THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ

Hồng y Mortati toát mồ hôi hột trong chiếc áo tế thụng màu đen. Không phải chỉ vì nhà nguyện Sistine nóng như trong lò hơi, mà còn vì Mật nghị Hồng y sẽ khai mạc trong vòng 20 phút nữa, thế mà bốn vị Hồng y vẫn bặt vô âm tín. Sự vắng mặt của họ đã khiến cho những lời xì xào e ngại ban đầu của các Hồng y khác chuyển thành nỗi lo lắng thực sự.
Hồng y Mortati không thể tưởng tượng những vị vắng mặt này có thể ở đâu. Chẳng lẽ họ đang ở chỗ Giáo chủ Thị thần ? Dĩ nhiên là theo truyền thống, Giáo chủ Thị thần thể nào cũng dùng trà riêng với bốn vị được lựa chọn vào đầu giờ chiều, nhưng việc đó phải từ cách đây mấy tiếng rồi. Họ ốm chăng? Hay họ ăn phải cái gì ? Hồng y Mortati nghi ngờ chuyện đó. Dù có bị cái chết cận kề thì những người được chọn lựa vẫn có mặt ở đây. Chỉ một lần trong đời, thường là không bao giờ , một vị Hồng y có cơ hội được bầu chọn làm Giáo hoàng. Theo luật Vatican thì vị Hồng y đó phải ở bên trong nhà nguyện Sistine khi cuộc bỏ phiếu diễn ra. Nếu không thì vị đó sẽ không thể được bầu chọn.
Mặc dù có đến bốn người được chọn lựa nhưng rất nhiều thành viên của Hồng y đoàn đã biết trước ai sẽ là Giáo hoàng tương lai. Trong vòng 15 ngày qua đã có cả một cơn bão những cuộc điện thoại và bản fax thảo luận về những ứng cử viên tiềm năng. Theo thông lệ, người ta sẽ chọn lựa bốn cái tên, mỗi người trong số này đều đáp ứng được những điều kiện tiên quyết bất thành văn để trở thành Giáo hoàng.
"Phải nói được tiếng Ý, Tây Ban Nha và Anh.
Không dính líu đến vụ tai tiếng nào.
Tuổi từ 65 đến 80" .
Thông thường, một trong số những người được lựa chọn nổi bật hơn cả sẽ là người được Hồng y đoàn bầu chọn. Đêm nay, người đó là Hồng y Aldo Baggia đến từ Milan. Hồ sơ trong sạch của Hồng y Baggia, cùng với khả năng ngôn ngữ vô song và tài giao tiếp tuyệt vời với các con chiên đã làm vị Hồng y này trở thành ứng viên nổi bật nhất.
Vậy thì ông ta ở chỗ quỷ quái nào nhỉ? Hồng y Mortati băn khoăn.
Hồng y Mortati cực kỳ lo lắng về sự kiện các Hồng y mất tích, vì đức cha chính là người điều hành Mật nghị Hồng y . Một tuần trước đây, Hồng y đoàn đã nhất trí bầu Hồng y Mortati vào cương vị Đại Cử Tri - người dẫn dắt các nghi lễ của Mật nghị Hồng y. Dù là người có quyền lực trong giáo hội, nhưng Giáo chủ Thị thần chỉ là một linh mục, và còn chưa quen với các thủ tục bầu chọn phức tạp, vì vậy người ta phải bầu ra một vị Hồng y để chủ trì các nghi lễ bên trong nhà nguyện Sistine.
Các vị Hồng y vẫn thường nói đùa rằng được bổ nhiệm làm Đại cử tri là vinh dự "khó khăn" nhất trong giáo hội Cơ đốc.
Người ta thường cử một người không đủ điều kiện trở thành ứng viên cho ngôi vị Giáo hoàng, và trước khi Mật nghị Hồng y khai mạc, người được bổ nhiệm phải dành nhiều ngày để nghiên cứu từng trang trong cuốn Universi Dominici Gregis(1) để xem xét thật tỉ mỉ các nghi thức bí mật nhằm đảm bảo rằng cuộc bầu cử của Mật nghị Hồng y sẽ diễn ra theo đúng luật thánh.
Dù vậy, Hồng y Mortati không hề cảm thấy bực bội. Ngài biết trước rằng mọi người sẽ bầu mình. Không chỉ là vị Hồng y cấp cao, ngài còn là người thân tín của cố Giáo hoàng, và điều đó khiến ngài được mọi người quý trọng. Xét theo luật thì Hồng y Mortati vẫn nằm trong khung độ tuổi được bầu chọn, nhưng ngài đã quá lớn tuổi. Ở tuổi 79, ngài đã vượt qua giới hạn bất thành văn về tuổi tác. Hồng y đoàn cho rằng cha không còn đủ sức khỏe để đảm nhiệm những trọng trách nặng nề của ngôi vị Giáo hoàng. Giáo hoàng thường phải làm việc 14 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần và sau khoảng 6,3 năm thì sẽ chết vì kiệt sức.
Trong giáo hội, mọi người vẫn thường nói tếu rằng đảm nhận ngôi vị Giáo hoàng là "con đường nhanh nhất để đi tới Thiên đàng" của các vị Hồng y Giáo chủ.
Nhiều người tin rằng Hồng y Mortati đã có thể trở thành Giáo hoàng từ thời còn trẻ nếu ngài không quá khoáng đạt. Đến khi đức cha muốn theo đuổi ngôi vị Giáo hoàng thì chỉ còn Chúa ba ngôi(2) : Bảo thủ. Bảo thủ. Bảo thủ.
Hồng y Mortati để ý thấy một chi tiết hơi buồn cười: cố Giáo hoàng, cầu cho linh hồn của Người được an nghỉ bên Chúa, đã bộc lộ một suy nghĩ rất tự do khi lên nắm quyền. Có lẽ Người đã cảm nhận được sự lạc hậu của nhà thờ so với cuộc sống hiện đại, nên tỏ ra nhân nhượng và giảm bớt vai trò của nhà thờ đối với giới khoa học, thậm chí Người còn tài trợ cho một số công trình nghiên cứu tiêu biểu. Thật đáng buồn, đó lại là một thất bại về chính trị. Phe bảo thủ trong giáo hội cho rằng Giáo hoàng đã trở nên "lú lẫn" còn những nhà khoa học thuần tuý lại buộc tội Người là rắp tâm mở rộng ảnh hưởng của nhà thờ vào một địa hạt vốn không thuộc về tôn giáo.
- Vậy họ đâu rồi?
Hồng y Mortati quay lại.
Một vị Hồng y đang lo lắng vỗ vai đức cha.
- Ngài biết họ ở đâu đúng không?
Hồng y Mortati cố tỏ ra không lo lắng:
- Có lẽ vẫn đang dùng trà với Giáo chủ Thị thần.
- Vào giờ này ư? Thật không đúng phép tắc chút nào! - Vị Hồng y nhíu mày vẻ không tin. Chẳng lẽ Giáo chủ Thị thần quên cả thời gian hay sao?
Đức cha Mortati cũng nghi ngờ điều đó, nhưng không nói gì.
Đức cha biết rằng đa số các vị Hồng y không quý mến Giáo chủ Thị thần, họ cho rằng vị thầy tu này còn quá trẻ so với niềm vinh dự được trực tiếp phục vụ Giáo hoàng. Đức cha cho rằng thái độ thiếu thiện cảm đó chẳng qua chỉ là thói đố kỵ, ngài khâm phục vị thầy tu trẻ này, và vẫn ngấm ngầm đồng tình với sự lựa chọn của cố Giáo hoàng. Khi nhìn sâu vào mắt viên thị thần trẻ tuổi, Mortati chỉ thấy một niềm tin vững chắc. Không giống như các vị Hồng y khác, viên thị thần này đặt giáo hội và đức tin lên trên những động cơ chính trị nhỏ nhen. Con người trẻ trung này mới thực sự là người của Chúa.
Trong suốt thời gian phục vụ Giáo hoàng, viên thị thần này đã tỏ ra tận tuỵ đến mức trở thành huyền thoại. Nhiều người cho rằng sự tận tuỵ ấy là do một sự kiện màu nhiệm xảy đến với Giáo chủ Thị thần từ thuở còn bé… một sự kiện như thế chắc chắn sẽ để lại dấu ấn không phai mờ trong tim bất cứ ai. Thần diệu và màu nhiệm.
Hồng y Mortati đôi khi vẫn thầm ước được trải qua một sự kiện như thế trong thời thơ ấu của mình, để ngài cũng có được đức tin mạnh mẽ như chàng trai trẻ này.
Thật không may cho giáo hội, Giáo chủ Thị thần sẽ không bao giờ thăng tiến được đến ngôi vị Giáo hoàng. Để trở thành Giáo hoàng thì phải có tham vọng chính trị, mà đó chính là thứ Giáo chủ Thị thần không hề có. Viên thị thần trẻ tuổi này đã nhiều lần khước từ những vị trí cao trong giáo hội, và nói với Giáo hoàng rằng chỉ muốn phụng sự nhà thờ như một người bình thường.
- Giờ phải làm thế nào? - vị Hồng y ban nãy lại vỗ vai đức cha Mortati, vẻ chờ đợi.
Đức cha ngẩng mặt lên:
- Ngài nói gì?
- Họ đến muộn! Chúng ta phải làm gì bây giờ?
- Chúng ta còn có thể làm được gì? - Mortati đáp. - Phải đợi chờ. Phải có đức tin.
Có vẻ không hài lòng với câu trả lời của Hồng y Mortati, vị Hồng y đó rút lui vào bóng tối.
Hồng y Mortati đứng im một lúc, tay day nhẹ thái dương, cố giữ cho đầu óc được tỉnh táo. Thực ra thì mình nên làm gì nhỉ? Đức cha ngước lên, nhìn qua bàn thờ chúa, và ngắm bức hoạ nổi tiếng của Michelangelo "Ngày Phán xét cuối cùng". Bức tranh không thể làm dịu đi nỗi lo lắng trong lòng đức cha. Bức tranh khủng khiếp này cao khoảng 15,5 mét, mô tả cảnh Chúa Giê-su phân chia loài người thành hai loại: người tử tế và người tội lỗi, rồi chuẩn bị ném những người tội lỗi vào địa ngục. Ở đó có những xác chết bị lột da, thiêu cháy, một kẻ thù của Michelangelo đang ngồi trong địa ngục, đeo đôi tai lừa. Guy de Maupassant từng viết rằng bức hoạ này chẳng khác gì tranh cổ động cho trận đấu vật trong một lễ hội hoá trang, và tác giả của nó chỉ là một người công nhân bốc vác.
Hồng y Mortati đồng tình với nhận xét này.

Chú thích:
(1) Universi Dominici Gregis: Hiến pháp toà thánh.
(2) Chúa ba ngôi: Sự hợp nhất của Cha. Con và Thánh thần trong đạo Cơ đốc
 
Langdon đứng im bên cửa sồ chống đạn trong văn phòng của Giáo hoàng, mắt nhìn những chiếc xe hòm của các hãng truyền thông đang đậu dưới quảng trường St. Peter. Cuộc nói chuyện điện thoại kỳ lạ vừa rồi làm anh có cảm giác rối rắm và có phắn căng thẳng. Như thể anh không còn là chính mình nữa.
Hội Illuminati, giống như một con quỷ tưởng đã bị chôn vùi trong quá khứ xa xăm, bỗng trỗi dậy để bủa vây kẻ thù truyền kiếp của mình. Không yêu sách. Không thương lượng. Chỉ có sự báo thù. Xuất quỷ nhập thần. Khủng khiếp. Cuộc trả thù của 400 năm. Dường như sau hàng thế kỷ bị truy đuổi và áp bức, giới khoa học đang bắt đầu phản đòn.
Giáo chủ Thị thần đứng bên bàn, mắt trân trân nhìn chiếc máy điện thoại. Olivetti là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng.
- Carlo! -Ông ta gọi tên riêng của Giáo chủ Thị thần, giọng có vẻ như một người bạn mệt mỏi hơn là một sĩ quan. - 26 năm nay, con đã thề sẽ bảo vệ giáo hội này. Thế mà đêm nay con phải chịu thất bại một cách nhục nhã.
Giáo chủ Thị thần lắc đầu.
- Ông và ta cùng phụng sự Chúa, dù ở những vị trí khác nhau, nhưng đều đáng quý như nhau.
- Những sự việc như thế này… con không thể tưởng tượng làm thế nào… chuyện này… - Olivetti có vẻ choáng váng.
- Ông cũng biết rằng chúng ta phải cùng nhau hành động. Ta phải chịu trách nhiệm về sự an toàn của Hồng y đoàn.
- Đó chính là phận sự của con, thưa cha.
- Các phụ tá của ông phải phác thảo kế hoạch sơ tán ngay tức khắc - Cha nói gì ạ?
- Những cách giải quyết khác sẽ được cân nhắc sau - xác định vị trí của phản vật chất, tìm những vị Hồng y mất tích và kẻ bắt cóc. Nhưng trước hết các vị Hồng y phải được đưa đến nơi an toàn đã. Tính mạng con người phải được đặt trên hết. Họ chính là nền tảng của giáo hội này.
- Cha định huỷ bỏ Mật nghị Hồng y hay sao?
- Ta có còn sự lựa chọn nào khác đâu?
Vị thầy tu trẻ tuổi thở dài và quay ra nhìn thành Rome trải rộng bên ngoài khung cửa sổ.
- Giáo hoàng đã có lần nói với ta rằng người luôn bị giằng xé dữ dội giữa hai thế giới… thế giới thực và thế giới thần thánh. Người cảnh báo rằng nếu tự bịt mắt trước thực tại thì không một tôn giáo nào có thể tồn tại để vươn tới được thế giới thần thánh. - Giọng Giáo chủ Thị thần đột nhiên già dặn hơn hẳn so với tuổi của mình - Đêm nay chúng ta đang phải đối mặt với thực tại. Chúng ta sẽ trở thành những kẻ vô dụng nếu cố tình không nhận ra điều đó. Không thể để cho niềm kiêu hãnh và tiền lệ che mờ lí trí.
Olivetti gật đầu đầy vẻ kính nể:
- Bao lâu nay con đã đánh giá thấp cha.
Dường như không nghe thấy những lời nói ấy, Giáo chủ Thị thần vẫn tiếp tục hướng mắt ra ngoài cửa sổ nhìn xa xăm.
- Xin cha cho phép con được nói thẳng. Thế giới thực tại chính là thế giới của con. Để vươn được đến những điều cao đẹp, ngày nào con cũng phải đối mặt với những cái xấu xa, và không phải ai cũng làm được điều này. Con xin được khuyên cha một điều. Vì đây là nghề nghiệp của con. Bản năng của cha dù có thể rất nhạy bén trước thực tại… nhưng rất có thể gây ra tai hoạ.
Giáo chủ Thị thần quay đầu lại.
Olivetti thở dài:
- Tổ chức sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn ra khỏi nhà nguyện Sistine lúc này là một giải pháp vô cùng tồi tệ.
Giáo chủ Thị thần hơi lúng túng, nhưng không hề tỏ ra phật ý:
- Thế ông có gợi ý gì không?
Lúc này ta không nên cho Hồng y đoàn biết chuyện. Cứ niêm phong nhà nguyện lại. Chúng ta sẽ có thêm thời gian để thử các biện pháp khác.
Giáo chủ Thị thần bối rối:
- Ông khuyên ta khoá trái toàn bộ Hồng y đoàn trong nhà nguyện dù biết rằng họ đang ở ngay trên một trái bom hẹn giờ hay sao?
- Vâng, thưa cha. Tạm thế đã. Sau này, nếu cần thiết, ta có thể bố trí sơ tán.
Giáo chủ Thị thần lắc đầu.
