên, lầu đài cung điện, kỳ quan bảo tháp trùng trùng khắp nơi. Ông Quỳ Lạy rồi thưa. Thưa Vương Mẫu tu như thế nào được siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc.

Vương Mẫu liền phất tay một cái thấy vô số người có lòng yêu nước thương dân không quên Cội Nguồn, làm sáng lòng Trung, Hiếu, Nhân, nghĩa. Tưởng nhớ đến Cha Trời Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Âu Cơ làm lành lánh dữ thời liền siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Vương Mẫu thấy Gia Bần thấy rõ những gì Ông muốn biết, liền nói với Kim Tiên con đưa Ông ta trở về trần gian. Kim Tiên nói Ông theo tôi Gia Bần lạy tạ Vương Mẫu rồi đi theo Kim Tiên vừa ra khỏi Vương Cung Kim Tiên nói Ông có nhìn thấy một cái hố kia không. Ông vừa nhìn thấy thời Kim Tiên đẩy Ông xuống đó Ông thét lên kinh hoàng giật mình tỉnh dậy. Thời nghe tiếng khóc của Hạnh Duyên cha ơi cha mau tỉnh dậy cha đừng bỏ con ở lại một mình cha ơi là cha tiếng khóc của hạnh duyên vô cùng thê thảm. Ông vô cùng cảm động nói con mới thật là con của cha. Ông ngồi dậy nắm lấy tay con gái nói. Cha nay đã hiểu đã là con dù trai hay gái quý nhất là ở tấm lòng.

Ba người con trai thấy Ông tỉnh dậy liền nói tưởng Cha đã theo Mẹ rồi chớ chúng con cũng đang lo tính toán giờ thời khỏi lo rồi. Ông không lấy đó làm buồn nói từ nay chúng con muốn gì thời Cha cũng chìu theo các con. Ba người con nói Cha nói thiệt không Cha. Ông nói dù cho bán hết cả gia tài sự nghiệp Cha cũng không từ chối. Ba người con nghe xong rơi nước mắt chúng con làm khổ Cha quá. Nhưng chúng con đã nợ quá lớn nếu không trả chúng sẽ giết chết mất.

Ồng Gia Bần liền bán hết tài sản chia năm phần mỗi người mỗi phần, ba người con trai nói chúng con làm khổ cha quá chúng con đã biết lỗi. Chúng con trả cho bọn chúng còn dư để làm vốn sống, từ nay chúng con sẽ không làm khổ Cha nữa, chúng con sẽ từ bỏ con đường sa đọa làm lại từ đầu chí thú làm ăn. Ông chỉ nhìn ba người con không nói một lời

Chỉ nói rằng các con lớn rồi tùy các con quyết định.

Ba đứa con nhận vàng, bạc xong, Ông nói nơi đây không còn là gia đình mình nữa thuộc về của người khác với số vốn cũng nhiều các con tự định liệu cuộc sống. Mấy hôm sau chủ gia mới đến ở. Ông liền dẫn theo người con gái trở về quê hương nơi mà Ông đã bỏ ra đi. Nhìn khu vườn cây cối um tùm ông ra sức cùng người con gái phát dọn đi vào cuộc sống mới. Bà con lối xóm chạy tới hỏi thăm Gia Bần bỏ quê hương đi đến xứ nào mà lâu quá vậy. Chắc làm ăn khấm khá lắm mới trở về quê Cha đất Tổ. Với số vàng bạc châu báu cũng khá Ông dựng lên ngôi nhà thờ khang trang sạch đẹp cùng người con gái phụng thờ nhang khói Ông Bà Cha Mẹ. Ông không quên lập bàn thờ thờ Quốc Tổ, hàng đêm thường niệm Cha Trời Mẹ Trời Lạc Long Quân cùng Âu Cơ. Ông cùng con gái thường giúp đỡ những gia đình khốn khó. Nhờ biết chút ít về thuốc nam Ông cùng con gái chữa trị miễn phí cho người sống theo lòng hảo tâm người ta cho gì nhận nấy.

Ông trở về quê sống hơn một năm thời nghe ba người con của Ông đã bị bọn giang hồ giết chết. Ông nghe xong thở dài không còn muốn dính dáng đến nữa. Nợ trần đã dứt từ khi Ông biết rõ ba người con của Ông là những oan gia mà Ông đã gây ra. Ông liền kể lại cho con gái Ông nghe những chuyện về quá khứ. Chính lòng tham đã đưa con người vào vòng tội lỗi.

Ông gả Hạnh Duyên cho một chàng trai mồ côi nghèo khổ nhưng có tấm lòng lương thiện hơn người. Vợ Chồng Hạnh Duyên sống chung với Ông những ngày tháng thật hạnh phúc.

Ông qua đời ở tuổi 70 Linh Hồn siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Con gái Ông Hạnh Duyên theo bước người Cha làm lành lánh dữ chuyên tâm làm từ thiện. Khi mãn số trần gian Linh Hồn Cô siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc theo Cha.

Khi chưa mãn kiếp trần Cô thường ngâm bài thơ.

Trần gian cõi tạm, nhớ ai ơi

Ghé đến rồi đi, chốn trần đời

Chỉ có thiên đàng, nơi vĩnh cửu

Non Tiên Cực Lạc hưởng vui chơi

Đâu như trần thế, nhiều sự khổ

Oan trái xoay vần, khổ chơi vơi

Chi bằng hành thiện, siêu giải thoát

Hồn về Thiên Giới, Hồn thảnh thơi

* * *

Hết Quyển 2, xem tiếp Quyển 3
 
QUYỂN 3

65. DƯƠNG GIAN, ÂM CẢNH

Ở vào thời Hạ Hùng Vương đời thứ 18. Hùng Duệ Vương, Huệ Lang. Cũng là đời cuối niên đại Hùng Vương trước công nguyên 258.

Ở Làng Hiệp Giao, Xã Nghĩa Thuận, Phong Châu. Có một gia đình ăn ở hiền đức sinh được Cô con gái tên là Sương Sương, khi Cô lên 14 tuổi không may Cha Mẹ qua đời Cô trở thành mồ côi.

Sương Sương nhớ Cha Mẹ vô cùng ngày nào Cô cũng thắp hương cho Cha Mẹ. Vì Cha Mẹ Cô thường nói chết chỉ là trả lại xác trần còn Linh Hồn thời không bao giờ mất đi hoặc siêu sanh về trời, hoặc sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, hoặc ở lại cõi nhân gian ngày thời ở dưới mồ tối thời sanh hoạt như người Dương Thế. Nhưng ở đời ít ai thấy được người Âm Cảnh.

Bỗng một hôm Cô thấy trong người khác lạ hình như khỏe khoắn hơn trước, trời vừa chạng vạng ánh hoàng hôn đi vào lịm tắt. Cô nhìn ra ngoài đường thấy người đi rất đông, nói chuyện vui vẻ Cô không biết họ là ai từ đâu tới vì những người đi ngoài đường toàn là những người xa lạ không phải người trong làng.

Trong số người đi một người nói hôm nay chúng ta đi chợ hơi sớm không biết giờ nầy chợ đông chưa, người kia nói chạng vạng rồi sớm gì nữa. Cô nghe những người đi đường nói thế thời kinh ngạc ở quê mình đâu có chỗ nào nhóm chợ về đêm, hay là những người đi đường kia họ đến chợ đêm nơi huyện khác, Cô miên man suy nghĩ.

Bóng đêm dần dần buông xuống, bao trùm lấy non sông, theo người khác thời không thấy gì cả, nhưng đối với Sương Sương thời Cô nhìn ban đêm cũng như ban ngày Cô thấy người đi ngoài đường càng lúc càng đông. Cô thầm nghĩ người ở đâu đi ngang qua đây đông như vậy. Cô chạy ra ngõ nhìn họ không thấy ai là người quen, Cô chờ cho tóp người đi qua Cô liền đi theo sau họ.

Bỗng một người đi phía trước nói Cô là người Dương Gian Cô đi theo Hồn Ma Âm Cảnh để làm gì. Về nhà đi Cô không nên đi theo chúng tôi. Sương Sương nghe xong kinh hãi thì ra những người đi đường là những Hồn Ma, Cô liền quay trở lại thời thấy một bà lão vừa đi tới. Sương Sương hỏi thưa bà lão những người đi phía trước có phải là toàn Hồn Ma không? Bà lão nói đúng vậy những người đi trên đường toàn là Hồn Ma chính Ta cũng vậy, không phải người Dương Gian đâu.

Sương Sương nghe Bà Lão nói như thế một lần nữa lấy làm kinh hãi, liền nói thưa Bà Lão Hồn Ma sao lại hoạt động như người sống vậy? cũng biết làm ăn buôn bán nhóm họp chợ búa mua sắm như người còn sống. Bà Lão nói Dương Gian, Âm Cảnh đồng nhất lý. Lối sống không khác gì nhau. Người Dương gian sanh hoạt ban ngày. Còn Hồn Ma sanh hoạt ban đêm. Sương Sương nghe Bà Lão nói càng thêm kinh dị nhớ lại lời Cha Mẹ nói quả không sai, liền hỏi thưa Bà Lão những hồn Ma ấy từ đâu đến đây vậy. Bà Lão nói những Hồn Ma đi trên đường cũng như Lão đây đều ở địa phận Vĩnh Thuận nầy rải rác nhiều khu xóm chính là những khu nhiều gò mả.

Như Lão đây ở khu gò mả Đồng Khê bảy trăm năm, còn những Linh Hồn kia ở khu xóm gò mả khác ít nhất cũng vài trăm năm trở lên. Sương Sương nghe Bà Lão nói thế tưởng mình nghe lầm hỏi lại Bà Lão ở gò Đồng Khê bảy trăm năm. Bà Lão nói bảy trăm năm mà lâu gì có những Linh Hồn sống ở Đồng khê hơn nghìn năm, có Linh Hồn ở khu xóm mả như Gò Xày hơn hai nghìn năm.

Sương Sương lại một phen kinh hãi nữa, liền hỏi Bà Lão Linh Hồn Bà Lão sống ở Địa Phận Vĩnh Thuận lâu như vậy. Bà có biết Cha Mẹ Cháu vừa mới mất cách đây hơn một năm người Cha tên là Ông Hợi, người Mẹ tên là Bà Dậu Bà có gặp Cha Mẹ cháu không?

Bà Lão nói Ta không gặp nghe đâu hai Linh Hồn Ông Hợi, Bà Dậu khi còn sống nơi Dương Trần thường tu nhân tích đức hành thiện nên đã siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc khi vừa mãn kiếp trần.

Sương Sương nghe Bà Lão nói như thế lấy làm mừng vì biết Cha Mẹ đã siêu sanh về Non Tiên Cực Lạc. Bà Lão hình như không muốn nói chuyện nhiều với Sương Sương liền bỏ đi. Sương Sương nhìn theo ngơ ngác Cô không trở vào nhà mà đi tìm người quen trong những Hồn Ma đi đường nhất là Chú Tị quán thịt chó vừa mới qua đời được ba ngày.

Cô liền ra gò nơi chôn Chú Tị đi được một đỗi xa thời gặp bầy trẻ nhỏ đang chơi Sương Sương hỏi các em ở khu mồ nào đến đây chơi vậy? Các em nhỏ đang chơi kinh ngạc nói chúng em ở nhiều khu xóm tập hợp đến đây chơi, có em nói Cô là người Dương Gian mà nhìn thấy được chúng em lạ quá? Sương Sương nói Cô nhìn thấy các em như nhìn thấy người Dương gian, bọn trẻ nghe Sương Sương nói càng thêm kinh dị.

Sương Sương nói cách đây không xa có một ngôi mồ mới các em có gặp người ấy không? Một em khác nói Cô muốn tìm hỏi ai? Sương Sương nói Cô tìm Chú Tị, Một em nhỏ nói Cô muốn hỏi ai thời hỏi người nầy em nhỏ chỉ một em bé khác. Quá đỗi kinh ngạc cũng chỉ là một em bé. Sương Sương hỏi em bé bao nhiêu tuổi, em bé nhìn Sương Sương rồi nói em nay đã hơn năm trăm tuổi lại thêm một phen kinh ngạc như không tin ở lỗ tai mình bằng hỏi lại em bé đã hơn năm trăm tuổi rồi sao? Em bé trả lời đúng vậy em đã hơn năm trăm tuổi, em rời khỏi dương gian khi ấy mới bảy tuổi xuống nơi âm cảnh đã hơn năm trăm năm.

Sương Sương lại lấy làm kinh dị hỏi xuống âm cảnh hơn năm trăm năm rồi mà vẫn còn là em bé sao? Hồn ma em bé tên Thu nói dù cho đến một nghìn năm nữa thời em vẫn là em bé mà thôi. Như sực nhớ bé Thu hỏi Cô muốn tìm ai nơi âm cảnh nầy. Sương Sương nói Cô muốn tìm người quen Chú Tị mới chết hơn bảy bữa chôn ở gò Tràm.

Bé Thu nghe xong mỉm cười nói chị tìm người ấy không có ở đây đâu nghe nói linh hồn ông ấy sa đọa xuống các tầng Địa Phủ, có người nói đã chuyển kiếp đầu thai làm kiếp chó thời phải. Hình như những linh hồn ở cõi âm cảnh không muốn nói chuyện lâu với người dương gian, nên lũ trẻ đã bỏ đi. Sương Sương định quay trở lại nhà thời thấy một người cụt chân khập khiễng cà thọt đi tới, Sương Sương liền bước tới chào hỏi, chào chú đã là linh hồn sao lại còn tàn tật như vậy?

Người ấy nói khi còn ở dương gian chú giao tranh với bọn cướp, chú bị bọn cướp chém đứt một chân. Nên đã tàn phế mất một cái chân, bì bị thương quá nặng không bao lâu thời chú qua đời rời bỏ dương gian trở về Âm Cảnh, khi còn sống nơi cõi trần gian sao thời khi chết trở về Âm Cảnh linh hồn cũng y như vậy cũng khập khiễng cà thọt như hồi còn sống chốn nhân gian.

Dù trải qua hàng nghìn năm nữa linh hồn chú cũng không thay đổi vẫn y như vầy mất một cái chân. Chỉ khi nào được đầu thai làm người trở lại thời mới hết. Sương Sương nói chú sống ở cõi Âm Cảnh lâu như vậy chú có quen biết người nào mới chết ở làng nầy không?

Hồn Ma tàn tật liền nói chú có biết một người nghèo khổ mới chết hơn tháng ở Xã Nghĩa Thận cùng xã với cô, hiện ông ta đang ở chỗ Thần Bổn Xứ cô muốn hỏi gì thời đến đó mà hỏi hồn ma chỉ đường cho Sương Sương tìm đến cây sanh đại thụ to lớn nói xong hồn ma hình như có có vẻ sợ hãi vội vã bỏ đi.

Sương Sương tìm đến cây đại thụ té ra nơi đây Sương Sương hồi còn nhỏ thường theo cha mẹ đến đây chơi cô nhìn cây sanh đại thụ to lớn. Cô đang trầm tư suy nghĩ thời nhìn thấy một người rất quen không ai xa lạ chính là Ông Hợi, Ông thường làm chủ cúng tế đình làng khi còn sống ở dương gian Ông Ba Hợi rất thương Sương Sương, vì Cha Mẹ cô là người rất hiền lành thường cúng thí cho đình làng.

Vừa nhìn thấy sương Sương Ông Ba Hợi la lên con đến đây làm gì con về đi thôi, đi đêm không tốt cho con đâu. Sương Sương nói Ông Dẫn con đến gặp Thần Bổn xứ được không? Ông Hợi nghe xong suy nghĩ một hồi rồi nói con theo ta. Ông dẫn Sương Sương đến cây sanh đại thụ, thời kỳ lạ thay từ nơi cây sanh đại thụ hiện ra một ngôi am miếu lộng lẫy trang nghiêm có quân canh lính gác. Ông Ba Hợi nói con bước vào đi. Sương Sương bước vào ngôi am miếu thấy một vị quan oai vệ Sương Sương lễ lạy nói Ngài là Thần Bổn Xứ, vị quan oai vệ gật đầu rồi hỏi cô tìm quan có việc gì?

Sương Sương thưa rằng: Thưa Thần Bổn Xứ linh hồn của Cha Mẹ con hiện nay đang ở đâu quan chỉ dạy cho con rõ.

Thần Bổn Xứ nói linh hồn của Cha Mẹ con đã siêu sanh về non Tiên Cực Lạc. Những linh hồn đang chờ chuyển kiếp đầu thai làm người, là những linh hồn đã gặp cô như bầy trẻ nhỏ, người khập khiễng cà thọt, riêng linh hồn Ông Ba Hợi sẽ tái sanh trở lại dương gian làm người giàu sang hưởng phúc.

Sương Sương hỏi thưa Quan con chưa rõ dương gian là sao, âm cảnh là sao, âm phủ địa ngục ở đâu, thiên đàng trần gian là gì cúi xin Quan Thần chỉ dạy cho con rõ.

Quan Thần Bổn Xứ giảng giải:

Nơi trần gian ở địa cầu nầy có hai cảnh giới sống người dương gian kẻ âm cảnh.

Có nghĩa là người dương gian có xác thân do Cha Mẹ sanh ra hoạt động sanh sống ban ngày, về đêm thời ngủ nghỉ. Còn người Âm Cảnh là những linh hồn khi đã mãn kiếp trần nơi trần thế bỏ lại xác thân do Cha Mẹ sanh ra. Linh Hồn sanh sống nơi Âm Cảnh ban ngày thời ở nơi mồ mả, hoặc hang động, dưới bóng cây cao nói chung là những nơi không có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Hoạt động sanh sống ban đêm bắt đầu từ lúc chạng vạng và an nghỉ khi lúc rạng đông ánh mặt trời đã lên.

Ở dương gian làng xã là nơi quê quán,

Ở âm cảnh làng xã là nơi quê bổn

Sống ở dương gian chỉ là nơi cõi tạm

Sống ở âm cảnh cũng vậy mà thôi đều là cõi tạm

Sống ở dương gian hết số chết đi bỏ lại xác thân

Sống ở âm cảnh chuyển theo nghiệp ác thiện đầu thai chuyển kiếp.

Linh Hồn ở âm cảnh, người ở dương gian làm ác đều bị sa đọa xuống các tầng địa phủ, nói chung là 18 tầng địa phủ, mỗi tầng địa phủ có vô số địa ngục hành hình các tội nhân.

Những Linh Hồn nơi âm cảnh là khi sống nơi dương gian có chút căn lành nên không bị sa đọa xuống các tầng địa phủ ở lại nơi địa cầu chốn nhân gian nếu biết hành thiện không phạm thiên luật thời mau đầu thai làm người trở lại, nếu có công truyền Thiên Ý lời dạy Cha Trời liền được siêu sanh về non tiên cực lạc, nếu có công lớn thời được siêu sanh lên các tầng trời, mỗi tầng trời có vô số cõi nước trời sống tự tại vĩnh hằng an vui hạnh phúc.

Trên quả địa cầu nầy quyền lực cao nhất chính là nhà nước Tâm Linh Văn Lang. Thừa hành di chí của Trời cai quản Linh Hồn Âm Cảnh khắp địa cầu. Những Linh Hồn phạm tội sẽ bị bắt giam, nhất là bị giam vào hỏa ngục trong lòng đất. Hoặc giam dưới lòng núi băng khi nào tiêu tội thời mới được thả ra. Nếu sanh tâm hành ác liền bị thiên luật vũ trụ xoay chuyển sa đọa xuống các tầng địa phủ.

Ở dương gian tu một ngày bằng ở trên trời tu một năm. Ở âm cảnh tu một tháng.

Sương Sương nghe xong quỳ lạy rồi ra khỏi am miếu trở về nhà. Cầu lên Cha Trời quyền năng, con nguyện truyền lời Trời dạy, lời cầu nguyện vừa xong sương sương như thiếp đi trong giấc ngủ, khi tỉnh dậy thời mặt trời đã lên cao. Sương sương từ đó không còn nhìn thấy cảnh giới Âm Cảnh nữa trở thành người bình thường quyết chí tu hành làm bao việc thiện, nhất là truyền lời Thiên Ý cầu về trời. Và đúng vậy Sương Sương gặp được người chồng tốt sanh được ba người con, lớn lên đều làm quan, khi mãn trần Linh Hồn Sương Sương liền được siêu sanh về thiên giới cõi trời cao hơn cảnh giới Non Tiên Cực Lạc hưởng hạnh phúc an vui tự tại.
 
66. QUỐC GIÁO, QUỐC ĐẠO

Trong khóa học đặc biệt có nhiều vị Tôn Sư giảng về Truyền Thống Anh Linh Dựng Nước Giữ Nước Văn Hóa Cội Nguồn. Trong đó Tôn Sư Hạnh Thông giảng về Quốc Giáo, Quốc Đạo.

Tôn Sư Hạnh Thông nói: Thưa bổn đạo Hội Viên, Thành Viên, Đạo Viên, hôm nay là khóa học đặc biệt dành riêng những gì thắc mắc những gì Hội Viên, Thành Viên, Đạo Viên hỏi Thầy sẽ cố gắng trả lời theo những gì Thầy biết.

Khi ấy có một người Hội Viên nổi tiếng tên là Văn Chủng đứng lên chắp tay hướng về đức Tôn Sư Hạnh Thông thưa hỏi rằng.

Thưa Đức Tôn Sư: Sao gọi là Quốc Đạo, Quốc Giáo chánh thống. Nếu lấy Thiên Chúa, Phật Giáo, Khổng Giáo làm Quốc Giáo Quốc Đạo, có được gọi là Quốc Đạo Quốc Giáo chánh thống không?

Đức Tôn Sư Hạnh Thông trả lời rằng; Quốc Giáo Quốc Đạo chánh thống phải là lời dạy Quốc Tổ về Đạo đi đôi với truyền thống anh linh dựng nước giữ nước. Còn nếu lấy Phật Giáo, Thiên Chúa, Khổng Giáo, không phải là lời dạy Quốc Tổ cũng như không dính dáng gì đến Truyền Thống Anh Linh Dựng Nước Giữ Nước Dân Tộc Việt Nam thời không gọi là Quốc Giáo, Quốc Đạo chánh thống được.

Còn như ai đó lấy Thiên Chúa, Phật Giáo, Khổng Giáo làm Quốc Đạo, Quốc Giáo. Bắt Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng cúi đầu quỳ lạy. Là những người phản bội lại Cội Nguồn chà đạp lên Anh Linh Quốc Tổ. Những người ấy không xứng đáng để cho con cháu Tiên Rồng tôn vinh ca ngợi. Cũng như không xứng đáng kế thừa di chí Quốc Tổ lãnh đạo đất nước. Mà xem như kẻ lạc Nguồn lạc Cội.

Phật Giáo sanh ra trên đất nước Ấn Độ, Thiên Chúa sanh ra từ Do Thái. Khổng Giáo sanh ra từ Trung Quốc. Không phải phát nguồn từ đất nước Việt Nam. Dù cho phát nguồn từ đất nước Việt Nam nhưng không phải lời dạy Quốc Tổ không liên quan gì đến truyền thống anh linh dựng nước giữ nước, thời không thể gọi là Quốc Giáo Quốc Đạo được. Mà chỉ gọi là Tôn Giáo, Đạo Giáo hội nhập mà thôi.

Vì thế Chính quyền cho phép hoạt động thời hoạt động, không cho phép hoạt động, là không được hoạt động. Vì đất nước Việt Nam không phải là đất nước của các Tôn Giáo, Đạo Giáo. Nên các Tôn Giáo, Đạo Giáo không có quyền định đoạt vận mệnh đất nước Việt Nam cũng như Dân Tộc Việt Nam. Mà chỉ có nền Quốc Giáo, Quốc Đạo Chính Thống Việt Nam mới có Quyền dẫn dắt Dân Tộc Việt Nam cũng như bảo vệ và giữ gìn Non Sông Tổ Quốc đất nước Việt Nam.

Huống chi Phật Giáo, Thiên Chúa, Khổng Giáo không phải ra đời trên đất nước Việt Nam.

Ở vào thời mạc pháp do Văn Hóa Cội Nguồn thất truyền nên những vị vua nào đó tôn thờ Phật Giáo, Đạo Giáo, Tôn Giáo, thời Đạo Giáo, Tôn Giáo đó chỉ thịnh hành theo xu thế giai đoạn lịch sử nhất thời không thể gọi là Quốc Giáo, Quốc Đạo chánh thống muôn năm được.

Ngay cả Phật Giáo sanh ra trên đất nước Ấn Độ cũng không trở thành Quốc Đạo Quốc Giáo được. Huống chi trên đất nước Việt Nam không phải là nơi Phật Giáo ra đời.

Tóm lại: Các Đạo Giáo, Tôn Giáo khó mà trở thành Quốc Đạo, Quốc Giáo Chính Thống Đại Việt, vì không phải do ông Quốc Tổ truyền lại.

Các Tôn Giáo, Đạo Giáo Họ không tôn thờ Quốc Tổ thời lấy đâu ra Quốc Đạo Quốc Giáo Chính Thống. Họ chỉ là những Tôn Giáo Đạo Giáo du nhập qua ở nhờ ở đậu trên đất nước Việt Nam mà thôi.

Những chính quyền chân chính tiếp nối Ông Cha Tôn Thờ Quốc Tổ bảo vệ và giữ gìn đất nước. Với Chính Quyền Chân Chính như vậy. Có quyền cho các Tôn Giáo, Đạo Giáo hoạt động, đúng theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Việt Nam cho phép. Hoặc không cho hoạt động khi những Tôn Giáo, Đạo Giáo đi ngược lại Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc. Có thể cấm hẳn truyền giáo trái phép trên đất nước Ông Cha của họ. Đúng theo Thiên Luật Vũ Trụ, cũng chính là Thiên Ý của Đức Cha Trời.

Chẳng hạn như Dân Tộc Việt Nam có ông Quốc Tổ rõ ràng đã có hơn năm nghìn năm Văn Hiến. Con cháu Việt Nam đã đi vào Quốc Tổ, Quốc Giỗ, Quốc Lễ, nay có Văn Hóa Cội Nguồn chính là Quốc Giáo nhà nhà tôn thờ Quốc Tổ đi vào Quốc Đạo.

Như vậy Quốc Giáo, Quốc Đạo, Quốc Tổ, Quốc Giỗ. Quốc Lễ chính là Đại Đạo Vũ Trụ, trên trái địa cầu nầy duy nhất chỉ có trên Dân Tộc Việt Nam đất nước Việt Nam có một không hai trên thế giới.

Có thể nói chỉ có Việt Nam mới có Quốc Giáo, Quốc Đạo, Chính Thống đi vào bất diệt muôn năm. Việt Nam Quốc Tổ, Việt Nam Quốc Giỗ, Việt Nam Quốc Lễ, Việt Nam Quốc Giáo, Việt Nam Quốc Đạo. Không riêng cho cá nhân nào mà cho cả Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng.

Tất cả Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng đều là Hội Viên, Thành Viên, Đạo Viên, của nền Quốc Giáo Quốc Đạo Việt Nam.

Chỉ trường hợp những người bỏ Cội bỏ Nguồn không tôn thờ Quốc Tổ, tuy họ được sanh ra trên đất nước Việt Nam, nhưng họ không phải là người Việt Nam vì họ đã chối bỏ Cội Nguồn của họ. Người Họ tôn thờ không phải là người dựng nước, không liên quan gì đến Nguồn Cội của Dân Tộc Việt Nam.