- Trì hoãn Mật nghị Hồng y trước khi nó bắt đầu vì lí do an ninh thì còn được, nhưng một khi các cánh cửa đã được niêm phong, không ai được phép can thiệp vào. Các thủ tục của cuộc bầu chọn bắt buộc…
- Thế giới thực tại, thưa cha. Đêm nay cha đang phải đối mặt với thực tại. Xin cha hãy nghe con. - Olivetti giải thích với vẻ của một sĩ quan đầy kinh nghiệm chiến trường:
- Đưa 165 Hồng y ra khỏi thành Rome trong khi chưa kịp làm công tác tư tưởng cho họ, và không có phương án bảo vệ kỹ lưỡng là một việc làm hết sức khinh suất. Một số vị Hồng y có tuổi rất có thể bị hoảng loạn; và thẳng thắn mà nói thì một vụ đột quỵ chết người trong tháng này đã là quá đủ rồi.
Một vụ đột quỵ chết người . Lời nói của viên tư lệnh làm Langdon nhớ lại tiêu đề một bài báo mà anh đã dọc được khi ăn tối với các sinh viên ở trường Harvard:
GIÁO HOÀNG BỊ ĐỘT QUỴ,
TẠ THẾ TRONG KHI ĐANG NGỦ.
- Ngoài ra, - Olivetti nói - Nhà nguyện Sistine còn là một pháo đài Dù toà thánh không thông báo rộng rãi cho công chúng nhưng kết cấu của nó đã được gia cố để có thể chống lại bất cứ vụ tấn công nào, thậm chí bằng tên lừa tầm ngắn. Chiều nay, trong quá trình chuẩn bị, con đã ra lệnh rà soát từng cen-ti-mét bên trong nhà nguyện để rò quét tất cả các loại bọ nghe lén và các thiết bị do thám khác. Nhà nguyện hoàn toàn sạch sẽ và an toàn. Phản vật chất không thể ở trong nhà nguyện được. Lúc này thì không một nơi nào khác an toàn bằng nhà nguyện. Nếu cần ta vẫn có thể bàn chuyện sơ tán Hồng y đoàn vào bất cứ lúc nào cũng được.
Langdon bị gây ấn tượng mạnh. Cách lập luận sắc sảo và lạnh lùng của Olivetti khiến anh nhớ tới Kohler.
- Thưa Tổng Tư lệnh, - Vittoria nói, giọng đầy căng thẳng:
- Còn có những vấn đề khác rất đáng quan tâm. Chưa có ai tạo ra một lượng phản vật chất lớn đến như vậy. Tôi cũng chỉ có thể ước lượng bán kính của vụ nổ. Một số khu vực xung quanh thành Rome cũng sẽ gặp nguy hiểm. Nếu cái hộp bị đặt trong toà nhà trung tâm hay dưới mặt đất thì những tác động của nó ở bên ngoài tường bao là không đáng kể, nhưng nếu nó ở gần vành đai… ví dụ như ở trong toà nhà này… - Cô gái lo lắng nhìn đám đông đang tụ tập tại quảng trường St. Peter.
- Tôi ý thức được trách nhiệm của mình với thế giới bên ngoài. Và tôi không muốn mất thêm bất kỳ mạng sống nào nữa. Bảo vệ nơi thiêng liêng này là nhiệm vụ duy nhất của tôi trong suốt hơn hai thập kỷ qua. Tôi không có ý định để cho loại vũ khí đó phát nổ. - Olivetti đáp.
Giáo chủ Thị thần Ventresca ngước mắt lên.
- Ông nghĩ là có thể tìm được phản vật chất sao?
- Con sẽ thảo luận với các chuyên gia về dò tìm chất nổ. Nếu ngắt điện ở thành Vatican thì rất có thể chúng ta sẽ loại trừ được các loại tần số vô tuyến cơ bản, và tạo ra một môi trường đủ sạch để đọc được từ trường trên chiếc hộp.
Vittoria sửng sốt, rồi ngay sau đó tỏ ra đầy thán phục:
- Ông định cắt điện toàn bộ thành Vatican à?
- Có thể lắm. Giờ thì tôi chưa biết là làm thế có được hay không, nhưng đây là một khả năng tôi đang tính đến.
- Chắc chắn các vị Hồng y sẽ băn khoăn không hiểu có chuyện gì xảy ra. - Vittoria nhận xét.
Olivetti lắc đầu:
- Mật nghị Hồng y được tiến hành bằng ánh sáng nến. Các vị Hồng y sẽ không biết gì cả. Sau khi niêm phong nhà nguyện, tôi sẽ để lại vài người lính canh gác khu vực ngoại biên, còn lại tất cả những người khác sẽ bắt đầu tìm kiếm. Trong vòng 5 giờ đồng hồ, 100 người có thể rà soát được một khu vực khá rộng lớn.
- Bốn tiếng thôi, - Vittoria đính chính. - Tôi cần thời gian để đưa chiếc hộp trở lại CERN. Nếu không nạp được điện vào pin thì cái hộp chắc chắn sẽ phát nổ.
- Nạp luôn ở đây không được hay sao?
Vittoria lắc đầu.
- Giao diện của nó rất phức tạp. Nếu có thể thì tôi đã đem theo rồi.
- Như vậy là chỉ có 4 tiếng, - Olivetti nói - Vẫn còn đủ thời gian. Đừng để ai bị hoảng loạn. Cha có 10 phút. Cha hãy đến niêm phong cửa nhà nguyện. Hãy cho người của con có đủ thời gian để làm nhiệm vụ. Gần đến giờ chót thì chúng ta sẽ đưa ra quyết định cuối cùng.
Langdon băn khoăn không hiểu Olivetti định đợi đến tận lúc nào.
Giáo chủ Thị thần vẫn còn băn khoăn:
- Nhưng Hồng y đoàn sẽ hỏi những vị được lựa chọn đang ở đâu… nhất là Hồng y Baggia…
- Thì cha phải nghĩ ra cách gì chứ. Cha hãy nói là họ bị đau bụng vì trong lúc dùng trà với cha, họ đã ăn phải món gì đó chẳng hạn.
Giáo chủ Thị thần tỏ ra phẫn nộ:
- Đứng trước bàn thờ Chúa trong nhà nguyện Sistine, và nói dối Hồng y đoàn mà được hay sao?
- Vì sự an toàn của họ. Una bugia veniale(1) . Lời nói dối vô hại có thể bỏ qua được. Việc của cha là giữ yên bình chốn đó. - Olivetti tiến về phía cửa - Bây giờ. nếu cha cho phép, con phải bắt đầu công việc ngay.
- Ông Tổng Tư lệnh, - Giáo chủ Thị thần thúc giục. - Chúng ta không thể bỏ mặc những vị Hồng y bị mất tích.
Olivetti dừng lại ngay ở lối vào:
- Hồng y Baggia và những vị khác lúc này đang ở ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta chần còn cách nào khác… vì lợi ích chung. Trong quân sự người ta gọi là ưu tiên phân cấp cứu chữa.
- Ý ngươi là phó thác hoàn toàn hay sao?
Olivetti nói một cách khó nhọc:
- Thưa cha, nếu còn cách nào khác… bất cứ cách nào để xác định được tung tích của bốn vị ấy thì con sẽ làm hết sức mình. Nhưng… - Ông ta chỉ ra ngoài cửa sổ, nơi những tia nắng hoàng hôn đang chiếu xuống vô số những mái nhà của thành Rome. - Tìm kiếm trong một thành phố 5 triệu dân nằm ngoài khả năng của con. Con sẽ không lãng phí thời gian và nhân lực để thực thi một nhiệm vụ không hiệu quả. Con rất lấy làm tiếc.
Vittoria đột ngột lên tiếng:
- Nhưng nếu chúng ta bắt được kẻ giết người, liệu ông có buộc được hắn nói ra không?
Olivetti nhíu mày nhìn cô gái:
- Một khi đã làm lính thì không thể làm thánh được, thưa cô Vetra. Xin cô hãy tin tôi, tôi rất thông cảm với mục đích riêng của cô trong nỗ lực truy bắt kẻ đó.
- Không chỉ là mục đích của cá nhân tôi, - cô gái nói - Kẻ giết người biết phản vật chất… và cả những vị Hồng y mất tích hiện đang ở đâu. Nếu chúng ta có thể bằng cách nào đó tìm ra hắn…
- Thế thì chẳng khác nào bầy cỗ cho chúng xơi. - Olivetti nói - Xin cô hãy tin lời tôi, nếu chúng ta bỏ trống toàn bộ thành Vatican để lục soát hàng trăm nhà thờ thì đó chính là điều mà hội Illuminati đang mong muốn… làm thế là lãng phí thời gian cũng như nguồn nhân lực quý báu trong khi đáng lẽ ta phải gấp rút tìm kiếm… bỏ trống thành Vatican thì lại còn tồi tệ hơn. Phải tính đến những vị Hồng y còn lại nữa chứ.
Mũi tên này đã trúng đích.
- Thế còn cảnh sát của Rome? - Giáo chủ Thị thần hỏi. - Chúng ta có thể ban bố tình trạng khẩn cấp trên toàn thành Rome. Tranh thủ sự giúp đỡ của họ để tìm kẻ đã bắt cóc các vị Hồng y.
- Lại thêm một sai lầm nữa, - Olivetti nói - Cha có biết lực lượng cảnh sát ở Rome nghĩ gì về chúng ta không? Sẽ có mấy tay gà mờ vô dụng được cử đến để hỗ trợ chúng ta, và để đổi lại thì họ sẽ bán đứng thông tin về vụ việc này cho giới truyền thông trên toàn thế giới. Đây chính là điều kẻ thù của ta đang mong muốn. Ngay lập tức chúng ta sẽ phải đối mặt với báo chí.
Ta sẽ khiến cho những Hồng y này trở thành tâm điểm của báo chí. Langdon nhớ lại từng lời nói của kẻ giết người. Xác của Hồng y đầu tiên sẽ xuất hiện lúc 8 giờ. Sau đó cứ mỗi tiếng một người. Giới báo chí sẽ thích lắm đấy.
Giáo chủ Thị thần lại lên tiếng, vẻ rất giận giữ:
- Ông Tổng Tư lệnh, lương tâm không cho phép chúng ta bỏ mặc những vị Hồng y bị mất tích!
Olivetti nhìn thẳng vào mắt Giáo chủ Thị thần:
- Người cầu nguyện của thánh Francis, thưa cha. Cha còn nhớ không?
Vị linh mục trẻ thốt lên đầy đau xót:
- Chúa hãy cho con sức mạnh để chấp nhận những điều con không thể đổi thay.
- Xin cha hãy tin con, - Olivetti nói - Đây chính là một trong những điều ấy đấy.
Rồi ông ta biến mất.

Chú thích:
(1) Una bugia veniale: Lời nói dối vô hại.
 
Văn phòng trung tâm của hãng truyền thông BBC toạ lạc ở Phía Tây quảng trường Piccadilly, London. Điện thoại tổng đài reo vang, người trợ lí biên tập nội dung nhấc máy.
- BBC xin nghe. - Cô ta vừa nói vừa dụi tắt điếu thuốc Dunhill.
Giọng nói khàn khàn của người đàn ông trên đường dây mang âm sắc vùng Trung Đông:
- Tôi có một tin giật gân mà chắc chắn đài của cô sẽ quan tâm.
Biên tập viên lôi ra một cây bút chì và một tờ giấy:
- Liên quan đến vấn đề gì?
- Cuộc bầu chọn Giáo hoàng.
Người trợ lý biên tập nội dung nhíu mày mệt mỏi. Hôm qua đài BBC đã phát một chương trình về chủ đề này nhưng chỉ được đánh giá ở mức bình thường. Dường như công chúng ngày càng ít quan tâm đến Vatican.
- Xét theo khía cạnh nào?
- BBC có phóng viên thời sự ở Rome để đưa tin về cuộc bầu chọn không?
- Tôi nghĩ là có.
- Tôi muốn nói chuyện trực tiếp với người đó.
- Xin lỗi, nhưng tôi không thể trao cho ông số điện thoại mà không có lí do…
- Mật nghị Hồng y đang bị đe doạ. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với cô!
Người trợ lý bắt đầu ghi chép.
- Tên của ông?
- Tôi không có tên.
Người trợ lý không lấy làm ngạc nhiên:
- Ông có bằng chứng nào không?
- Có.
- Tôi rất lấy làm vinh hạnh được nhận thông tin của ông, nhưng quy định của hãng là không được tiết lộ số điện thoại của phóng viên trừ khi…
- Tôi hiểu. Để tôi gọi cho hãng tin khác vậy. Cám ơn. Tạm b…
- Khoan đã. - Cô nói - Xin ông giữ máy chờ một chút.
Biên tập viên giữ máy và nghển cổ lên. Kỹ năng sàng lọc những cuộc gọi vớ vẩn điên rồ luôn là một yếu tố có tầm quan trọng sống còn; và người gọi điện này đã vượt qua hai bài kiểm tra chiến lược của BBC về tính xác thực của nguồn tin. Anh ta từ chối nêu tên và nôn nóng muốn gác máy. Những kẻ tầm phào và háo danh thường tỏ ra lươn lẹo và quỵ luỵ.
May mắn là các phóng viên lúc nào cũng ở trong tâm trạng sợ bỏ lỡ mất những vụ việc lớn vì vậy rất hiếm khi họ trách cô vì đã chuyển đến họ những kẻ bị bệnh tâm thần và ảo giác.
Làm mất năm phút của phóng viên còn có thể tha thứ được, nhưng để lỡ một vụ việc thì không.
Ngáp ngắn ngáp dài, người trợ lý nhìn màn hình máy tính và gõ từ khoá "Thành Vatican". Khi nhìn thấy tên của người được cử đến đưa tin trực tiếp về cuộc bầu chọn Giáo hoàng, cô ta tủm tỉm cười. Đây là một gã mới được BBC nhặt về từ một tờ báo lá cải ở London để phụ trách những tin vụn vặt. Rõ ràng là ban biên tập hiện đang xếp phóng viên này vào hạng thấp kém nhất.
Phóng viên này hẳn đang rất chán chường vì phải chờ đợi suốt đêm để ghi hình một đoạn băng chỉ kéo dài có 10 giây. Anh ta sẽ vô cùng cảm kích vì được thoát khỏi cảnh đơn điệu và nhàm chán ở đó.
Biên tập viên nội dung đài BBC ghi lại số điện thoại vệ tinh của người phóng viên hiện đang có mặt tại Vatican. Rồi cô ta châm một điếu thuốc khác, và đọc cho kẻ gọi điện nặc danh số máy ấy.
- Không có tác dụng gì đâu! - Vittoria vừa nói vừa đi đi lại lại trong phòng làm việc của Giáo hoàng. Cô ngước mắt nhìn Giáo chủ Thị thần. - Dù cho đội lính Thuỵ Sĩ có khả năng lọc được nhiễu điện tử thì họ cũng phải đứng ngay bên trên thiết bị ấy mới dò được tín hiệu của nó. Đấy là mới nói đến khả năng tiếp cận được chiếc hộp… mà không gặp phải chướng ngại nào. Ngộ nhỡ chiếc hộp bị cho vào một cái thùng kim loại rồi chôn dưới lòng đất thì sao? Hay trong một đường ống thông gió bằng kim loại nào đó. Sẽ không cách gì tìm ra được. Ngộ nhỡ chính đội lính gác Thuỵ Sĩ bị mua chuộc thì sao? Ai dám khẳng định rằng cuộc rà soát này là đáng tin cậy?
Giáo chủ Thị thần có vẻ vô cùng mệt mỏi:
- Cô có đề nghị gì không, cô Vetra?
Mặt Vittoria đỏ bừng. Chẳng phải điều đó là quá hiển nhiên rồi sao?
- Thưa cha, hãy tiến hành các biện pháp an toàn khác ngay lập tức Chúng ta tiếp tục hi vọng rằng nỗ lực truy tìm của ông chỉ huy mang lại kết quả tốt đẹp. Nhưng cha hãy nhìn ra ngoài cửa sổ đi. Cha có thấy những người kia không? Cha có trông thấy những toà nhà bên kia quảng trường không? Cả những chiếc xe hòm của giới báo chí, cả khách du lịch. Rất có thể họ đang nằm trong tầm sát thương của vụ nổ. Cần phải hành động ngay lập tức!
Giáo chủ Thị thần gật đầu lơ đễnh.
Vittoria muốn nổi xung. Olivetti ra sức khẳng định là còn rất nhiều thời gian. Nhưng cô biết, nếu tin tức về tình trạng nguy hiểm của Vatican bị lọt ra ngoài thì chỉ vài phút sau, toàn bộ khu vực này sẽ chật ních những người hiểu kỳ. Cô đã từng chứng kiến cảnh tượng ấy ở toà nhà Nghị viện Thuỵ Sĩ. Một kẻ cài bom trong người bắt giữ con tin, hàng ngàn người đã đổ xô đến xem.
Dù cảnh sát liên tục cảnh báo về khả năng họ bị nguy hiểm đến tính mạng, người ta vẫn cứ xúm đen xúm đỏ. Không gì kích thích sự hiểu kỳ của loài người hiệu quả hơn bi kịch của đồng loại.
- Thưa cha, - Vittoria thúc giục, - kẻ đã sát hại cha của con đang nhởn nhơ ngoài kia. Từng đường gân thớ thịt trên cơ thể con đều đang thôi thúc con ra ngoài đó để truy tìm hắn. Thế nhưng con lại đang có mặt tại phòng làm việc của cha… vì con cảm thấy đó là trách nhiệm của chính mình. Trách nhiệm đối với cha, và những người khác. Rất nhiều mạng sống đang bị đặt vào vòng nguy hiểm, thưa cha. Cha có nghe con nói không?
Giáo chủ Thị thần không đáp.
Tim Vittoria dập thình thịch trong lồng ngực. Tại sao đội lính gác Thuỵ Sĩ không xác định được kẻ gọi đến nhỉ? Sát thủ Illuminati chính là chìa khoá của vấn đề! Hắn biết phản vật chết đang ở đâu. Quỷ thật, hắn cũng biết luôn vị Hồng y Giáo chủ đang bị giam giữ ở chỗ nào! Chỉ cần bắt được hắn là giải quyết xong hết mọi chuyện.
Tâm trí Vittoria trở nên rối bời, y như hồi còn ở trại trẻ mồ côi, cảm thấy mình bất lực vì không cách gì giải được các bài toán khó. Mình biết cách , cô tự nhủ, lúc nào mình cũng có cách mà .
Chẳng có tác dụng gì. Bao nhiêu ý nghĩ đang bủa vây, bóp nghẹt cô gái. Vittoria là nhà nghiên cứu, là người phải giải quyết vấn đề. Nhưng vấn đế này thì đâu có cách gì giải quyết được. Mình có gì trong tay nào? Mình muốn gì nào? Vittoria tự ra lệnh cho mình hít thở thật sâu, nhưng lần đầu tiên trong đời, cô gái không thể làm nổi điều đó. Cô cảm thấy nghẹt thở.
Đầu Langdon đau như búa bổ, cảm tưởng như lý trí sắp sửa đầu hàng trước tình huống khó khăn này. Mắt anh hướng về phía Vittoria và Giáo chủ Thị thần, nhưng trong đầu hiện lên toàn những cảnh tượng gớm ghiếc: vụ nổ, giới báo chí đổ xô đến, máy ảnh chớp lia lịa, bốn th.ân thể bị đóng dấu sắt nung.
Shaitan… ma vương… Sứ giả của ánh sáng… Quỷ Sa-tăng .
Langdon cố xua những hình ảnh khủng khiếp ấy khỏi tâm trí. Hành động khủng bố có tinh toán , anh tự nhủ, cố nắm bắt thật thấu đáo tình huống hiện tại . Tình trạng hỗn loạn được lên kế hoạch từ trước . Langdon nhớ lại một cuộc hội thảo ở Radcliffe mà anh đã tham dự khi nghiên cứu về biểu tượng học thời La Mã. Chủ nghĩa khủng bố đã hiện diện ngay từ thời ấy.
- Chủ nghĩa khủng bố chỉ có một mục tiêu duy nhất. - Vị giáo sư khẳng định. - Có ai biết đó là gì không?
- Là giết những người vô tội phải không ạ? - Một sinh viên mạnh dạn lên tiếng.
- Sai. Chết chóc chỉ là tác động phụ không mong muốn của chủ nghĩa khủng bố.
- Để phô trương sức mạnh phải không ạ?
Không. Kẻ yếu không thể làm được điều đó.
- Để gây hoang mang ạ?
- Hoàn toàn chính xác. Rất đơn giản, mục tiêu của chủ nghĩa khủng bố là tạo ra tâm lý sợ hãi và hoảng loạn. Tâm lý sợ hãi sẽ dần dần bào mòn niềm tin của người ta đối với các thể chế. Nó khiến cho kẻ thù bị suy yếu từ bên trong… và tạo ra tâm trạng bất an trong dân chúng. Các bạn hãy ghi nhớ điều này. Khủng bố không phải là biểu hiện của sự phẫn nộ, mà là một công cụ trong đấu tranh chính trị. Mục đích là huỷ hoại hình ảnh của nhà nước, và bào mòn lòng tin của dân chúng đối với thề chế ấy.
Mất lòng tin …
Phải chăng đó chính là mục tiêu của bọn chúng? Langdon tự hỏi không hiểu những con chiên Thiên Chúa giáo trên toàn thế giới sẽ phản ứng thế nào nếu thi thể các vị Hồng y Giáo chủ bị quăng ngoài đường hệt như xác chết của loài súc vật. Nếu đức tin của các vị Hồng y không thể bảo vệ chính bản thân họ trước quỷ Sa-tăng thì những người bình thường biết trông cậy vào đâu?
Mạch máu trên thái dương anh càng đập dữ dội hơn… Vô số giọng nói cùng đồng thanh vang lên trong tâm trí anh, náo loạn.
Đức tin không thể bảo vệ các người. Thuốc là những phương tiện hiện đại sẽ đảm đương sứ mệnh đó. Chúa không thể bảo vệ các người. Trí tuệ sẽ che chở các người. Sự khôn sáng. Các ngươi hãy đặt mềm tin vào những gì cụ thể là có thật. Con người biết đi trên mặt nước từ bao giờ nào? Những phép nhiệm màu thời hiện đại này đều nhờ khoa học mà có đấy chứ, máy vi tính, vắc-xin phòng bệnh sân bay vũ trụ… ngay cả sự nhiệm màu của tạo hoá. Vật chất được tạo ra từ hư không ngay tại phòng thí nghiệm. Nhân loại cần đến Chúa Trời làm gì nữa? Không cần! Khoa học chính là Chúa .
Những lời nói của hung thủ cứ tiếp tục vang lên trong tâm trí Langdon. Đúng nửa đêm… sự huỷ diệt chuẩn xác. Sacrifici vergini nell' altare di scienza(1).
Rồi bỗng nhiên tất cả những giọng nói ấy im bặt, chẳng khác nào đám đông lập tức trở nên trật tự khi nghe thấy một tiếng súng bắn chỉ thiên.
Robert Langdon bất thần đứng bật dậy. Chiếc ghế anh đang ngồi bị xô mạnh ra sau rồi đồ rầm xuống sàn nhà lát đá hoa cương.
Cả Vittoria lẫn Giáo chủ Thị thần đều giật mình.
- Thế mà tôi quên mất, - Langdon thì thầm, từng từ một. - Ngay trước mũi mà tôi không nhớ ra
- Nhớ ra cái gì? - Vittoria chất vấn.
Langdon quay sang vị tu sĩ.
- Thưa cha, ba năm nay con đã bảy lần xin phép được vào Nhà mái vòm của Vatican, nhưng cả bảy lần bị từ chối.
- Langdon, xin ông thứ lỗi, nhưng đây đâu phải lúc đế cập đến ch.uyện ấy.
- Con cần phải vào đó ngay lập tức. Vì bốn vị Hồng y mất tích. Con có thể đoán được họ sẽ bị hành quyết ở địa điểm nào.
Vittoria nhìn anh chằm chằm, tưởng mình vừa nghe lầm.
Giáo chủ Thị thần hình như không bằng lòng, như thể vừa phải nghe một lời đùa cợt đầy ác ý.
- Ông tin rằng thông tin ấy nằm trong Nhà mái vòm của chúng ta sao?
- Con không dám hứa chắc chắn là sẽ tìm thấy kịp thời, nhưng nếu cha cho phép con vào trong đó thì…
- Ông Langdon này, bốn phút nữa ta sẽ phải có mặt ở nhà nguyện Sistine. Nhà mái vòm lại ở tận phía bên kia của Vatican.
- Anh nói thật không đấy? - Vittoria ngắt lời, cô nhìn sâu vào mắt Langdon, dường như đã cảm nhận được sự háo hức trong lòng anh.
- Đây đâu phải là tức nói đùa. - Langdon đáp.
- Thưa cha, nếu có cơ hội… bất kỳ cơ hội nào tin được địa điểm sẽ xảy ra cảnh thảm sát các vị Hồng y mất tích thì. chúng ta sẽ có thể khoanh vùng khu vực nguy hiểm và…
- Nhưng sao lại là Nhà mái vòm? - Giáo chủ Thị thần vặn hỏi. - Làm sao lại có thể tìm được thông tin trong đó?
- Để giải thích cho cha hiểu cặn kẽ thì sẽ mất rất nhiều thời gian. - Langdon nói - Nhưng nếu suy đoán của con là đúng thì chúng ta sẽ tìm thấy thông tin để truy lùng sát thủ từ trong kho lưu trữ đó.
Giáo chủ Thị thần có vẻ rất muốn tin điều Langdon vừa nói nhưng vẫn không tránh khỏi hoài nghi:
- Tất cả những cuốn sách chép tay thiêng liêng nhất của Thiên Chúa giáo được lưu trữ trong đó. Ngay cả ta cũng không có quyền tự ý ra vào.
- Con biết điều đó.
- Chỉ được vào khi có giấy cho phép của người quản lý và Hội đồng thủ thư Vatican.
- Hoặc là... - Langdon tiếp lời, - Nếu có giấy uỷ nhiệm của Giáo hoàng. Điều này đã được nhắc đi nhắc lại trong tất cả bảy lá thư khước từ đề nghị của con.
Giáo chủ Thị thần gật đầu.
- Con không có ý tỏ ra hỗn xược, - Langdon lại nói tiếp, - Nhưng nếu con không nhầm thì giấy uỷ nhiệm của đức Giáo hoàng được soạn thảo tại chính căn phòng này. Và theo con được biết thì đêm nay chính cha đảm nhiệm vai trò của Giáo hoàng. Và tình thế lúc này thì đang vó cùng cấp bách…
Giáo chủ Thị thần rút từ trong túi áo thầy tu một chiếc đồng hồ đeo tay và xem giờ.
- Ông Langdon này, đêm nay ta sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình để bảo vệ nhà thờ.
Nhìn ánh mắt của vị thầy tu trẻ tuổi, Langdon cảm nhận sự chân thành không thể chối cãi trong câu nói vừa rồi.
- Con có chắc là tài liệu này nằm trong thư viện Nhà mái vòm không? - Giáo chủ Thị thần nói tiếp - Con có chắc là sẽ giúp chúng ta tìm được bốn vị Hồng y Giáo chủ mất tích không?
- Nếu không vì niềm tin ấy thì con đã không bảy lần liền gửi thư xin được vào đó. Với đồng lương giáo viên thì làm sao con có thể đến Rome chỉ để chơi không. Những tài liệu cổ trong đó…
- Khoan đã. - Giáo chủ Thị thần ngắt lời - Thứ lỗi cho ta, đầu óc ta lúc này không thể tư duy mạch lạc được nữa rồi. Con có biết Nhà mái vòm bí mật đó ở chỗ nào không?
Langdon chợt cảm thấy vô củng phấn khích:
- Ngay sau cổng Santa Ann ạ!
- Rất ấn tượng. Đa số các học giả đều tưởng là ở sau một cánh cửa bí mật cạnh ngai của Thánh Peter.
- Không phải. Ở chỗ đó là Archivio della Reverenda đi Fabbrica di St. Piedro(2) . Rất nhiều người nhầm lẫn về điểm này.
- Bình thường luôn có một giảng sư đi theo tất cả những ai vào trong đó. Nhưng tối nay không một giảng sư nào có mặt ở đây cả.
- Con đang yêu cầu được toàn quyền hành động.
- Trong khi chính các Hồng y Giáo chủ cũng không được tự vào đó một mình.
- Con xin hứa sẽ hết sức cẩn trọng trong mọi hành động. Những người giữ thư viện của đức cha sẽ không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của con trong đó.
Từ trên cao, chuông nhà thờ St. Peter bắt đầu vang lên. Giáo chủ Thị thần xem đồng hồ:
- Ta phải đi ngay bây giờ. - Ngài dừng lại một giây rồi nhìn thẳng vào mắt Langdon - Ta sẽ phái một người lính Thuỵ Sĩ đợi con ở cửa Nhà mái vòm. Ta đặt trọn niềm tin vào con đó, Langdon. Giờ thì hãy đi đi.
Langdon không thốt nên lời.
Vị thầy tu trẻ tuổi lúc này dường như đã trở nên đĩnh đạc và điềm tĩnh kỳ lạ. Ngài đặt tay lên vai Langdon, một bàn tay có sức mạnh khác thường:
- Hãy tìm cho được cái con đang tìm kiếm.
Và tìm thật nhanh nhé.

Chú thích:
(1) Sacrifici vergini nell' altare di scienza: Vật hiến tế trinh tiết trên bàn thờ khoa học.
(2) Archivio della Reverenda đi Fabbrica di St. Piedro: Nhà mái vòm St. Peter.
 
Nhà mái vòm bí mật của Vatican được bố trí ở cuối đại sảnh Borgia, cách cổng Santa Ana một con dốc. Bên trong toà nhà này chứa khoảng 20.000 cuốn sách, và theo những lời đồn đại thì trong số đó có những báu vật như cuốn nhật ký bị thất lạc của Leonardo Da Vinci và những cuốn Kinh thánh chưa được công bố.
Langdon sải những bước dài mạnh mẽ dọc con dốc Via Della Fondamenta vắng vẻ, anh không dám tin là mình sắp được đặt chân vào thư viện của toà thánh. Vittoria nhẹ nhàng theo sát anh.
Một làn gió nhẹ thoáng qua, mái tóc nâu bồng bềnh của cô gái thoảng mùi thơm quả hạnh, Langdon tưởng như mùi hương ấy đang ôm ấp, mơn man cơ thể mình. Anh chợt thấy lòng xao động.
Vittoria lên tiếng:
- Anh có thể cho tôi biết là chúng ta đang đi tìm cái gì không?
- Một cuốn sách nhỏ, tác giả mang tên Galileo.
Cô gái ngạc nhiên:
- Anh nói nghiêm túc đấy chứ? Nội dung của nó là gì?
Người ta nói rằng cuốn sách đó chứa thông tin về Segno(1) .
- Dấu hiệu à?
- Dấu hiệu, đầu mối, manh mối… Tuỳ vào cách hiểu của mỗi người.
- Đầu mối của cái gì?
Langdon sải bước nhanh hơn:
- Một địa điểm bí mật. Hội Illuminati của Galileo cần một biện pháp để tự vệ trước thế lực của Vatican, thế là họ chọn ra một địa điểm cực kỳ bí mật ở ngay trong thành Rome. Họ đặt cho nó cái tên là Nhà thờ ánh sáng .
- Táo tợn thật, dùng từ nhà thờ để đặt tên cho hang ổ của quỷ dữ.
Langdon lắc đầu.
- Hội Illuminati của Galileo không hề giống quỷ dữ chút nào. Họ là những nhà khoa học tôn sùng sự khai sáng. Địa điểm bí mật đó đơn giản chỉ là nơi họ tụ họp để bàn những vấn đề mà Vatican cấm ngặt. Dù biết rằng địa điểm đó đã từng tồn tại, nhưng ngày nay không ai tìm ra được.
- Có vẻ như hội Illuminati rất biết cách giữ bí mật.
- Chính xác. Sự thật là họ không hề tiết lộ địa điểm bí mật này cho bất kỳ ai không phải là thành viên của hội. Bí mật đó bảo vệ cho họ, nhưng nó lại trở thành một trở ngại khi họ muốn tuyển mộ thêm thành viên mới.