Nước Việt Nam tuy nhỏ, nhưng lại đứng đầu cả năm châu về nền Quốc Giáo, Quốc Đạo, Quốc Tổ, Quốc Giỗ, Quốc Lễ. Đây là niềm tự hào của Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng chúng ta. Cả hội trường im lặng lắng nghe Đức Tôn Sư Hạnh Thông giảng về Quốc Giáo, Quốc Đạo Chính Thống làm sống lại tinh thần Dân Tộc bừng bừng đơm hoa kết quả giác ngộ.

Thì ra Quốc Giáo, Quốc Đạo chánh thống là như vậy.
 
67. BÁT CƠM CHAN CÁT

Ở vào thời niên đại Hùng Vương đến thời Hùng Quí Lân lên ngôi Quốc Vương trị vì thiên hạ đời thứ hai sau Quốc Tổ. Bách Việt Văn Lang dân giàu nước mạnh thái bình an lạc âu ca, ngủ không đóng cửa, không người ăn trộm vắng bóng ăn cướp. Tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Dân Tộc công bằng bình đẳng văn minh tự do mưu cầu hạnh phúc.

Khi ấy ở Thôn Lạc Thượng, Huyện Trung Điền Tây Châu, có một gia đình giàu nhưng phải nổi sanh thằng con bất hiếu phải nói là nghịch tử tên là Cơm. Quan niệm người Bách Việt Văn Lang trên đời không gì quý bằng cơm, hạt cơm nuôi sống mạng con người giàu mà không có gạo cơm thời giàu ấy coi như bỏ, đúng thế vàng đâu thể ăn được khi chết đói đến nơi, bạc dù chất cao như núi nhưng thiếu cơm gạo thời cũng đi đời, khi lúc đói xảy ra thời mới thấy vàng bạc, không bằng cơm.

Cha của Cơm là Ông Bát, Ông Bát thương yêu con hơn sanh mạng của mình, những món nào ngon Ông thường nhường lại cho Cơm. Ông chỉ ăn cọng rau cứng còn cọng rau non Ông để lại cho Cơm. Ông nhường cho Cơm ngủ trên chiếc gi.ường cao sang còn Ông nằm trên chiếc gi.ường tre cũ kỹ. Ông sợ Cơm cực khổ nên những công việc khó nhọc Ông đều tự mình làm tất cả.

Cơm cả ngày ăn chơi không lại không biết thương Cha thường cho Ông là người dại khờ nhiều khi nặng lời với Ông, Ông không lấy đó làm giận vì nghĩ con mình còn nhỏ nên chưa nhìn ra tấm lòng của Ông thương con hết mực cái gì cũng để cho nó hơn mình hi sinh đời Bố củng cố đời con, mong sau nầy con hơn cha là nhà có phúc. Sự hi sinh của Ông càng ngày càng đi vào tuyệt vọng vì Cơm càng lớn càng coi Ông không ra gì.

Ông thường than rằng Bát thời rất tốt, nhưng Cơm chan cát không còn hi vọng gì nữa, nghĩ mình càng ngày càng già càng yếu, bé cậy Cha già cậy Con. Nhưng Cơm đã pha cát không thể nào nhờ vào Cơm ấy được nữa. Ông càng nghĩ càng thêm tuyệt vọng. Nhưng đã là con bỏ nó thời đau đớn nát lòng còn bám theo nó thời chỉ có khổ tiền mất tật mang không nhờ cậy được vào đâu, vì nỗi buồn gặm nhấm Ông trở nên mau già như ngọn đèn trước gió không biết tắt lúc nào.

Cho đến một hôm Ông biết mình sắp mất liền kêu Cơm đến nói Cha sắp đi xa sợ con đói bát cơm đấy con ăn đi.

Cơm nhìn bát cơm có trộn với cát tức thời sừng sộ nói, Cha càng ngày càng già nên điên mất tới nỗi bát cơm phải trộn cát thế nầy thời làm sao ăn được thương con cái kiểu gì vậy.

Cơm liền bưng bát cơm lên đổ đi rồi ném luôn cái bát còn nói tiếc thật phải chi cơm không trộn cát thời hay biết mấy.

Ông liền nói đó là không phải bát cơm trộn cát mà là bát cơm chan cát đấy con.

Ông nói Cha là Bát chỉ có mình con là Cơm nhưng Cơm của Cha đã chang cát. Tánh bất hiếu của con khác gì là cát Cha không nuốt nỗi những lời phỉ báng của con biết rằng Cha rất quý con và yêu thương con nhưng tánh bất hiếu của con như cát nếu đổ đi thời thấy tiếc còn không đổ đi thời Cha không còn chỗ để nương thân vào con được.

Sự buồn phiền của Cha mỗi ngày mỗi trần trọng dẫn đến lâm trọng bệnh sắp ra đi xa người con Cha yêu quý. Bát thời tốt nhưng Cơm thời pha cát.

Chính bản thân con còn không chấp nhận cơm chang cát, huống chi là Cha cũng giống như tánh của con mà thôi.

Nhưng Cha khác hơn con là không đành đổ nó đi mà ngày ngày nhìn cơm chay cát nước mắt tuôn rơi. Nay con không những đổ cơm chay cát vì dùng không được. Còn ném luôn cái Bát bể nát tan tành, thời còn Bát đâu nữa mà đựng Cơm. Cha còn ở lại nơi đây nữa để làm gì đi đến một nơi rất xa từ biệt con, Ông nói xong thời từ biệt cõi trần.

Cơm như chợt hiểu ra vô cùng hối hận nhưng đâu còn kịp nữa mọi việc đã trễ rồi vì cái bát mình đã đập bể rồi và người Cha cũng đã ra đi.

Cơm lượm những mảnh vỡ của cái Bát cầm trên tay mà cảm thấy lòng đau đớn. Nhất là cảm thấy bơ vơ trơ trọi một mình. Ngày nào Cơm cũng lượm những mảnh vỡ cái cái Bát rồi nhìn sững thốt lên bát cơm chan cát, bát cơm chan cát. Cơm nhìn những hạt cơm dính cát mà lòng nghẹn ngào Cha làm sao nuốt nổi những hạt cơm như thế, những hạt cơm tuy quý nhưng không còn giá trị ăn vào không được bỏ đi thời tiếc. Thế mà người Cha vẫn chịu đựng theo năm tháng già đi trước tuổi vì chịu đựng quá mức sanh bệnh rồi lìa bỏ cõi trần, để lại người con bất hiếu bơ vơ. Người con chỉ biết ăn chơi không làm nên trò trống gì cả.

Càng nghĩ Cơm càng hối hận đau khổ hết tháng nầy sang tháng khác Cơm kiệt sức qua đời hóa ra con chim Cát đi tìm người Cha khắp núi rừng non sông biển cả với những tiếng kêu thảm thiết trong cảnh tuyệt vọng cô đơn cả ngày lẫn đêm. Bát Cơm chan Cát, Bát Cơm chan Cát, Bát Cơm chan Cát, lang thang hết nơi nầy đến nơi khác.
 
68. NGƯỜI CON GÁI THÔNG MINH

Ở vào thời cuối Thượng Hùng Vương, đến thời Hùng Dịch Lang đời thứ 23.

Ở xã Cao Sơn, Huyện Sơn La có cặp vợ chồng thương gia làm ăn giàu có gia đình Ông Nhạ, sinh được một cô con gái xinh đẹp, không những xinh đẹp lại rất thông minh cô tên là Cẩm Nhung. Vì sự thông minh của cô nên cha cô thường dẫn cô đi theo để cô bày mưu tính kế giúp cha. Ông Nhạ rất tự hào về cô con gái nầy mà trời đã cho Ông.

Một hôm cô theo cha chuyển hàng đến Hải Châu trong lúc trao đổi buôn bán hàng hóa, cô vô tình quen biết một khách hàng có tài hóa trang thuật dịch dung phải nói không ai sánh nổi. Cô liền nói với Cha cô ở lại Hải Châu theo học thuật hóa trang cha cô vì không muốn đứa con yêu quý ở lại một mình, ông ở lại Hải Châu chờ cho cô con gái học xong mới trở về Cao Sơn.

Do trí thông minh khác người thiên phú của cô chỉ trong vòng một tháng là cô học sạch nghề của bà chủ. Bà chủ vô cùng kinh ngạc trước sự thông minh học một biết mười Cẩm Nhung không ai sánh kịp.

Cẩm Nhung học xong nghề hóa trang lấy làm khoan khoái, như có phép thần thông cô biến ra nhiều người mỗi người mỗi vẻ khác nhau. Ông Nhạ nhiều lúc không nhìn ra con mình khi Cẩm Nhung đã hóa trang.

Cùng lúc ấy có một gia đình nghèo nhưng nổi tiếng là tốt bụng, ai cần gì cũng giúp có lẽ vì ăn ở có đức nên vợ chồng Phúc Lương sinh được một cậu con trai khôi ngô tuấn tú tên là Phúc An lớn lên càng chất phát thật thà, nhà Ông Phúc Lương cách nhà Ông Nhạ không xa nên ngày nào Phúc An cũng đi ngang qua nhà Cẩm Nhung. Mỗi lần nhìn thấy Cẩm Nhung thời tim Phúc An rung lên dữ dội chính Phúc An cũng không hiểu vì sao vậy nữa. Phúc An thường ngẩn ngơ khi nhìn thấy Cẩm Nhung thầm nghĩ người sao mà đẹp lạ lùng nết na khôn khéo ai bì được đâu. Ước gì mình lọt mắt xanh coi như được cả mùa xuân đất trời.

Vợ chồng Phúc Lương biết con mình phải lòng Cẩm Nhung nhưng với làm sao tới nổi vì nhà Cẩm Nhung là thương gia giàu có nổi tiếng ở Cao Sơn. Cẩm Nhung tài sắc vẹn toàn được coi như là báu vật gia đình Ông Nhạ.

Phúc Lương nhìn con lắc đầu thở dài con mơ nhầm chỗ rồi thời gian cứ thế trôi qua Phúc An càng lớn càng khôi ngô tuấn tú học đâu nhớ đó nhất là có sức mạnh hơn người tìm năng bản thân là rất lớn như viên ngọc quý trong bùn, nếu gặp được duyên may Phúc An sẽ trở thành nhân tài hiếm thấy.

Nói về Cẩm Nhung có con mắt tinh đời từ lâu đã phải lòng Phúc An nhưng giai cấp giàu nghèo quá xa khó mà thành đôi thành cặp được chỉ biết chờ đấng cao xanh Ông Trời xe duyên mà thôi.

Dương quang đã lặn về tây, ông mặt trời đi ngủ màn đêm buông phủ khắp non sông, ánh trăng ngà đã lên cao lơ lửng trên nền trời, những ngọn núi xa xa như đang mang nỗi u buồn của lớp sương mờ bao phủ.

Xã Cao Sơn như lần chìm trong giấc ngủ cảnh vật im lìm, bỗng hàng loạt tiếng chó sủa trong đêm phá tan đi sự lắng yên, thay vào đó là những tiếng binh khí chạm nhau đinh tai nhức óc đến rợn người, chuyện gì xảy ra thế những tiếng quát kèm theo tiếng người ngã gục cướp cướp. Cả xóm không ai là không kinh hãi trong đó có nhà Ông Bà Phúc Lương. Nhất là Phúc An càng kinh hãi hơn nữa không hiểu số mạng gia đình Ông Nhạ ra sao.

Mới sáng sớm dân xã Cao Sơn kéo đến nhà Ông Nhạ chứng kiến cảnh gia đình Ông Nhạ kẻ ăn người ở hơn hai mươi người bị tàn sát chỉ còn sống sót một con ở xấu xí ngơ ngơ ngác ngác như kẻ tâm thần. Ông Nhạ cùng người ăn kẻ ở chết trong tư thế tay vẫn cầm kiếm chống trả lại bọn cướp, chúng đã lấy đi tất cả những gì châu báu của Ông Nhạ. Chúng còn lục soát không bỏ chỗ nào hình như đang tìm kiếm một vật chi đó. Không biết là chúng đã kiếm ra chưa.

Phúc An lòng đau như cắt lục lạo tìm kiếm thân xác Cẩm Nhung nhưng nào có thấy nghi là bọn cướp đã bắt đi rồi, bọn chúng là ai gia đình Ông Nhạ có thù hằn gì đến bọn chúng mà chúng kéo đến tàn sát như vậy.

Nghe tiếng quân binh rầm rộ kéo đến Phúc An biết là quân binh của huyện Sơn La đã đến. Quan Huyện khám nghiệm hiện trường thu thập tin tức từ nhân dân, cũng như truy tìm thủ phạm của bọn sát thủ từ đâu đến. Qua một ngày nỗ lực Quan Huyện cho quân binh thu thập tin tức manh mối lần lần hé lộ bọn chúng không phải là bọn cướp mà là giang hồ Thất Sát Ác Ma, thường xuất hiện ở miền tây bắc khét tiếng hung ác võ nghệ cao cướng quan binh khó mà truy quét được chúng.

Nhiều câu hỏi được đặc ra Ông Nhạ có liên quan gì đến bọn chúng oán thù hay còn bí mật chuyện gì khác bí mật vẫn nằm trong bí mật, không ai cho câu trả lời xác đáng, vì người nhà Ông Nhạ chẳng còn ai ngoài con ở xấu xí khờ khờ khạo khạo, hỏi gì cũng lắc đầu không biết.

Gia đình Phúc Lương chỉ biết gia đình Ông Nhạ đến Cao Sơn hơn mười năm nay, không ai rõ Ông Nhạ ở quê hương nào đến. Gia đình Phúc Lương mến mộ sự tài giỏi của Ông Nhạ, Phúc Lương nhớ rất rõ Ông Nhạ đến Cao Sơn chỉ có hai cha con với đôi bàn tay trắng thế mà Ông đã trở thành thương gia giàu có kẻ ăn người ở có hơn hai mươi người, nhưng ở đời họa vô đơn chí, phước bất trùng lai mọi chuyện đã thay đổi kiếp nạn đã xảy ra không khỏi thở dài, thế gian vô thường quả không sai họa phúc không biết đâu mà nói, với bản tánh lương thiện thường hay giúp người gia đình Phúc Lương cùng bà con trong làng chôn cất những người xấu số tử tế.

Nhất là Phúc An hết lòng tận tụy dọn dẹp nhà cửa lập bàn thờ để thờ coi gia đình Ông Nhạ cũng như gia đình của mình cô con ở xấu xí thấy Phúc An tận tình như thế không cầm được giọt nước mắt nói anh tốt với gia đình Ông Chủ tôi quá. Phúc An nói không biết Cẩm Nhung bây giờ ra sao còn sống hay đã bị chúng giết tôi sẽ trả thù cho gia đình Cẩm Nhung dù cho bọn chúng là ai.

Cô con gái xấu xí nắm lấy tay Phúc An trong lòng vô cùng xúc động anh nói thiệt chứ, Phúc An gật đầu.

Kể từ đó cô con gái xấu xí thường qua lại nhà Phúc Lương cô coi Ông Bà Phúc Lương như cha mẹ ruột của mình, Ông Bà Phúc Lương thương cô như con ruột khi biết cô bà con với Ông Nhạ kêu Ông Nhạ bằng cậu ruột.

Nói về cô con gái xấu xí tên là Hầu Nhi công, dung, ngôn, hạnh, ít người sánh kịp, bà con trong làng ai cũng cảm mến nhất là Ông Bà Phúc Lương phải lòng người con gái xấu xí nầy vì không có điểm nào để chê được, chỉ là hơi xấu mà thôi.

Cho đến một hôm Phúc An qua nhà Ông Nhạ để thắp nén hương vô tình nhìn thấy cô con gái xấu xí Hầu Nhi thân pháp nhanh nhẹn kiếm pháp hoa cả mắt Phúc An đứng ngây người ra để nhìn tưởng là mình đang trong mơ.

Hầu Nhi dừng kiếm nở nụ cười tươi nói anh thấy em múa kiếm đẹp không. Phúc An nói không chỉ đẹp mà còn ảo diệu vô cùng không khác gì một cao thủ võ lâm.

Nói thiệt với anh An Cậu Nhạ nhà em chính là một đại cao thủ võ lâm một trong thất Ma khét tiếng giang hồ, Phúc An nghe xong tưởng là mình nghe lầm bằng hỏi lại Ông Nhạ là đại cao thủ võ lâm. Hầu Nhi gật đầu, cậu em đã bị bọn chúng đầu độc qua một tay buôn trước khi chúng đến, vì bị đầu độc lại có một mình mới bị chúng hạ sát nhanh chóng hầu cướp đi một bản đồ vô giá mà cậu em đã vô tình tìm thấy được. Phú An nghe xong như chợt hiểu thì ra là thế. Hầu Nhi nhìn Phúc An rồi nói hơn năm nay em ra sức tập luyện võ công có cơ hội là em trã thù cho cậu cũng như những sinh mạng đã chết dưới tay bọn chúng, nhất định chúng sẽ trở lại không lâu.

Phúc An nói em truyền thụ võ công cho anh, anh cùng em trả thù cho gia đình bác Nhạ. Hầu Nhi nghe xong lấy làm cảm động, cảm ơn anh Phúc An. Không phải là em không truyền thụ võ công cho anh, vì võ công của em quá kém cỏi thời làm thế nào truyền thụ võ công cho anh trở thành cao thủ được. Sáu tên Ma đầu ấy võ công kinh khiếp không nói là không có đối thủ chỉ cần một tên đệ nhất Ma quân binh huyện Sơn La cũng chẳng làm chi được huống là sáu tên đại ác Ma. Nhưng không phải là không có cách đánh bại sáu tên ác Ma đó.

Phúc An nghe xong lấy làm mừng cách nào muội muội chỉ cho huynh đi. Hầu Nhi bỗng nổi lên tia hy vọng đôi mắt Hầu Nhi bỗng trở nên sáng quắc Phúc An nhìn thấy không khỏi kinh hãi.

Hầu Nhi nói anh theo em vào đây, hầu nhi dẫn Phúc An vào một căn phòng lộng lẫy hương thơm ngào ngạo chính là phòng của Cẩm Nhung khi xưa. Hầu Nhi lấy ra một chiếc hộp mở ra trong đó có một tấm bản đồ nói đây là tấm bản đồ tìm đến kho báu. Cậu em đã tìm kiếm ra kho báu cách đây hơn ba năm chờ cơ hội cũng như chị Cẩm Nhung học võ công thành tài thời cùng cha khám phá khó báu sau đó đi đến một nơi khác để ở tránh tai mắt của bọn hắc, bạch giang hồ. Không ngờ sự thể xảy ra kết cuộc thật là bi thảm như huynh đã thấy.

Hầu Nhi nói kho báu cách đây khá xa hơn trăm dặm về hướng tây có nghĩa là đi về hướng tây hơn trăm dặm đến dãy núi cao, nơi ấy có một thung lũng rộng lớn. khi ấy mới dở bản đồ ra mà tìm kiếm kho báu. Hầu Nhi đưa bản đồ cho Phúc An em trao cái nầy cho anh tùy anh làm gì thời làm, cũng vì tấm bản đồ nầy mà cậu em mất mạng, bọn Ma, Quỷ đánh hơi giỏi lắm, chuyện kho báu bản đồ phải nói là tuyệt mật không nói cho ai nghe. Chỉ nói cho một mình em biết thôi. Thế mà bọn ác Ma cũng đánh hơi được.

Phúc An nhận lấy tâm da bản đồ rồi đi đến một quyết định anh phải ra đi tìm kho báu một thời gian không biết là bao lâu. Hầu Nhi nhìn Phúc An tràn đầy tia hy vọng.

Nói về Phúc An trở về nhà hối thúc cha mẹ làm mấy chiếc bánh mang theo ăn trên đường. Ông Bà Phúc Lương hỏi gì Phúc An cũng không nói chỉ nói là đi một chuyến xa có việc. Ông Bà Phúc Lương có hỏi Hầu Nhi, Hầu Nhi nói có lẽ anh Phúc An đi học nghề gì đó tìm tương lai cho mình Ông Bà Phúc Lương nói nó cũng đã lớn rồi đi tìm tương lai cho mình là phải.

Từ mờ sáng tinh sương trên con đường ngoằn ngoèo người ta nhìn thấy một đôi son trẻ trai thời vai mang búa, tay cầm rựa. gái thời xấu xí tay xách đồ ăn hai người nắm tay nhau như không muốn rời nhau từng bước đi chậm chạp Hầu Nhi nói anh hết sức thận trọng em ở nhà chăm lo hai bác em trông anh trở lại từng ngày từng giờ trả được mối thù cũng như tìm kiếm chị Cẩm Nhung. Nghe nói đến Cẩm Nhung đôi mắt Phúc An vụt sáng lên, lòng quyết tâm tìm ra kho báu, dù tiễn chân xa mấy rồi cũng chia tay Hầu Nhi nhìn theo bóng dáng người thanh niên đầy dũng cảm xa dần rồi mất hút.

Hai năm trôi qua kể từ ngày Phúc An ra đi, người con gái xấu xí tên là Hầu Nhi trở về là Cẩm Nhung làm con gái Ông Nhạ ai nấy cũng lấy làm kinh ngạc nhưng hiểu ra cô con gái Ông Nhạ Cẩm Nhung biết thuật hóa trang mới thoát chết trong cuộc tàn sát hơn bốn năm về trước, nổi tiếng là người con gái xinh đẹp thông minh, cô tiếp tục sự nghiệp buôn bán kinh doanh theo con đường của cha, nên nhà cửa cô lúc nào cũng có kẻ mua bán bán tấp nậy. Ông Phúc Lương trở thành quản gia cho Cẩm Nhung. Cẩm nhung coi Ông Bà Phúc Lương như cha mẹ ruột của mình Cẩm Nhung làm ăn mỗi ngày một giàu tiếng tăm lừng lẫy.

Nói về bọn làm ăn thương trường có công tử thương gia Đồ Sơn tên là Trục Lợi không những háo sắc mà còn là nham hiểm, cạnh tranh làm ăn với Cẩm Nhung nhưng cạnh tranh không lại, nhiều lúc muốn h.ãm hại Cẩm Nhung, nhưng thấy Cẩm Nhung quá xinh đẹp nên chưa hạ sát. Có lẽ không còn nhịn được nữa chúng chờ cho chuyến hàng Cẩm Nhung đi qua địa bàn vắng vẻ Trục Lợi liền cho người ra tay trên mười xe chở hàng đang đi, bỗng từ trong khu rừng mấy mươi tên bịt mặt xuất hiện bao vây chận đoàn xe lại.

Tên bịt mặt cầm đầu quát kêu cô chủ các ngươi ra đây cho ta hỏi chuyện. Cẩm Nhung từ trên xe bước xuống hỏi các người là người nơi nào định cướp hàng của ta hả. Tên cầm đầu lăm le thanh đao nói không những cướp hàng mà con thưởng thức cành hoa xinh đẹp Cẩm Nhung nghe xong không nói không rằng chỉ cười lạnh lùng. Tên cầm đầu ra lệnh bắt lấy cô ả cho ta tức thời hai tên bịt mặt lao tới ra tay bắt Cẩm Nhung. Tả hữu Cẩm Nhung có hai vệ sĩ nữ võ công cao cường chận đánh với hai tên bịt mặt, thế là cuộc giao tranh xảy ra bên Cẩm Nhung bị thương hết mấy người.

Cẩm Nhung không thể chần chừ được nữa liền thét lên một tiếng với thân pháp như quỷ ma Cẩm Nhung hạ gục liền mười mấy tên, bọn người bị mặt kinh hồn bạt vía tên cầm đầu bịt mặt thất sắc la lớn ảo ma thất sát. Cẩm Nhung thét lớn Ta chính là con của Thất Sát Ác Ma một trong đại Ma đầu lừng danh khét tiếng, tên cầm đầu sợ quá đái ra quần quỳ lạy xin tiểu thơ tha mạng. Cẩm Nhung phất tay một cái điểm huyệt tên cầm đầu lột khen che mặt rồi nói thật không ngờ một thương gia nổi tiếng Đồ Sơn lại đi cướp của giết người đáng lý ra ta sẽ giết sạch các người trừ đi hậu họa cho dân. Nhưng vì nước có phép nước ta giao các ngươi lên quan huyện vậy, và bồi thường thiệt hại những gì ngươi gây tổn thất cho ta.

Từ đó Cẩm Nhung nổi tiếng như cồn không có thế lực cạnh tranh nào dám động đến cô nữa.

Nói về Phúc An ngày đi đêm nghỉ, không bao lâu vượt qua hơn trăm dặm nhìn thấy trước mắt là những dãy núi cao Phúc An vượt suối trèo non đi hơn nửa ngày nữa đến dãy núi cao nhất nơi đây núi non trùng điệp có những hố sâu không thấy đáy bỗng nghe tiếng hổ gầm dữ dội một con hổ lớn xuất hiện từ xa tiến lần đến chỗ Phúc An, Phúc An vô cùng kinh hãi một tay nắm chặt cái rựa, một tay nắm chặt cán búa thủ thế đi xà lui không may lọt xuống hố sâu không thấy đáy.

Đến khi tỉnh dậy thấy mình mẩy đau nhức vô cùng dây leo chằng chịt, nhìn lên miệng hố thấy sâu hun hút, nhìn xuống vẫn không thấy đáy Phúc An vô cùng kinh hãi đời mình có lẽ kết thúc nơi đây vì mình mẩy nhúc nhích không được bị chấn thương thời phải, trong lúc tuyệt vọng Phúc An nghe mùi thơm thoang thoảng cách Phúc An không xa chỉ cần dơ tay ra là tới quả linh chi ngàn năm đã chín duyên kỳ ngộ hi hữu trên đời, trong đại họa thường sanh ra gặp đại phúc. Phúc an liền hái quả linh đưa lên miệng để ăn kỳ lạ thay quả linh chi liền tan biến thành nước thơm ngát trôi luôn xuống bụng, một luồng sinh khí kỳ lạ từ đan điền cuồn cuộn bốc lên làm nóng rang cả người, nóng quá chịu không nổi Phúc An lại thiếp đi lần nữa đến khi tỉnh dậy Phúc An thấy trong mình nhẹ bổng khoan khoái đến lạ thường Phúc an liền hiểu rõ sự diệu dụng của quả linh chi.

Điều kỳ lạ ở đây không những Phúc An thấy mình không hề bị tổn thương nào cả hai con mắt nhìn thấy tới đáy của hố sâu chỉ còn vài chục sải tay là tới đáy. Phúc An nghĩ số mình bỏ mạng ở nơi đây mới gặp cảnh nầy như chợt nhớ đến tấm bản đồ xem xong Phúc An vô cùng kinh ngạc, vì nhận ra cảnh giới trong bản đồ khi bước chân đến đây, cửa vào u minh tuyệt cốc chính là hố sâu thăm thẳm nầy quả là bí mật vô cùng bí mật, không ai có thể ngờ tới.