- Nếu không quảng bá hình ảnh thì không thể phát triển. - Vittoria nhận định, tư duy của cô gái sắc sảo và nhanh nhạy chẳng kém gì đôi chân.
- Đúng thế. Tin đồn về hội kín của Galileo bắt đầu lan rộng từ những năm 1630, và những nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới bí mật hành hương về Rome với hi vọng được gia nhập Illuminati… Họ háo hức được ngắm nhìn bầu trời bằng ống kính thiên văn của Galileo và nghe chính bậc thầy này giảng giải. Thật đáng tiếc, do tính chất bí mật của Illuminati nên những nhà khoa học từ xa đến Rome không bao giờ được biết phải đến đâu và phải hỏi ai để tham dự những cuộc tụ họp ấy. Hội Illuminati muốn thay máu, nhưng lại không dám mạo hiểm tiết lộ bí mật của mình bằng cách công bố địa điểm bí mật đó.
Vittoria nhíu mày:
- Nghe có vẻ giống một tình thế tiến thoái lưỡng nan nhỉ.
- Đúng thế.
- Rồi họ làm thế nào?
- Là những nhà khoa học, họ đã xem xét vấn đề và tìm ra một giải pháp. Thực sự là một giải pháp rất xuất sắc. Hội Illuminati đã lập nên một loại bản đồ cực kỳ tài tình để chỉ đường cho các nhà khoa học đến địa điểm bí mật của họ.
Đột nhiên Vittoria tỏ ra hoài nghi, cô bước chậm hẳn lại:
- Bản đồ à? Nghe có vẻ quá bất cẩn. Chỉ cần một tấm bản đồ rơi vào tay những kẻ phản bội là…
- Không thể có chuyện đó. - Langdon đáp. - Chỉ có một tấm bản đồ duy nhất. Đó không phải là loại bản đồ vẽ trên giấy. Bản đồ này cực lớn. Nó là một loạt những ký hiệu rải khắp thành phố.
Những bước chân của Vittoria lại một lần nữa chậm lại:
- Những mũi tên vẽ khắp nơi trên các vỉa hè à?
- Đại loại thế, nhưng tinh tế hơn nhiều. Bản đồ đó gồm những biểu tượng được che giấu một cách tài tình ở những địa điểm công cộng trong thành phố. Biểu tượng thứ nhất chỉ đường đến biểu tượng thứ hai, biểu tượng thứ hai dẫn đến biểu tượng thứ ba, và cứ thế, cái đích cuối cùng sẽ là địa điểm bí mật.
Vittoria nhìn anh dầy hoài nghi:
- Nghe như một hành trình đi tìm kho báu ấy nhỉ?
Langdon cười khùng khục:
- Trong chừng mực nào đó thì quả đúng là như vậy. Hội Illuminati gọi những biểu tượng dẫn đến địa điểm bí mật này là "Con đường ánh sáng ", tất cả những người muốn gia nhập hội của họ đều phải lần theo những biểu tượng ấy từ đầu đến cuối. Như là một thử thách.
- Nếu thế thì Vatican cũng cứ theo những mũi tên đó là tìm được địa điểm bí mật của hội Illuminati.
- Không, con đường đó được giữ bí mật, như một sự thách đố. Những dấu hiệu đó được thiết kế theo một kiểu nhất định. Chỉ một nhóm người có khả năng hiểu được nó và biết được địa điểm bí mật của hội Illuminati nằm ở đâu. Hội Illuminati muốn dùng nó như một sự thử thách, không chỉ nhằm mục đích an ninh, mà còn để lựa chọn những nhà khoa học tài ba nhất.
- Tôi không tin. Trong thế kỷ XVII thì những người tài giỏi nhất chính là giới tu sĩ. Nếu những dấu hiệu đó được khắc ở nơi công cộng thì chắc chắn một tu sĩ nào đó của Vatican sẽ lần ra địa điểm đó.
- Đúng thế, với điều kiện là họ phải được biết về những dấu hiệu đó. Nhưng họ đâu có biết. Và họ cũng không bao giờ nhận ra chúng, vì hội Illuminati đã thiết kế những biểu tượng của họ theo một kiểu mà nhà thờ sẽ không bao giờ nghi ngờ. Họ sử dụng một phương pháp mà ngành biểu tượng gọi là Đồng hoá.
- Nguỵ trang à?
Langdon nhạc nhiên:
- Cô biết thuật ngữ đó à?
- Dissimulazione(2) , biện pháp tự vệ hiệu quả nhất trong thiên nhiên. Đố anh phát hiện được con cá kèn đang bơi lượn trong đám rong biển.
- Đúng thế. - Langdon nói tiếp, - Hội Illuminati cũng sử dụng khái niệm ấy. Họ tạo ra những dấu hiệu hoàn toàn hoà lẫn vào thành Rome cổ kính. Họ không thể dùng những biểu tượng khoa học hay biểu tượng đối xứng hai chiều vì như vậy sẽ gây ra nghi ngờ. Họ đã yêu cầu một nghệ sĩ của hội tạo ra bốn bức điêu khắc chính nhà nghệ sĩ vô danh đã tạo nên sự đối xứng tuyệt vời cho biểu tượng của hội Illuminati.
Các bức điêu khắc của Illuminati?
- Đúng thế, - các tác phẩm điêu khắc với hai yêu cầu khắt khe. Thứ nhất, chúng phải giống với những công trình nghệ thuật ở Rome… mà Vatican không bao giờ nghi ngờ rằng chúng thuộc về hội Illuminati.
- Một loại hình nghệ thuật có tính tôn giáo.
Langdon gật đầu, lòng tràn ngập cảm giác phấn khích, anh nói nhanh:
- Và yêu cầu thứ hai là bốn biểu tượng này phải biểu hiện những dề tài cụ thể. Mỗi bức điêu khắc thể hiện sự tôn sùng đối với một trong bốn ngành khoa học.
- Bốn ngành à? - Vittoria hỏi lại. - Có những hơn 100 ngành cơ mà?
- Vào thời điểm của thế kỷ XVII cơ mà - Langdon nhắc Vittoria - Các nhà giả kim thời đó tin rằng toàn thể vũ trụ được tạo nên từ bốn yếu tố duy nhất: Đất, Khí, Lửa và Nước.
Langdon biết rằng ban đầu cây thánh giá chính là biểu tượng của bốn yếu tố đó - bốn nhánh, tượng trưng cho Đất, Khí, Lửa và Nước. Tuy nhiên, còn có hàng chục kiểu biểu tượng khác trong lịch sử nhân loại tượng trưng cho bốn yếu tố Đất, Khí, Lửa, Nước - vòng luân hồi của trường phái Pitago, biểu tượng Lưỡng Nghi cửa người Trung Hoa, sự phân chia yếu tố đực và cái của trường phái Jungian, cách chia đường hoàng đạo thành bốn cung, và thậm chí cả người Hồi giáo cũng tôn thờ bốn yếu tố sơ khai có tên là gió, mây, chớp và sóng. Và bốn yếu tố này có một công dụng khá hiện đại mà vẫn luôn khiến Langdon thấy rợn - bốn mức chia huyền bí trong triết lý của hội Tam Điểm về sự khởi đầu tuyệt đối: Đất Khí, Lửa và Nước.
Vittoria vẫn chưa hết thắc mắc:
- Tức là người nghệ sĩ của hội Illuminati tạo ra bốn tác phẩm nghệ thuật mà thoạt nhìn thì mang đậm chất tôn giáo, nhưng thực ra lại tượng trưng cho bốn yếu tố nguyên thuỷ là Đất, Khí, Lửa và Nước à?
- Chính xác. - Langdon vừa nói vừa nhanh chân bước về phía Via Sentinel, hướng về phía Nhà mái vòm bí mật. - Những tác phẩm này bị lẫn vào giữa vô số những tác phẩm nghệ thuật có tính tôn giáo ở thành Rome. Bằng cách nặc danh hiến tặng những tác phẩm này cho các nhà thờ đã được chọn lựa từ trước và lợi dụng ảnh hưởng chính trị của nhà thờ ấy, hội Illuminati đã khiến cho bốn tác phẩm điêu khắc đó được trưng bày trong bốn nhà thờ ở Rome. Dĩ nhiên là mỗi tác phầm đóng vai trò của một tấm biển chỉ đường tinh tế để dẫn người ta đến nhà thờ tiếp theo… nơi mà tác phẩm thứ hai đang đợi sẵn. Chúng giống như những đầu mối khoác lớp nguỵ trang tôn giáo. Nếu một người muốn gia nhập hội xác định được nhà thờ đầu tiên và đầu mối chỉ Đất, anh ta sẽ theo dấu đó mà lần đến Khí… rồi đến Lửa… đến Nước, và cuối cùng là đến Nhà thờ ánh sáng .
Vittoria mỗi lúc một cảm thấy khó hiểu:
- Và điều này lại có liên quan đến việc truy tìm hung thủ sao?
Langdon mỉm cười, lật nốt quận át chủ bài:
- Đúng thế. Hội Illuminati đặt cho bốn nhà thờ này những cái tên rất đặc biệt. Những Điện thờ Khoa học .
Vittoria nhíu mày:
- Xin anh thứ lỗi, nhưng tôi chẳng hiểu. - Rồi bỗng nhiên ngừng bặt. - L'altair di Scienza(3) ! Sát thủ Illuminati! Hắn muốn cảnh báo rằng bốn vị Hồng y sẽ là những sinh linh trinh tiết được hiến tế trước bàn thờ khoa học!
Langdon mỉm cười nhìn cô gái:
- Bốn vị Hồng y, bốn nhà thờ, bốn bàn thờ khoa học.
Vittoria bối rối:
- Anh vừa nói là bốn vị Hồng y sẽ bị hành quyết tại bốn nhà thờ đánh dấu Con đường ánh sáng phải không?
- Đúng, tôi tin là thế.
- Thế tại sao tên sát thủ lại cho chúng ta những đầu mối đó?
- Tại sao lại không? - Langdon đáp. - Rất ít sử gia biết đến bốn tác phẩm điêu khắc đó. Và số người tin là chúng tồn tại thực thì lại càng ít hơn. Đã thế những địa điểm này lại được giữ bí mật suốt 400 năm nay. Chắc chắn hội Illuminati tin rằng nó sẽ còn là bí mật trong 5 giờ đồng hồ sắp tới. Bên cạnh đó, hội Illuminati giờ đây không còn cần đến Con đường ánh sáng nữa. Có lẽ chỗ ẩn nấp bí mật của họ từ lâu đã không còn tồn tại. Họ đang sống trong thế giới hiện đại. Họ có thể tụ họp tại các phòng họp của cơ quan, những câu lạc bộ buổi tối, các sân golf tư nhân. Đây chính là giây phút họ vẫn hằng chờ đợi. Thời điểm bí mật vĩ đại của họ được công bố.
Langdon sợ rằng cách thức mà hội Illuminati lựa chọn để công bố bí mật của họ sẽ bao gồm một sự đối xứng đặc biệt mà anh chưa kịp nói cho Vittoria nghe. Bốn nhánh . Tên sát thủ đã thề rằng thi thể bốn vị Hồng y sẽ bị đóng dấu bốn biểu tượng khác nhau. Để chứng minh rằng những huyền thoại cổ xưa là có thật , hắn đã tuyên bố như vậy. Huyền thoại về ý nghĩa biểu tượng đối xứng của bốn nguyên tố ban đầu cũng cổ xưa như chính Illuminati vậy: Đất, Khí, Lửa và Nước - bốn chữ ấy được chạm khắc với một sự cân xứng tuyệt đối. Và mỗi vị Hồng y sẽ bị khắc lên người một biểu tượng cổ xưa tượng trưng cho những thành tố của khoa học. Các nhà sử học hiện vẫn chưa hết tranh cãi về lời đồn rằng những chữ đó được viết bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Ý. Tiếng Anh có vẻ như là một lựa chọn ngẫu nhiên, mà Illuminati thì không làm gì một cách ngẫu nhiên bao giờ.
Đến trước toà nhà mái vòm, Langdon rẽ vào một lối đi lát gạch. Những hình bóng ma quái vẫn tiếp tục ám ảnh tâm trí anh. Âm mưu của Illuminati bắt đầu chứng tỏ sự kiên trì vô tận của tổ chức này. Hội Illuminati đã thề sẽ im lặng trong một thời gian thật dài, tập hợp sức mạnh và thế lực để đến một ngày lại xuất hiện công khai mà không phải sợ hãi, để thiết lập vị thế của mình, và tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của họ giữa thanh thiên bạch nhật. Illuminati không cần phải ẩn mình trong bóng tối nữa. Họ sắp phô diễn sức mạnh của mình, sắp khẳng định với nhân loại rằng những huyền thoại về họ là có thật. Đêm nay chính là thời điểm đó.
Vittoria thốt lên:
- Người hộ tống chúng ta đến rồi kìa.
Langdon ngước nhìn lên và thấy một người lính gác Thuỵ Sĩ đang hối hả băng qua khoảng sân gần đó và tiến về cửa trước.
Trông thấy họ, người lính gác dừng phắt lại. Anh ta trừng trừng nhìn hai người, vẻ như tưởng mình bị ảo giác. Không nói một lời, anh ta quay đi, lôi máy bộ đàm ra. Rõ ràng là người lính này thấy nhiệm vụ vừa được giao là quá kỳ quặc, nên đang vội vàng trao đổi với đầu dây bên kia. Langdon không hiểu được những âm thanh giận dữ vang lên từ trong máy, nhưng thông điệp của chúng thì đã quá rõ ràng. Người lính chùng hẳn xuống, cất máy bộ đàm, rồi quay sang nhìn họ với vè không bằng lòng. Chẳng nói chẳng rằng, người lính dẫn họ vào trong toà nhà.
Cả ba đi qua bốn cánh cửa bằng thép, hai lối đi mở bằng chìa khoá vạn năng, xuống một cái cầu thang, rồi vào một sảnh đợi có hai lớp khoá bảo vệ. Vượt qua một loạt những cánh cống điện tử kỹ thuật cao, họ tiến đến cuối hành lang dài dẫn tới cánh cửa hai lớp rất lớn bằng gỗ sồi. Người lính gác dừng lại, nhìn hai người từ đầu đến chân một lần nữa, miệng lầm bầm điều gì đó, rồi tiến tới bên một hộp kim loại gắn trên tường. Anh ta mở hộp, thò tay vào trong và gõ mật khẩu. Cánh cửa bắt đầu kêu u u, rồi then cửa mở ra.
Người lính quay lại và nói:
- Nhà mái vòm ở sau cánh cửa này.
- Tôi được lệnh dẫn các vị đến đây rồi phải quay về ngay để báo cáo về một việc khác nữa.
- Anh quay về ngay bây giờ đấy à? - Vittoria hỏi.
- Linh gác Thuỵ Sĩ không được phép vào bên trong Thư viện bí mật. Nhờ có lệnh trực tiếp từ Giáo chủ Thị thần mà các vị được có mặt ở đây đấy,
- Nhưng chúng tôi sẽ ra ngoài như thế nào?
- Theo nguyên tắc an ninh một chiều. Các vị sẽ không gặp trở ngại gì.
Toàn bộ cuộc hội thoại chỉ vỏn vẹn có thế, người lính gác quay gót và đi ra.
Vittoria bình phẩm điều gì đó, nhưng Langdon không nghe thấy. Tâm trí anh đang bị hút chặt vào cánh cửa hai lớp trước mặt, tò mò muốn khám phá những bí ẩn đằng sau chúng.

Chú thích:
(1) Segno: Dấu hiệu.
(2) Dissimulazine: nguỵ trang.
(3) L'altair di Scienza: Điện thờ khoa học.
 
Dù biết rằng chỉ còn rất ít thời gian, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca vẫn bước đi thong thả. Cần phải có thời gian để sắp xếp lại những ý nghĩ ngổn ngang trong tâm trí trước khi tham dự nghi lễ cầu nguyện đầu tiên. Đã có quá nhiều sự kiện. Những biến cố trong suốt 15 ngày qua đang đè nặng lên vai khi viên thị thần trẻ tuổi đang một mình sải bước dọc hành lang phía Bắc.