Tánh tò mò muốn tìm hiểu về u linh tuyệt cốc với sự thèm khát của giới giang hồ tranh giành chém giết lẫn nhau cũng vì tấm bản đồ nầy, có lẽ nơi u linh tuyệt cốc có nhiều báu vật quý hiếm trên đời. Với tánh thông minh trời cho cũng như căn cốt nội thân trời phú hơn người. Nếu luyện võ thời mau thành tài ít người sánh kịp. Phúc An đi đến một quyết định là khám phá u linh tuyệt cốc. bằng rút những sợi dây chằng chịt người thường không thể nào làm nổi. Nhưng nhờ ăn được quả linh chi ngàn năm sức mạnh tăng lên gấp chín mười lần, với đôi bàn tay không Phúc An bức những sợi dây nối lại với nhau thả xuống hố sâu rồi tuột xuống.

Khi chạm chân xuống đáy u linh tuyệt cốc Phúc An không khỏi kinh ngạc vì dưới đáy u linh tuyệt cốc một khoản không gian rộng lớn có rất nhiều hang động kỳ bí vô cùng hình như có bàn tay con người làm nên những sự kỳ bí đó.

Phúc An nhìn thấy cái rựa cũng như cái búa của mình đã rơi xuống đáy cốc. Phúc An vô cùng mừng rỡ nhặt lấy tâm thần định tỉnh vì đã có vũ khí trong tay. Phúc An lúc bây giờ lỗ tai rất thính nghe tiếng phì phèo cách đó không xa một con mãng xà to lớn lao nhanh ra tấn công nuốt chửng Phú An. Phú An nhờ căn cốt bản thân sức mạnh hơn người lại may mắn ăn được quả linh chi nghìn năm, một cú chém phải lên đến vài tạ, có thể hạ gục một con voi to lớn. Phúc An chém ngay một rựa vào đầu con mãng xà, đầu con mãng xà không hề hấn gì Phúc An vô cùng kinh hãi con mãng xà lao nhanh đớp Phú An một cái chí tử cơ may Phúc An né tránh kịp thời không thì toi mạng rồi, cuộc chiến mỗi lúc một thêm gay cấn, con mãng xà nhanh nhẹn khôn tả với đao kiếm thường khó mà hạ gục mãng xà được. Lớp da con mãng xà thật kỳ lạ búa rựa chém không đứt. Chỉ còn một chỗ là chưa chém trúng đó là dưới cổ họng con mãng xà, Phúc An thấy con mãng xà rất sợ chém trúng chỗ đó nó luôn né tránh che đậy thật khéo léo. Thì ra con mãng xà nầy tu luyện hàng nghìn năm sắp trở thành yêu tinh quỷ dữ, nếu gặp người nào khác thời con mãng xà nầy nuốt vào bụng rồi.

Phúc An là người rất thông minh, vừa đánh vừa dụng mưu kế lừa đòn đánh đông lại chém đằng tây, con mãng xà bất ngờ trúng ngay một búa vào yếu huyệt huyết hầu giãy dụa rồi chết, biết linh xà nầy tu luyện lâu năm có ngọc Phúc An liền mổ bụng khi con mãng xà còn sống lấy được viên ngọc mãng xà Phúc An nuốt ngay vào bụng sau nầy trở thành bách độc bất xâm. Thần lực lại tăng lên gấp bội.

Phúc An diệt xong con xà tinh, nuốt được kim đơn cảm thấy trong người nhẹ như bay. Phúc An bắt đầu khám phá sự bí mật nơi u linh tuyệt cốc, trước mặt Phúc An là một hang động Phúc An liền đi nhanh vào đó thấy có một mật thất mùi hương thoang thoảng Phú An nhìn thấy một khe đá từng giọt nước nhỏ xuống đọng thành vũng hương thương từ vũng nước nầy thoang thoảng lan ra, trên vách đá có khắc mấy dòng chữ u linh long mạch chỉ cần uống được nước nầy hàng ngày thời không cần ăn uống gì nữa dù sống ở đây cả trăm năm Phúc An lấy làm mừng rỡ thốt lên mạng ta được cứu sống rồi.

Phúc An đi trở ra nhìn con mãng xà thầm nghĩ có lẽ con mãng xà thường dùng nước u linh long mạch nên mới luyện được mình đồng da sắt như thế. Phúc An đi nhanh vào hang động thứ hai thấy có cánh cửa đá khép kín trên cánh cửa có một vòng tròn Phúc An xoay nhẹ vòng tròn cánh cửa đá mở ra Phúc An lóa cả mắt bởi những ánh sáng ngọc ngà châu báu những vật báu quý hiếm trên đời. Chỉ cần một viên đại minh châu cũng đã giàu rồi huống chi là ngọc ngà châu báu cả kho, có thể nói còn hơn cả vua chúa. Trên kệ đá có một thanh bảo kiếm cổ kính. Phúc An cầm lấy rút kiếm ra tức thời hơi lạnh thấu xương ánh sáng màu xanh, những chữ nhỏ li ti Lục Mạch Thần Kiếm.

Phúc An mang lục mạch thần kiếm đi ra khỏi mật thất tiếp tục khám khá u linh tuyệt cốc, Phúc An quan sát chỉ có ba hang động mà thôi, đi sâu vào hang động thứ ba cuối cùng hang động là một mật thất Phúc An xoay nhẹ vòng tròn cánh cửa mật thất mở ra thời thấy một bộ xương hài cốt, trước mặt là một chiếc hộp không biết đựng gì trong đó. Phúc An bước tới quỳ lạy khấn rằng con tên là Phúc An mười lăm tuổi quê quán ở Cao Sơn, Huyện Sơn La may mắn gặp được chủ nhân tổ sư U Linh Tuyệt Cốc xin tổ sư linh thiên chỉ dạy cho nói xong Phúc An quỳ xuống lạy ba lạy, lạy đến lạy thứ ba thạch thất chuyển động tên hai bên vách đá bắn ra như mưa Phúc An nhờ khấu đầu lễ lạy nên không trúng mũi tên nào. Nếu người nào có lòng tham lam vớ lấy chiếc hộp thất lễ với bộ xương khô thời coi như đã đi vào toi mạng, vì những mũi tên được tạo ra bằng chất kịch độc không có thuốc chữa.

Phúc An vô cùng khiếp vía lạy xong nhìn xung quanh thấy toàn là tên độc ngoài ra không còn gì nữa. Phúc An vái lạy lần nữa rồi cầm chiếc hộp lên phủi đi lớp bụi thấy có dòng chữ. Ta tên là Thượng Tiên biệt hiệu là Lục Mạch Tổ Sư. Trong họp có cuốn bí kíp Lục Mạch Thần Công. Lục Mạch Chiêu Pháp, Lục Mạch Trảo công, chỉ cần tu luyện được năm phần cũng đã trở thành vô địch thiên hạ, huống chi là tu luyện hết bí pháp cũng phải mất trên ba mươi năm. Nếu không có nhân duyên đặt biệt trợ giúp.

Từ đó Phúc An quên cả thời gian tập trung nghiên cứu tu luyện võ học thời gian trôi qua không biết là bao lâu nữa dưới u linh tuyệt cốc chỉ có duy nhất một loại hoa mọc trên đá hoa thơm đẹp lạ lùng hàng năm chỉ nở một lần vào mùa xuân. Khi Phúc An đến đây thời loài hoa nầy đang nở rộ, đến nay đã bảy lần nở rồi. Phúc An ngẫm nghĩ không lẽ trong thời gian có bảy năm mà ta đã học hết bí kíp rồi sao, môn võ công nào cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa xuất thần nhập quỷ. Phúc An cảm thấy nhớ nhà vô cùng nhất là nhớ người con gái xấu xí tên là Hầu Nhi vô cùng tốt bụng. Phúc An nhìn U Linh Tuyệt Cốc sâu hun hút bằng hú lên một tiếng vang động dùng thuật phi hành bay lên không bao lâu thời ra khỏi U Linh Tuyệt Cốc.

Nói về nơi quê nhà Phúc An ra đi được hai năm Cẩm Nhung theo nghề của cha mở rộng thương gia trở thành bà chủ nổi tiếng ở Cao Sơn người ăn kẻ ở lên đến mấy mươi người. Nhất là sau khi đánh bại âm mưu của Thương Gia Đồ Sơn. Cẩm Nhung làm cho Trục Lợi khiếp đảm. Từ đó Thương Gia Cẩm Nhung nổi tiếng như cồn. Không có thế lực nào dám cạnh tranh với Thương Gia Cẩm Nhung nữa. Sự làm ăn của Cẩm Nhung cũng nhanh chóng giàu lên.

Tuy bề bộn nhiều công chuyện nhưng Cẩm Nhung lúc nào cũng nhớ Phúc An năm năm rồi biệt vô âm tín không biết có tìm được nơi kho báu hay không hay là … Cẩm Nhung không dám nghĩ tiếp nữa. Ông Phúc Lương trở thành quản gia đắc lực cho Cẩm Nhung, trong lúc bàn công chuyện làm ăn cùng Ông Phúc Lương, Cẩm Nhung kể rõ tất cả câu chuyện vì sao gia đình cô bị giết. Cha cô vốn là một trong bảy đại ác ma một hôm cha cô vô tình nhặt tấm bản đồ vẽ nơi cất giấu kho báu đó ở đâu, sợ bại lộ nên cha mới tìm đến nơi hẻo lánh Cao Sơn nầy để ở và trở thành một thương gia, mười năm trôi qua cha đã tìm ra nơi kho báu cách đây khá xa nhưng chưa dám động đậy gì vì sợ giang hồ phát hiện cũng như thất đại ác ma phát hiện, thời khó mà bảo toàn tánh mạng. Không ngờ chúng đã đánh mùi kéo đến trong bảy đại ác ma cha con võ công cao hơn hết không dễ gì đánh bại trong giây lác, chúng sợ cha con tẩu thoát khó mà cướp đi bản đồ kho báu, để chắc ăn chúng cho người đầu độc cha trước khi chúng đến.

Khi chúng đến những lời sắc lạnh, chúng nói đưa bản đồ ra đây thời may ra còn mạng sống, cha con nói bản đồ nào mà đưa, tên đại ác ma nói giết sạch đi rồi lấy không để còn một người sống sót. Thế là cuộc giao tranh xảy ra khi ấy con đã hóa trang thành người con gái xấu xí co ro trong xó nhà. Bọn chúng giết xong lục lạo không bỏ sót một chỗ nào chúng thấy con xấu xí lại khiếp sợ co ra trong xó nhà có lẽ chúng không cần giết một con ở xấu xí như con, vì con chỉ là con ở không biết gì. Nay con đã trở về thân phận Cẩm Nhung nổi tiếng khắp vùng thế nào chúng cũng trở lại đây để truy tìm bản đồ kho báu, và con không phải là đối thủ của chúng. Cơ may anh Phúc An đã tìm được khó báu tu luyện được võ công tuyệt học mới đánh bại được bọn ác ma. Nhưng nay đã năm năm trôi qua không thấy an Phúc An trở lại. Nếu học thành tài trở lại thời cũng chỉ nhìn thấy những nấm mồ hoang những người thân của mình đã bị những ác ma giết như trước cách đây sáu năm.

Ông Bà Phúc Lương nghe Cẩm Nhung nói vô cùng sợ hãi. Cẩm Nhung nói con có cách và cũng đã chuẩn bị hành trình dời đến nơi khác để ở coi như gia đình Ông Nhạ không còn trên đời tránh đi tai mắt của ác ma, khi nào anh Phúc An trở về sẽ có người nói cho anh Phúc An biết là là gia đình đến ở nơi đâu. Ông Bà Phúc Lương nghe Cẩm Nhung nói rất phải bằng theo kế sách Cẩm Nhung dời đến nơi ở mới Định Quán Hải Châu.

Định Quán Hải Châu là một châu thành rộng lớn dân số đông đúc người mua kẻ bán tấp nập Cẩm Nhung về đây mở thương hiệu lấy tên Thương Gia Phúc An làm ăn mỗi ngày mỗi khấm khá giao thương thuận lợi tuy mới hai năm nhưng cơ ngơi ra bề phết.

Cho đến một hôm Cẩm Nhung trong lòng thấy hồi hộp mãi tim đập mạnh, không lẽ bọn ác ma đã tìm đến. Ông Phúc Lương cũng cảm thấy như thế liền nói với Cẩm Nhung không lẽ có chuyện gì sắp xảy ra đến với gia đình ta, sao cha thấy hồi hộp quá. Mặt trời xuống núi khá lâu, vầng trăng cũng đã lên cao Định Quán vẫn ồn ào như ngày nào thành phố mua sắm ăn chơi, đêm đã về khuya những con đường lần lần vắng bóng. Thường mọi lần giờ nầy Cẩm Nhung đã đi vào giấc ngủ, nhưng hôm nay thời khác Cẩm Nhung không thể nào ngủ được trong lòng cứ nao nao mãi, tiếng chó sủa đã vang lên, nhưng vèo vèo bộp bộp hình như bầy chó đã bị hạ gục không một tiếng kêu la, thủ pháp vô cùng lợi hại ngoài ác ma ra thời ai làm nổi chuyện đó Cẩm Nhung linh cảm ác ma đã đến thương gia Phúc An cũng chấm dứt từ đây, cô thở dài thế là hết, bao nhiêu sự tính toán của cô cũng không sao tránh khỏi nanh vuốt của bọn ác ma. Cửa cổng đã đóng kín khóa chặt nhiều lớp cửa cổng vẫn đóng thế mà sáu người như bóng ma hiện ra trước sân. Dưới ánh trăng sáng tỏ một giọng cười lạnh gáy nổi lên thì ra ngươi vẫn còn sống, ngươi lẩn tránh sao nổi ác ma ta. Khôn hồn thời đưa tấm bản đồ ra đây may ra ta để cho toàn thây. Các gia nhân cùng những võ sư từ trong các nhà đi ra tay cần kiếm đao sáng loáng quát lớn kẻ nào dám vào đây gây sự.

Một chàng trai trẻ tên là Võ Hậu võ nghệ cao cường được thương gia Phúc An thê với giá cao, tay cầm thanh đao quát lớn sáu người ở đâu đến khôn hồn cút đi may ra còn tánh mạng. Một tiếng cười lạnh buốt nổi lên tức thời một bàn tay chụp tới hút lấy Võ Hậu, sau đó một tiếng rú lên thảm thiết thân hình Võ Hậu bị xé nát ra làm nhiều mảnh, ai nhìn thấy cũng phải khiếp vía run lên cầm cập.

Biết không thể trốn được nữa liều chết với bọn ác ma một phen. Cẩm Nhung trong trang võ phục tay cầm thanh kiếm bước ra sân quát lớn lũ ác ma Cẩm Nhung ta hôm nay liều mạng với các ngươi. Tên cầm đầu đại ác ma nói ngươi rất giống mẹ ngươi có sắc đẹp và dũng cảm hơn người không chịu tùng phục ta, nên ta đã giết chết, cha ngươi cũng thế đã bị ta làm thịt khá lâu rồi. Nay còn ngươi mau đem tấm bản đồ ra đây ta để cho cái chết toàn thây, bằng không như thằng chó kia banh xác, hắn chỉ Võ Hậu.

Cẩm Nhung nghiến răng trợn mắt ta sẽ liều mạng với ngươi với thân pháp kỳ lạ với đường kiếm chớp nhoáng chém tới tên đại ác ma. Tên nhị ma nói cũng khá đấy chứ nhưng so với cha ngươi thời ngươi còn kém xa để đệ bắt sống khai thác buộc nó khai ra nơi cất giấu bản đồ. Nhanh như chớp nhị ma chụp tới Cẩm Nhung chỉ phong xé gió đinh tai nhức óc ngã nầy. Không ngờ ầm một tiếng nhị ma oại ra ngụm máu vô cùng kinh hãi chuyện gì đã xảy ra. Cẩm Nhung thấy người cứu mình chính là Phúc An. Cẩm Nhung thét lên vô cùng mừng rỡ anh Phúc An đã về, Phúc An đã về Phúc An gật đầu.

Các võ sư cùng các gia nhân thường nghe nói Phúc Lương có người con trai khôi ngô tuấn tú thông minh hơn người, vì bận việc đi xa nên chưa về tuy dưới ánh trăng người ta vẫn thấy sự khôi ngô tuấn tú đó. Các võ sư không ngờ Phúc An xuất hiện kịp thời võ công cái thế cứu cô chủ thoát chết.

Nói về Phúc An rời khỏi u linh tuyệt cốc trở lại quê nhà sau bảy năm xa cách, Phúc An dùng thuật phi hành chỉ trong vòng một đêm là tới xã Cao Sơn. Trong niềm vui trở về nhà tưởng đâu gặp lại cha mẹ cùng cô con gái xấu xí Hầu Nhi. Khi về đến nhà thời trời cũng vừa hừng sáng bước vào nhà chỉ thấy là nhà trống không hỏi ra mới biết cha mẹ đã đến nơi ở khác cùng với Cẩm Nhung con của Ông Nhạ. Phúc An kinh ngạc Cẩm Nhung còn sống sau cuộc tàn sát cô đã trở về. Nhà Ông Nhạ đã bán cho một gia đình khác cũng là một thương buôn Phúc An đến hỏi thăm mới biết gia đình Phúc Lương cùng cô con gái Cẩm Nhung đã dời đến Định Quán Hải Châu. Trên vai mang một cái bao khá lớn chứa đựng những châu báu quý hiếm vô cùng, Phúc An lấy ra một thỏi vàng mua một con ngựa để tiện bề vân du.

Trên đường đi đến Định Quán Hải Châu, ghé vào một cái quán bên đường dùng cơm đây là lần đầu tiên sau bảy năm mới dùng cơm trở lại vô tình nghe sáu người bàn luận. Một người nói không ngờ con nhỏ đó ma ranh biết thuật hóa trang biến thành con ở xấu xí mới thoát chết. Tấm bản đồ đó nằm trong tay con nhỏ nầy nên nó mới đổi chỗ ở như vậy xóa sạch sự nghi ngờ trong lòng chúng ta. Vì gia đình đã chết sạch không còn ai nữa. Người tính sao bằng trời tính chúng nó đã lòi cái đuôi. Lần nầy thời khó mà chạy thoát. Phúc An nghe chúng bàn luận thời biết ngay là sáu tiên ác ma đã thảm sát gia đình Ông Nhạ. Cũng từ lúc nầy Phúc An luôn bám sát theo bọn chúng. Chúng đánh hơi thật tài tình vài ba lần thăm dò tìm được ngay nơi ở của Cẩm Nhung.

Nhìn bản hiệu Thương Gia Phúc An, Cẩm Nhung lấy tên thương gia là tên của mình Phúc An vô cùng xúc động.

Phúc An tìm một quán trọ cách đó không xa chờ cho trời tối ẩn mình vào thương gia Phúc An với võ công thượng thừa không một ai phát hiện ra. Đến khi Cẩm Nhung sắp rơi vào tay ác ma Phúc An liền xuất hiện chống đỡ chiêu thức của nhị ma làm cho nhị ma bị thương oại máu, nhất là Cẩm Nhung vô cùng mừng rỡ vì Phúc An đã trở về kịp thời, Cẩm Nhung nhìn thấy võ công Phúc an cái thế biết là Phúc an đã tu luyện thành tài, trong lòng càng mừng hơn nữa.

Đệ Nhất Ma quát ngươi là ai?

Phúc An nói lũ ác ma các ngươi hôm nay phải đền tội. Sáu tên ác ma biết gặp phải cao thủ đồng ra tay mỗi người ra chiêu khác nhau chưởng phong ầm ầm, chỉ phong xé gió, đao, kiếm loang loáng cát bay đá chạy đến kinh người. Cẩm Nhung phóng nhanh ra khỏi vòng chiến đấu nhìn vào thấy Phúc An có một vòng hào quang màu xanh bao bọc ầm ầm đùng đùng rung chuyển cả màn đêm. Một tiếng hú như rồng ngâm nổi lên tức thời thanh Lục Mạch Thần Kiếm Phúc an thi tuyển tuyệt chiêu với mười hai thần công lực kiếm quang bao phủ một vùng rộng lớn, kiếm phong đinh tai nhức óc ầm ầm, đùng đùng rung chuyển màn đêm những tiếng rú nổi lên ba xác người thi nhau ngã gục, tứ ma, ngũ ma, lục ma bỏ mạng. Nhất ma, nhị ma, tam ma định tẩu thoát nhưng nào đâu có dễ với bộ pháp như quỷ ma Phúc An dùng lục mạch thần công chỉ pháp điểm huyệt tam ma ngã gục không còn cử động được nữa.

Ông Phúc Lương cùng các gia nhân, võ sư thở phào nhẹ nhõm coi như bọn ác ma đã bị tóm gọn. Để trừ đi hậu họa cho người đời Phúc An nói với Cẩm Nhung muội hãy trả thù cho cha mẹ.

Cẩm Nhung bước đến chỗ đại ác ma, quát lớn các ngươi không ngờ có ngày hôm phải không, gieo ác phải gặt họa luật trời nào tránh khỏi. Cẩm Nhung khấn vái cha mẹ một hồi cũng như những người đã bị ác ma giết cách đây hơn bảy năm về trước. khấn xong Cẩm Nhung đâm xối xả vào ác ma, rồi đến lượt nhị ma, tam ma cũng thế. Ba tên kia dù đã chết Cẩm Nhung cũng cho người phanh thây vứt xuống sông làm mồi cho cá.

Thất Ma đã chết mối thù cha mẹ cũng đã trả xong Cẩm Nhung cùng Phúc An nên duyên vợ chồng, thương gia Phúc An nhờ vào số châu báu như hổ thêm cánh, mỗi ngày thêm mở rộng bề thế giàu có nhất Định Quán Hải Châu. Cẩm Nhung sanh được bốn người con hai trai hai gái đều thông minh hơn người hạnh phúc nào cũng phải trả cái giá đắc bằng sự khôn ngoan tài đức của chính mình.
 
69. CÔNG CỐC – DÃ TRÀNG

Lợi danh, danh lợi cuộc hề

Khói mây rồi cũng trở về khói mây

Chỉ người hành thiện xưa nay

Nhận nhiều phước báo biết bao đẹp lành

Khối người nghe tiếng Tôn Sư Thiện Hạnh từ lâu giảng đạo rất hay họ rủ nhau đến để nghe phải nói là rất đông, đủ thành phần giai cấp xã hội.

Nơi hội trường Mỹ Thuận trên bực giáo giảng Tôn Sư Thiện Hạnh nói từng lời chậm rãi rõ từng câu chữ.

Thưa bổn đạo, thưa thiện nhân trí thức, thưa toàn thể con Rồng cháu Tiên.

Trên cõi đời nầy không chỉ con dã tràng làm chuyện công cốc. Mà con người cũng làm những chuyện cuộc hề khói mây. Biết bao nhiêu câu chuyện xưa có mà nay cũng có chuyên làm những chuyện không đâu cuối cùng không đem lại kết quả được gì chỉ là con số không. Đừng nói đâu xa ngay trong cuộc đời, Biết bao nhiêu cuộc tranh giành nổi lên lập ra nhiều bè phái, đảng phái, đấu đá lẫn nhau, thi nhau mà lừa mà phỉnh.

Bè phái, đảng phái nào cũng nói mình vì nước vì dân. Nhưng không hề đá động gì đến Ông Quốc Tổ. Không hiểu đất nước nầy ai đã khai dựng lên, không lẽ tự nhiên mà có Dân Tộc Việt Nam, Đất Nước Việt Nam về chiều dài lịch sử thời có Nguồn có Cội rõ ràng.

Đã là Dân Tộc Việt Nam dù cho đi đến nơi đâu đều có Cội Nguồn là Ông Quốc Tổ luôn mang trong mình người Dân Đại Việt. Huống chi là còn ở trong nước. Những bè phái, đảng phái nào nói mình vì nước vì dân nhưng không tôn thờ Quốc Tổ. Thời những bè phái, đảng phái ấy lấy tư cách gì nói mình vì nước vì dân.

Thậm chí tôn thờ ngoại bang không đếm xỉa gì đến công lao dựng nước, giữ nước mấy nghìn năm xương máu của Ông Cha. Chỉ lo tranh giành đấu đá lẫn nhau thắng là Vua thua cho là Giặc chiến tranh loạn lạc triền miên nồi da nấu thịt tương tàn kéo dài hết thập niên nầy đến thập niên khác.

Điều kỳ lạ ở mỗi chiến trận xảy ra chỉ vì tranh giành đấu đá không phải là chống ngoại xâm, mà là tương tàn đồng loại anh em, dẫn đến hàng triệu người phải bỏ mạng đều là những liệt sĩ được Tổ Quốc ghi công. Bè phái, đảng phái nào cũng làm như thế. Hai bên đối lập nhau những người ngã xuống ở hai bên đều là anh hùng liệt sĩ Tổ Quốc ghi công. Tổ Quốc nào mà ghi công, khi hy sinh không phải vì dân, vì nước, vì chống ngoại xâm, chỉ vì sát phạt nhau giữa bè phái, đảng phái.

Một cuộc hề trên sân khấu trường đời cú lừa ngoạn mục những người thiếu hiểu biết cho đó là sự thật họ hi sinh vì dân vì nước. Nhưng đến khi cuộc đấu đá kết thúc kẻ mạnh trở thành thế lực quan vua những tử sĩ trở thành liệt sĩ được Tổ Quốc ghi công, còn tất cả những phe phái, đảng phái đối lập những người hi sinh trở thành những hồn ma phản động. Bởi vì họ tranh giành đấu đá không lại.

Trải qua nhiều triều đại những người được Tổ Quốc ghi công thời được mấy người, điều nầy đã chứng minh sự hi sinh cho đảng phái, bè phái, kể cả những bè phái, đảng phái thắng cuộc trở thành vua quan, đều là công cốc dã tràng cuộc hề khói mây. Khi Chế Độ tan rã không còn thời Tổ Quốc ghi công không cánh mà bay mất dạng. Những anh hùng liệt sĩ cũng theo làn khói tan vào hư không, chẳng ai nhắc đến chẳng ai hỏi thăm gì nữa. Đã là Anh Hùng Tử Sĩ Tổ Quốc ghi công thời đi vào vĩnh viễn. Chế Độ nào lên cũng phải tôn thờ.

Đã đấu tranh vì bè phái đảng phái thời mất đi Chính nghĩa nói đến Chính Nghĩa là phải đi đôi với tôn thờ Nguồn Cội hết lòng vì dân vì nước. Bỏ Cội Nguồn mà trung ư, quên Ông Cha mà hiếu ư, sự Trung Hiếu vì bè phái, đảng phái thành Thần còn chưa được, nói gì thành Thánh. Sự tranh giành đấu đá bè phái đảng dù cho thắng cuộc cũng chỉ là thành công kết tụ chiếc lá. Không ai chống phá cũng đến ngày rơi rụng theo quy luật tự nhiên. Cách mạng mùa kết tụ chiếc lá mà hô muôn năm không phải là ảo tưởng sao.

Nói đến căn bản muôn năm chúng ta có thể nhìn thấy được:

1 – Truyền Thống Anh Linh Dựng Nước, Giữ Nước Muôn Năm

2 – Con Rồng cháu Tiên muôn năm

3 – Quốc Tổ Muôn Năm

Muốn có cuộc cách mạng muôn năm thời phải đi vào cuộc cách mạng Anh Linh Truyền Thống Dựng Nước Giữ Nước ra đời. Khơi dậy con Rồng cháu Tiên. Tôn Thờ Quốc Tổ. Không muốn muôn năm cũng đi vào cách mạng muôn năm. Những người hy sinh trong cuộc cách mạng Văn Hóa Cội Nguồn nầy vì Cha Ông, vì non sông Tổ Quốc, vì con cháu Tiên Rồng. Đương nhiên trở thành Anh Linh Tử Sĩ Tổ Quốc Ghi Công muôn năm. Tôn thờ muôn năm. Cả người chết đi lẫn người còn sống đều được hiển vinh muôn năm.

Có mấy ai chết cho Cội Nguồn đâu mà tỏa sáng chữ Trung. Mấy ai chết vì tôn thờ Ông Cha đâu mà tỏa sáng chữ Hiếu. Sống bỏ Nguồn quên Cội sao gọi là Nhân, không tôn thờ người dựng nước sao gọi là nghĩa. Uống nước không nhớ Nguồn ăn quả quên người trồng cây sao gọi là trí. Nên từ xưa tới nay biết bao nhiêu người hi sinh, nhưng sự hi sinh ấy không phải vì Cội Nguồn mà chỉ vì sự đấu đá lẫn nhau giữa bè phái, đảng phái, khó mà tìm ra người thật sự vì non vì nước vì dân. Nếu thật sự vì nước vì dân vì Cội Nguồn không vì đảng phái, bè phái thời trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa rồi. Dân Tộc Việt Nam trở thành Dân Tộc Thần, Thánh. Làm gì có cảnh ngoại xâm dòm ngó hay xâm lược.

Ở đời người ta thường nói người đại gian ác giống như người thiện, miệng nói một đường nhưng hành động một nẻo, thước đo được lòng người thời phải nhìn vào hành động không phải nghe theo lời nói.

Đảng phái bè phái càng gian ác thường che đậy những lời hoa mỹ lớp võ bao bọc bên ngoài che đậy những hành vi bất chính nói ra lời nào cũng vì dân vì nước, vì nước, nhưng thật ra Nguồn Cội không coi ra gì Thánh Thần đều biết nhưng làm ngơ không cần ra tay vì luật nhân quả sẽ chuyển xoay cách mạng mùa khói mây rồi cũng trở về khói mây. Đổ công sức bất chính kết cuộc là Dã Tràng Công Cốc hết thảy.

Thưa quý vị một Dân Tộc luôn chạy theo xu thế thời cuộc lạc Cội lạc Nguồn chia bè rẽ phái thôn tính lẫn nhau, cái tài đem phục vụ cho tranh bá tranh hùng, thắng là Vua thua là Giặc xem đi xét lại giặc với vua cũng chẳng khác gì nhau công lao thời nhiều nhưng kết quả thời không có trống rỗng vô nghĩa.

Sau đây là câu chuyện của thế lực hùng mạnh

Vào thời mạc pháp có một thế lực tam vô, không Trời Phật, không linh hồn, không nhân quả, chết là hết. Không có cái ác nào mà thế lực tam vô không làm, người phát động dấy lên phong trào tam vô, với sự gian ác tài tình đánh đâu thắng đó cuối cùng xóa sổ các thế lực đối đầu cạnh tranh được tôn sùng lên làm lãnh tụ.

Một hôm thủ lĩnh nói với đàn em tay chân thuộc hạ rằng ta muốn có một thể chế cai trị muôn năm, một nhà nước độc tài kiểu mới, khác với độc tài phong kiến chung sức đóng góp hiến kế cho ta. Thủ Lĩnh Tam Vô nói đi nói lại nhiều lần như thế, nhưng không thấy ai có ý kiến gì. Thủ Lĩnh Tam Vô lại nói các chú làm thinh như thế thời không được, vì chúng ta luôn đề cao Dân Chủ ta tuy lãnh đạo nhưng việc đề ra là do tập thể.

Khi ấy có một người tên là Trí Giả đứng lên thưa rằng thưa đại hội, thưa Thủ Lĩnh muốn có một thể chế cai trị muôn năm, một nhà nước độc tài kiểu mới có một con đường đại lộ để đi.

Con đường đại lộ ấy: Trước khi xây lên một thể chế cai trị muôn năm phải khảo sát tình hình thế giới những xu thế văn minh, không khác gì xây nhà cao tầng phải khảo sát địa chất cũng như gia cố nền móng cho chắc, rồi sau mới chọn vật liệu xây dựng đi vào dựng nhà.

Có nghĩa là: Muốn xây dựng lên một thể chế Chính Trị muôn năm, phải xây dựng trên nền tảng muôn năm. Nền tảng muôn năm chính là tôn thờ nguồn Cội Dân Tộc, đi vào Công Bằng Bình Đẳng.

Có nghĩa là: Xây dựng lên một nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính không rời Nguồn Cội xu thế văn minh thế giới về Quyền con người Nhân Quyền, về Quyền Công Dân. Dân Chủ ai cũng phải sống theo, làm theo, đi theo, thời coi như chúng ta đã xây dựng lên một thể chế cai trị muôn năm.

Chúng ta khi đã có Thể Chế Chính Trị muôn năm tiếp theo là khai lập Chính Quyền muôn năm.

Có nghĩa là: Chọn người tài đức lên lãnh đạo đất nước phải là người có ý tưởng lý tưởng muôn năm.

Có nghĩa là: Chọn người vì non sông Tổ Quốc có trình độ về truyền thống Ông Cha, trung thành với non sông đất nước, người duy nhất được tôn thờ chính là Quốc Tổ. Những người được chọn kế thừa di chí Quốc Tổ xây dựng đất nước mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Xây dựng Thể Chế muôn năm, thời phải có con người ý tưởng lý tưởng muôn năm thời nhất định đất nước chúng ta bền vững muôn năm. Vì đã xây dựng theo hệ thống bền vững. Địa Cuộc bền vững, Nền, Móng, bền vững. Vật liệu bền vững.

Cả hội trường không mấy ai đồng ý lối phát biểu nầy kể cả thủ lĩnh.

Có một người tên là Thâm Mưu đứng lên phát biểu, chúng ta là một Đảng Phái hùng mạnh bảo vệ Đảng Phái vững chắc là đi vào trường tồn muôn năm đó là chân lý. Chúng ta theo học thuyết ngoại bang nên chúng ta mới được như ngày hôm nay các Đảng Phái khác không thể nào sánh kịp chúng ta trở thành vua quan cầm quyền đất nước chúng ta phải thờ Ông Tổ của Tam Vô là hợp lý. Đã đi vào cạnh tranh thắng là vua thua là giặc kẻ chiến thắng phải đi vào Độc Tài Toàn Trị khác với độc tài độc trị Phong Kiến Vua Chúa. Độc Tài Toàn Trị do toàn thể Đảng Phái lãnh đạo thống trị. Văn minh hơn độc tài độc trị Vua, Chúa, cai trị.

Chọn những người trung thành vì Đảng, lý tưởng vì Đảng Thủ Lĩnh Tam Vô sống mãi trong sự nghiệp chúng ta. Chỉ cần ru ngủ được nhân dân đưa cho nhân dân những cái lợi nhỏ như tôm tép. Còn chúng ta thời hưởng những lợi lớn như cá mập cá voi. Nhà nước chính quyền cùng nhân dân có lợi, thời ai còn nói gì nữa, khôn khéo lãnh đạo tài tình ăn nói, trụ vững mưu lược muôn năm là chuyện bình thường, chân lý trường tồn chỉ gói gọn bấy nhiêu thôi.

Cả hội trường cùng Thủ Lĩnh nghe xong phần đông đều lấy làm thích thú cho là sự hiến kế đỉnh cao.

Thủ Lĩnh Tam Vô nói: Đây mới là con đường mà chúng ta mơ ước. Chúng ta đã độc tài toàn trị Đảng lãnh đạo, cao hơn độc tài độc trị Phong Kiến Vua Chúa. Dân mơ danh thời chúng ta cho danh, dân mơ lợi thời chúng ta cho lợi. Những hứa hẹn thật hoành tráng nghe đến là mê mẫn, làm tùy sức ăn tiêu theo nhu cầu muốn gì được nấy. Họa lên một thiên đàng trần gian thời ai nghe mà không theo.

Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong. Biết dựa vào sức dân như thuyền nương theo nước mà chạy. Chân lý là thế cần gì phải đi vào chân lý muôn năm, mới tồn tại muôn năm, kết quả cho chúng ta thấy con đường thứ hai chính là con đường chúng ta đã đi, bằng chứng là chúng ta đi từ thắng lợi nầy đến thắng lợi khác, nói chung là dân làm tất, sự thành công của ta là dựa vào sức dân là chính với cái tài pháo mồm pháo miệng của chúng ta, địch thủ nghe đến là sợ, dân nghe đến là mê.

Những viên gạch được chọn là tuyệt đối trung thành với Đảng không phải là trung thành với non sông Tổ Quốc, núp bóng người dựng nước cầm gì phải tôn thờ người dựng nước. kẻ mạnh nhất đương nhiên là nắm quyền mãi mãi không phải muôn năm là gì.

Trí Giả nghe Thủ Lĩnh nói thế chỉ biết thở dài sự hiến kế của mình coi như loại bỏ.

Thủ Lĩnh quyết định đi theo con đường thứ hai do Thâm Mưu hiến kế. Ngôi nhà Tam Vô Đảng Phái vừa xây lên thời có sự rạn nứt không ai tin ai, vì tất cả đạo đức trong Đảng Phái chỉ là bánh vẽ ngôn từ che đậy sự giả dối. Đã là Thể Chế độc tài thời không bao giờ đem lại sự Công Bằng, Bình Đẳng mà chỉ theo thể lệ xin cho mà thôi. Không nói là lừa ăn cả xương lừa không chừa cái chi.

– Nói đến cuộc hồng trần là nói đến vô số Định Luật xoay chuyển như Luật Tuần Hoàn, Luật Nhân Quả, Luật Vay Trả, Luật Vô Thường, v.v…

Hết biến động nầy đến biến động khác có thể nói là triền miên, bao cơn bão thi nhau ập đến như cơn bão kinh tế, cơn bão cạnh tranh, cơn bão chính trị, cơn bão xu thế thời cuộc, cơn bão bạo lực của các thế lực hùng mạnh, v.v…

Ngôi nhà xây lên không cần nền móng kiên cố, những vật liệu xây dựng không bền vững dễ mục nát. Lần lần Thể Chế Độc Tài toàn trị sụp đổ tan tành trở thành Công Cốc Dã Tràng, khói mây rồi cũng trở về khói mây.

Tôn Sư Thiện Hạnh thở dài nói:

Trên khắp thế gian nầy từ cổ chí kim chỉ có Quốc Tổ Vua Hùng là bậc Đại Hùng, Đại Lực, Đại Bị, Đại Nhân, Đại Nghĩa, Đại Trí, Đại Đức. Có một không hai muốn xây dựng nhà nước Văn Lang. Trước tiên chọn Địa Cuộc Bền Vững. Xây dựng nền móng Văn Hóa kiên cố vững chắc. Sau đó chọn vật liệu Nhơn Hiền Trí Đức bền vững. xây dựng tạo lập nên ngôi nhà chung Bách Việt Văn Lang vừa Văn Minh vừa hiện đại, giống như lời Trí Giả hiến kế cho Thủ Lĩnh Tam Vô. Nhưng rất tiếc là Thủ Lĩnh Tam Vô không nghe.

Có thể nói những bài học lịch sử đã cho chúng ta nhận định những đúng sai. Lịch sử chính là kim chỉ nam, những thất bại và sự thành công. Nhất là Quốc Tổ đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá dẫn đường cho chúng ta đi.

Cả hội trường im lặng lắng nghe những lời vàng ngọc của Tôn Sư Thiện Hạnh khai sáng chân thật trí chứng ngộ lý sự đi vào tạm bợ, đi vào trường tồn muôn năm. Thấy rõ như trong lòng bàn tay của mình vậy.
 
70. CẦU THÀNH PHẬT

Vào thời xa xưa phải nói là rất xa xưa vô lượng vô biên số kiếp, ở vào thời kỳ ấy có nước La Đề giàu mạnh nổi tiếng. Lại có nhiều Tôn Giáo, Đạo Giáo ra đời Phật Giáo, Thánh Giáo, Tiên Giáo, Chúa Giáo, v.v…

Nơi tỉnh Hồ Bắc có La Sơn Tự những ngôi chùa mọc lên như nấm thờ nhiều vị Phật nhiều vị Bồ Tát nhưng thờ chính vẫn là vị Phật Tổ Phổ Minh vị Phật thần thông trí huệ vô biên linh thiên bậc nhất.

Sư sãi ở chùa La Sơn Tự có đến hàng nghìn, dân chúng đến La Sơn Tự hành lễ cúng bái rất đông trong nước ngoài nước đủ thành phần giai cấp. Trên điện thờ Phật Tổ chỗ nào cũng hương hoa nhang đèn không ngớt.

Trong số người về Sơn La Tự có vị Thiện Nhân Trí Thức tên là A Di, lúc nào cũng cầu thành Phật vì thấy Phật được dân chúng sùng kính, trên điện thờ nhang đèn hoa quả lúc nào cũng có, được thành Phật thời còn gì bằng. Còn sướng hơn cả giàu sang vua chúa.

A Di sanh ra trong một gia đình giàu có phải nói là giàu nhất nước La Đề. Muốn gì được nấy còn thiếu thành Phật nữa mà thôi, A Di thấy mình giàu có vàng bạc châu báu thiếu chi. A Di liền đem ngọc ngà châu báu cúng dường cho Phật, cầu thành Phật. Sự cúng dường ấy làm cho Sơn La Tự càng ngày càng bề thế, xây dựng lộng lẫy nguy nga tăng chúng tha hồ hưởng thụ.

Danh tiếng A Di lừng lẫy có nhiều người tôn sùng là Bồ Tát sống. A Di cúng hết tài sản của Ông Cha để lại nhưng nào thấy thành Phật chi đâu. Tụng thuộc làu hết kinh mà quả Phật vẫn xa vời vợi.

Một hôm A Di đến gặp sư Tăng, vị Sư Tăng quyền lực nhất ở La Sơn Tự quỳ lạy nói lên nguyện vọng của mình là cầu thành Phật.

Vị Sư Tăng ấy nói muốn thành Phật phải xuất gia vào chùa cạo đầu đi tu cắt ái ly gia, trì giới mới thành phật.

A Di liền nghe theo vị Sư Tăng vào chùa cắt ái ly gia cạo đầu đi tu, ngày đêm ra sức tụng kinh trì giới, tu trì mãi đến mười năm cũng chỉ là con người bình thường ít tội lỗi hơn người thường tục mà thôi nào thấy thành Phật chi đâu, chỉ thấy lên chức sắc Đại Đức, Thượng tọa. A Di liền ngộ ra xuất gia mấy mươi năm như Sư Tăng giảng kinh thao thao bất tuyệt nhưng nào thấy thành Phật chi đâu. Tu Thiền mấy mươi năm như Thiền Sư Pháp Nhẫn có thể nói là thành tựu nhiều phép tắc thần thông.

Nhưng mỗi khi được hỏi khi nào Thiền Sư thành Phật. Thiền Sư trả lời còn xa lắm. Thì ra là vậy không phải cầu Phật mà trở thành Phật. Thuộc nhiều kinh tạng như Sư Tăng mà thành Phật, không phải xuất gia đi tu mà thành Phật, không phải tu thiền chứng ngộ thần thông mà thành Phật, chỉ là tạo nhân duyên thiện lành để cho mình đi đến quả Phật mà thôi có thể một kiếp hoặc vô lượng kiếp mới thành.

A Di không còn mặn mà gì đến cầu Phật để thành Phật, cầu đọc tụng kinh cho nhiều để thành Phật, không còn phân biệt xuất gia hay tại gia vì không liên quan gì đến thành Phật. Bằng chứng xuất gia như mình đây, ra sức tụng kinh trì giới học đạo thế mà quả Phật còn xa quá.

A Di từ đó để tâm quán tưởng phen lần nhân duyên tìm ra lẽ thật trong Tạo Hóa. A Di lần lần thấu rõ những gì có hình tướng, sắc tướng đều là không thật. Mọi sự vật biến động trong Tạo Hóa là do hàng trăm hàng nghìn Định Luật xoay chuyển, như Luật Tuần Hoàn, Luật Nhân Duyên, Luật Nhân Quả, Luật Vay Trả, Luật Sanh Tử, Luật Trường Tồn, Luật Vô Thường, Luật Có Không, Luật Thường Trụ Bất Biến. Luật Xoay Chuyển, Luật Tự Tại, Luật Hiển Nhiên, Luật Ngẫu Nhiên, Luật Hội Tụ, Luật Phân Ly. Luật Tan Hoại, Luật Không Không. Luật Vô Vi, Luật Thường Vi. Luật Hữu Tướng, Luật Vô Tướng. Luật Biến Hiện. nói tóm lại là hàng trăm hàng nghìn Định Luật. Những Định Luật tạo lên bộ máy huyền vi vũ trụ gọi là bộ máy Càn Khôn. Muốn ra khỏi bộ máy Càn Khôn thời để Tâm Tự Nhiên đi vào Định Luật Tự Tại Vô Trụ.

Mặt Trời Trí Huệ lần lần tỏa sáng, làm chủ các Định Luật vũ trụ có nghĩa là làm chủ Càn Khôn trên đầu liền tỏa hào quang thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Chúa Tổ, Thần Tổ.

A Di mỗi lần để Tâm Tự Nhiên đi vào Định Luật Tự Tại vô trụ, tức thời trên đầu phát ra muôn đạo hào quang làm chấn động Linh Sơn Tự cũng như Tam Thiên Đại Thiên thế giới, đi vào Huyền Cơ Tịnh Độ. Ý nghĩa của Tịnh Độ, Tâm Tịnh chính là Độ. Tâm đi đến Đại Định thời đi vào Đại Độ.

Lúc bây giờ bốn bộ chúng theo Phật Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều quỳ lạy muốn được nghe pháp thành Phật.

Phật Tổ A Di truyền dạy rằng:

Cầu Phật, để Phật ban cho thành Phật, thời không bao giờ có. Vì gốc thành Phật đều ở nơi Tâm, bỏ cái Tâm mà cầu Phật, dù trải qua vô lượng ức kiếp cũng không thành Phật được. Ta có câu Phật Chú nên lắng nghe.

Lấy Tâm Cầu Tâm

Càng cầu càng xa

Phật ở trong Tâm không cầu

Cầu Phật ngoài Tâm

Bỏ đi Phật Tánh

Lấy đâu thành Phật

Tánh Phật Tự Nhiên

Tâm Phật Lương Tâm

Xa rời tự nhiên

Trái ngược Lương Tâm

Dù cho cầu Phật khắp mười phương

Cũng chỉ là luống công vô ích

Vô Trụ Vô Niệm Tự Nhiên

Ra Khỏi Càn Khôn Trời Đất

Mặt trời Chánh Đẳng Chánh Giác hiện ra

Ra khỏi sanh tử thăng hoa Niết Bàn

Y Văn theo nghĩa mà làm

Ý Giáo thực hành quả Phật đến nơi

Lên ngôi Phật Tổ khó chi

Độ người thành Phật, thi nhau mà thành

Có người hiểu được lời kinh kệ tức thời Minh Tâm Kiến Tánh trên đầu phát tỏa hào quang chứng thành quả Phật.

Có người không hiểu những lời kinh kệ đại thừa vô thượng thậm thâm, bằng thưa rằng. Thưa Phật Tổ làm sao chứng quả vô sanh ra khỏi sanh tử an trụ Niết Bàn.

Phật Tổ A Di dạy rằng:

Chứng quả vô sanh ra khỏi sanh tử cần gì phải tu. Ngộ Chân Tâm Chân Tánh tức là chứng quả Vô Sanh. Chân Tâm, Chân Tánh Bất Sanh Bất Diệt. Đâu phải tu mà đặng trường sanh, chỉ cần giác ngộ Minh Tâm Kiến Tánh thấy rõ Bổn Lai Diện Mục là ra khỏi sanh tử.

Tất cả những người có mặt ở đây đều trải qua vô lượng ức kiếp, mỗi kiếp Linh Hồn vay mượn xác thân, mượn xác thân tạm gọi đó là Sanh. Mượn rồi phải trả đó gọi là Tử. Vay mượn xác thân rồi đến ngày giờ phải trả theo quy luật tự nhiên. Trải qua vô lượng kiếp, có nghĩa Linh Hồn đã vay mượn vô lượng xác thân. Mượn thời phải trả theo Định Luật Vay- Trả vũ trụ. Những gì vay mượn nào phải của mình, mượn thời phải trả đó là theo Luật Tự Nhiên.

Tâm Linh mỗi người vẫn y nguyên, trước sao sau vậy chưa bao giờ có sanh có tử như như thường còn, hết vay mượn thể xác nầy, đến vay mượn thể xác khác, cứ thế trải qua vô lượng kiếp.

Cũng như Lương Tâm Phật Tánh Tự Có không phải tu mà có. Chân Tâm Chân Tánh trường sanh không phải tu mới được trường sanh.

Nhưng gì vay mượn thời phải trả. Hễ vay mượn tạm gọi đó là Sanh. Vay mượn có thời hạn, hết thời hạn thời phải trả gọi đó là Tử. Như vậy Sanh- Tử là chỉ cho thể xác tạm mượn. Nào phải chỉ cho Chân Tâm Chân Tánh của Linh Hồn. Theo định Luật Vũ Trụ hễ có vay, thời phải trả. hể có sinh thời phải tử. Không ai khác ai dù đó là chư Phật mười phương, chúng sanh phàm phu cũng như nhau mà thôi.

Các chư Phật mười phương, chúng sanh nhân loại phàm phu trần gian hể có vay mượn thời phải trả. Các chư Phật vay mượn xác thân bằng kim thân. Nên xác thân có tuổi thọ rất lâu. Còn phàm phu chúng sanh vay mượn xác thân bằng tinh Cha huyết Mẹ nhục thân phàm tục nên tuổi thọ rất ngắn.

Tóm lại: Những gì vay mượn để sanh ra thân xác gọi đó là sanh. Những gì vay mượn đều phải trả gọi đó là tử. Sanh Tử là những thứ vay mượn không phải là Linh Hồn Tâm Linh của chúng ta. Tâm Linh của chúng ta không sanh không diệt, không cấu, không nhiễm trước sao sau vậy như như thường còn. Khi thành Phật Chân Tâm Chân Tánh không có gì thêm, khi còn làm phàm phu chúng sanh Chân Tâm Chân Tánh không có gì bớt, trước sao sau vậy như như thường còn. Liễu ngộ được như thế thời gọi là chứng quả vô sanh, ra khỏi sanh tử. Những gì vay mượn đều phải trả đó là theo Định Luật Tự Nhiên mà thôi.

Có người thưa hỏi rằng chúng con chưa hiểu, có vay thời phải trả đó là Luật. tử cũng là cái mình mượn không phải là của mình nên không có tử. Sanh cũng chỉ là cái mình mượn không phải của mình nên không có sanh, Chân Tâm Chân Tánh vốn không sanh không diệt, khi thành Phật không thêm, khi làm phàm phu như chúng con cũng không bớt vậy tu để làm gì nữa. Xin Phật Tổ chỉ dạy cho.

A Di Phật Tổ nói, Tu có nghĩa là sửa lìa cái mê đi đến cái ngộ. Bỏ cái ác đi đến cái Thiện. Bỏ cái giả tìm đến cái Chân. Nhờ lìa bỏ cái mê đi đến tỉnh ngộ nhận biết được Lương Tâm của chính mình chính là Phật Tánh. Thánh Tánh. Nhờ lìa bỏ cái ác đi đến cái vui an lạc nên Linh Hồn định tỉnh. Nhờ định tỉnh sóng thức yên lặng nên Chân Tâm Chân Tánh hiển hiện.

Ví như mặt Hồ yên lặng mặt Trăng liền hiện rõ. cũng tại do cái Chân Tâm, Chân Tánh bị mê nên không nhận biết được Lương Tâm của chính mình. Nên phải tu. Nếu không tu, cứ mãi hành động gieo nghiệp ác thời vô lượng kiếp sau phải chịu nhiều sự thống khổ do Tâm hành ác gieo ra. Hành Ác thời sa đọa vào tam đồ khổ Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Hành Thiện thời siêu lên các tầng trời hưởng phước. Do đó cần phải tu tránh đi những hậu họa về sau, không những kiếp nầy và những kiếp tới.

Tóm lại: Lương Tâm, Chân Tâm Chân Tánh chính là Phật. Chính là Thánh. Nhưng muốn gặt hái quả Phật, quả Thánh thời phải tận độ nhân loại con người. Muốn tận độ nhân loại con người thời phải phát bồ đề Tâm, chính là lập thệ nguyện. Thệ nguyện càng cao thời Phật Quả càng cao. Thệ Nguyện càng rộng lớn thời độ người càng đông. Quốc Độ càng rộng lớn.

A Di nói xong liền phát bốn mươi tám lời đại nguyện khai lập Quốc Độ Tây Phương.

Trong Pháp hội A Di bốn bộ chúng kể cả người xuất gia, tại gia đều chứng quả Phật. Nhiều vị phát bồ đề tâm tận độ nhân loại về trời thành lập Quốc Độ riêng cho mình. Có người cầu siêu sanh về Quốc Độ Tây Phương.

A Di ngâm kệ rằng:

Hồn nào mất, mỗi kiếp đời ta bước

Vạn ức đời, luôn phía trước ta đi

Kiếp trần gian, thử hỏi có đáng gì

Chỉ chớp mắt, là mãn trần lìa bến

Những hành trang, là thiện hay là ác

Trên con đường, gặt hái kiếp gieo nhân

Mà nhận lãnh, sướng vui hay cay đắng

Nơi cõi tạm, hãy làm nhiều phước thiện

Mỗi kiếp đời, là mỗi kiếp luyện tu

Gieo phúc lành, nên ta mãi an vui

Mỗi kiếp đời, phúc hưởng mãi không thôi

Hồn nào mất, mỗi kiếp đời ta bước

Vạn ức đời, niềm hạnh phúc ta đi
 
71. CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

Vào thời xa xưa phải nói là rất xa xưa có nước Na Di Đề có Vua Chuyển Luân Thánh Vương trị vì nhân loại hết thảy toàn cầu, gồm thâu hết thảy các Giáo Phái, Tôn Giáo, Đạo Giáo, Thần Giáo, Tiên Giáo, Chúa Giáo, nhân loại đi vào thái bình thịnh trị.

Một hôm các vị Địa Thần, Thiên Thần, Nhơn Thần, về chầu Chuyển Luân Thánh Vương, Địa Thần như Thần Núi, Thần Sông, Thần Hồ, Thần Biển. Thiên Thần như Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Lửa, Thần Ánh Sáng, Thần Gió, Thần Mây, Thần Âm U các vì Tinh Tú. Nhơn Thần, như Thần Công Lý, Thần Hòa Bình, Thần Ban Phước, Thần Giáng Họa, Thần Bình Yên, Thần Chiến Tranh, v.v… Cùng Vương Quan, Vua, Chúa nhiều nước đến tham dự.

Khi tất cả đều an vị chỗ ngồi có vị đại Quan Chánh Án tối cao Pháp Viện A Na từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Chuyển Luân Thánh Vương cung kính thưa rằng.

Thưa Đức Chuyển Luân Thánh Vương vì sao Chuyển Luân Thánh Vương lại có quyền lực tối cao Vua trên các Vua. Đạo trên các Đạo như vậy, Chuyển Luân Thánh Vương tu hạnh gì mà được như thế, chúng Thần mong muốn được nghe.