Giáo chủ Thị thần đã làm theo tất cả những chỉ dẫn viết trong thư. Theo đúng nghi thức của toà thánh, sau khi Giáo hoàng tạ thế,
Giáo chủ Thị thần đặt một ngón tay lên động mạch của Đức Thánh Cha, nghe hơi thở của Người và gọi tên Người ba lần để khẳng định rằng Người đã thực sự về nước Chúa. Theo luật, không có khám nghiệm tử thi. Sau đó, ngài đã niêm phong phòng riêng của Giáo hoàng, đập vỡ chiếc nhẫn ngư phủ và con dấu của ngài, rồi lo sắp xếp hậu sự. Sau khi tất cả đã xong xuôi, ngài mới bắt đầu chuẩn bị cho Mật nghị Hồng y để bầu Giáo hoàng mới.
Mật nghị Hồng y , Giáo chủ Thị thần thầm nghĩ. Thử thách cuối cùng . Đây là một trong những truyền thống cổ xưa nhất của Thiên Chúa giáo. Ngày nay, mọi người dường như đều biết trước kết quả, nên nghi thức này bị chỉ trích là nhiêu khê, là giống trò khôi hài hơn là một cuộc bầu cử. Tuy nhiên, ngài hiểu rằng thái độ đó chỉ là kết quả của sự thiếu hiểu biết mà thôi.
Mật nghị Hồng y không phải là một cuộc bàu cử, mà là một nghi lễ chuyển giao quyền lực huyền bí và cố xưa. Một truyền thống vô cùng cổ xưa… sự bí mật, những mảnh giấy gấp làm đôi, nghi thức đốt phiếu bầu, quy trình hoà trộn những hợp chất hoá học, tín hiệu bùng khói…
Đặt chân đến hành lang ngoài mang tên Gregory XIII, Giáo chủ Thị thần thầm băn khoăn không hiểu Hồng y Giáo chủ Mortati có cảm thấy lo lắng hay không. Chắc chắn đức cha cũng đã biết sự vắng mặt của bốn vị được chú ý đặc biệt. Không có họ thì quy trình bỏ phiếu sẽ kéo dài suốt đêm. Việc Hồng y Mortati được tấn phong làm Đại Cử Tri là hoàn toàn đúng đắn, Giáo chủ Thị thần tự trấn an mình. Đức cha là người có đầu óc khoáng đạt, và có quyền được nói thẳng mọi ý nghĩ của mình. Hơn lúc nào hết, đêm nay, Mật nghị Hồng y thực sự cần có một người lãnh đạo ra trò để mà lèo lái.
Lên đến những bậc trên cùng của cầu thang Hoàng gia, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca tưởng như đang phải đứng trên vách núi cheo leo nhất trong cuộc đời. Từ tít trên cao này, Giáo chủ Thị thần vẫn có thể nghe rất rõ những âm thanh vọng lên từ nhà nguyện Sistine ở dưới kia - những lời trao đổi không mấy thoải mái của 165 vị Hồng y Giáo chủ.
161 thôi chứ, vị thầy tu trẻ tuổi tự đính chính lại.
Trong khoảnh khắc, Giáo chủ Thị thần tưởng như mình đang rơi thẳng xuống địa ngục, tiếng người gào thét, những lưới lửa trùm kín cơ thể ngài, rồi đất đá và máu từ trời cao trút xuống như mưa.
Sau đó là sự tĩnh lặng.
***
Tỉnh dậy, chú bé tưởng mình đang ở trên thiên đàng. Xung quanh cậu cái gì cũng trắng. Ánh sáng tinh khiết và rực rỡ. Chắc nhiều người sẽ nghĩ một đứa bé 10 tuổi thì làm sao hiểu được thiên đàng là thế nào, nhưng Carlo Ventresca thì lại biết rất rõ xứ sở ấy Ngay lúc này đây, cậu bé đang ở trên thiên đàng. Còn có thể ở nơi nào khác được đây? Trong một thập kỷ ngắn ngủi có mặt trên trần thế, Carlo đã cảm nhận được vẻ uy nghi của Chúa trời - tiếng đàn rền vang, mái vòm cao vòi vọi, những bài thánh ca ngân lên cao vút, những tấm kính màu, ánh sáng lấp lánh của đồng và vàng. Ngày nào mẹ Maria cũng đưa Carlo đi lễ nhà thờ.
Nhà thờ chính là nhà của chú bé.
- Tại sao ngày nào mình cũng đi lễ hả mẹ? - Carlo hỏi, tuy cậu bé rất thích được đi lễ.
- Bởi vì mẹ đã hứa với Chúa như vậy, - mẹ cậu trả lời. - Và lời hứa với Chúa quan trọng hơn bất kỳ lời hứa nào khác. Không được thất hứa với Chúa.
Carlo hứa với mẹ là sẽ không bao giờ thất hứa với Chúa. Cậu bé yêu mẹ hơn hết thảy. Mẹ là thiên thần. Đôi khi cậu gọi mẹ là Maria beneddeta - Mary được ban phước lành - dù mẹ không thích thế tí nào. Quỳ cạnh mẹ trong buổi lễ, cảm nhận mùi hương ngọt ngào toả ra từ cơ thể mẹ, chú bé nghe tiếng mẹ rì rầm tụng kinh. Ave Maria, mẹ của đức Chúa xin hãy cầu nguyện cho tội lỗi của chúng con ngay lúc này vào lúc chúng con từ giã cõi trần.
- Cha con đâu? - Carlo hỏi, dù cậu biết rằng cha đã qua đời trước khi chú được sinh ra.
- Bây giờ Chúa chính là cha của con. - Lúc nào mẹ cũng nói như vậy - Con là con của nhà thờ.
Carlo thích điều đó.
- Bất cứ khi nào con cảm thấy sợ hãi, hãy nhớ rằng Chúa chính là cha của con. Chúa sẽ dõi theo từng bước chân con, che chở cho con mãi mãi. Người có những dự định rất lớn lao cho con, Carlo ạ.
Cậu bé tin rằng những gì mẹ nói chính là sự thật. Cậu cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong dòng máu của mình.
Máu…
Máu từ trên trời đổ xuống !
Tĩnh lặng. Sau đó là thiên đường.
Khi luồng sáng rực rỡ ấy bị người ta tắt đi, Carlo nhận ra rằng thiên đường của chú chính là phòng Hồi sức cấp cứu của bệnh viện Santa Clara ở ngoại vi Palermo. Carlo là người duy nhất sống sót khi bọn khủng bố cho nổ tung nhà nguyện nhỏ nơi hai mẹ con đang cầu nguyện trong khi đi du lịch tới khu vực ấy. 37 người thiệt mạng, trong đó có mẹ của Carlo. Chỉ mình Carlo thoát chết. và báo chí đều cho rằng đó là phép nhiệm màu của thánh Francis. Không hiểu vì lý do gì, chỉ mấy giây trước khi nhà nguyện nổ tung, Carlo đã rời khỏi chỗ của cậu gần bên mẹ và đến chỗ hốc tường được bảo vệ để xem tấm thảm thêu minh hoạ sự tích thánh Francis.
Chúa đã gọi mình lên đó, Carlo tự nhủ. Người muốn cứu mình .
Carlo phải chịu rất nhiều đau đớn. Cậu bé vẫn nhớ như in hình ảnh mẹ đang quỳ trong nhà nguyện, gửi chú một cái hôn gió, rồi ngay sau đó là tiếng nổ dữ dội, cơ thể ngọt ngào của mẹ bị xé toang thành từng mảnh. Cậu bé thấy ngay trước mắt tội ác của con người. Máu đồ như suốt. Máu của mẹ! Máu của Maria được ban phước lành!
Chúa sẽ dõi theo con và luôn chở che cho con , mẹ đã nói với Carlo như thế.
Nhưng lúc ấy có thấy Chúa đâu !
Thế rồi, như để chứng minh rằng lời nói của mẹ là đúng, một vị tu sĩ tìm đến bệnh viện. Không phải ai khác, mà chính là đức cha Giám mục. Cha cầu nguyện cho Carlo. Phép nhiệm màu của thánh Francis. Khi Carlo bình phục hẳn, cha thu xếp cho chú ở trong một nhà tu nhỏ liền kề nhà thờ lớn nơi ngài trụ trì.
Carlo được các tu sĩ nuôi nấng, dạy dỗ, thậm chí chú bé còn trở thành phụ lễ cho những người bảo trợ mới của mình. Đức giám mục gợi ý bảo Carlo nhập học ở một trường công lập, nhưng cậu bé từ chối. Nhà thờ là nơi khiến chú thấy hạnh phúc nhất. Lúc này cậu đã thực sự được sống trong ngôi nhà của Chúa. Đêm nào Carlo cũng cầu nguyện cho mẹ.
Chúa đã cứu mình vì một lý do nào đó, cậu bé thầm nghĩ. Lý do đó là gì nhỉ ?
16 tuổi, theo luật của nước Ý, Carlo buộc phải tham dự khoá huấn luyện quân dự bị trong hai năm. Đức giám mục bảo rằng nếu vào học ở trường dòng, cậu sẽ không phải gia nhập quân dự bị. Và Carlo đã trả lời rằng cậu bé dự định sẽ vào học trường dòng, nhưng trước hết cậu cần phải hiểu rõ thế nào là tội lỗi đã.
Đức giám mục không thể hiểu nối.
Carlo tin rằng nếu định dành cả đời trong nhà thờ để chiến đấu với tội lỗi thì trước tiên cần phải hiểu thật rõ về tội lỗi. Và làm gì có nơi nào thuận tiện cho việc đó hơn trại lính đây! Quân đội thì phải sử dụng súng đạn. Một trái bom đã cướp đi mạng sống của mẹ Maria được ban phước lành!
Đức giám mục ra sức khuyên can, nhưng Carlo đã quyết.
- Hãy cẩn trọng, con của ta. - Đức giám mục dặn dò. - Con hãy nhớ rằng nhà thờ vẫn luôn đợi con quay trở lại.
Hai năm quân ngũ của Carlo là thời gian thật khủng khiếp. Thời thơ ấu của anh thật yên tĩnh và đầy ắp những suy tưởng. Trong quân ngũ không có chỗ cho cả sự yên tĩnh lẫn suy tưởng. Lúc nào cũng ồn ào. Chỗ nào cũng thấy những cỗ máy to lớn. Không có nổi một giây phút yên bình. Dù hàng tuần những người lính cũng dự lễ Mi sa trong doanh trại, nhưng Carlo không thể cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn những người đồng ngũ của anh. Tâm trí của họ quá động loạn, và họ không thể nào thấy được Chúa.
Carlo căm ghét cuộc sống mới này là chỉ mong được nhanh chóng trở về nhà. Nhưng anh vẫn quyết tâm thực hiện cho xong dự định của mình. Anh cần phải nhìn rõ thế nào là tội lỗi. Vì anh cương quyết từ chối học bắn súng, họ đành phải dạy anh cách lái máy bay cứu thương. Carlo ghét tiếng ồn và mùi xăng nồng nặc của máy bay trực thăng nhưng ít ra thì nhờ nó anh có thể bay lên trời cao, để được gần mẹ trên thiên đàng. Khi được thông báo rằng một phần nội dung trong chương trình học sẽ là nhảy dù, Carlo khiếp sợ.
Nhưng không còn sự lựa chọn nào khác.
Chúa sẽ che chở cho mình , anh tự nhủ.
Nhưng lần nhảy dù đầu tiên hoá ra lại mang đến cho Carlo cảm giác vui sướng chưa từng thấy. Anh tưởng như mình được bay tới bên Chúa. Carlo muốn thu nhận tất thảy mọi thứ vào lòng… sự tĩnh lặng… cảm giác bồng bềnh… khuôn mặt mẹ hiện lên nơi những đám mây trắng cuồn cuộn đang lao vút lên cao khi anh rơi tự do xuống mặt đất. Chúa có những dự định lớn lao cho con đấy Carlo ạ . Sau khi mãn hạn quân dịch, Carlo quay về tu viện.
Thế mà đã 23 năm trôi qua.
Giờ đây, đặt chân lên từng bậc thang dẫn xuống nhà nguyện, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca cố hiểu thật thấu đáo chuỗi sự kiện đã khiến ngài phải đứng trước ngã rẽ khác thường này.
Hãy dẹp mọi sợ hãi, ngài tự bảo mình. và dâng trọn đêm nay cho Chúa.
Đã trông thấy cánh cửa lớn bằng đồng của nhà nguyện Sistine với bốn lính canh Thuỵ Sĩ đang gác bên ngoài. Những người lính kéo chốt, mở toang cánh cửa. Mọi mái đầu trong phòng đều quay lại. Giáo chủ Thị thần đưa mắt nhìn khắp lượt những chiếc áo chùng đen và khăn choàng đỏ trước mặt mình. Ngài hiểu ra dự định của Chúa đối với bản thân mình. Định mệnh của Giáo hội đang được đặt trọn vào tay ngài.
Giáo chủ Thị thần đưa tay làm dấu rồi bước qua ngưỡng cửa.
Ngồi trong chiếc xe đưa tin chuyên dụng đang đỗ ở phía Đông quảng trường St. Peter, Gunther Glick, phóng viên của đài BBC, đang thầm nguyền rủa công việc được tổng biên tập giao cho. Mục tổng hợp tin hàng tháng mà anh làm lần đầu đã được ca ngợi hết lời là sắc bén, đáng tin cậy, và rất nhiều thông tin. Ấy thế mà giờ này anh phải ngồi chết dí ở đất Vatican để đợi tin về Giáo hoàng.
Anh tự nhắc mình rằng đưa tin cho đài BBC thì danh giá hơn và không thể nào giống việc ngồi bịa tin vịt cho tờ British Tattler, nhưng kiểu này thì nhất định không thể coi là đưa tin được.
Công việc của Glick cực kỳ đơn giản. Đơn giản đến mức quá đáng. Anh phải ngồi đây mà chờ mấy lão già cóc đế bí mật bầu ra một lão trùm sò cũng già cóc đế. Sau đó anh sẽ đứng trước ống kính máy quay, thực hiện một mẩu tin kéo dài 15 giây, lấy cảnh Vatican làm nền.
Thông minh gớm.
Glick không thể ngờ đài BBC giờ vẫn còn cử phóng viên đến tận nơi để đưa những tin rác rưởi kiểu này. Mấy ông lớn của làng truyền thông Hoa Kỳ đêm nay có thấy mặt mũi đâu. Đời nào họ thèm tới ! Mà làm thế là quá đúng. Họ chỉ cần xem đài CNN, tóm lấy những nét chính, rồi cho người đứng nói trước một tấm phông màu xanh, sau đó ghi chồng lên một đoạn phim thật nào đó. MSNBC thậm chí còn có cả thiết bị tạo tiếng gió và mưa trong trường quay để cho những thước phim y như thật. Người xem bây giờ có cần sự thật nữa đâu, họ chỉ cắn giải trí và thư giãn mà thôi.
Glick ngồi nhìn qua cửa kính xe, mỗi lúc một thêm buồn chán. Trước mắt anh, hình khối những toà nhà của Vatican nhô cao trên nền trời như một bằng chứng buồn thảm về những gì bàn tay con người có thể tạo ra nếu họ thực sự quyết tâm.
- Suốt đời mình đã tạo ra được cái gì chưa nhỉ? - Anh chợt nói to ý nghĩ của mình. - Chưa thì phải.
- Thế thì đừng có cố quá nữa. - Một giọng phụ nữ cất lên ngay cạnh anh.
Glick giật nảy người. Anh gần như quên hẳn rằng trong xe còn có một người nữa. Glick quay xuống hàng ghế sau. Chinita Macri, kỹ thuật viên camera đi cùng với anh, đang lặng lẽ ngồi lau kính mắt. Lúc nào cũng thấy chị ta lau kính. Chinita là người da đen, nhưng thích được gọi là người Mỹ gốc Phi, một cách nói đầy oai vệ và bảnh choẹ. Và chị ta không bao giờ cho phép mọi người quên điều đó. Người phụ nữ này khá kỳ cục, nhưng Glick thích thế. Và dĩ nhiên anh phải tận dụng người bạn đồng hành này.