Chuyển Luân Thánh Vương nói rằng:

Nầy Ông Tối Cao Pháp Viện. Ông vì pháp hội nên mới hỏi ta như vậy.

Thật ra Ta cũng chẳng có quyền lực gì tối cao cả, mà Ta chỉ làm theo Ý Trời. Trong vũ trụ chỉ có Trời mới có đủ quyền năng làm nên những chuyện mà Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa không làm được.

Ví dụ Tạo Hóa Cha Trời khai lập lên tam thiên đại thiên thế giới các tầng trời Thượng Thiên, Hạ Thiên vũ trụ. Khai tạo lập lên Thất Sơn châu báu năm non bảy núi Non Tiên Cực Lạc. khai tạo lập lên, Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, bốn cõi trần gian, 18 tầng Địa Phủ. Khai tạo lập lên những Định Luật vũ trụ, khai tạo lên ngũ đại Thần Lực, Chân Khí, Nước, Đất, Lửa. thành lập bộ máy Huyền Vi Càn Khôn vũ trụ.

Khai Tạo lập lên muôn loài vạn vật trong đó có con người đều do Tạo Hóa Cha Trời khai Tạo Lập Ra. Ta chỉ có nhiệm vụ là nói rõ Thiên Ý quyền năng của Trời. Cũng như dắt dẫn muôn loài vạn vật. Ma, Quỷ, Yêu Tinh cũng như Nhân Loại trở về Nguồn bổn phận và trách nhiệm con Trời của Ta là như vậy. Vì Ta hết lòng phục vụ làm theo Thiên Ý Cha Trời, nên Cha Trời ban cho phước phần quyền uy tối thắng nói chung là do Cha Trời Tạo Hóa ban cho.

Như các Ông đã biết đại phú do Thiên làm việc cho Cha Trời đương nhiên Cha Trời ban phúc lành sống mãi trong giàu sang an vui cực lạc. Ta chỉ là người chỉ đường mà còn được Cha Trời ban phước lành như thế. Huống chi là những người biết quy thuận Trời, tức là trở về Cội Nguồn của chính mình nơi khai sanh ra Linh Hồn cũng như thể xác, thời nhất định phước phần không kém gì Ta. Vì trong vũ trụ cái gì cũng của Trời. Trời ban cho ai thời người ấy được hưởng.

Ông Tối Cao Pháp Viện nghĩ sao. Tổ Tiên Tạo Hóa hiện thân ra Cha Trời Mẹ Trời sanh ra Nhân Loại con người từ Linh Hồn cho đến thể xác. Nhân Loại con người đi chơi rồi quên đường về. Bỗng có người đến nói đi theo tao làm con của tao người ấy có đức không? Có được Trời ban phước lành không?

Ông Tối Cao Pháp Viện thưa rằng:

Thưa Đức Chuyển Luân Thánh Vương, đáng lý ra thấy con người ta đi lạc quên đường về, một là chỉ đường cho những người con lưu lạc trở về. Hai là dẫn những người con lưu lạc trở về nhà gặp Cha Mẹ Trời mới là người có đức phải nói là đại ơn đại đức. Đằng nầy làm cho con người quên Cội mất Nguồn thất đức thời có, không nói là dẫn người ta lạc vào Ma Đạo, Ác Đạo, Quỷ Đạo. vì bản thân người đó đã là Ma Đạo, Ác Đạo, Quỷ Đạo. hành động trái ngược lại tòa án Lương Tâm. Vì đi cướp con của kẻ khác. Những người như thế làm gì hưởng được ân đức Đại Phú Do Thiên.

Hi Hữu thay Ông Tối Cao Pháp Viện Ông đã làm sáng cái Đức của những người có Đức. Làm rõ cái sai của những người dẫn Nhân Loại xa Nguồn lạc Cội. Để rồi mãi mãi sa đọa vào cảnh chiến tranh hận thù khốn khổ triền miên.

Nầy Ông Tối Cao Pháp Viện, nếu như ai cũng nhận ra mình là con Trời con của Đấng Tạo Hóa. Và họ cũng nhận ra những Quyền mà Tạo Hóa Ban Cho họ ai cũng như ai không ai khác ai. Thời họ cần gì phải theo ai, vì Họ chính là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Họ có quyền làm chủ vũ trụ vì Cội Nguồn của Họ chính là Đáng Tạo Hóa khai lập lên tất cả Ông Cha Giàu có con cháu hưởng làm chủ là như vậy.

Những người dẫn dắt nhân loại đi sai đường lạc Cội. Đương nhiên Họ không được Cha Trời ban phúc lành Đại Phú do Thiên. Mà chỉ hưởng theo Nhân Quả có làm có hưởng không làm không hưởng. Những người ấy làm gì có quyền năng tối cao vũ trụ. Cũng không có quyền Thay thế Cha Trời dẫn dắt nhân loại vì đã lạc Cội lạc Nguồn.

Nầy Ông Tối Cao Pháp Viện Ông nghĩ sao muốn dẫn dắt nhân loại về Nguồn, thời Ông lấy gì để dẫn dắt.

Thưa Đức Chuyển Luân Thánh Vương, đã là con Trời thời chỉ lấy lời Trời huấn dạy. Chỉ cho nhân loại thấy biết Cội Nguồn của chính mình, cũng như hiểu rõ những Quyền Tạo Hóa ban mỗi con người ai cũng như ai không ai khác ai.

Để cho mỗi con người làm chủ vận mệnh của mình, cũng như làm chủ những Quyền Cơ Bản Tạo Hóa Ban cho ấy, sống theo Thiên Ý cũng chính là sống theo Luật Tạng Vũ Trụ, chính là Hiến Pháp, Luật Pháp đi vào cuộc sống không được vi phạm, vì vi phạm là phạm vào Thiên Ý. Đã phạm vào Thiên Ý thời nhất định bị Thiên Ý chuyển xây nhẹ thời phải đọa làm Ma. Nặng thời phải đạo làm Quỷ nặng hơn nữa thời sa đọa xuống các Tầng Địa Phủ chịu sự hành hình khốn khổ, không có ngày ra.

Hi hữu thay Ông Tối Cao Pháp Viện, Ông đã nói rõ được quyền năng của Trời. Lưới Trời lồng lộng mảy lông cũng không lọt. Ta vì hiểu rõ như vậy nên mãi mãi làm theo Thiên Ý. Thiên Ý cũng chính là Thiên Luật Vũ Trụ. Nên Ta có quyền năng tối cao. Chống lại lời Ta dạy cũng có nghĩa là chống lại Thiên Ý. Ta cần gì trừng trị cũng bị Thiên Ý Luật Tạng vũ trụ xoay chuyển hủy diệt. Ta làm theo Ý Trời Thiên Ý nên không ai có thể chống lại được. Thuận Thiên thời tồn tại, nghịch Thiên thời tiêu vong.

Sự tùng phục của Thiên Hạ đối với Ta là do Họ tùng phục Trời vậy. Vì Ta làm việc cho Trời nên Họ tùng phục Ta. Nếu Ta không làm việc cho Trời thời lấy đâu ra quyền năng thiên hạ hướng về Ta.

Nói Tóm Lại: Những người hành sự theo Thiên Ý đều là những người có quyền lực tối cao, những người truyền dạy lời Trời dạy là những người có địa vị tối cao. Những người dìu dắt nhân loại về Nguồn là những người có đức tối cao. Những người tôn trọng bảo vệ những Quyền cơ bản Tạo Hóa ban cho là những người có tư cách nhân cách phẩm hạnh cao ai cũng kính trọng nể phục. Những người thông hiểu những Định Luật vũ trụ là những người trí huệ tối cao.

Sự tối cao không phải là tự xưng Ông nầy Bà nọ mà là căn cứ theo sự hiểu biết chứng ngộ của mình hành sự làm theo Thiên Ý.

Đất nước Na Di Đề tuy là một đất nước nhỏ, nhưng lại là nơi Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa Tối Cao Vũ Trụ Thiên Ý ra đời, đương nhiên nhân loại toàn cầu hướng về Đất Nước Na Di Đề tất cả là do Thiên Ý đã an bày không phải nước Na Di Đề tài ba lỗi lạc chi đâu.

Tóm lại: Những người Làm theo Thiên Ý vận hành Thiên Ý đi vào cuộc sống làm cho nhân loại thấm nhuần Thiên Ý thấu suốt Cội Nguồn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa an vui tự tại. Đều trở thành Chuyển Luân Thánh Vương từ thấp lên cao tùy theo công sức của mình mà thành tựu. Đức Chuyển Luân Thánh Vương vừa tuyên thuyết xong thời vô số Vương, Quan, Các vị Thần, Thiên Thần, Nhơn Thần, Địa Thần đã hội ngộ đi vào quả vị Chuyển Luân Thánh Vương.
 
72. CÂU CHUYỆN HUYỀN CƠ

Ngã tư bà quẹo nổi tiếng là có bốn nhân vật kỳ quái Hai Bình, Ba Luận, Bốn Giải, Năm Đề không ai là không biết, bốn nhân vật nầy rảnh rỗi thường đến với nhau, hết mổ xẻ chuyện đông rồi đến chuyện tây, chuyện nào cũng ra phết, ở cạnh nhà Hai Bình là quán cà phê nhiều vị khách lắng nghe say sưa.

Cũng như ngày nào Hai Bình chăm sóc mấy chậu hoa cây cảnh xong thời có khách, không Ba Luận thời Bốn Giải đến chơi, Hai Bình đang tưới hoa hắt hơi vài cái Hai Bình nghĩ thầm hôm nay tứ quái đủ mặt hay sao mà hắt hơi dữ quá. Hai Bình vừa tưới hoa xong thời nghe tiếng xe máy đi vô cổng không phải một người mà có đến ba người, Hai Bình nói chà linh thiệt tam quái đã đến, Hai Bình tiếp đón niềm nở rồi cười nói chuyện lạ sắp mở màn rồi đây.

Hai Bình kêu bốn ly cà phê chế bình trà thượng hạng cả bốn người vừa uống cà phê vừa nói chuyện linh tinh tình hình xã hội, bước qua tuần trà.

Năm Đề nói hễ nói đến thời cuộc vận mệnh xã hội thời người ta thường đề cập đến Huyền Cơ không lẽ có sự sắp xếp của Ông Trời.

Ba Luận nói đúng vậy. Vận thời đi khỏi ông giỏi cũng chẳng làm được gì, tài hay cho mấy nhưng vận thời không có làm lớn thời lỗ lớn làm nhỏ thời lỗ nhỏ, biết bao doanh nghiệp phá sản khóc đứng khóc ngồi.

Bổn Giải nói. Ba Luận nói cũng phải những người thất bại thường là những người không nắm bắt được thời cơ, không tận dụng được thời cơ, người thành công nhất vẫn là người nắm rõ thời cơ, hiểu rõ vận thời, mùa rét thời bán áo lạnh, mùa nóng thời bán nước đá, còn không bán áo lạnh, bán nước đá, thời đi vào trung lộ kinh doanh buôn bán những mặt hàng mùa nào người ta cũng dùng.

Hai Bình nói. Hiểu rõ Huyền Cơ. Tận dụng thời cơ là như thế nào? có ai thấy được Huyền Cơ chưa, nếu chưa thấy cũng chỉ là đoán mò. Thấy trời mưa liền đi buôn áo lạnh thời chưa gọi là nắm bắt thời cơ, nắm bắt thời cơ là biết mùa Đông sắp đến ta đã chửng bị số lượng áo lạnh áo mưa để mà bán. Như vậy người nắm bắt thời cơ là người phải hiểu sự chuyển vận của Trời Đất. Trời chuyển Đông thiên hạ sống theo Đông, Trời chuyển Xuân thiên hạ sống theo Xuân, nắm rõ chu kỳ luân chuyển Xuân, Hạ, Thu, Đông, chu kỳ luân chuyển đó chính là sự sắp xếp theo Luật Tuần Hoàn vũ trụ gọi là Huyền Cơ.

Nắm bắt Huyền Cơ là hiểu rõ chu kỳ luân chuyển Xuân, Hạ, Thu, Đông. Thấy Xuân đến theo xuân đó gọi là theo thời theo thế không phải là nắm bắt thời cơ.

Nắm bắt thời cơ là chửng bị trước khi mùa Đông đến, làm chủ thế cuộc vì Đông đến thiên hạ sống theo Đông. Những gì thiên hạ sống theo Mùa Đông thời ta đã chửng bị thứ mà thiên hạ cần.

Năm Đề nói xen vào. Nói đến Huyền Cơ là nói quy luật Luân Chuyển Tuần Hoàn không phải là Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mà còn nói đến các chu kỳ Tuần Hoàn khác nữa như chu kỳ Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn trong một nghìn năm. Chu kỳ Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn trong mười nghìn năm.

Chu kỳ Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn trong một triệu năm. Nói rộng hơn nữa là chu kỳ Tuần Hoàn một tiểu kiếp Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn 16 triệu 800 nghìn năm.

Ba Luận nói chu kỳ một nghìn năm chia làm ba giai đoạn Thượng Ngươn Thánh Đức. Trung Ngơn Nhơn Đức. Hạ Ngươn Mạt Pháp, mỗi chu kỳ kéo dài 3 trăm 33 năm.

3 trăm 33 năm đầu nghìn năm tức là Thượng Ngươn Thánh Đức. Khác với chu kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp 3 trăm 33 năm những thập niên cuối chu kỳ nghìn năm. Chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức chơn Dương rất mạnh phù hợp với chân thiện con người, không phù hợp với Tà Ác. Vì thế Chánh Pháp ra đời tận độ nhân loại con người về trời.

Đến chu kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp chơn Âm hưng thịnh phù hợp với tánh ác vì thế cái ác nổi trội đè bẹp cái thiện. Nên gọi là thời Mạt Pháp.

Bốn Giải nói đến giờ nầy tôi mới hiểu thế nào là Hạ Ngươn Mạt Pháp. Khi chu kỳ Hạ Ngươn Mạt Pháp mở màng thời những học thuyết tà đạo, những mưu mô hiểm độc, những thể chế phi nghĩa sanh ra ở thời Hạ Ngươn Mạt Pháp đạo đức con người xuống cấp.

Nhưng đến khi Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức ra đời chơn Âm bị đẩy lùi cái ác lần lần bị hủy diệt vì không còn phù hợp, thay vào đó là Chân Thiện ra đời đi vào Cơ Thượng Ngươn Thánh Đức. Những gì sanh ra trong thời Mạc Pháp gần cuối chu kỳ một nghìn năm, sẽ bị hủy diệt lần theo chu kỳ Thượng Ngươn Thánh Đức ra đời. Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ không còn vì Chủ Nghĩa Cộng Sản sanh ra trong thời Hạ Ngươn Mạt Pháp. Không cần đánh phá cũng tự biến tan khi Thượng Ngươn Thánh Đức ra đời.

Đầu Kỉ Nguyên Thượng Ngươn Thánh Đức mở màn đi vào chủ nghĩa chân thiện, chủ nghĩa chân thiện chính là chủ nghĩa Đại Đồng, chủ nghĩa đỉnh cao của Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ đi vào cuộc sống mùa xuân.

Hai Bình nói: mỗi người đã mở ra một tia sáng làm tôi tỉnh ngộ theo cơ sấm nói mười phần hết bảy còn ba hết hai con một mới ra thái bình. Không phải là nói nhân loại con người chết hết bảy còn ba, chết hết hai còn một mới ra thái bình. Vì chưa tới chu kỳ Thủy Tai gần cuối tiểu kiếp. Mà là nói những gì sanh ra ở thời Hạ Ngươn Mạt Pháp ví dụ như chủ nghĩa Vô Thần, sẽ bị hủy diệt xóa bỏ chỉ còn lại một phần mà thôi. Những ai giác ngộ sớm họ từ bỏ chủ nghĩa vô thần, tránh đi hậu họa.

Qua câu chuyện trên ta có thể hình dung ra mà thấu rõ Huyền Cơ. Ở vào giai đoạn Thượng Ngươn Thánh Đức, đương nhiên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trên các cõi trời lâm phàm xuống thế phải nói là rất nhiều để lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn tiến hóa lên ngôi vị cao hơn, cũng như thành lập quốc độ các cõi nước trời. Cơ hội hàng triệu năm đâu thể bỏ qua ra sức gieo trồng Thiên Ý. Gặt hái phúc báo vô tận vô biên kiếp về sau.

Tứ Quái mỗi người nói lên sự hiểu biết của mình làm sáng tỏ được Thiên Ý Huyền Cơ. Thậm chí nắm bắt được Huyền Cơ mở ra một tương lai mới. Ông Thời đã có, Ông giỏi ra sức, thuận buồm xuôi gió làm đâu đặng đó, tài lộc kéo đến ào ào như trận mưa rào mặc sức tha hồ mà hưởng.
 
73. CÔNG CHÚA LA NA

PHẦN 1

Ngày xửa ngày xưa ở nước Pha Ra, ở làng Phù Sa, Huyện Đông Lộ dân chúng rất đông làm ăn khấm khá trồng cây gì cũng tốt, nuôi con gì cũng mau lớn vì lượng phù sa bồi đắp hàng năm.

Có cặp vợ chồng rất nghèo Ông Bà Mô Ly không bao giờ lấy của ai dù là cây kim sợi chỉ, ăn ở hiền lành, ai cần gì cũng giúp. Dân Làng ai cũng mến thương. Ông Bà Mô Ly sanh được một cậu con trai đặt tên là Ta Di khôi ngô tuấn tú nhất là cặp mắt sáng ngời.

Ta Di lớn lên càng thông minh nhất là chịu khó luôn theo cha mẹ làm lụng suốt ngày tuy mới bảy tuổi nhưng giỏi giang ít ai bằng.

Cha của Ta Di một hôm phát bệnh rồi qua đời không bao lâu thời người mẹ cũng theo cha mà đi. Bỏ lại Ta Di mồ côi mồ cút Ta Di tuy không còn cha mẹ nhưng làm ăn rất giỏi nuôi gà tỉa ngô trồng khoai cũng đủ sống dân làng không ai là không nể phục sự chịu khó của Ta Di.

Cũng vào thời ấy làng Phù Sa xảy ra một chuyện kỳ lạ ba năm liền có làm mà chẳng có ăn lúa ngô toàn là hạt lếp khoai sắn trồng không có cũ toàn là rễ nhưng không vì thế mà chết đói vì màu xanh vẫn còn dân tình khốn khổ vô cùng.

Bỗng một hôm trên bầu trời mây đen ùn ùn kéo đến, trên đám mây đen một con mãng xà to lớn xuất hiện nói với dân làng rằng nếu muốn được mùa, cũng như nuôi con gì cũng mau lớn mau đẻ, làm đâu trúng đó làm gì được nấy không bao lâu sẻ dư ăn dư mặc, thời làm cho ta một cổ miếu hàng năm dâng cúng cho ta một đứa trẻ nhỏ từ năm tuổi đến 10 tuổi. Bằng không thời như dân làng thấy đó trồng cây toàn là quả lép, trồng khoai sắn toàn là rễ không có củ dân làng sẽ chết đói cũng như nạn dịch xảy ra chết cả làng. Dân làng nghe xong thời sợ quá nhưng bỏ làng ra đi thời biết sống ở đâu.

Không còn con đường nào khác dân làng Phù Sa làm cho con Mãng Xà thành tinh một cổ miếu khang trang. Làng Phù Sa họp tất cả dân làng lại để có sự công bằng đi vào bốc xăm, những gia đình có con nhỏ đều phải bốc xăm trong đó chỉ có một cây xăm đề ký hiệu dâng nạp trẻ con cho Mãng Xà chỉ riêng Ta Di vì mồ côi cha mẹ không đi vào bốc xăm vì tuyệt hậu không còn người nối dõi.

Quả đúng như lời Mãng Xà Trăn Quỷ hứa, cuộc sống làng Phù Sa trở lại như cũ trồng cây gì cũng tốt hoa quả sum sê, nuôi con gì cũng mau lớn chóng để cuộc sống ấm no trở lại.

Đến năm thứ ba không may gia đình Ca Lô bốc trúng ký hiệu nộp con cho mãng xà tuy đông con nhưng toàn là gái duy nhất có một bé trai chín tuổi gia đình Ca Lô khóc lóc thảm thiết, đã dâng cúng cho Mãng Xà là ra đi vĩnh viễn không còn trở lại, trở thành tuyệt tự không còn con trai nối dõi tông đường.

Ta Di ở gần nhà Ca Lô nghe khóc kể thảm thiết, động lòng thương xót nghĩ mình chỉ có một mình không người thân thôi thì thế mạn cho con họ cũng là một chuyện làm tốt để cho gia đình họ có con có cháu nối dõi tông đường nhất là sum hiệp an vui hạnh phúc. Đến ngày dâng nạp Ca Lô ôm người con trai bé nhỏ cùng gia đình khóc như mưa. Ta Di bằng dõng dạc nói tôi mồ côi không còn ai dù có chết đi cũng không lấy gì làm tiếc không có ai đau lòng vì tôi, cũng không có sự chia ly người thân nào cả, còn em bé kia còn cha còn mẹ, nhiều chị em sum vầy vui vẻ tôi đi nộp mạng thay cho. Hơn nữa năm nay tôi mười tuổi còn nằm trong diện dâng nạp cho Mãng Xà Tinh được.

Cả làng nghe Ta Di tự nguyện cống hiến đời mình thay thế cho người khác, một việc làm không ai ngờ đến dám hi sinh cuộc đời nạp mình cho Trăn Quỷ, để cho Ca Lô có người nối dõi Tông Đường cũng như an vui hạnh phúc gia đình, cả làng Phù Sa ai cũng khóc ròng nhất là cả gia đình Ca Lô quỳ xuống lạy Ta Di.

Những vị trưởng lão trong làng lau chùi nước mắt chạy tới nắm lấy tay Ta Di nói không được đâu con gia đình con chỉ còn lại một mình con, phụng sự hương khói cho cha mẹ.

Ta Di dõng dạc nói; Thưa các trưởng lão khi cha mẹ còn tại thế thường dạy con rằng trần gian chỉ là nơi cõi tạm, vì vậy sống phải có ích cho đời, sống vì người gieo trồng thiện đức, thiện đức sẽ vĩnh viễn theo mình.

Con sinh ra trong tình thương yêu của Cha Mẹ cũng như sự bảo bọc của xóm làng. Giờ đến lúc con phải làm một việc mà con phải làm, con cảm thấy vui. Không gì vui hơn là thấy gia đình bác Ca Lô đây hay gia đình khác cũng vậy được hạnh phúc.

Chắc Cha Mẹ con nơi chín suối vui lắm khi thấy con làm một việc hữu ích cho đời, đem lại hạnh phúc cho người con quyết định rồi các chú các bác các ông đừng khuyên can nữa. Cả làng nghe những lời nói Ta Di như những tiếng sấm vang đánh thức lương tâm con người trở về con đường chân thiện, sống vì người quên cả thân mình, hạnh phúc của xóm làng cũng chính là hạnh phúc của mình. Cả làng tôn kính Ta Di như là Thần Thánh làm heo làm gà thiết đãi Ta Di, vì ngày mai Ta Di sẽ đem thân nạp mạng cho quỷ.

Những món gì ngon nhất dân làng cũng đem cho Ta Di ăn.

Lại một ngày trôi qua ngày nộp mạng cho xà tinh đã đến, mặt trời sắp lặn sau những dãy núi, bầu trời u ám ánh hoàng hôn bao phủ nỗi buồn, cả làng tiễn chân Ta Di đến cổ miếu, nhìn cổ miếu cách đó không xa dân làng vô cùng sợ hãi. Thế mà Ta Di vẫn tỉnh bơ xem thường sự sống chết.

Ta Di tiến về phía trước cách xa dân làng Ta Di quay đầu nhìn lại phất tay như chào vĩnh biệt dân làng không cầm được nước mắt có người bật khóc, tiếng khóc nghẹn ngào thật là thảm thiết làm sao.

Ta Di đi thẳng đến ngôi cổ miếu ngâm mấy câu thơ

Ta sẽ theo về với Cha Ông

Tạm biệt trần gian, với chúng dân

Bên kia thế giới, ta nhớ mãi

Nhớ cả quê hương, lẫn núi sông

Hoàng hôn lịm tắc bóng đêm dần dần phủ khắp non sông núi rừng chìm trong tĩnh mịch, ánh trăng vắt vẻo trên ngọn cây thỉnh thoảng tiếng xào xạc vang lên trong đêm những bước chân trên lá, pha lẫn tiếng côn trùng khắp nơi khắp chốn, tiếng hổ gầm, tiếng sói tru, tiếng cú kêu nghe sao mà ớn, trời tuy không lạnh nhưng cảm thấy rợn gáy nổi da gà.

Trên bầu trời mây đen xuất hiện bao trùm rừng núi cuồng phong nổi lên cát bay đá chạy từ trên không một bóng người bay xuống thì ra con Quỷ Mãng Xà đã hiện thành người mặt mày trông hung dữ hai con mắt lòi ra với những chiếc nanh dài thoàng nhọn hoắt nhìn thấy mà rợn tóc gáy. Hai con mắt phát ra hai luồng ánh sáng như hai ngọn đèn pha những người yếu bóng vía nhìn thấy là chết ngất.

Con Quỷ bước vào ngôi cổ miếu nhìn thấy Ta Di ngồi xếp bằng như những vị Phật, uy nghi như những vị Thánh sắc mặt không hề sợ hãi con quỷ vô cùng kinh ngạc nghi ngờ không lẽ Thánh Thần nào hóa ra, liền hỏi tiểu tử ngươi không sợ sao?

Ta Di nhìn con quỷ rồi trả lời chết ta còn không sợ, thời sợ gì con quỷ nhà ngươi. Con Xà Quỷ nghe Ta Di nói thế không hề tức giận còn tỏ ra khoái chí nói, ăn thịt ngươi còn hơn ăn thịt mười em bé khác. Con quỷ liền chụp Ta Di bay lên mây bay về hang động không thấy đáy. Con quỷ vừa hạ chân xuống đáy hang động thấy có một bóng người liền ném Ta Di vào một xó động quát lên dữ dội yêu tinh ở xứ nào dám đến chiếm động của ta. Tức thời một cuộc chiến xảy ra khủng khiếp.

Ta Di nhìn thấy Xà Quỷ đấu với một người mặt chim ưng trận giao chiến vô cùng khốc liệt người mặt chim ưng hình như yếu thế bay lên khỏi hang động. Mãng Xà Trăn Quỷ rượt đuổi theo.

Ta Di biết thế nào mình cũng bị Trăn Quỷ ăn thịt, nếu sống thời không thể nào ra khỏi hang động không thấy đáy nầy được. Tánh tò mò trẻ con nổi lên Ta Di lục lạo khắp nơi phát hiện ra một ngách hang động Ta Di đi ngay vào đáy sâu bên trong là một căn phòng rộng lớn Ta Di nhìn thấy một người bị nhốt trong một cái lồng sắt Ta Di kinh ngạc hỏi ông là ai?

Người trong lồng sắt nói Ta là Thần Núi dãy chu sơn nầy bị con Trăn Quỷ bắt nhốt mấy trăm năm nay pháp thuật Trăn Quỷ cao siêu không biết bao nhiêu vị Thần chết trong tay nó. Đây là cơ hội để giết được nó không những ngươi cứu được ta mà còn làm chủ một kho báu, trong đó có rất nhiều báu vật mà người đời thèm muốn vô cùng.

Con Mãng Xà Quỷ hiện giờ đang chiến đấu với đại bàng tu luyện thành tinh hai bên giao tranh dữ dội thương tích đầy mình nhưng ta biết hai bên đều bỏ cuộc bất phân thắng bại ai về động nấy. Tiểu tử ngươi hành động nhanh lên mau tới đây ta chỉ cách tiêu diệt con Trăn Quỷ không những cứu ta cứu được ngươi, còn cứu được dân làng Phù Sa khi con Mãng Xà Quỷ đã bị ngươi tiêu diệt.

Con Trăn Quỷ đang tu luyện Âm Dương Thần Đơn hơn nghìn năm sắp thành rồi chỉ còn hút lấy tinh khí mười đứa trẻ nhỏ nữa là thành mà chính tinh khí trong người ngươi bằng mười đứa trẻ nhỏ. Giết được con tinh quỷ nầy chỉ có ngươi làm nổi mà thôi.

Ta di liền bước tới lồng sắt. Thân Núi Chu Sơn lấy trong mình ra một thanh kiếm nhỏ trao cho Ta Di nói đây là Thần Kiếm chém sắt như chém bùn. Chỉ cần ngươi niệm chú thời thanh kiếm sẽ lớn ra như ý. Ngươi mau chui qua khe hở bí mật nầy, nơi ấy chính là nơi tu luyện Âm Dương Thần Đơn, tìm thấy Thần Đơn là ngươi nuốt ngay vào bụng ngươi sẽ có công lực hàng nghìn năm tu luyện ngươi sẽ hạ gục được nó. Nhất là khi con Mãng Xà quỷ còn đang bị thương.

Theo lời chỉ dẫn Thần Núi Chu Sơn Ta Di lách mình chui qua một khe vách đến một đường hầm ăn sâu tới một căn phòng nơi có phát ra ánh sáng Ta Di nhìn thấy một viên Thần Dơn to như quả trứng gà, từ Thần Đơn phát ra muôn đạo hào quang trông đẹp mắt vô cùng Ta Di bước nhanh đến nhặt lấy Thần Đơn bỏ ngay vào miệng viên Thần Đơn tan ra rồi trôi xuống bụng hết thảy. Ta Di thấy trong người nóng lên như lửa vô cùng kinh hãi chưa biết phải làm sao thời nghe tiếng nói vọng tới bày cho cách thu nạp chân khí vận hành thần đơn lưu chuyển khắp châu thân. Âm Dương Thần Đơn vận chuyển đến đâu thời huyệt đạo kinh mạch đều thông suốt đến đó, thân hình nhẹ bỗng như muốn bay lên. Tiếng nói Thần Núi Chu Sơn lại vang lên tiểu tử ngươi mau trở về chỗ cũ nằm im co ro trong xó con Mãng Xà Tinh Quỷ sắp trở về rồi.

Ta Di nhanh chóng trở lại đường cũ ra khỏi ngách động tới nơi xó động nằm im thiêm thiếp.

Con Mãng Xà Tinh Quỷ bay xuống động trên người dính đầy máu. Việt đầu tiên nó nhìn Ta Di còn ở đó không nó thấy Ta Di ngồi co ro sợ thiêm thiếp trong xó. Nó liền yên tâm hiện thành một con Mãng Xà to lớn cuộn mình vận công chữa thương. Ta Di thấy từ con Mãng Xà một lớp sương mờ tuôn ra bao phủ tức thời bên tai tiếng nói vo ve như con muỗi hành động ngay đi đâm Thần Kiếm vào ngay cỗ của nó đâm càng nhiều càng tốt. Ta Di vốn là người dũng cảm không biết sợ là gì Ta Di lấy kiếm ra niệm chú tức thời kiếm Thần lớn dài ra bằng thanh kiếm người đời thường sử dụng. Lao nhanh tới đâm lia lịa vào cổ con Mãng Xà Tinh Quỷ. Quá bất ngờ con Mãng Xà Quỷ trúng liền mười nhát kiếm máu tuôn xối xả. Con Mãng Xà gào thét dữ dội phun ra luồn yêu khí giết chết Ta Di nào hay Ta Di không hề hấn gì còn quát lên một tiếng long trời lở đất thanh kiếm thần trong tay vung lên chém tới con Mãng Xà Tinh Quỷ liền hiện ra một con quỷ những móng vuốt chụp tới xé xác Ta Di nào hay kiếm Thần vô cùng sắc bén cộng thêm hàng nghìn năm công lực Âm Dương Thần đơn con Quỷ bị chém đứt làm ba khúc hiện nguyên hình là con Mãng Xà đứt làm ba khúc.

Cùng lúc ấy một tiếng nổ vang lên khung lồng sắt tan biến đâu mất Thần Núi Chu Sơn từ trong ngách động đi ra lạy tạ ơn cứu mạng. Ta Di bằng trả kiếm Thần lại cho Thần núi.

Thần Núi Chu Sơn nói ơn cứu mạng không có gì để đền đáp, nay Chu Sơn Thần Núi Ta kính tặng ân nhân cây Thần kiếm làm hộ thân cũng như ân nhân dùng nó để giúp đời cứu người.

Thần Núi Chu Sơn nói xong liền biến mất. Ta Di đến lúc nầy mới sực nhớ là mình còn ở dưới đáy động làm sao mà lên cho được. Nhưng Thần Núi cũng đã đi rồi biết làm sao đây. Ta Di biết mình không thể nào ra khỏi đây được nhưng nhờ uống được Âm Dương Thần Đơn nên không thấy đói khát chi cả quan sát hang động thấy có nhiều ngóc ngách tức thời ra sức khám phá nhưng không thấy gì khác lạ ngoài vách đá bốc mùi âm u hơi lạnh tràn ra tạo thành dòng nước chảy róc rách Ta Di đi trở ra chỗ con Xà Tinh Quỷ chết nhìn lên vách đá có một chỗ nhìn khác lạ bằng lấy tay chùi đi lộ ra dòng chữ u linh ma động. Ta Di bấy giờ đôi mắt rất sáng nhìn thấy một dấu bàn tay lờ lờ Ta Di liền lấy bàn tay của mình ấn mạnh vào chỗ đó liền nghe tiếng rè rè một ngách động từ từ mở ra Ta Di lấy làm kinh ngạc chắc con Quỷ Mãng Xà cũng không biết chỗ nầy.

Ta Di liền đi vào đó đi hơn mười mấy bước thời đến một mật thất rộng lớn có một phiến đá bằng phẳng sáng bóng hơi lạnh bốc ra kinh người ngoài ra không còn gì nữa Ta Di định quay ra chợt nhìn thấy trên vách đá có bàn tay Ta Di liền đặt bàn tay mình lên đó nhấn mạnh một cái tức thời nghe tiếng rè rè xảy ra cánh cửa đá vừa mở bên trong sáng rỡ bước vào thời thấy những viên minh châu to lớn kỳ lạ phát tỏa ánh sáng làm cho mật thất nhìn đâu cũng thấy rõ ràng. Trên bàn đá có một bộ xương có lẽ người nầy viên tịch rất lâu.

Ta Di quỳ lạy khấn vái rằng; Con tên là Ta Di với bậc tiền bối có tiền duyên nên con mới đến được đây. Nếu con được Tiền Bối chỉ dạy thời con gọi Tiền Bối là Sư Phụ. Lạy xong Ta Di liền thấy bộ xương lay động rồi đổ nhào dưới bộ xương khô có một cái hộp bằng vàng lổn sâu dưới kệ đá. Ta Di bằng lấy chiếc hộp rồi mở ra trong đó có một cuốn bí kiếp cùng một tấm da. Có dòng chữ nói rằng vô cực bí pháp thần công là môn tuyệt học võ lâm chí tôn, người luyện được võ công nầy phải là người có căn cốt thượng đẳng phải mất 50 năm mới đạt đến đỉnh cao mười hai thần công lực. Nếu ngồi trên thạch băng luyện công phải mất 20 năm mới thành. Cuốn bí kiếp võ công chia làm ba phần nội công bí pháp, vô cực kiếm pháp, phi hành bộ pháp. Ta Di nghĩ 20 năm thời 20 năm mình đâu còn ai thôi thì chuyên tâm tu học để quên đi tất cả.

Ta Di nghĩ đến lấy gì ăn để sống liền nhớ đến con Mãng Xà Tinh Quỷ đã tu luyện hàng nghìn năm ăn thịt Tinh Quỷ tu luyện võ công thời còn gì bằng. bằng xẻ thịt Tinh Quỷ lấy da còn thịt thời bỏ vào phòng lạnh, khi nào thấy đói thời dùng thịt Trăn Quỷ.

Thời gian thấm thoát trôi qua tu luyện Thần Công thời ngồi trên băng đá, luyện chiêu pháp thời ra ngoài đáy hang động u minh. Không biết là đã bao lâu Ta Di trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú võ công cũng đã học hết không còn gì để lưu luyến ở lại nơi đây. Dưới đáy u minh có một loại dây leo bò trên vách đá thân nhỏ như cây kinh nhưng người thường khó mà bứt cho đứt dây leo nầy đã mười lần nở hoa Ta Di nghĩ không lẽ đã mười năm trôi qua rồi sao.

Áo quần xưa kia không còn mặt được nghĩ đến da Trăn Tinh Quỷ vô cùng quý hiếm đao kiếm thường khó mà chặt đứt Ta Di từ nhỏ được cha mẹ dạy cho cắt vải may đồ. Da Trăn Quỷ rất mỏng mềm mại đến kỳ lạ nhưng đao kiếm thường khó mà cắt đứt, Ta Di lấy thanh kiếm nhỏ cắt da Trăn Tinh Quỷ ra nhiều bộ phận khâu vá thành bộ quần áo vừa vẹn trông thật khéo léo không khác gì tay thợ chuyên nghiệp. Ta Di khâu một túi xách chọn lấy những viên minh châu to lớn phát tỏa hào quang lấp lánh trông đẹp mắt vô cùng, những thỏi vàng sáng chói bấy nhiêu đó cũng thành giàu có trên đời. Ta Đi vào lạy Vô Cực Tổ Sư ấn bàn tay vào vách đá đóng cửa mật thất lại rồi trở ra nơi đáy động ấn bàn tay đóng luôn cửa ngách động trở lại như cũ.

Đứng dưới đáy động Ta Di nhìn lên thăm thẳm không thấy miệng hang nhưng nhờ học được kinh công cái thế Ta Di phi thân vun vút bay lên lấy chân đạp vào vách đá cứ thế tiếp tục phi thân vun vút bay lên không bao lâu thời tới miệng hang. Ta Di phi thân bay lên một tảng đá cao nhìn núi rừng trùng điệp, một cơn gió thoảng lá vàng rơi đầy mặt đất, nhìn lại thân mình không còn như đứa trẻ ngày xưa, giờ đây cũng đã mười chín tuổi. Nhìn lá vàng trải đầy mặt đất cảm xúc trong lòng liền ngâm mấy câu thơ.

Bao mùa lá rụng, lá vàng rơi

Thu đến thu đi, thu lại sang

Thân người cũng đã, nhiều thay đổi

Mới đó giờ đây, trở thành chàng

Lối gió đường mây, chung hơi thở

Khói lên nắng xuống, đất thênh thang

Bốn bể là nhà, đâu cũng thế

Thường dân cũng được, nệ gì quan

Ta Di không biết nơi đây là đâu chỉ nghe Thần Núi nói có lẽ dãy núi nầy chính là dãy núi Chu Sơn. Không hiểu quê mình cách đây bao xa đi về hướng nào. Ta Di phi thân một ngày đêm thời tới đồng bằng Ta Di đi vào một xóm làng phải nói là trù phú màu xanh tăm tắp lúa ngô cùng khắp, khoai sắn đầy nương cảnh ấm no không khác gì quê làng Phù Sa, Ta Di liền ngâm mấy câu thơ.

Ngắm cảnh nơi đây nhớ quê nhà

Cũng đồng cũng ruộng, rộng bao la

Lúa ngô, khoai, sắn, xanh tươi tốt

Bầy cò trắng lã, vụt bay qua

Tay cày tay cuốc, bao trai gái

Tiếng hát trên đồi, những ngân nga

Một miền thôn dã, đầy ấm cúng

Bao cô thôn nữ, tựa như hoa

Ta Di ngâm xong liền nghe thấy tiếng vỗ tay khen ngợi không dứt từ phía sau nổi lên huynh làm thơ hay quá. Ta Di quay đầu nhìn lại thấy một người thanh niên hào hoa phong nhã Ta Di thi lễ nói chào công tử.

Người thanh niên hào hoa đáp lễ nói tôi tên là Ca Ra ở thị trấn Cô Lô gần đây. Hai người làm quen với nhau có lẽ tâm đầu ý hợp nên coi nhau như bạn, không bao lâu thời tới thị trấn dân chúng đông đúc, người mua kẻ bán tấp nập. Ca Ra nói ở thị trấn nầy có một quán ăn nổi tiếng món gì cũng có chỉ sợ không có tiền. Ta Di nghe nói bụng dạ cồn cào vì chín mười năm nay chưa có bữa ăn nào cho ra phết bằng nói huynh dẫn tôi đến quán đó đi vì tôi là người phương xa không rành nơi nầy.

Ca Ra liền dẫn Ta Di đến, quán ăn bề thế sang trọng người đông có đến cả trăm người, Ta Di Ca Ra vừa ngồi xuống bàn, người phục vụ hỏi dùng món gì Ta Di nói món nào đắc nhất vài ba món dọn lên đây, Ca Ra kinh hãi nói chỉ cần một món cũng vài chục lượng bạc kêu nhiều món như vậy chỉ tính cho chủ quán bằng vàng mà thôi. Ta Di nói không hề gì huynh cứ thoải mái mà dùng cùng tôi. Những người khách ngồi gần bàn Ta Di nghe Ta Di nói như thế quay sang nhìn. Họ thấy Ta Di ăn mặt kỳ lạ chỉ là một bộ quần áo da trăn, người trên núi mới xuống đồng bằng có lẽ kiến thức ẩm thực còn kém mới kêu những món ăn thượng hạng hàng ngoại nhập của nhiều nước lấy vàng đâu mà trả.

Những nhà giàu có, chỉ dùng một món mà còn hít hà ăn cho biết.

Người ta nhìn thấy trên bàn Ta Di nào là Phi-le bò Ko-be, cua nhện hoàng đế, bánh cup-cake phượng hoàng, trứng cá muối hoàng đế. Ca Ra nhìn thấy những món trên bàn toàn là món ăn thượng đẳng chỉ nghe nói chưa bao giờ nhìn thấy nói gì đến ăn. Ca Ra nhìn Ta Di nói có vàng trả không huynh. Ta Di nói yên trí đi ăn hết kêu nữa.

Ca Ra tưởng mình nghe lầm bằng hỏi lại ăn hết kêu nữa sao? Những người trong quán ồ lên kinh ngạc chàng thanh niên kia là hoàng tử chắc, ai nấy đều trằm trồ, có người nói với bộ dạng kia không phải là hoàng tử, hay trưởng giả giàu có gì đâu, mà là một tên người rừng không biết trời cao đất rộng là gì mới dám kêu những món ăn đắt nhất thế giới hãy chờ xem bà chủ quán cột trói tên nầy, chuyện vui sắp xảy ra, nghèo đến nỗi không có vải mặt, mặt da trăn mà thôi.

Có người nói không phải bộ đồ da trăn kia tầm thường đâu nội nhìn thấy ánh sáng lấp lánh ít lắm cũng vài chục lượng vàng đấy, bà chủ quán cũng đánh giá được bộ đồ da trăn kia mới dọn cho khách những món ăn thượng đẳng đắt nhất thế giới.

Người ta nhìn thấy Ta Di cùng Ca Ra ăn hết sạch Ca Ra có lẽ đã no còn Ta Di thời ăn chưa đã bằng kêu thêm mấy món nữa cũng toàn là đắt tiền. Trong quán có một vị công tử nổi tiếng là giàu có nhất tỉnh Ma Ghi lâu lâu ghé qua dùng một món, nay thấy Ta Di kêu một lần năm bảy món, món nào cũng đắt nhất thế giới thời cay con mắt đứng dậy đi đến bàn của Ta Di nói ngươi ở xứ nào mà phách lối như vậy tiêu xài còn hơn cả Ông Hoàng ngươi có điên không? Biết là có chuyện Ca Ra nói huynh trả tiền rồi đi. Ta Di nói ăn chưa đã mà huynh để tôi ăn xong rồi trả tiền cũng chưa muộn. Ta Di không đếm xỉa gì đến tên công tử nhà giàu, tên công tử nhà giàu liền gây chuyện gọi gia nhân đến nói cho tên nầy một bài học vì dám coi thường bổn công tử. Nhìn tên gia nhân ai cũng biết là một người có võ công cao cường, tên gia nhân không nói không rằng đấm vào mặt Ta Di, Ca Ra thấy Ta Di cắm cúi ăn không đỡ cú đấm bằng ra tay đỡ thế nói xin lỗi các hạ chúng tôi là người không có lỗi vô cớ đánh chúng tôi như thế là phạm pháp.

Tên gia nhân không phải tay vừa liền ra đòn nhanh như chớp tấn công vào thượng trung hạ đối phương, tay phải rút đao chém một nhát Ca Ra né tránh thanh đao quá đà chém trúng Ta Di ai nấy cũng kinh hãi tưởng Ta Di toi mạng, nào hay Ta Di vẫn tỉnh bơ lớp áo da trăn không hề hấn gì cả Ta Di phủi vào chỗ mới chém như phủi bụi mới đính, ai nấy đều ồ lên chiếc áo báu vật. Chàng công tử giàu có không dám gây sự nữa trở về chỗ ngồi tìm kế cướp đoạt cho được chiếc áo báu vật kia.

Bỗng tiếng ngựa reo vang một vị quan bước vào quán dán nhiều bản cáo thị, ai nầy đều xúm lại đọc thì ra công chúa La Na nổi tiếng thông minh xinh đẹp như tiên nga giáng trần đã bị đại bàng bắt mất đi rồi. Ai cứu được công chúa. Tuổi lớn thời thưởng mười nghìn lạng vàng. Tuổi dưới ba mươi thời trở thành phò mã. Ca Ra liền gỡ lấy một bản, tên nhà giàu cũng gỡ lấy một bản. Ta Di ăn xong nói với người phục vụ dẫn ta đến gặp bà chủ. Ta Di nói với Ca Ra huynh đã gỡ bản cáo thị thời biết huynh võ học cao cường đường tương lai rộng mở chúng ta chia tay nơi đây hẹn ngày tái ngộ. Ta Di đi theo tên phục vụ đến gặp bà chủ. Bà chủ quán khá xinh đẹp tuổi năm mươi nhìn sơ qua cũng biết bà chủ là người có nội công thâm hậu, xung quanh bà chủ toàn là những cao thủ võ lâm.

Ta Di chấp tay thi lễ nói Tôi đến gặp bà chủ tính tiền, những món ăn đắt nhất thế giới, Tôi cũng đã nghe qua. Bà chủ nói bù qua sớt lại dị chi mười lượng vàng. Ta Di nói tưởng đâu nhiều hơn nữa té ra chỉ bấy nhiêu, bà chủ nghe Ta Di nói thế thời vô cùng kinh ngạc hỏi có đủ vàng để trả sao? Ta Di bằng lấy ra một thỏi vàng hai mươi bốn lượng sáng chóa. Bà chủ kinh ngạc đây là vàng mười vô cùng quý hiếm chỉ có đức vua mới có. Thường thời người ta dùng vàng 9 vàng 8 mà thôi.

Bà chủ nhìn bộ quần áo da trăn sáng bóng nói công tử bán cho tôi bộ áo quần da trăn công tử đang mặc với giá bao nhiêu tôi cũng mua. Ta Di nói chơi nghìn lượng vàng bà chủ cũng mua sao, bà chủ quán làm thinh không trả lời, bằng nói báu vật thời cất dấu đi để cho người ta nhìn thấy thời tai họa không sao tránh khỏi. Bà chủ nói xong thối lại mười bốn lượng vàng số 9 còn đưa thêm 10 lượng bạc vì giá trị vàng mười hơn vàng 9. Ta Di nhận vàng bạc rồi đi ra khi ấy có nhiều cặp mắt dòm ngó, sẵn có vàng có bạc Ta Di mua ngay một con ngựa định trở về quê, nhưng đầu óc thời nghĩ đến bản cáo thị kia.

Ta Di phi ngựa vô định không biết là mình sẽ đi đâu về quê hay tìm đến kinh đô gặp đức vua xin đi cứu công chúa. Ta Di đi ngang qua một cánh rừng thời nhiều tiếng quát nổi lên. Tên nhà giàu dẫn theo nhiều thuộc hạ, người nào người nấy to con khỏe mạnh võ nghệ cao cường. Lại thêm nhiều vó ngựa cũng đến năm người bịt mặt toàn là cao thủ võ lâm. Tên nhà giàu nhìn ra những người mới đến nói thì ra bà chủ cũng tham gia. Nhưng báu vật kia khó mà nhường được. Tên cầm đầu năm người bịt mặt nói ta chỉ cần bộ đồ da trăn kia mà thôi. Vàng bạc thời để cho các ngươi.

Ta Di nghe xong liền nói thiên đàng tốt đẹp các ngươi không muốn lên, địa ngục không lối các ngươi tự tìm xuống. Ta Di nhìn năm người bịt mặt rồi nói. Các ngươi chưa đáng tội chết nên Ta chỉ khuyên các ngươi từ bỏ ý định cướp của giết người, về nói lại với Bà Chủ hãy làm ăn chân chính tích đức về sau.

Tên trùm mặt quát lột bộ đồ nạp cho ta, thời bảo toàn mạng sống. Tên nhà giàu không thể tranh giành bộ đồ da trăn với những tên trùm mặt, bằng nói để túi xách kia lại đây may ra còn sống để ăn cơm. Ta Di nhìn trời than rằng âu cũng là bọn họ tìm đến tai họa nào phải tại con ông trời tha thứ cho con. Tên giàu có như muốn phỏng tay trên bằng ra lệnh cho thuộc hạ tấn công Ta Di bằng những đường đao loang loáng thật kinh người Ta Di lách mình tránh thoát những đường đao lợi hại, năm tên bịt mặt sợ tay giàu có phỏng tay trên bằng múa kiếm xông vào chém Ta Di tới tấp. Ta Di né tránh tài tình hơn mười người ra tay mà không đụng được chéo áo, nói gì đáng trúng Ta Di.

Ta Di thấy bọn nầy càng ra tay càng hiểm độc quát lên một tiếng nằm hết xuống cho ta, tức thời mười luồn chỉ phong bay ra điểm huyệt tất cả bọn chúng. Đến lúc nầy những người định giết người cướp của mới biết là đã gặp cao nhân, nhưng tất cả đều đã muộn võ công nội công của họ đã bị phá hủy không còn sức lực yếu hơn cả người thường. Tên giàu có quỳ lạy xin tha mạng, Ta Di lạnh lùng búng ra một luồng chỉ phong phá hủy hết võ công nội công trở thành người tàn phế.

Ta Di phi ngựa đi ngâm lên mấy dòng thơ rằng

Thiên đàng có lối không đi

Địa ngục không lối thi nhau chen vào

Ở đời cuộc sống ở đời

Gieo ác gặt họa xưa thời như nay

Còn mạng đã là cái may

Nếu không thức tỉnh họa xây trùng trùng

Trên đầu luôn có Ông Trời

Thiện ác họa phúc hai đường khác nhau

Bọn giết người cướp của tất cả đều trở thành tàn phế suốt đời không còn tu luyện được võ công nhìn theo Ta Di mà khiếp hồn khiếp vía.

Ta Di nghe người ta đồn làng nghề Tân Tạo nhiều tay nghề may vá khéo léo Ta Di tìm đến nhờ một tay nghề thông thạo tên là Ri Ni tay nghề giỏi nhất ở làng nghề Tân Tạo. Ta Di gặp bà Ri Ni nói bà bán cho tôi một bộ đồ thay cho bộ áo nầy. Bộ áo da trăn nầy sửa chữa khâu may lại, Ri Ni nói tôi nhìn thấy thời đã phát sợ rồi, cũng may nhà tôi có loại chỉ ngoại nhập bền chắc lắm ít ai dùng tới vì quá đắc một lạng chỉ một lạng vàng. Ta Di nghe nói mừng lắm liền ở tạm nơi đây vài ngày khi nào khâu may xong bộ quần áo thời đi.

Chủ nhà Ri Ni thấy bộ áo da trăn mềm mại như vải lụa thật kinh ngạc vừa kỳ lạ lần đầu tiên bà mới thấy trong đời, bà dùng dao rạch không được, dùng kéo cắt không dứt, da rất mỏng nhưng kim đâm không thủng đành bó tay, nói với Ta Di tôi không thể khâu may được cho công tử Ta Di hỏi lý do Bà Chủ nói rạch không được cắt không đứt kim đâm không thủng Ta Di như chợt hiểu ra liền nói tôi có thể giúp bà làm chuyện đó. Bà Ri Ni liền lấy số đo thật chính xác gạch vào tấm da trăn, Ta Di dùng thanh kiếm nhỏ cắt theo làn gạch rồi dùng kim đâm thủng từng lỗ nhỏ theo lời chỉ bảo của Ri Ni nhưng kim nào cũng bị gãy cuối cùng Bà Ri Ni đem bộ kim gia truyền đưa cho Ta Di. Ta Di vận vô cực thần công mới đâm thủng. Nhìn bàn tay khéo léo Bà Ri Ni nói công tử cũng là tay nghề may vá Ta Di gật đầu.

Ở lại được ba hôm thời khâu may xong bộ quần áo da trăn trông thật là xinh đẹp. Ta Di bận vào làm tăng thêm vẻ khôi ngô tuấn tú. Ta Di vô cùng mừng rỡ nói công, chỉ, bao nhiêu Bà Ri Ni nói công tử đưa cho tôi mười lượng bạc, một lượng vàng là đủ tổng số chi phí cả bộ quần áo, tiền công may, tiền ăn ở ba ngày. Ta Di lấy ra năm lượng vàng, đưa cho bà Ri Ni nói đây là phần trả công cũng như phần thưởng, bà Ri Ni vô cùng kinh ngạc lẫn vui mừng.

Ta Di ra khỏi làng nghề chưa biết phải đi đâu, không quên mặc thêm bộ quần áo mới mua che khuất bộ áo da trăn tới một ngã ba thời nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập thì ra là một tóp quân binh, đi trước tốp quân binh là ba chàng kị sĩ nai nịt gọn gàng vai mang trường kiến oai phong lẫm liệt hình như họ từ kinh thành đến đây thời phải. Ta Di nhìn ra trong số ba người ấy có Ca Ra. Ca Ra khá khôi ngô tuấn tú nhưng đôi mắt vô cùng xảo quyệt vừa nhìn thấy Ta Di, Ca Ra liền dừng ngựa cười nói té ra là huynh nếu chưa có chuyện gì làm thời tháp tùng cùng ba chúng tôi một chuyến. Hai người kia nhìn Ta Di không khác gì nho sinh thời xem thường. Ta Di nói Ca Ra huynh từ kinh thành đến có phải không? Nhìn Huynh được trang bị giáp mão cũng như quân binh đi giúp sức thời biết vua tin cậy Huynh đến mức độ nào. Ca Ra nhìn hai người đi cùng mình nói, hai huynh đây không kém gì tôi đâu võ nghệ cao cường xưa nay chưa gặp đối thủ. Ca Ra chỉ người áo trắng nói huynh đây là một hiệp sĩ lừng danh tên là Nhĩ Hòa, còn đây Ca Ra chỉ người áo xanh đây là Đê Lê với biệt danh là bất bại. Ta Di cúi đầu chào hai người xin hân hạnh được làm quen. Ta Di nói Tôi không có diễm phúc như ba huynh. Nhưng tôi cũng muốn xem đại bàng yêu tinh ra sao mà lợi hại như vậy.