- Có chuyện gì thế hả Gunther? - Chinita hỏi.
- Chúng ta đang làm cái quái gì ở đây thế nhỉ?
Chinita vẫn tiếp tục lau kính:
- Chứng kiến một sự kiện trọng đại.
- Mấy ông già tự giam mình trong phòng tối mà trọng đại à?
- Anh biết là sau khi chết anh sẽ xuống thẳng địa ngục, đúng thế không nào?
- Đang ở đó rồi thì đúng hơn.
- Nói tôi nghe xem nào. - Giọng Chinita sao nghe giống giọng nói của mẹ anh đến thế.
- Tôi muốn bỏ cuộc quá rồi.
- Trước đây anh viết cho tờ à?
- Đúng thế, nhưng chẳng làm được gì tiếng tăm cả.
- Thôi mà, tôi nghe nói anh đã viết một bài cực kỳ xuất sắc về cuộc sống t.ình d.ục bí mật của Nữ hoàng với những người hoàn toàn xa lạ.
- Cảm ơn.
- Này, mọi sự đang tốt đẹp dần lên đấy. Tối nay anh sẽ làm nên 15 giây lịch sử của ngành truyền hình.
Glick rên lên. Ngay lúc này anh như đã nghe thấy giọng nói của người dẫn chương trình: "Cảm ơn Gunther, thông tin thật tuyệt - Sau đó người này sẽ đưa mắt nhìn sang hướng khác và chuyển sang bản tin thời tiết. - Có lẽ chúng ta nên chuyển sang mục tiếp theo".
Macri cười phá lên:
- Không cần có chút kinh nghiệm nào à? Lại còn chòm râu kia nữa chứ! Quên chuyện đó đi.
Glick đưa tay lên sờ chòm râu đỏ trên cằm.
- Để thế này trông tôi thông minh sáng láng hơn đấy chứ.
Điện thoại trong xe đổ chuông, vừa đúng lúc để tránh cho Glick một thất bại nữa.
- Có khi là tổng biên tập đấy, - anh nói, lòng chợt tràn đầy hi vọng. - Biết đâu ông ấy định bảo chúng ta về làm tin tại trường quay.
- Về đề tài này ấy à? - Macri cười lớn. - Anh chỉ được cái mơ hão.
Glick trả lời điện thoại với phong thái điềm tĩnh nhất anh có thể nặn ra được:
- Gunther Glick, BBC, đưa tin trực tiếp tại thành phố Vatican.
Từ đầu dây bên kia vang lên giọng đàn ông đặc sệt chất Trung Đông:
- Nghe cho kỹ nhé. - Ông ta nói - Tôi sắp cho anh đổi đời đấy.
Lúc này, chỉ có Langdon và Vittoria đang đứng trước cánh cửa đôi hai lớp bằng đồng dẫn vào sảnh chính của Nhà mái vòm bí mật. Những tấm thảm treo tường cực lớn chạy dọc mọi mảng tường, nền đá cẩm thạch của gian phòng lớn chẳng hề ăn nhập với một dãy camera không dây được lắp ngay sát hình trạm trổ các tiểu thiên sứ trên trần nhà. Langdon đặt tên ngay cho kiểu trang trí này là Phục Hưng Chết. Ngay bên cạnh lối vào có một tấm biển đồng.
ARCHIVIO VATLCANO(1)
Curatore, Padre Jaqui Tomas(1)
Cha Jaqui Tomaso . Langdon nhận ra cái tên trong những bức thư khước từ mà anh vẫn để nguyên trong ngăn kéo. Thưa ông Langdon, tôi rất lấy làm tiếc khi phải viết bức thư này để từ chối việc …
Tiếc. Láo toét . Từ khi triều đại của Jaqui Tomaso bắt đầu, Langdon chưa thấy bất kỳ nhà khoa học Mỹ không theo Thiên Chúa chính thống nào được cấp phép vào Nhà mái vòm bí mật của Vatican. Người giữ đền, giới khoa học vẫn thường gọi ông ta như thế. Jaqui Tomaso chắc chắn là vị thủ thư cứng nhắc nhất thế giới.
Đẩy cửa để bước vào lối đi có mái vòm dẫn vào đại sảnh chính, Langdon mơ hồ có cảm giác là sẽ thấy cha Jaqui trong bộ quân phục; đầu đội mũ bảo hiểm, tay cầm khẩu bazôca đang đứng gác. Nhưng thực ra chẳng thấy có ai hết.
Yên tĩnh. Chỉ có ánh sáng dịu.
Nhà mái vòm Vatican, giấc mơ cả đời của Langdon.
Đưa mắt nhìn khắp căn phòng thiêng liêng một lượt, anh không khỏi tự cảm thấy hổ thẹn. Langdon nhận ra rằng mình thật là viển vông và ngây ngô. Suốt bao nhiêu năm nay, anh đã mường tượng ra một căn phòng hoàn toàn khác. Anh đã nghĩ về những giá sách lớn, bụi bặm bám đầy trên những cuốn sách rách tơi tả, các tu sĩ thì dùng ánh nến và ánh sáng từ những khung cửa kính màu để tra cứu danh mục, còn các thầy tu thì miệt mài bên những cuốn sách.
Sai toét .
Thoạt nhìn, căn phòng giống như một cái nhà chứa máy bay được phân chia thành vô số sân chơi quần vợt biệt lập. Dĩ nhiên là Langdon hiểu công dụng của những lớp vỏ bọc bằng kính này; anh không ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng. Hơi ẩm và nhiệt độ cao sẽ nhanh chóng huỷ hoại những tấm giấy da cừu và da bê cổ.
Để bảo vệ sách theo đúng quy chuẩn thì cần phải có những cái lồng kính như thế này - những mái vòm kính có tác dụng khử hơi ẩm và axít tự nhiên trong không khí. Langdon đã rất nhiều lần vào bên trong những lồng kính kiểu này, nhưng bao giờ anh cũng có một cảm giác bất an… cảm giác vừa bước vào một cái thùng kín mít, nguồn cung cấp khí ôxi hoàn toàn phụ thuộc vào một nhân viên thủ thư xa lạ.
Hiện lên mờ mờ dưới nguồn sáng nhạt từ cuối mỗi dãy, tất cả các lồng kính đều có vẻ tăm tối, thậm chí hơi ma quái. Trong vùng bóng tối được bao kín bởi những lồng kính, Langdon như trông thấy vô vàn bóng ma khổng lồ, tầng tầng lớp lớp trên những giá sách cao ngất, nặng trĩu lịch sử. Quả là đáng sợ.
Hình như cả Vittoria cũng đang cảm thấy y như thế. Đứng sát bên anh, cô lặng lẽ quan sát những lồng kính trong suốt.
Họ không có nhiều thời gian, và Langdon lập tức tìm khắp căn phòng lớn mờ tối để tìm cuốn danh mục tra cứu - một cuốn bách khoa toàn thư trong đó có tên của những cuốn sách lưu trữ tại đây. Nhưng chỉ thấy vài chiếc máy tính cá nhân đặt rải rác quanh phòng. có vẻ như ở đây họ sử dụng Biblion, toàn bộ danh mục tra cứu đã được nhập vào máy tính.
Vittoria có vẻ đầy hi vọng:
- Thế thì đỡ tốn thời gian.
Langdon thầm ước giá anh cũng có thể lạc quan như cô gái trẻ, nhưng có vẻ như họ có khá nhiều tin xấu. Anh bước lại bên một cái máy và bắt đầu gõ vào bàn phím. Những âu lo trong đầu anh ngay lập tức được xác thực.
- Chính ra họ nên dùng hệ thống kiểu cũ thì hơn.
- Tại sao?
Anh rời chiếc máy:
- Bởi vì theo hệ thống đó thì những cuốn sách thật không có mã số bảo vệ. Tôi không nghĩ rằng tất cả các nhà vật lý đều là những tin tặc bẩm sinh.
Vittoria lắc đầu:
- Nhưng tôi có thể bắt lũ hến mở miệng, vấn đề là thế.
Langdon hít một hơi thật sâu và quay lại nhìn nhũng vòm kính kỳ quái bên trong gian đại sảnh. Anh bước đến bên vòm kính gần nhất và nheo mắt nhìn vào bên trong. Bên trong lớp kính thấp thoáng những hình khối khá quen thuộc đối với Langdon: các kệ sách, hộp đựng giấy da, và quầy kiểm tra. Anh ngước mắt nhìn ký hiệu chỉ dẫn điện tử đang phát sáng ở cuối vòm kính. Giống như mọi thư viện khác, những bảng điện tử này cho biết những cuốn sách trên giá thuộc loại nào. Anh đọc những đề mục trên đó và bước dọc theo bức tường kính trong suốt.
PIETRO L'EREMITA(3) … … LE CROCIATE… URBANO(4) II… LEVANT(5) …
"Chúng được phân loại, - anh nhận xét. - Nhưng không xếp theo thứ tự bảng chữ cái tên tác giả. - Langdon không hề cảm thấy ngạc nhiên. Các thư viện cổ không bao giờ được sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái, vì có rất nhiều tác giả vô danh. Tên cuốn sách cũng không có tác dụng, vì rất nhiều tài liệu lịch sử là những bức thư không có tiêu đề, thậm chí chỉ là một mẩu giấy. Hầu hết tài liệu được xếp theo niên đại. Đáng tiếc là tài liệu ở đây không được tổ chức theo cả hai kiểu trên.
Langdon cảm thấy lượng thời gian quý giá đang dần cạn kiệt:
- Hình như Vatican có kiểu sắp xếp riêng thì phải.
- Lạ thật.
Langdon xem lại các đề mục một lần nữa. Những tài liệu này thuộc về những thế kỷ khác nhau, nhưng tất cả các từ khoá đều thể hiện cùng một mối liên hệ.
- Tôi nghĩ là họ sắp xếp theo chủ đề.
- Theo chủ đề à? - Vittoria thốt lên, vẻ không đồng tình. - Nghe không mấy thuyết phục.
Thật ra, thì Langdon thầm nghĩ, chính ra đây mới là cách sắp xếp hiệu quả nhất. Anh vẫn thường khuyến khích sinh viên của mình cố đạt được cái nhìn tổng quát về nội dung của một giai đoạn nghệ thuật thay vì bị lạc lối giữa một rừng những tên tuổi, ngày tháng và các tác phẩm cụ thể. Hình như Nhà mái vòm Vatican sắp xếp tài liệu của họ theo triết lý đó. Quả là tân tiến…
- Mọi tài liệu trong vòm kính này đều liên quan đến cuộc Thập tự chinh. - Lúc này anh đã thấy vững tin hơn. - Đó chính là chủ đề của kho lưu trữ này.
Mọi thứ. Những bằng chứng lịch sử, thư từ, tác phẩm nghệ thuật, thống kê xã hội học, những phân tích mới đây tất cả đều tập trung vào một chỗ… như khích lệ người đọc tìm hiểu sâu hơn về đề tài. Giỏi thật .
Vittoria nhíu mày:
- Nhưng các dữ liệu đồng thời cũng liên quan đến các lĩnh vực khác nữa chứ.
- Cho nên họ mới dùng các ký hiệu này để chú thích. - Langdon chỉ tay vào những mảnh nhựa nhiều màu được cài vào giữa những tập tài liệu. - Chúng chỉ ra những tài liệu liên quan đến đế tài lớn này còn nằm ở các khu khác nữa.
- Đúng thế thật. - Vittoria đáp, có vẻ như không muốn tranh cãi nữa. Cô đứng chống nạnh, đưa mắt nhìn khắp gian đại sảnh rộng mênh mông, rồi quay sang nhìn Langdon.
- Thưa giáo sư, tên của cuốn sách mà chúng ta đang tìm là gì vậy?
Langdon không nén nổi nụ cười mãn nguyện. Anh vẫn còn chưa hết bàng hoàng và sung sướng vì được đặt chân vào căn phòng này. Không phải trong khu này, anh thầm nghĩ. Nó ở đâu đó trong vùng tối kia thôi, và đang đợi ta.
- Theo tôi nào, - Langdon bảo cô gái. Anh nhanh nhẹn sải bước dọc theo vòm kính ngoài cùng, vừa đi vừa đọc những bảng chỉ dẫn mới. - Cô còn nhớ những gì tôi kể về Con đường ánh sáng không? Về cách thức tuyển mộ thành viên mới của hội Illuminati ấy?
- Cuộc săn lùng kho báu, - Vittoria vừa đáp vừa theo sát anh.
- Vấn đề của hội Illuminati là sau khi đã đặt các ám hiệu ở đúng chỗ cần thiết thì phải nghĩ cách để cho giới khoa học biết về sự tồn tại của con đường đó.
- Rất lôgíc. - Vittoria nói - Nếu không thì làm gì có ai biết mà đi tìm Đúng thế. Mà giả sử có nghe nói đến con đường đó thì các nhà khoa học cũng không biết bắt đầu tìm kiếm từ điểm nào. Thành Rome vô cùng rộng lớn.
- Đúng thế.
Langdon tiếp tục bước dọc theo vòm kính thứ hai, vừa nói vừa dọc lướt qua những bảng chỉ dẫn. - Cách đây khoảng 15 năm, một số nhà sử học ở trường đại học Sorbonne và tôi đã cùng phát hiện được một loạt thư tay của hội Illuminati, trong đó có rất nhiều lời ám chỉ đến segno .
- Dấu hiệu. Tiết lộ về sự tồn tại của con đường và điểm khởi đầu của nó.
- Đúng thế, và từ đó đến nay, rất nhiều chuyên gia nghiên cứu về Illuminati, kể cả bản thân tôi, đã phát hiện thêm nhiều bức thư khác có nói bóng gió đến segno . Ngày nay ai cũng thừa nhận rằng những đầu mối đó quả thực có tồn tại và Galileo đã công bố rộng rãi về chúng trong giới khoa học mà Vatican không hề hay biết.
- Bằng cách nào vậy?
- Không rõ, nhưng rất có thể bằng các ấn bản. Trong suốt quãng đời còn lại của mình, ông đã cho in rất nhiều cuốn sách và bài báo.
- Mà Vatican lại không hề hay biết. Thế thì quá mạo hiểm.
- Đúng thế. Tuy nhiên, segno đã được phát tán rộng rãi.
- Nhưng đã có ai thực sự tìm ra chúng chưa?
- Chưa. Nhưng bất cứ khi nào xuất hiện sự ám chỉ tới segno - trong nhật ký của hội Tam Điểm, trong những bài báo cáo khoa học cổ xưa, trong những bức thư của hội Illuminati - nó luôn được nhắc tới thông qua một con số.
- 666 phải không?
Langdon mỉm cười:
- Thực ra là 503
- Nghĩa là gì?
- Chưa ai luận ra được nghĩa của con số đó. Tôi trở nên nghiện con số 503, và đã thử tất cả mọi cách để tìm ra ý nghĩa của nó - số học, phân tích bản đồ, cả độ cao nữa. - Langdon đã đến cuối sảnh và bắt đầu xem xét vòm kế tiếp, miệng vẫn nói: - Sau nhiều năm tôi cũng chỉ biết được rằng nó bắt đầu bằng chữ số 5, một trong những con số thiêng của hội Illuminati. - Chợt Langdon ngừng lời.
- Tôi đoán anh vừa chợt hiểu ra nghĩa của nó, vì thế cho nên chúng ta mới vào tận đây.
- Đúng thế. Langdon đáp, anh chợt thấy tràn ngập tự hào về thành quả lao động của mình. - Cô đã nghe nói tới một cuốn sách của Galileo có tiêu đề là Dialogo(6) chưa?
- Có chứ. Nó được giới khoa học coi là cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại.