Ca Ra nhìn kỹ thấy bộ quần áo da trăn ẩn sau lớp áo vải tơ tằm đắt tiền liền nghĩ ngay đến Ta Di không phải là hạng tầm thường đủ sức trả tiền những món ăn ngon, nên không bị bà chủ quán lấy đi, Ca Ra như có vẻ thèm thuồng bộ quần áo da trăn hiếm quý có một không hai trên đời.

Ta Di tháp tùng cùng ba người trên dọc đường Ca Ra kể về công chúa. Ca Ra nói công chúa La Na xinh đẹp vô cùng phải nói đẹp như thiên tiên giáng trần. Đức Vua coi công chúa hơn cả giang san của mình. Nghe đâu công chúa La Na cùng các tỳ nữ đang dạo vườn hoa thình lình một con đại bàng xuất hiện bay xuống bắt công chúa đi mất. Khối người đi tìm công chúa, nhưng không mấy ai trở về đều đã bị đại bàng giết chết ăn thịt. Có lẽ những người ấy chưa đủ tài để giết chết con đại bàng ấy, nên đã bị bỏ mạng nơi sơn lâm cùng cốc.

Nói về bốn người Ta Di, Ca Ra, Đê Lê, Nhĩ Hòa ngày đi đêm nghỉ băng rừng lội suối bất chợt nhìn thấy một tốp thợ săn, Nhĩ Hòa phóng ngựa tới hỏi các bác các chú có biết nơi nào có yêu tinh không? Một người thợ săn nói cách đây 50 dặm có một ngọn núi to lớn yêu tinh thường xuất hiện không ai dám tới đó, gần đây có rất nhiều anh hùng hảo hán tìm đến đó nói là cứu công chúa có đi mà không thấy về, hơn cả tháng nay không thấy ai nữa.

Người thợ săn nói tiếp bốn chàng trai trẻ nên trở về đi trên đời có mấy ai tiêu diệt được yêu tinh quỷ dữ, bốn người mừng quá nói cảm ơn bác thợ săn đã chỉ cho nói xong bốn người phi ngựa nước đại lao đi quân binh phi ngựa theo sau, bác thợ săn nhìn theo lắc đầu miệng lẩm bẩm thật tội nghiệp cho bốn chàng trai trẻ cũng như tóp quân binh kia nạp mạng cho yêu tinh.

Bốn chàng trai phi ngựa nước đại, quân binh phi ngựa theo sau đi không bao lâu thời tới một ngọn núi to lớn, đồi rừng cây cối rậm rạp yếu bóng vía thời đã thấy sợ rồi nói gì yêu tinh quanh quẩn nơi đây bốn chàng trai để ngựa lại dặn dò quân binh coi chừng, rồi dùng thuật kinh công vượt qua ghềnh thác sườn dốc cheo leo, hố sâu thăm thẳm cuối cùng rồi cũng nhìn thấy cửa hang động cách đó không xa, bốn chàng trai vô cùng hồi hộp, thật kinh người nơi đây những bộ xương trắng hếu những chiếc sọ rải rác khắp nơi, trời đang nắng nóng nhưng thấy lạnh cả người, lúc ấy trời cũng đã xế chiều.

Bốn người nhìn nhau chưa ai dám đến gần hang động. Ta Di là người không biết sợ là gì tánh khí tò mò nói chúng ta đến cửa hang vào trong động đi Ta Di nói đi nói lại nhiều lần nhưng không thấy ba người kia nói gì bằng nói thôi để tôi vào đó xem sao. Ba người không ai còn dám xem thường Ta Di vì thấy Ta Di kinh công vượt trội hơn họ Ta Di đi đến hang động nhìn xuống sâu như cái giếng bảy tám mét có một đường hầm ăn thông sâu vào núi. Ba người còn lại cách đó không xa thấy Ta Di nhảy xuống hang động không ai nói ai nhanh chân đến cửa hang.

Nói về Ta Di nhảy xuống đáy cửa hang, đi sâu vào hang động đi một đoạn thấy có một giang phòng rộng lớn có một con đại bàng đang ngủ bên cạnh giang phòng đại bàng có một giang phòng nữa Ta Di nghi là công chúa đang bị nhốt trong đó bằng vận thần công tối đa với bộ pháp ảo ảnh vô cực ảo ma Ta Di lướt qua đại bàng, lao nhanh vào giang phòng thấy một người sắc nước hương trời xinh đẹp tuyệt trần không bút mực nào diễn tả cho hết, Ta Di biết ngay là công chúa đang ngồi co ro rầu rĩ. Công chúa La Na đang rầu rỉ thời thấy một bóng người xuất hiện công chúa mừng quá định la lên cứu tôi với. Ta Di nhanh tay bụm miệng công chúa lại ra hiệu biểu im. Công chúa nhìn kỹ người trước mặt là một chàng trai khôi ngô tuấn tú công chúa nhìn mãi Ta Di mà quên đi mình bị nhốt nơi đây. Công chúa liền mở dây chuyền mặt quả tim đang đeo nơi cổ trao cho Ta Di nói đây là quả tim của thiếp đã trao cho chàng.

Ta Di nhận dây chuyền đeo ngay vào cổ công chúa mừng rỡ reo lên chàng tốt bụng quá. Tiếng reo lên của công chúa đã đánh thức đại bàng yêu tinh dậy. Ta Di thất kinh vội bồng công chúa lao nhanh ra khỏi phòng, tức thời một tiếng quát như sấm nổ để công chúa lại đó chạy đâu cho thoát, một luồn kình phong ập đến Ta Di vận vô cực thần công chống trả ầm ầm đùng đùng tưởng chừng như muốn sập cái động. Sợ công chúa ngấp xỉu Ta Di lao nhanh ra cửa động liền thấy ba người đã lao vô.

Nói về ba chàng trai ở trên cửa động nhìn xuống Ca Ra. Nhĩ Hòa, Đê Lê nghe tiếng ầm ầm đùng đùng thời biết là Ta Di cùng đại bàng đang đánh nhau, ba người nhảy xuống hang động lao nhanh vào trong động Ta Di nhìn thấy liền trao công chúa cho ba người nói mau đưa công chúa ra khỏi động. Còn tôi thời chận đại bàng yêu tinh lại.

Ca Ra nhanh chóng nhận lấy công chúa phi thân ra khỏi hang động Nhĩ Hòa, Đê Lê phi thân theo ra khỏi hang động bỏ lại một mình Ta Di chiến đấu với đại bàng, không người nào tiếp sức Ta Di, công chúa thấy thế ức quá thét lên một tiếng rồi câm luôn.

Nói về ba chàng trai đưa công chúa ra khỏi động để công chúa xuống sáu cặp mắt sững sờ trước nhan sắc thiên kiều bá mị sắc nước hương trời chim sa cá lặn, thời chết mê chết miệt thi nhau mà ngắm mà nhìn. Công Chúa tuy không nói được nhưng cặp mắt phụng chăm chăm nhìn hang động từ trong hang động tiếng ầm ầm vang dội hào quang chơm chớp công chúa kéo tay hết người nầy đến người kia chỉ vào hang động ấm a ấm úm nói không ra tiếng ánh mắt công chúa như nói lên rằng các ngươi mau vào trong ấy cứu chàng. Công chúa thấy ba chàng trai không người nào muốn cứu chàng trai mà nàng yêu mến.

Ca Ra nói chúng ta hãy diệt con đại bàng yêu tinh nầy đi, hai người kia hỏi diệt bằng cách nào, Ca Ra cười âm hiểm nói lấp cửa hang lại là đại bàng chết luôn trong đó công chúa nghe nói thế liền thét lên một tiếng rồi ngất lịm luôn.

Ba chàng trai nội lực rất cao hè nhau khuân vác những tảng đá lớn lấp đất đầy miệng hang sâu hơn cái giếng con kiến không thể chui qua được. Khi gần lấp xong miệng hang ánh kiếm chớp lên Nhĩ Hòa, Đê Lê trúng mỗi người mỗi kiếm Nhĩ Hòa, Đê Lê thét lên kinh hãi chỉ tay nói ngươi ngươi Ca Ra nổi lên tiếng cười ghê rợn ánh kiếm lại chớp lên hai tiếng rú thảm thiết sau đó thời im bặt hồn lìa khỏi xác về bên kia thế giới.

Còn lại một mình Ca Ra nhìn công chúa tỏ vẻ thèm thuồng. Ca Ra nghĩ công chúa trước sau gì cũng thuộc về ta cần chi vội. Ca Ra là một tay cáo già chờ cho trong động im tiếng ầm ầm rung rinh mặt đất hoặc Ta Đi chết hoặc đại bàng chết hoặc cả hai lưỡng bại câu thương rồi cả hai cùng chết vì không cách nào ra khỏi hang động được.

Từ hoàng hôn Ca Ra chờ cho tới hơn nửa đêm tiếng giao tranh không còn để cho chắc ăn Ca Ra chờ cho tới sáng nơi cửa hang động không nghe tiếng động gì nữa Ca Ra nghĩ là đã chết hết rồi bằng bồng công chúa còn hôn mê bất tỉnh phi thân xuống núi nơi chỗ để ngựa. Ra lệnh cho quân binh đưa công chúa về kinh thành, vì đã chuẩn bị sẵn nên quân binh đưa công chúa xuống núi không lấy gì làm khó, những quân binh được đức Vua sai đi toàn là những tay cao thủ võ công cao cường. Khi đưa công chúa xuống tới đồng bằng thời công chúa cũng đã tỉnh lại Ca Ra vô cùng mừng rỡ nói công chúa đã tỉnh hãy mua ngay một chiếc xe kiệu lộng lẫy đưa công chúa về kinh đô.

Ca Ra cho một quân binh phi ngựa về kinh đô báo tin cho đức Vua cùng hoàng hậu.

* * *

Hết Phần 1 xem tiếp phần 2 Công Chúa La Na
 
PHẦN 2

CÔNG CHÚA LA NA


Nói về Ta Di cùng đại bàng yêu tinh đánh nhau bất phân thắng bại. Ta Di cũng đã nhìn ra đại bàng yêu tinh nầy cách đây mười năm đã từng đánh với Xà Quỷ võ nghệ đại bàng vô cùng cao cường đôi cánh quạt ra những luồng kình phong khiếp đảm, đôi chân vô cùng lợi hại những móng vuốt chụp tới nhanh như tia chớp thủng cả đá thật là ghê rợn. Với sức mạnh ngàn năm nhờ nuốt được Âm Dương Thần đơn vô cực thần công trở nên vô cùng lợi hại chưởng chỉ Ta Di đánh ra tới tấp ầm ầm đùng đùng không ngớt, Đại bàng hóa ra lửa thiêu sống Ta Di, nhờ lớp vô cực thần công bao bọc nên lửa yêu tinh không làm gì được, bất ngờ một tia sáng chớp lên thanh kiến nhỏ lao đến trúng ngay vào ức đại bàng. Ta Di liền niệm chú hô biến tức thời thanh kiếm vụt lớn lên tạo ra tiếng sấm nổ đại bàng bị nổ tung banh xác.

Diệt xong đại bàng yêu tinh Ta Di vội đi tìm công chúa phi thân ra cửa động thời hỡi ơi cửa hang đã bị lấp kín. Ta Di chưa biết phải làm sao thời nghe tiếng nói vọng đến xin công tử hãy cứu chúng tôi. Ta Di lấy làm kinh ngạc ai thế Ta Di trở vào hang động nơi giao tranh với đại bàng yêu tinh thời phát hiện ra một đường hầm Ta Di đi vào đấy thời thấy ba người trần truồng chỉ mặc khố, bị cột trói nhốt trong một lồng sắt tuổi trạc độ ba mươi. Ta Di hỏi các người là ai? Những người trong lồng sắt nói ba chúng tôi là ba dũng sĩ trong lúc đấu võ bị đại bàng bắt về đây nhốt trong lồng sắt nầy. Những dây xiềng xích nầy vô cùng kỳ lạ chúng tôi bứt không đứt, những thanh sắt kia cũng vô cùng kỳ lạ không bẻ cong được chúng, chúng tôi bị nhốt ở đây hơn một năm, ba người tự giới thiệu người to con nhất nói tôi tên là Phê Lê, kế đến người có cánh tay dài nói tôi tên là Viên Kỳ, người nhỏ con hơn hết nói tôi tên là Đại Lợi.

Ta Di nhìn ba người thấy người nào nội công cũng thâm hậu đôi mắt sáng ngời thời biết ba người nầy là những nhân tài trên đời Ta Di lấy thanh kiếm nhỏ ra niệm chú hô lớn tức thời thanh kiếm lớn lên như thanh kiếm thường dùng hào quang tỏa sáng, Ta Di vung thanh kiếm thần lên chém vào lồng sắt tức thời lồng sắt đứt tiện, Ta Di liền chém vào dây xiềng xích ba người liền được cứu thoát cùng nhau quỳ lạy Ta Di. Cả ba cùng nói mạng chúng tôi được công tử cứu sống, chúng tôi nguyện theo công tử làm người hầu.

Ta Di nói không được đâu Ba người đồng thanh nói nếu công tử không chịu nhận chúng tôi làm người hầu thời chúng tôi nguyện chết ở đây, cực chẳng đã Ta Di mới nhận ba người, ba người lạy tạ rồi đứng dậy. Ta Di nói cửa hang đã bị lấp kín không thể nào ra được ba người nói trong phòng nầy hình như có lỗ thông ra ngoài thỉnh thoảng nghe có luồng gió lạ, thế là ba người tìm kỷ thời thấy có một lỗ nhỏ gió từ lỗ nầy thổi vào có lẽ là lỗ thông hơi của hang động nhưng lỗ nhỏ quá con chuột thời chui qua lọt còn con người thời chịu thua.

Ta Di nói các ngươi đứng sát vách bên kia vận công chịu đựng để ta đánh vài chưởng xem thử. Nói xong Ta Di liền vận vô cực thần công hết bình sanh tay trái thần chỉ tay phải thần chưởng đánh vào lỗ thông hơi, tức thời cuồng phong nổi lên kinh khiếp tiếng ầm ầm long trời lở đất tức thời vách đá bị chưởng phong đánh sụp đổ hiện ra một đường hầm, ba người Pha Lê, Viên Kỳ, Đại Lợi vô cùng kinh hãi nhưng sau đó mừng rỡ reo lên chúng ta thoát rồi.

Bốn người cùng nhau đi vô đường hầm, đi một đỗi xa thấy xương người rải rác khắp nơi có lẽ đường hầm nầy là nơi đại bàng bắt người về ăn thịt, đi được một khúc hầm nữa thời nghe tiếng gió rì rào thổi vào hang động mát lạnh cả người vừa ra tới miệng hang động thời ánh trăng chiếu vào thì ra đây cũng là ngách hang động thứ hai. Vì trời còn tối bốn người liền ngủ một giấc cho đến sáng, khi thức dậy đứng trên nhìn xuống là một thung lũng vách đá cheo leo dựng đứng, bên kia là sườn núi sương mù bao phủ, lúc bây giờ trên bầu trời trong veo những đám mây lơ lửng không biết trôi về đâu, cơn gió núi mát lạnh Ta Di nói chúng ta tìm đường xuống núi.

Đây nói về Ca Ra cùng quân binh hộ tống công chúa trở về kinh thành, vừa tới kinh thành trước sự reo hò của dân chúng nhất là Đức Vua cùng Hoàng Hậu, quan triều thần ra khỏi kinh thành đón công chúa.

Đức Vua nắm lấy tay con gái nói Ca Ra quả là một chàng trai kỳ tài Cha sẽ cho cử hành hôn lễ sớm công chúa nhìn Cha Mẹ rơi nước mắt ấm a ấm ớ nói không ra lời Hoàng Hậu Mẹ của công chúa kinh hãi nói công chúa đã bị câm. Ca Ra nói không sao đâu sẽ được chữa khỏi Đức Vua tin tưởng ở Ca Ra.

Nói về công chúa trở về cung suốt ngày ru rú trong phòng không muốn ăn uống gì cả bao nhiêu thầy thuốc tài giỏi được mời đến chữa trị cho công chúa nhưng không chữa trị được bệnh câm. Hoàng Hậu vô cùng lo lắng hỏi gì công chúa cứ lắc đầu. Nhất là công chúa không muốn gặp mặt Ca Ra. Hoàng Hậu cùng Đức Vua lấy làm lạ người cứu mình mà không muốn gặp mặt, vì mỗi lần Ca Ra muốn gặp thời công chúa từ chối không cho gặp.

Ca Ra là tay thâm hiểm mưu mẹo nghĩ công chúa câm cũng tốt gạo đã nấu thành cơm thời mọi việc đều xong tất. Bằng tâu với Đức Vua rằng bệnh câm công chúa khó mà chữa khỏi vì công chúa bị con đại bàn yêu tinh làm cho sợ hãi quá hóa thành câm khi nào hết sợ công chúa sẽ nói được. Ca Ra quỳ lạy nói xin Đức Vua giữ lời hứa tác hợp cho hai chúng con.

Đức Vua ngẫm nghĩ công chúa biết chừng nào cho hết câm thôi thì theo đúng lời hứa như trong bản cáo thị Đức Vua nói ba ngày nữa ta sẽ gã công chúa cho con. Tức thời ra lệnh cho các quan triều thần thông báo cả nước cũng như chửng bị cho cuộc hôn nhân nầy.

Công chúa nghe vua Cha ra cáo thị như thế ngất xỉu lên ngất xỉu xuống các hầu nữ lo lắng vô cùng, bỗng một hầu nữ chạy vào đưa sợi dây chuyền mặt quả tim cho công chúa. Công chúa vừa nhìn thấy thời ré lên khóc òa ôm lấy sợi dây chuyền vào lòng ngực nói mau hãy dẫn người nầy vào gặp ta. Công chúa la lên mau đi mau đi, chậm trễ thời chàng sẽ đi mất. Con hầu nữ ba chân bốn cẳng hối thúc tên vệ quan mau dẫn ta đến gặp người nầy, tên vệ quan không biết chuyện gì phi ngựa nước đại đến nơi tiểu quán tìm gặp người đưa cho mình sợi dây chuyền.

Nói về Ta Di cùng ba người tìm đường xuống núi Ta Di hú lên một tiếng sảng khoái cùng ba người vượt khỏi thung lũng vượt suối băng rừng xuống đồng bằng. Xa xa là một thị trấn Ta Di nói ba ngươi ở lại đây Ta đi mua ba bộ đồ cho các ngươi để bận không ai dòm ngó, ba người vân dạ Ta Di liền phi thân chớp mắt đã mất dạng không bao lâu Ta Đi trở lại với ba bộ đồ khá đắt tiền với thông thạo nghề may vá Ta Di mua ba bộ đồ vừa vặn cho ba mẫu người một cách tài tình. Ba người vừa mặc áo xong như ba người khác đúng là người sang đẹp vì lụa trở thành ba vị trung niên khá sang trọng. Pha Lê, Viên Kỳ, Đại Lợi ca ngợi không hết lời Vào thị trấn Ta Di mua bốn con ngựa, khi sờ đụng dây chuyền Ta Di liền nhớ đến công chúa, bằng nói ba người ta đến kinh thành thôi.

Vừa đến kinh thành Ta Di tìm đến một quán trọ khách sạn Ni Na bình dân thuê hai căn phòng sát bên, rồi cùng ba người ra phòng khách kêu những món ăn ngon vì mấy ngày qua ăn sơ sài để sống.

Nơi quán trọ bình dân Ni Na lúc nào cũng đông khách, câu chuyện được bàn tán xôn xao là còn ba ngày nữa công chúa La Na kết duyên cùng Ca Ra. Ta Di nghe choáng váng cả mặt mày, thầm nghĩ cũng phải thôi, với thân phận nghèo chẳng có tiếng tăm gì cũng như địa vị xã hội. Thôi tạm ở lại nơi đây chờ công chúa kết hôn xong sẽ lên đường tìm đến một nơi rất xa để ở. Ta Di muốn trả lại dây chuyền cho công chúa nhưng làm cách nào trả lại được, như chợt nghĩ ra phải rồi ta đến gần cửa thành tìm quán ăn gần đó thế nào cũng gặp người trong cung. Trước khi đi Ta Di đưa túi xách đựng vàng, bạc ngọc ngà châu báu cho ba người dặn trông coi cẩn thận. Ta có chút việc cần làm Ta Di đến một đại quán ở gần cửa thành vào ấy thuê phòng ở chờ đợi hai ngày may sao thấy một người vệ quan vào quán Ta Di không bỏ lỡ cơ hội thân thiện làm quen kêu thêm mấy món ăn ngon thiết đãi. Vị vệ quan nhìn thấy Ta Di khôi ngô tuấn tú ăn nói lịch sự liền cảm mến ngay không dấu diếm điều gì ta là vệ quan ở gần cung công chúa, Ta Di nghe nói mừng rỡ liền cỡi dây chuyền trên cổ ra nói vật nầy tôi tặng công chúa trước khi lấy chồng, tên vệ quan kinh ngạc nói thì ra công tử quen biết công chúa, thần thật thất lễ.

Tên vệ quan nhận sợi dây chuyền đi vào ngọ môn Ta Di thấy lòng đau như cắt thôi rồi không bao giờ gặp lại công chúa nữa. Ta Di thẫn thờ quên cả thời gian ngồi một mình vừa buồn vừa tủi. Không lẽ ngồi hoài ở đây vừa bước ra khỏi quán định về nơi quán trọ khách sạn Ni Na chờ công chúa thành thân xong là lên đường. Thời thấy tên vệ quan phi ngựa trở lại mang theo một hầu nữ vừa nhìn thấy Ta Di tên vệ quan chỉ tay nói người ấy kia kìa Hầu nữ vừa xuống ngựa liền chạy tới nắm lấy tay Ta Di nói đi theo hầu nữ đến gặp một người Ta Di nói đến gặp ai? Hầu nữ tươi cười nói gặp ai nữa công tử biết rồi còn hỏi Ta Di ngơ ngác chẳng hiểu gì cả đi theo hầu nữ đi vào cung thành không bao lâu thời đến cung điện cảnh quang nơi đây đẹp vô cùng Từ nơi cung điện công chúa La Na ăn mặc rực rỡ chạy ùa ra nói chàng đã đến chàng đã đến công chúa ôm Ta Di chặt cứng như sợ Ta Di biến mất. Khi ấy mẹ công chúa hoàng hậu Pha Ra cũng đến chứng kiến cảnh công chúa ôm một chàng trai hoàng hậu Pha Ra ngớ cả người, chuyện gì nữa đây.

Công chúa nhìn thấy mẹ liền chạy tới nắm lấy tay mẹ nói người nầy mới thật sự là người cứu con giết chết đại bàng yêu tinh. Hoàng Hậu kinh ngạc con nói thật sao. Công chúa liền kẻ sơ qua câu chuyện Hoàng Hậu hình như cũng đã rõ Ta Di bước đến trước mặt Hoàng Hậu lễ lạy thưa rằng con là Ta Đi xin ra mắt Hoàng Hậu Gia Gia. Hoàng Hậu Pha Ra phất tay biểu đứng dậy Hoàng Hậu nhìn kỷ Ta Di thấy Ta Di khôi ngô tuấn tú mặt mày sáng láng khí chất phi phàm quả là trang hảo hán trên đời khó kiếm hơn hẳn Ca Ra xa. Hoàng Hậu nói hai đứa theo ta đến gặp phụ vương.

Nói về Vua Pha Ra nghe công chúa nói được rồi lấy làm mừng, chửng bị thân hành đến cung công chúa thời thấy hoàng hậu cùng công chúa đến dẫn theo một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vừa gặp Cha công chúa liền quỳ lạy nói hài nhi làm phụ vương lo lắng mãi. Vua Pha Ra tươi cười nói Cha mừng quá con đã nói được rồi, công chúa liền nói với Phụ Vương. Thưa Cha người nầy mới thật là người giết chết đại bàng cứu con, người kia chỉ là tiếp ứng cứu con mà thôi. Công chúa kể lại hết đầu đuôi không bỏ sót một chi tiết nào. Đức Vua nghe xong trầm ngâm suy nghĩ việc nầy giải quyết sao đây. Mình đã hứa với Ca Ra là gả công chúa cho Ca Ra trước triều thần bá quan văn võ, chỉ còn ngày mai là đi vào thành hôn. Đức Vua Pha Ra nhìn Ta Di thấy Ta Di hơn hẳn Ca Ra thời mừng lắm nhưng giải quyết sao đây. Công chúa thấy Cha làm thinh nói thêm rằng con chỉ ưng người cứu con thôi. Đức Vua là người thông minh gần một tháng trôi qua công chúa không muốn gặp mặt Ca Ra là câu chuyện ẩn khúc nầy đây.

Để thăm dò ý kiến các quan triều thần nhà vua nhìn Ta Di rồi nói rằng chàng trai trẻ hãy ở lại trong cung ngày mai trước triều sẽ có câu trả lời ai là người sẽ trở thành phò mã. Công chúa vô cùng mừng rỡ cầm sợi dây chuyền trao cho Ta Di nói chàng không nên trả sợi dây chuyền mặt quả tim lại cho thiếp vì nó thuộc về sở hữu của chàng, Ta Di nhận lại sợi dây chuyền nói rằng nguyện nghe theo lời công chúa gìn giữ trọn đời công chúa lấy làm mừng có thế chứ, công chúa sai hầu nữ dọn phòng cho Ta Di ở.

Ta Di một đêm không chợp mắt vì gặp lại được công chúa nhất là tấm lòng kiên trung của công chúa đây mới chính là báu vật vô giá chốn nhân gian, không gì hơn lòng chung thủy cũng như sự kiên trung của công chúa. Dù đổi cả giang san Ta Di cũng không đổi. Công Chúa gặp được Ta Di không muốn xa rời hai người hàn huyên tâm sự, Ta Di kể lại cuộc đời của mình cho công chúa nghe công chúa càng nghe càng kinh ngạc xen vào nói thì ra chàng là em bé ở Làng Phù Sa đã nổi tiếng cách đây hơn mười năm hiện Làng Phù Sa lập miếu thờ em bé ấy, đến nỗi Vua Cha cùng Hoàng Hậu mỗi khi nghe kể về em bé Làng Phù Sa cũng không cầm được nước mắt nói trên đời sao có người anh hùng nhân đức đến như vậy cả hai hàn huyên tâm sự cho đến sáng.

Đêm đã tàn nhường cho một ngày mới ra đời ánh bình minh rực hồng khắp cả non sông,

Mặt trời đã lên cao nơi triều thần bá quan văn võ có mặt đầy đủ, cũng là ngày vô cùng quan trọng công chúa nên duyên với Ca Ra.

Ca Ra hôm nay ăn mặc thật sang trọng xứng tầm là một phò mã Ca Ra lạy Đức Vua cùng Hoàng Hậu xong quay sang công chúa Ca Ra nói chúc mừng công chúa đã nói được có lẽ yêu thuật của đại bàng yêu tinh đã được hóa giải. Công chúa bỉm môi rồi nói thưa Phụ Vương cho phép con nói vài lời với Ca Ra. Đức Vua nói con cứ tự do muốn nói những gì con muốn nói.

Công chúa nói Ca Ra ngươi lấy cái gì chứng minh là đã cứu ta thoát khỏi nanh vuốt đại bàng, cũng như lấy tư cách gì làm chồng của Ta. Ca Ra nói thứ nhất là có quân binh làm chứng Ca Ra tôi đã cứu Công Chúa, thứ hai đã đưa công chúa về đến kinh thành, thứ ba là Ca Ra tôi làm đúng những gì cáo thị do Đức Vua truyền ra, bằng chứng là Đức Vua đã ban ra chiếu chỉ kết hôn giữa tôi và công chúa.

Đức Vua Pha Ra, cùng triều thần không thể chối cãi hay biện bác gì được đành im lặng. Công chúa nói Ta chứng kiến ngươi lấp miệng hang giết chết Ta Di, cùng hai người bạn cùng đồng hành với ngươi, ngươi quả là người nham hiểm độc ác. Ca Ra nghe xong bình tỉnh trả lời rằng, nếu không lấp miệng hang thời làm sao mà giết được đại bàng, bằng chứng hơn cả tháng nay đại bàng không hề xuất hiện. Còn nói tôi ác độc giết chết hai người cùng đi là sai. Thử hỏi có một mình công chúa làm sao gả hết cho ba người, vì ba người đều có công cứu công chúa, đã là cạnh tranh thời phải có người thất bại người thắng cuộc sau cùng mới là người tài giỏi sao công chúa lại nói Ca Ra tôi ác độc. Đức Vua Pha Ra phải thầm ngợi khen chàng trai văn võ song toàn đầy thủ đoạn nham hiểm nầy.

Công chúa nói ngươi nói ngươi cứu được ta thoát khỏi đại bàng thời đưa ra vật chứng. Ca Ra nói làm gì có vật chứng mà đưa ra, chỉ có nhân chứng mà thôi. Công chúa liền nói người có vật chứng ta trao không phải là ngươi mà là một người khác. Công chúa nói dẫn người đó vào đây Đức Vua cùng Hoàng Hậu thời biết rồi, chỉ có bá quan văn võ triều thần là chưa biết. Còn biết thêm một chuyện khác nữa Ta Di chính là em bé nổi tiếng cả nước ở Làng Phù Sa Đức Vua và Hoàng Hậu mừng lắm tìm cách loại Ca Ra gả công chúa cho Ta Di, còn các quan triều thần thời ngơ ngác không hiểu nếp tẻ gì cả câu chuyện ly kỳ xảy ra.

Các quan triều thần thấy một hầu nữ dẫn một chàng trai khôi ngô tuấn tú bận bộ quần áo da trăn lấp lánh toát lên vẻ kỳ lạ vừa kỳ bí vừa làm cho người ta sợ hãi. Đức Vua và Hoàng Hậu cũng lấy làm kinh ngạc nhìn bộ áo da trăn sáng ngời lấp lánh khác thường những da trăn khác. Ca Ra vừa nhìn thấy thời sắc mặt tái xanh tái ngắt. Những sau đó thời lấy lại bình tĩnh chào nói thì ra là Ta Di Huynh.

Ta Di lạy Đức Vua, Hoàng Hậu xong thời đứng qua một bên. Ca Ra nhìn Ta Di nói Huynh có vật chứng công chúa trao cho đâu lấy ra cho cả Đức Vua, Hoàng Hậu cũng như triều thần coi. Ta Di tánh thông minh trời phú liền nói vật minh chứng không phải là Ca Ra huynh xác nhận được, mà phải là Đức Vua cùng Hoàng Hậu xác nhận vật đó chính là vật của công chúa mới có hiệu lực. Đức Vua Hoàng Hậu nghe lời nói ấy thầm khen trong bụng đúng là thiên tài. Công Chúa nghĩ Chàng không muốn mình đứng ra xác nhận vật ấy là của mình. Người chứng nhận vật ấy phải là người thứ ba, người mà trao kỷ vật ấy cho công chúa. Đúng là trời đã chọn cho mình một phu quân xứng đáng, đối thủ khó mà bắt bẻ cho được.

Triều thần nhìn thấy Ta Di mở sợi dây chuyền đang đeo trên cổ dâng lên cho Đức Vua cùng Hoàng Hậu. Đức Vua xem xong trao cho Hoàng Hậu. Hoàng Hậu cầm sợi dây chuyền mặt quả tim đưa lên nói khi công chúa lên chín tuổi thời chính tay Ta cùng Đức Vua trao cho công chúa dây chuyền nầy. Hoàng Hậu hỏi công chúa chàng trai kia sao lại có sợi dây chuyền của con. Công chúa thưa rằng thưa Cha Mẹ chính tay con đã trao sợi dây chuyền nầy cho Ta Di khi Ta Di cứu con thoát khỏi đại bàng. Ca Ra chỉ là người giáng tiếp không phải là người trực tiếp cứu con. Cả triều thần đều ô lên kinh ngạc, việc nầy giải quyết sao đây.

Một người có công trực tiếp cứu công chúa, một người có công gián tiếp cứu công chúa đưa về đến kinh thành đúng những gì chiếu chỉ Đức Vua truyền phán là người nào cứu công chúa đưa về kinh thành thời gả cho người đó.

Đức Vua chưa biết phải giải quyết ra sao, thời công chúa đứng lên dõng dạc nói, các quan triều thần có biết Ta Di là người thế nào không chính là em bé Ta Di ở làng Phù Sa nổi tiếng khắp cả nước, người Phù Sa nghĩ là Ta Di đã bị xà tinh ăn thịt rồi, nhưng đâu có ngờ Ta Di đã giết chết Xà Tinh cứu thoát những trẻ em không còn sự cống nạp nữa. Các quan triều đình ai cũng biết chuyện nầy liền ca ngợi không hết lời. Ca Ra thấy triều thần sùng kính Ta Di thời hiểu rõ phần bất lợi thuộc về mình. Có một vị quan nói chiếc áo Kỳ Nhân đang mặt kia có phải là da của Xà Tinh không? Công chúa nói thay đúng vậy, đao kiếm thường đâm không thủng, cắt không đứt được đâu. Có một vị võ tướng không tin nói làm gì có chuyện đó, em bé mới có chín tuổi làm gì có chuyện giết được xà tinh, lột da xà tinh may thành áo.

Ca Ra thấy đây là cơ hội giết Ta Di bằng nói Ta Di huynh có dám để cho vị tướng kia thử áo da xà tinh quỷ chém không đứt đâm không thủng không mở rộng tầm mắt các quan triều thần ở đây.

Công chúa nghe Ca Ra nói vậy định chửi cho vài câu ngươi tính định mượn dao giết người hả. Đức Vua Hoàng Hậu cũng hiểu rõ thâm ý của Ca Ra. Công chúa nói thử thời thử nhưng phải cởi ra Ca Ra nói da xà tinh quỷ tu luyện hàng nghìn năm làm gì đao kiếm đâm thủng chém đứt mà phải cởi ra.

Lúc ấy có một vị tể tướng đứng lên thưa với Đức Vua rằng. Thưa Đức Vua nhân tài rất quý, huống chi là người đã cứu công chúa. Câu chuyện đem thân mình thế mạng cho người khác là chuyện khó tin rồi không mấy ai làm nổi, lại mới chín tuổi giết chết Xà Tinh Quỷ lấy da may quần áo là chuyện ngoài sức tượng tượng của con người. Công chúa gả cho ai còn chưa ngã ngũ giờ thêm chuyện nầy nữa chưa biết chuyện gì xảy ra.

Thần đề nghị hiện nay đất nước ta có bọn cướp phải nói là rất mạnh thường hoạt động các tỉnh biên giới, không biết bao nhiêu tướng lĩnh các tỉnh huyện đã bỏ mạng. Chi bằng để Ta Di cùng Ca Ra so tài ai diệt được lũ cướp thời người đó thắng cuộc. Hôn nhân công chúa có thể theo đó mà nên duyên. Còn bộ áo da trăn kia thực hư ra sao thời làm một hình nộm cũng được. Công chúa nhìn Ta Di như hội ý Đức Vua cùng Hoàng Hậu chờ nghe sự trả lời của Ta Di. Ta Di nói dẹp giặc phiến loạn là nhiệm vụ của toàn dân, không riêng gì Ta Di, nhưng nếu được phân công thời Ta Di hết lòng mà dẹp giặc. Còn muốn thử chiếc áo không cần phải làm hình nộm cứ đâm chém thẳng vào người của tôi vàng thiệt không sơ chi lửa.

Ta Di nhìn vị tướng nói không tin thời cứ ra tay, Ca Ra liền thúc vị tướng cả triều thần muốn xem kết quả phá tan đi sự nghi ngờ.

Vị Tướng ấy nổi tiếng là người có sức mạnh phi thường cầm trường thương hơn tạ, công chúa lo lắng nói chuyện nầy có ổn không. Ta Di nói công chúa hãy tin vào tôi.

Vị Tướng có biệt danh là Phá Núi, Phá Núi cầm trường thương chém ngang qua hông nếu đứt áo cũng chỉ bị thương chứ không mất mạng. Thấy chiếc áo không hề hấn gì, bằng đâm một thương nếu có thủng cũng không mất mạng, nào hay đâu chiếc áo da không hề bị thủng vô cùng kinh ngạc, dừng thương nói đúng là chiếc áo bảo vật trên đời. Ca Ra nói võ tướng chỉ làm trò hề chưa thật sự, Vị tướng cả giận nói nếu không tin công tử thử xem. Ca Ra nói Ta Di có dám để ta thử không Ta Di gật đầu Ca Ra bằng rút kiếm ra tiếng kiếm ngân lên làm ai cũng phải giật mình Đức Vua nhìn thấy kinh hãi định ra lệnh dừng, nhưng nào có kịp ánh kiếm chớp lên chém vào người Ta Di. Ta Di hiểu rõ âm mưu Ca Ra muốn giết chết mình liền vận vô cực thần công bảo vệ lớp áo, ánh kiếm nhanh như tia chớp đâm chém liền ba nhác thấy Ta Di vẫn trơ trơ lớp áo da không hề hấn gì cả Đức Vua Hoàng Hậu thở phào nhẹ nhõm Công Chúa mừng quá chạy tới nắm lấy tay Ta Đi nói bộ áo da thần kỳ. Đến lúc nầy cả triều đình không ai là không ngưỡng mộ.

Ca Ra luôn thất bại dù mưu mô xảo quyệt hơn người Ca Ra chỉ còn hi vọng là dẹp được bọn phiến loạn cướp bóc biên cương.

Đức Vua theo sự đề đạt hiến kế của Tể Tướng cấp cho Ta Di, Ca Ra mỗi người năm nghìn quân binh tinh nhuệ thiện chiến đến biên cương tiêu diệt quân phiến loạn ai tiêu diệt được quân phản loạn thời người ấy làm phò mã.

Nói về dân chúng nội ngoại thành nhìn thấy hai cánh quân binh rầm rộ dẹp giặc phản loạn biên cương dân chúng động viên reo hò cổ vũ nhất là trằm trồ hai vị tướng trẻ. Cánh quân của Ta Di vừa đi ra nội thành thời thấy có một vị tướng oai phong lẫm liệt xin cho gặp Ta Di, Ta Di nhận ra người ấy bằng xuống ngựa thi lễ nói tướng quân gặp tôi có chuyện gì. Vị tướng quân thi lễ nói Phá Núi tướng quân tôi nguyện theo giúp sức tướng công Tử trừ phiến loạn biên cương chuộc cái tội thất kính. Ta Di nghe nói mừng lắm liền phong cho Phá Núi thống lãnh quân binh cùng với Phê Lê tướng quân chi huy đội quân cánh tả. Đội quân cánh hữu do Viên Kỳ và Đại Lợi chỉ huy. Cánh quân Ta Di ngày đi đêm nghĩ không bao lâu thời gần tới biên cương chỉ còn 50 dặm nữa là tới. Liền cho quân binh dừng lại dựng lều nghỉ ngơi. Ta Di bàn với bốn tướng chúng ta ở đây tập luyện chiến trận vì đất nước bình yên năm sáu chục năm nay tinh thần chiến đấu cũng như võ nghệ chưa được thao luyện cho mấy Phá Núi càng khâm phục cho tài tính trước liệu sau của Ta Di. Ta di cho người đi thám thính quân phiến loạn, cũng như cho người vào quận huyện mua heo gà vịt trâu bò khao đãi quân binh trong lúc tập luyện, không đá động gì đến tiêu diệt quân phiến loạn.

Nói về Ca Ra dẫn quân binh rầm rộ ra đi hối thúc quân binh cho mau tới biên cương, quân binh vô cùng mỏi mệt, lại thêm không có tướng tài nào theo giúp sức chỉ có những tướng tá thường phục vụ trong quân binh mà thôi. Những vị tướng tài nầy vô cùng kiêu căng ngạo mạn cho sự tài giỏi của mình không coi quân phiến loạn vào đâu.

Thường nói với Ca Ra tướng quân yên tâm mấy thằng ăn cướp mà làm nên trò trống gì. Ca Ra nói nếu không làm nên trò trống gì thời đâu có nhiều tướng tá các tỉnh biên cương phải bỏ mạng. Các tướng lĩnh tỏ vẻ xem thường nói tướng tá địa phương là những tướng tá chăn bò chăn trâu ấy mà.

Cánh quân của Ca Ra chỉ còn cách biên giới vài dặm thời hạ trại cho quân binh dừng nghỉ lấy lại sức sau chuyến đi đường dài hơn nghìn dặm. Ca Ra cho quân binh thăm dò quân phiến loạn cũng như thăm dò cánh quân của Ta Di. Quân dọ thám về báo cánh quân Ta Di đã hạ trại cách đây 20 dặm. Ca Ra nghe báo như thế có lẽ trời đã giúp ta Ta Di chỉ giỏi võ công còn điều binh khiển tướng thời quá kém cỏi, hạ trại cách xa quân phiến loạn như thế làm sao nắm bắt tình hình của địch.

Ca Ra cho quân binh nghĩ được hơn mười ngày thời có người về báo cánh quân của Ta Di chỉ lo ăn uống múa tay múa chân cho giãn xương cốt đóng quân tại chỗ không di chuyển. Ca Ra nói trời đã giúp ta ngày mai ra quân tiêu diệt quân phiến loạn lấy đầu thủ lĩnh coi như ta đã thành công. Ta Di không còn cơ hội để trở thành phò mã.

Nói về Ca Ra điều binh khiển tướng tiến quân tốc hành đánh thẳng vào hang ổ quân phản loạn, thực lực quân phản loạn bao nhiêu thời chưa nắm được ước độ năm sáu nghìn quân.

Nói về quân phiến loạn chửng bị tư thế chiến đấu hơn mấy ngày nay thủ lĩnh quân phiến loạn là Hỗn Ma con Báo Đốm thành tinh. Tả tướng quân Hỗn Ma là Hồ Quỉ con chồn thành tinh, Hữu tướng quân là Ác Sát tướng quân, con báo thành tinh. Không những võ nghệ cao cường mà còn có pháp thuật thần thông.

Hỗn Ma thủ lĩnh dân dẫn theo ba nghìn quân phiến loạn đối đầu với quân Ca Ra.

Ca Ra nhìn thấy quân phiến loạn ít hơn quân mình lấy làm yên tâm. Để làm tăng sĩ khí quân binh Ca Ra sai một vị tướng có tên là Tạ Đôn nổi tiếng có sức mạnh hơn người tay cầm song chùy nặng hơn hai tạ được lệnh dẫn theo 500 quân binh mở màn giao chiến. Hỗn Ma liền sai Hồ Quỉ dẫn 500 lâu la xáp trận, hai bên giao chiến dữ dội Hồ Quỉ đánh không lại Tạ Đôn liền bỏ chạy, Tạ Đôn rượt theo Hồ Quỉ liền chỉ tay vào Tạ Đôn niệm chú tức thời Tạ Đôn ngã nhào xuống ngựa Hồ Quỉ vớt một đao Tạ Đôn hồn du địa phủ. Lâu la quân phiến loạn thắng thế phản công như vũ bão chém xối xả vào quân Ca Ra lớp chết lớp bị thương vô số. Ca Ra kinh hãi liền thúc ngựa lao tới chém bọn lâu la chết như rạ Hồ Quỉ biết đánh không lại liền phất cờ đánh trống rút lui. Ca Ra phi ngựa đuổi theo chém Hồ Quỉ. Hồ Quỉ chỉ tay niệm chú chỉ thẳng vào Ca Ra, Ca Ra đã thủ thế vận thần công chống trả phi ngựa lao tới chém cho Hồ Quỉ một kiếm. Hồ Quỉ kinh hồn bạt vía ẩn mình trốn thoát.

Quân lâu la bị quân Ca Ra chém thôi là chém. Hỗn Ma quát lên một tiếng phi ngựa ra giao chiến với Ca Ra kẻ tám lạng người nửa cân đánh nhau rền trời rền đất, bên quân phiến loạn Ác Sát quát tháo ầm ỉ chém liền hai tướng, quân Ca Ra tuy mất tướng. Nhưng nhờ quân đông, quân phiến loạn lâu la chưa làm gì nổi. Trận thế vẫn nghiêng về quân Ca Ra. Ca Ra tuy võ nghệ cao cường một mình đánh với Hỗn Ma, bất phân thắng bại Hồ Quỉ nhập cuộc hai người đánh một đánh Ca Ra dồn dập. Ca Ra có bề yếu thế, cùng lúc ấy Ác Sát chém liền hai tướng nữa, quân Ca Ra như rắn mất đầu đi vào hỗn loạn. Quân lâu la phấn chí chém thôi là chém quân Ca Ra thây phơi chật đất.

Ca Ra một mình đấu với Hỗn Ma, Hồ Quỉ lâm vào cảnh yếu thế, lại thêm Ác Sát lao vào xáp chiến. Ca Ra một mình đấu với ba yêu tinh không cách gì chống đỡ nổi bị Hỗn Ma chém cho một nhác hồn du địa phủ, năm nghìn quân binh chết hết hai phần còn một phần thời bỏ chạy bị lâu la rượt theo truy sát tản lạc khắp nơi.

Nói về Ta Di hay tin Ca Ra thất trận bỏ mạng nơi sa trường quân binh tản lạc khắp nơi không khỏi thở dài bằng cho quân binh tìm kiếm. Không bao lâu thời tìm được hết những người tản lạc còn sống sót hơn nghìn người.

Những người sống sót quyết trả thù liền nhập theo quân binh Ta Di. Quân Binh Ta Di luyện tập hơn một tháng mà Ta Di vẫn chưa tiến quân, lòng quân háo hức chiến đấu khí thế tăng lên hừng hực.

Nói về Ta Di bất ngờ điều động quân binh trong đêm Trời vừa sáng bất ngờ đánh vào hang ổ quân phản loạn. quân phản loạn chủ quan cho rằng mới vừa tiêu diệt quân Ca Ra không còn quân binh nào nữa để tấn công liền ăn uống no say lại không đề phòng quân Ta Di ập tới thình lình trở tay không kịp quân Ta Di chém quân phản loạn như chém chuối.

Hồ Quỉ chỉ tay hò hét chống tả thời nghe một tiếng quát to như sấm Phá Núi phóng ngựa lao tới chém một thương như trời giáng, Hồ Quỉ võ nghệ cao cường né tránh kịp múa đao chém tới Phá Núi hai bên đánh nhau long trời lở đất lại một tiếng quát như sấm nổ vang lên Phê Lê phi ngựa tới chém một đao như trời giáng Hồ Quỉ biết mình đánh không lại hai võ tướng liền niệm chú chỉ một cái vào Phê Lê. Phê Lê không lạ gì với lũ yêu tinh liền phi thân né tránh, nhanh như chớp chém vào Hồ Quỉ một đao Hồ Quỉ né tránh không kịp trúng một đao rồi đời hiện nguyên hình là một con chồn ba đuôi to lớn. Phê Lê chặt lấy đầu ra lịnh cho quân binh bỏ vào bao cánh tả quân Ta Di thắng thế ào ào xông tới chém bọn lâu la phiến loạn chết như ra.

Nói về Viên kỳ, Đại Lợi đánh vào phía hữu quân phản loạn, quân phản loạn chống đỡ không nổi vở trận bị quân cánh hữu Ta Di chém thôi là chém bỗng nghe tiếng quát Ác Sát xuất hiện chém quân Ta Di như chém chuối, Tân Kỳ thấy vậy phi ngựa tới chận đánh Ác Sát hai bên giao tranh ác liệt Ác Sát định dùng phép giết chết Viên Kỳ, Đại Lợi lạ gì với bọn yêu tinh nhanh như chớp phi ngựa tới chém cho một đao Ác Sát múa đao chống đỡ rét rét ầm ầm long trời lở đất Đại Lợi chém quá mạnh Ác Sát loạng choạng muốn té ngã, không bỏ lỡ cơ hội Viên Kỳ từ trên lưng ngựa phi thân lao tới chém cho một đạo Ác Sát tránh không kịp toi mạng rồi đời hiện nguyên hình là con sói to lớn, Quân binh lao tới cắt lấy đầu chờ ngày đêm về dâng lên vua.

Nói về Ta Di dẫn quân binh đánh vào chính giữa gặp ngay Hổn Ma hai bên xáp chiến cát bay đá chạy quân Ta Di khí thế dậy non đánh bọn lâu la tơi tả Hỗn Ma xông vào chém quân Ta Di, Ta Di quát lên một tiếng phi ngựa tới chém Hỗn Ma một đao như trời giáng, Hỗn Ma chống đổ ầm ầm đùng đùng Hổn Ma kinh hồn không ngờ đối thủ sức mạnh kinh khiếp như thế, mới đấu nhau vài hiệp biết mình đánh không lại bằng hóa ra tấm lưới chụp xuống Ta Di. Ta Di nhanh chóng lấy thần kiếm ra niệm chú thanh kiếm to lớn hào quang tỏa sáng vận vô cực thần công chém vào tấm lưới, tấm lưới liền bị chém đứt tan biến mất Hổn Ma kinh hãi định chạy trốn nhưng nào có kịp với ảo ma bộ pháp nhanh như chớp Hỗn Ma bị kiếm thần chém rụng đầu hiện nguyên hình là một con Báo Đốm to lớn.

Quân phiến loạn như rắn mất đầu bị quân Ta Di xơi sạch. Quân phiến loạn coi như bị xóa sổ Ta Di vào tận hang ổ thu lượm chiến lợi phẩm vàng bạc châu báu nhiều vô số chúng đã cướp lấy của dân. Bò gà trâu heo có đến hàng trăm con. Ta Di mở tiệc ăn mừng thắng trận.

Nói về công chúa ngày đêm cầu khẩn trời đất phù hộ cho Ta Di được thắng trận bình an trở về. Đức Vua cũng như Công Chúa cho người cập nhật thông tin hàng ngày nắm rõ tình hình của hai cánh quân Đức Vua thường nói với triều thần Ta Di không những võ công cái thế, mà còn mưu trí như thần không thể nào lường được, lại có bộ quần áo chém không đứt đâm không thủng báu vật vô giá trên đời nhất định dẹp tan quân phiến loạn qua cách điều binh khiển tướng. Bằng cách hạ trại cách ra quân phiến loạn không cho quân phiến loạn phát hiện, luyện quân binh trước khi chiến đấu.

Ca Ra thời không làm như thế tiến quân thần tốc làm cho quân binh mất sức, lại nóng lòng muốn giành thắng lợi về mình. Không tập luyện quân binh thuần thục trước khi ra trận khó mà giành thắng cuộc trong lần thi tài nầy. Không khéo bị mất mạng trẩm đã cho người theo dõi mấy năm nay cầm đầu quân phiến loạn không phải con người thường, mà là yêu tinh võ nghệ thần thông pháp thuật cao cường chỉ có Ta Di mới diệt được bằng chứng là Xà Tinh và Đại Bàng đã bị Ta Di giết chết, cả triều thần ai nấy cũng nghĩ như thế, hơn nữa cũng đã mến mộ Ta Di cầu mong Ta Di thắng trận trở về.

Quả đúng như lời Đức Vua nói thông tin từ chiến trận đưa về Ca Ra đã bại trận bỏ mạng nơi sa trường chôn vùi bốn nghìn quân, cả triều thần hoang mang đi tiêu bốn nghìn quân, chỉ còn lại hơn nghìn quân tản lạc Ta Di đã cho quân binh tìm kiếm. Công chúa nói thưa Phụ Vương cần viện binh thêm không? Đức Vua nói quân cần tinh nhuệ không cần số nhiều, Ta Di đang thao luyện quân binh, cũng như nâng cao lòng sĩ khí chiến đấu, khi nào hợp tình hợp lý thời Ta Di sẽ ra quân thần tốc quân phiến loạn trở tay không kịp bị Ta Di quét sạch không còn.

Triều thần đang hộp thời có thông tin tình hình chiến sự biên giới quân phiến loạn bị xóa sổ với lối đánh kỳ lạ thần tốc của Ta Di. Cả triều thần đều vui mừng không mấy chốc tin thắng trận quân phiến loạn bị xóa sổ lưu truyền khắp cả nước.

Nói về Ta Di dẹp tan quân phiến loạn thu quân trở về kinh thành đoàn quân đi đến đâu dân chúng reo hò đến đó ca ngợi không hết lời. Đoàn quân vừa về tới kinh thành đích thân Đức Vua Hoàng Hậu công chúa, cùng triều thần ra khỏi cung thành tiếp đón đoàn quân. Dân chúng reo hò ca ngợi không dứt có người ca hát.

Ta Di Ta Di

Anh Hùng Pha Ra

Trừ yêu diệt Ma

Thắng trận trở về

Khí thế ngút trời

Phiến loạn rồi đời

Đất nước yên bình

Ta Di đệ nhất anh hùng

Danh bay vạn cõi lẫy lừng càn khôn

Công chúa La Na mặt mày phấn khởi nét hoa rạng rỡ vừa nhìn thấy Ta Di thời vui sướng reo lên chàng đã trở về. Ta Di tuy thắng trận trở về nhưng lúc nào cũng bình dị luôn luôn khiêm tốn đức độ cao vời những ai tiếp cận đều nhớ mãi không quên. Ta Di dục ngựa tới trước xuống ngựa quỳ lạy Đức Vua Hoàng Hậu, khiêm cung lễ phép triều thần ai cũng khen ngợi ca tụng.

– Nói về Ta Di cùng công chúa nên nghĩa vợ chồng Ta Di trở thành Phò Mã chung sống hạnh phúc, sanh được ba người con hai trai một gái. Phá Núi được thăng chức từ tướng lên đại tướng, Phê Lê, Viên Kỳ, Đại Lợi, đều được phong tướng lấy vợ xinh đẹp sống yên vui hạnh phúc, con cái đầy nhà.

Đức Vua Pha Ra về già nhường ngôi cho Ta Di đất nước Pha Ra càng về sau càng hùng mạnh thái bình thịnh trị âu ca.
 
×
Quay lại
Top