Sách bán chạy không thể hiện hết được ý nghĩa , nhưng Langdon hiểu ý Vittoria. Vào đầu những năm 1630, Galileo muốn xuất bản một cuốn sách ủng hộ mô hình nhật tâm của Copecnic, nhưng toà thánh cương quyết không cho phép Galileo phát hành cuốn sách nếu ông không thêm vào đó một minh chứng thuyết phục cho mô hình địa tâm của nhà thờ - mô hình mà Galileo biết là hoàn toàn sai lầm. Không còn cách nào khác, ông buộc phải chấp nhận yêu sách của nhà thờ và cho xuất bản một cuốn sách gồm hai phần tương xứng để bàn về cả hai mô hình - một đúng, một sai.
- Chắc cô cũng đã biết, - Langdon nói tiếp, - dù đã làm thế, cuốn sách vẫn bị coi là dị giáo, và Vatican đã cho giam lỏng Galileo tại nhà.
- Làm phúc đôi khi lại phải tội thế đấy.
Langdon mỉm cười.
- Đúng thế. Và Galileo tỏ ra rất ngoan cường.
Trong thời gian bị giam lỏng tại gia, ông vẫn bí mật viết một cuốn sách khác ít được biết đến hơn, cuốn sách mà nhiều người vẫn thường nhầm là Dialogo. Cuốn này có tiêu đề là Discorsi(7) .
Vittoria gật đầu đống tình:
- Tôi cũng đã nghe nói về cuốn sách đó Luận về Thuỷ triều .
Langdon dừng phắt lại, ngạc nhiên vì cô gái trẻ thế mà đã nghe nói tới cuốn sách được xuất bản bí mật, luận giải về chuyển động của hành tinh và tác động của nó đối với thuỷ triều.
- Này giáo sư, - Vittoria nói, - Anh đang nói chuyện với một nhà nghiên cứu hải dương học người Ý có một người cha rất tôn thờ Galileo đấy.
Langdon cười lớn. Dù sao thì họ cũng không tìm cuốn Discorsi làm gì. Anh tiếp tục giải thích với cô gái rằng Discorsi không phải là cuốn sách duy nhất mà Galileo đã bí mật viết trong thời gian bị giam lỏng. Các sử gia tin rằng ông còn viết một cuốn nữa tiêu đề là Diagramma .
- Diagramma della Verita , - Langdon nói, - Biểu đồ chân lý.
- Chưa thấy ai nhắc tới cuốn đó bao giờ.
- Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Diagramma là cuốn sách bí mật nhất của Galileo - được cho là chứa đựng những kiến thức khoa học mà ông không được phép công khai trình bày. Giống như những bản thảo trước đó của Galileo, một người bạn của ông đã bí mật đem Diagramma ra khỏi Rome và lặng lẽ xuất bản ở Hà Lan. Nó nhanh chóng trở thành cuốn sách bí mật được yêu thích của giới học giả châu Âu. Sau đó thì Vatican biết tin về cuốn sách, và họ đã tổ chức cả một chiến dịch để thiêu huỷ nó.
Lúc này Vittoria tỏ vẻ hố nghi:
- Và anh cho rằng Diagramma nói đến đầu mối đó à? Segno ấy mà. Thông tin về Con đường ánh sáng ấy mà.
- Diagramma chính là cách để Galileo công bố về nó. Cái này thì tôi tin chắc. - Langdon đến bên vòm kính thứ ba và tiếp tục đọc các tấm biển chú thích. - Các chuyên gia về văn thư lưu trữ vẫn tìm kiếm cuốn sách này suốt bao nhiêu năm nay. Nhưng sau chiến dịch thiêu huỷ của Vatican, cộng thêm chỉ số bảo quản thấp của cuốn sách, thì dường như nó không còn tồn tại trên trái đất này nữa.
- Chỉ số bảo quản nghĩa là gì vậy?
- Độ bền ấy mà. Các nhân viên lưu trữ đánh giá mức độ bền vững của tài liệu bằng thang điểm mười. Diagramma được in trên giấy gió làm từ bột cỏ nến. Rất giống loại khăn ăn bằng giấy ngày nay. Tuổi thọ của nó không thể vượt quá một thế kỷ.
- Sao người ta không chọn chất liệu khác bến hơn nhỉ?
- Theo lệnh của Galileo. Đề bảo vệ các đồ đệ của ông ấy. Khi bị bắt quả tang mang theo tài liệu này, các nhà khoa học chỉ việc quăng nó vào nước để phi tang. Để phá huỷ bằng chứng thì loại giấy đó rất tuyệt, nhưng để lưu trữ thì không. Nhiều người cho rằng một cuốn Diagramma vẫn còn tồn tại đến sau thế kỷ 18.
- Một à? - Vittoria dường như đầy hi vọng. Cô gái đưa mắt nhìn khắp gian sảnh rộng. - Và nó đang ở đây sao?
- Vatican tìm được một bản ở Hà Lan ngay sau khi Galileo qua đời Suốt mấy năm liền tôi đã gửi đơn xin được đọc cuốn sách đó. Tôi biết nội dung của cuốn này mà.
Dường như đã hiểu rõ ý định của Langdon, Vittoria cũng bắt đầu bước dọc theo vòm kính kế bên, chăm chú xem các biển chú thích. Tốc độ tìm kiếm bắt đầu tăng lên gấp đôi.
- Cảm ơn cô. - Anh nói - Chúng ta cần tìm một biển chú thích nào đó có nội dung là Galileo, khoa học, nhà khoa học. Nhìn thấy nó là cô nhận ra ngay.
- Được rồi. Nhưng anh vẫn chưa giải thích làm thế nào mà anh đoán được rằng Diagramma có chứa các đầu mối. Chắc nó có liên quan đến con số 503 trong các bức thư của hội Illuminati chứ?
Langdon mỉm cười:
- Đúng vậy. Cũng mất một thời gian, nhưng rồi tôi phát hiện ra rằng 503 thực ra là một mã số rất đơn giản. Rõ ràng là mã số đó dùng để chỉ Diagramma .
Trong thoáng chốc, tâm trí Langdon quay về với thời điểm anh tình cờ phát hiện ra ý nghĩa đó: ngày 16 tháng 8. Cách đây hai năm. Lúc ấy anh đang đứng bên hồ nước, dự đám cưới con trai cửa một người bạn. Tiếng nhạc rộn ràng vang lên khi đám rước dâu vượt qua hồ nước một cách độc đáo: bằng một chiếc bè lớn.
Chiếc bè đó được trang hoàng bằng rất nhiều hoa. Trên thân bè là số hiệu DCII - được sơn bằng chữ số La Mã, đầy vẻ tự hào.
Không hiểu, Langdon hỏi bố của cô dâu:
- Sao lại 602?
- 602 nào?
Langdon chỉ tay vào số hiệu:
- DCII chính là cách viết theo kiểu La Mã của 602.
- Ông ta cười lớn:
- Không phải ký tự La Mã gì đâu. Chỉ là tên của chiếc bè này thôi mà.
- Bè DCII à?
Ông ta gật đầu:
- Viết tắt của Dick và Connie II.
Langdon tự nhận thấy rằng mình quả thật là ngô nghê. Dick và Connie chính là tên của đôi uyên ương trẻ. Chiếc bè đã được đặt tên theo hai bạn trẻ may mắn đó.
- Thế còn DCI thì sao rồi?
Ông ta rên rỉ:
- Hôm qua nó bị chìm trong khi hạ thuỷ mất rồi.
Langdon cười phá lên:
- Tôi rất lấy làm tiếc. - Anh quay lại nhìn thân bè một lần nữa. Chẳng khác gì phiên bản thu nhỏ của QEII . Một giây sau, anh chợt nghĩ ra.
Lúc này Langdon quay sang Vittoria:
- Như tôi đã nói với cô, 503 là một loại mật mã. Đấy là cách mà hội Illuminati dùng để ám chỉ một chữ số La Mã. Dùng ký tự La Mã để viết thì 503 sẽ thành…
- DIII.
Langdon ngước mắt lên:
- Cô nhanh trí thật đấy. Xin đừng nói với tôi là cô cũng là người của Illuminati.
Cô gái cười phá lên:
- Tôi vẫn thường xuyên dùng ký tự La Mã để đặt tên cho các vỉa địa tầng của đại dương mà.
Thảo nào, Langdon thầm nghĩ. Chúng ta cũng khá giông nhau đấy.
Vittoria ngước lên nhìn anh và hỏi:
- Vậy thì DIII nghĩa là gì?
- DI, DII, DIII là những cách viết tắt rất cổ. Các nhà khoa học thuở trước vẫn dùng những ký tự này để chỉ ba cuốn sách của Galileo mà mọi người hay nhầm lẫn với nhau.
Vittoria hít một hơi thật sâu:
- Dialogo... Discorsi… Diagramma .
- D-một, D-hai, D-ba. Đều bàn về khoa học. Đều gây nhiều tranh cãi 503 chính là DIII. Diagramma . Cuốn sách thứ ba của ông ấy.
Vittoria tỏ ra lo lắng:
- Nhưng như thế vẫn chưa giải thích được điều gì. Nếu như segno , đầu mối, một kiểu truyền bá cho Con đường ánh sáng thực sự có trong cuốn sách đó thì tại sao Vatican lại không phát hiện ra khi họ tìm được cuốn sách?
- Có thể họ đã đọc cuốn này rồi, nhưng không để ý. Cô hãy nhớ phương châm của Illuminati: Che giấu thông tin bằng hình thức công khai. Nguỵ trang. Segno chắc chắn cũng tuân theo tôn chỉ đó - công khai. Và những người không hiểu được nó sẽ chẳng nhận ra điều gì cả.
- Nghĩa là sao?
- Nghĩa là Galileo đã che giấu rất tài tình. Theo một số tài liệu sử học thì segno được thể hiện theo một cách thức mà hội Illuminati gọi là Linga Pura(8) .
Ngôn ngữ tinh tuý à?
- Đúng thế.
- Toán học phải không?
- Tôi cũng đoán thế. Có vẻ khá rõ ràng. Galileo là một nhà khoa học và độc giả ông ấy hướng tới là các nhà bác học. Toán học chính là thứ ngôn ngữ lôgíc để chuyển tải chân lý. Tên của cuốn sách là Diagramma , cho nên rất có thể các sơ đồ toán học cũng là một phần của đầu mối.
Vittoria có vẻ yên tâm hơn một chút:
- Chắc là Galileo đã phát minh ra một loại ký hiệu toán học mà các tu sĩ không nhận ra được.
- Cô không tin lắm thì phải. - Langdon hỏi, chân vẫn bước dọc thèo vòm kính.
- Không. Cái chính là vì cả anh cũng có tin đâu. Nếu anh tin chắc rằng DIII chính là Diagramma thì sao không công bố? Để một người khác tiếp cận được với Nhà mái vòm Vatican có thể đến đây để kiểm chứng điều đó một cách nhanh chóng.
- Tôi không thích công bố. Langdon đáp. - Tôi đã phải trải qua bao khó nhọc mới tìm được thông tin đó, cho nên… - Anh chợt im bặt, sượng sùng.
- Anh muốn hưởng vinh quang.
Langdon thấy máu dồn lên mặt:
- Nói cách khác thì… cô nói đúng đấy.
- Anh không cần phải ngượng về điều đó. Anh đang nói chuyện với một nhà khoa học cơ mà. Một là công bố, hai là diệt vong. Ở CERN, chúng tôi vẫn thường nói với nhau là "Chứng minh hay là bóp chết".
- Không chỉ vì chuyện tôi muốn là người đầu tiên làm điều đó. Tôi sợ rằng nếu một người không thích hợp nào đó tìm thấy thông tin trong Diagramma thì đầu mối sẽ biến mất.
- Những người không thích hợp chính là Vatican sao?
- Không phải là họ không thích hợp, mà là toà thánh luôn xem thường những ảnh hưởng của Illuminati. Đầu thế kỷ XX, Vatican thậm chí còn tuyên bố rằng Illuminati chỉ là sản phẩm của những trí tưởng tượng viển vông. Giới tăng lữ cho rằng chẳng cần phải bận tâm đến trào lưu bài Thiên Chúa giáo đang len lỏi vào từng ngõ ngách của các nhà băng, trường đại học cũng như hệ thống chính trị của họ.
Động từ thời hiện tại chứ , Robert Langdon tự nhắc bản thân. Hiện nay, trào lưu bài trừ Thiên Chúa giáo đang len lỏi vào từng ngõ ngách các nhà băng, trường đại học cũng như hệ thông chính trị của họ.
Anh cho rằng rất có thể Vatican sẽ chôn vùi bất kỳ dấu hiệu nào liên quan đến các mối đe doạ từ hội Illuminati à?
- Có thể lắm chứ. Bất kỳ mối đe doạ nào, dù là thật hay tưởng tượng, đều góp phần làm lung lay niềm tin vào sức mạnh của nhà thờ.
- Một câu hỏi nữa nhé. - Bỗng nhiên Vittoria đứng lại và nhìn Langdon như thể anh là người ngoài hành tinh - Anh nói nghiêm túc không đấy?
Langdon cũng dừng bước:
- Ý cô là sao?
- Tôi muốn hỏi có phải đây thực sự là kế hoạch cứu nguy cho toà thánh của anh hay không?
Langdon không dám chắc anh vừa nhìn thấy gì trong ánh mắt của cô gái trẻ, sự thương hại đầy hài hước, hay cảm giác hốt hoảng thực sự.
- Cô muốn nói đến việc tìm cuốn Diagramma à?
- Không, tôi muốn hỏi việc tìm cuốn Diagramma , xác định vị trí của segno 400 năm tuổi, giải một số mã toán học, rồi lần theo dấu những tác phẩm điêu khắc cổ mà chỉ có những nhà khoa học ưu tú nhất trong lịch sử mới có thể lần ra được… tất cả những việc đó trong vòng bơn giờ đồng hồ à?
Langdon nhún vai:
- Nếu cô có ý kiến gì khác thì tôi rất sẵn lòng lắng nghe.

Chú thích:
(1) Archivio Vaticano: Nhà mái vòm Vatican.
(2) Curatore, Padre Jaqui Tomaso: Người quản lý, cha Jaqui Tomaso.
(3) Pietro l'erenmita: Peter - thầy tu khổ hạnh.
(4) Urbano: Thành phố.
(5) Levant: Miền cận Đông của vùng Địa Trung Hải.
(6) Dialogo: Đối thoại.
(7) Discorsi: Những bài phát biểu.
(8) Linga Pura: Ngôn ngữ thuần tuý.
 
Đứng bên ngoài vòm kính số 9, Robert Langdon đọc những tấm biển gài trên giá sách.
BRAHE… CLAVIUS… COPERNICUS… KEPLER… NEWTON…
Đọc lại những cái tên đó một lần nữa, anh thấy chột dạ. Các nhà khoa học đều ở đây cả. Còn Galileo thì sao không thấy?
Anh quay sang nhìn Vittoria, cô gái đang xem xét một vòm kính khác gần đó.
- Tôi tìm được đúng chủ đề rồi, nhưng chả thấy Galileo đâu cả.
- Có đấy! - Cô gái đáp, nheo mắt chỉ tay vào vòm kính bên cạnh. Ông ấy trong này này. Hi vọng anh mang theo kính, vì toàn bộ vòm này đều là về Galileo hết.
Langdon chạy lại. Vittoria nói đúng. Tất cả các biển chú thích trong vòm số 10 đều ghi cùng một cái tên.
IL PROCESSO GALILEANO(1)
Langdon à lên một tiếng, lúc này anh đã hiểu vì sao một mình Galileo chiếm trọn cả vòm kính.
- Vụ án Galileo. - Langdon kinh ngạc nhìn những kệ sách đằng sau lớp kính. - Những thủ tục pháp lý dai dẳng và tốn kém nhất trong lịch sử Vatican. 14 năm và 600 triệu lia. Tất cả đều nằm ở đây.
- Khá nhiều tài liệu pháp lý đấy chứ.
- Đã mấy thế kỷ rồi mà các thủ tục loại này có thay đổi gì mấy đâu.
- Giống như lũ cá mập ấy mà.
Langdon sải bước đến bên một cái nút khá lớn màu vàng bên cạnh vòm kính. Anh ấn nút, một loạt bóng điện bên trong vòm kính nhấp nháy rồi sáng lên. Ánh sáng màu đỏ sẫm, khiến cho toàn bộ vòm kính biến thành một cái hộp toả sáng màu đỏ thắm… một mê cung những kệ sách đầy chất ngất.
- Chúa ơi. - Vittoria có vẻ kinh hãi. - Chúng ta đang làm việc hay đang phơi nắng đây.
- Giấy da cừu và da dê rất dễ mất màu, cho nên các bóng đèn lắp trong vòm kính lúc nào cũng tối màu.
- Vào trong này thì phát điên lên mất.
Còn hơn thấy chứ , Langdon thầm nghĩ, chân bước lại bên cánh cửa dẫn vào trong vòm.
- Xin cảnh báo trước với cô là khí ôxi chính là chất ôxi hoá, cho nên các vòm kín kiểu này đều chứa rất ít ôxi. Bên trong vòm rất giống vùng chân không. Hô hấp sẽ khó khăn hơn đấy.
- Này, các vị Hồng y Giáo chủ già cả mà còn chịu được nữa là.
Đúng thế , Langdon thầm nghĩ. Hi vọng chúng ta cũng được may mắn giông họ.
Cửa vào trong vòm là một cái cửa xoay điện tử loại đơn.
Langdon đã để ý thấy bốn cái nút xếp thành hàng bên trong cánh cửa, từ mỗi vị trí chỉ có thể bấm được một nút. Khi có người ấn nút, cánh cửa này sẽ tự động quay ngược chiều nửa vòng trước khi dừng lại - chu trình chuẩn để cách ly bầu không khí bên trong vòm với bên ngoài.
- Khi nào tôi vào xong thì cô hãy nhấn nút và theo tôi. - Anh dặn dò. - Trong đó độ ẩm chỉ là 8%, hãy chuẩn bị tinh thần là sẽ có cảm giác khô miệng.
Langdon bước vào vị trí và nhấn nút. Cánh cửa kêu rì rì rồi bắt đầu quay. Chân bước theo cánh cửa quay vào trong, Langdon chuẩn bị tinh thần cho cảm giác sốc trong những giây đầu tiên khi bước vào vòm kính kín. Bước vào vòm kính kín kiểu này không khác gì bay lên đến độ cao trên 6000 mét tính từ mặt biển trong vòng một tích tắc. Nhiều người cảm thấy buồn nôn và đau đầu. Gấp đôi tầm nhidn, gấp đôi trở ngại , Langdon tự nhắc mình câu thần chú vẫn được các nhân viên lưu trữ rất ưa chuộng. Hai tai anh như muốn nổ tung. Có tiếng không khí rít mạnh, cánh cửa ngừng xoay.
Langdon đã ở bên trong vòm.
Điều trước tiên Langdon nhận thấy là không khí bên trong vòm loãng hơn anh tưởng. Có vẻ như Vatican nâng niu những vòm kính của họ hơn nhiều so với tất cả mọi kho lưu trữ khác. Anh cố kìm cảm giác muốn nôn oẹ, và thư giãn các cơ lồng ngực trong khi các mao dẫn trong cả hai lá phổi đang nở ra hết cỡ. Cảm giác nôn nao qua đi khá nhanh. Chẳng khác nào chui vào trong bụng cá voi , anh thầm nghĩ bài tập bơi 50 vòng quanh bể bơi ở trường đại học cũng có lúc phát huy tác dụng. Hơi thở đã trở lại bình thường, Langdon bắt đầu nhìn quanh. Dù lớp kính bao xung quanh hoàn toàn trong suốt anh vẫn thấy có cảm giác lo âu quen thuộc. Mình ở trong cái hộp kín , anh thầm nghĩ. Cái hộp kín đỏ như máu.
Cánh cửa xoay lại kêu rì rì sau lưng Langdon, anh quay lại nhìn, Vittoria cũng đang vào trong vòm. Vừa vào đến nơi, cô lập tức bị chảy nước mắt và thở một cách nặng nhọc.
- Chỉ mất một phút thôi. Nếu cô thấy choáng váng thì cúi đầu xuống.
- Tôi… thấy… - Vittoria nói khó nhọc, - như mang nhầm bình khí lúc lặn xuống… biển.
Langdon đợi cho cô gái trở lại bình thường, anh biết là Vittoria sẽ chịu đựng được. Trông cô gái trẻ này rất săn chắc và khỏe mạnh, khác hẳn bà cựu sinh viên ốm ho già lão mà dạo trước anh phải dẫn vào khu vòm kính lại thư viện trường Widener. Bà ta thở mạnh đến nỗi suýt văng cả mấy cái răng giả ra ngoài. Đến khi kết thúc chuyến đi thì Langdon gần như phải hô hấp nhân tạo cho bà già khổ sở đó.
Đỡ hơn rồi chứ? - Anh hỏi.
Vittoria gật đầu.
- Tôi đã một lần đi thử chiếc máy bay đáng nguyền rủa của viện cô, nên thấy rất nể cô.
Câu nói đùa của anh khiến cô gái mỉm cười:
- Cảm động quá.
Langdon với tay lên chiếc hộp gắn cạnh cánh cửa và lấy ra một dôi găng tay cô-tông màu trắng.
- Lắm lệ bộ thế cơ à? - Vittoria hỏi.
- Vì tay có axít. Nếu không có găng thì không thể sờ vào sách được Cô cũng phải đeo vào.
Vittoria lấy găng.
- Chúng ta còn bao nhiêu lâu nữa?
Langdon kiểm tra chiếc đồng hồ đeo tay có hình chuột Mickey:
- Giờ là 7 giờ.
- Chỉ có khoảng một giờ để tìm quyển sách thôi.
- Thực ra thì không được nhiều thế đâu. - Langdon chỉ tay vào thiết bị lọc khí trên nóc vòm:
- Bình thường thì người quản lý sẽ bật hệ thống tái ôxi hoá mỗi khi có người vào trong vòm, nhưng hôm nay thì không. 20 phút thôi, lâu hơn thế thì chúng ta sẽ chết ngạt.
Dưới ánh sáng màu đỏ, trông Vittoria nhợt nhạt hẳn đi.
Langdon mỉm cười, vuốt thẳng chiếc găng trên tay:
- Chứng minh hay là chết, Vittoria ạ. Chú Mickey này bắt đầu đếm thời gian rồi đấy.

Chú thích:
(1) Il processo Galileano: Vụ kiện của Galileo.
 
Phóng viên đài BBC Gunther Glick cứ chòng chọc nhìn ống nghe điện thoại đang cầm trên tay đến 10 giây rồi mới gác máy.
Từ phía sau xe, Chinita Macri chăm chú quan sát anh:
- Chuyện gì thế? Ai đấy?
Glick quay lại, cảm giác như một đứa trẻ vừa nhận được quà Giáng sinh nhưng vẫn chưa dám tin đó thực sự là quà của mình.
- Có người vừa báo tin. Trong toà thánh có chuyện. Chuyện đó xưa nay người ta vẫn gọi là Mật nghị Hồng y.
Chinita đáp.
- Có gì mà báo.
- Không, chuyện khác cơ. - Chuyện tày trời. Anh tự hỏi không biết những gì người kia nói với anh có xảy ra thật không. Glick xấu hồ nhận thấy mình đang cầu cho nó xảy ra thật. - Nếu tôi nói là bốn Hồng y Giáo chủ đã bị bắt cóc và sẽ bị hành quyết tại bốn nhà thờ trong đêm nay thì sao?
- Thì có kẻ rỗi hơi ở đài truyền hình muốn trêu anh cho đỡ buồn chứ sao.
- Thế nếu tôi bảo là có người sẽ báo cho chúng ta biết chính xác địa điểm của vụ hành quyết đầu tiên thì sao?
- Nói tôi nghe, anh vừa nói chuyện với gã phải gió nào thế?
- Anh ta không chịu xưng tên.
- Chắc vì anh ta báo tin vịt.
Glick đã đoán từ trước rằng Chinita sẽ nghi ngờ, nhưng người phụ nữ này quên mất rằng suốt gần 10 năm làm việc cho tờ British Tattler, anh đã biết quá rõ những kẻ mất trí và dối trá. Người này không thuộc hai loại đó. Anh ta tỉnh táo đến mức lạnh lùng. Lôgíc lắm. Gần 8 giờ tôi sẽ gọi lại, và cho anh biết chính xác địa điểm hành quyết. Những hình ảnh ghi được sẽ khiến anh nổi tiếng ngay lập tức , anh ta đã nói đúng y như thế. Khi Glick hỏi vì sao anh ta lại báo tin cho anh, câu trả lời đặc giọng Trung Đông cũng thật lạnh lùng. Phương tiện truyền thông là cánh tay phải của tình trạng hỗn loạn .
- Anh ta còn bảo tôi một điều nữa cơ. - Glick nói với Chinita.
- Cái gì? - Bảo là Elvis Presley mới được bầu làm Giáo hoàng à?
- Chị kết nối cho tôi cơ sở dữ liệu của đài đi. - Hoóc-môn adrenaline đang tăng lên rất nhanh trong cơ thể Glick. - Tôi muốn biết chúng ta đang đưa những tin gì liên quan đến anh chàng này.
- Anh chàng nào?
- Nối hộ đi mà.
Macri thở dài và bắt đầu kết nối với cơ sớ dữ liệu.
- Phải mất một phút đấy.
Glick bắt đầu thấy đầu óc chao đảo. - Người vừa gọi đến còn hỏi bằng được liệu chúng ta có nhân viên quay phim không.
- Kỹ thuật viên hình ảnh chứ.
- Và liệu chúng ta có truyền hình trực tiếp được không.
- Trên tần số 1.537 MHZ. Có chuyện gì nào? - Tiếng bíp, đã kết nối với cơ sở dữ liệu. - Rồi, đã nối xong. Anh cần biết về ai đây?
Glick đọc từ khoá cho Chinita.
Macri quay lại nhìn anh chằm chằm:
- Anh đùa đấy à?
Cách sắp xếp bên trong vòm kính số 10 không giống như Langdon nghĩ, và cũng chẳng thấy cuốn Diagramma ở chỗ những cuốn sách cùng loại của Galileo. Không thể truy cập vào chương trình Biblion và danh mục tra cứu, Vittoria và Langdon lúc này đang lâm vào thế bế tắc.
Có chắc là Diagramma ở trong thư viện này không? - Vittoria hỏi.
Chắc mà. Tên cuốn sách còn có cả trong danh mục Uficcio delta Propaganda delle Fede(1)
- Được rồi. Chỉ cần anh khẳng định chắc chắn. - Vittoria tìm bên phải, Langdon tìm bên trái.
Langdon bắt đầu tìm theo cách thủ công. Anh phải cố nén lòng để không dừng lại và đọc tất cả những báu vật đang hiện ra trước mắt. Quả là một bộ sưu tập quý giá. Nhà phân tích… Người đưa tin Những bức thư… Bức thư của nữ công tước Christina… Lời xin lỗi gửi Galileo.
Cuối cùng thì chính Vittoria lại là người tìm thấy vật báu ở gần cuối vòm. Cô kêu to:
- Diagramma della Verita !(2)
Từ đầu kia của vòm kính Langdon chạy ngay lại:
- Đâu?
Vittoria đưa tay chỉ, vã ngay lập tức Langdon hiểu vì sao trước đó họ không tên thấy cuốn sách. Bản thảo này được đựng trong một cái hộp chứ không nằm trên kệ. Những tài liệu không được đóng thành quyển vẫn thường được cất giữ trong hộp. Không còn chút nghi ngờ nào về tài liệu bên trong hộp nữa, bên ngoài hộp in dán nhãn đàng hoàng:
DIAGRAMMA DELLA VERITA.
Galileo Galilei, 1639
Langdon quỳ xuống, tim đập thình thịch.
- Diagramma. - Anh tươi cười nhìn Vittoria - Cừ lắm. Nào, giúp tôi lôi cái hộp ra!
Vittoria cũng quỳ xuống cạnh Langdon, cả hai cùng lấy đà.
Chiếc khay kim loại đỡ cái hộp lập tức quay hướng về phía họ, nắp hộp lộ hẳn ra ngoài.
- Không có khoá sao? - Vittoria ngạc nhiên trước cái chết được thiết kế quá đơn giản.
- Không bao giờ. Đôi khi cần phải sơ tán tài liệu một cách nhanh chóng. Do lụt lội hoặc hoả hoạn.
- Thế thì mở ra thôi.
Langdon không đợi phải giục đến lần thứ hai. Một phần vì giấc mơ khoa học bao lâu nay đang ở ngay trước mắt, phần vì không khí trong vòm rất loãng, anh không còn lòng dạ nào mà chần chừ. Langdon tháo chốt và nhấc nắp hộp ra. Có một cái túi nhỏ màu đen bằng vải thô nằm dưới đáy hộp. Độ thoáng khí của loại vải này là vô cùng quan trọng trong việc bảo quản cuốn sách. Dùng cả hai tay, Langdon nhẹ nhàng nâng cái túi vải lên theo đúng phương ngang, rồi nhấc ra khỏi hộp.
- Cứ tưởng phải tìm được cả một hòm châu báu, hoá ra lại được một vật giống như cái vỏ gối bé tí hin thế này. - Vittoria nói.
- Theo tôi!
Langdon bảo cô gái. Hai tay nâng cái túi vải như thể trong đó là một lễ vật hiến tế linh thiêng nào đó. Langdon bước lại bên bàn kiểm tra bằng kính trong vòm. Chiếc bàn được để chính giữa vòm chủ yếu là để hạn chế việc di chuyển tài liệu lưu trữ, tuy nhiên hầu hết các học giả đều yêu thích vị trí kín đáo giữa các kệ sách này. Những phát kiến làm nên sự nghiệp đều được thực hiện tại những vòm kính lưu trữ hàng đầu thế giới kiểu này, và trong khi làm việc, không một học giả nào muốn để cho đối thủ nhòm qua kính và biết chính xác họ đang làm gì.
Langdon đặt cái túi lên bàn và mở cúc cài. Vittoria đứng sát cạnh anh. Lục thùng dụng cụ ngay cạnh bàn, Langdon lấy ra một cái kẹp mà cánh nhân viên lưu trữ vẫn gọi đùa là chũm choẹ con một loại nhíp kẹp lớn có gắn những miếng kim loại mỏng hình tròn ở đầu hai tay kẹp. Vừa cảm thấy vô cùng phấn khích,
Langdon vừa lo sợ, biết đâu đây chỉ là một giấc mơ và khi bất thình lình tỉnh dậy tại Cambridge, anh lập tức trông thấy một đống bài vở của sinh viên cần phải chấm ngay. Hít một hơi thật sâu Langdon mở túi. Tay run run, anh lùa kẹp vào trong túi.
- Bình tĩnh nào. - Vittoria lên tiếng. - Giấy thôi, không phải bạch kim đâu.
Langdon đưa kẹp vào cạnh xấp giấy, thận trọng dùng lực kẹp lại Sau đó, thay vì rút tập tài liệu ra, anh giữ yên nó tại chỗ rồi từ từ gỡ chiếc túi vải - một thủ tục bắt buộc đối với các nhân viên lưu trữ để giảm tối đa lực ma sát tác động lên tài liệu. Rút túi vải ra, bật đèn bàn lên xong, Langdon mới thôi không nín thở nữa.
Luồng sáng từ chiếc đèn bàn dưới tấm kính hắt ngược lên, khiến cho Vittoria trông hao hao giống bóng ma.
- Giấy cỡ nhỏ. - Cô gái nhận xét, giọng đầy thành kính.
Langdon gật đầu. Xấp giấy trước mặt họ trông rất giống một cuốn tiểu thuyết bìa mềm đã bị long gáy. Có thể thấy rằng trang giấy được trang trí cầu kỳ trên cùng chính là bìa tác phầm, có tiêu đề ngày hoàn thành, và tên tác giả do chính tay Galileo tự viết.
Trong khoảnh khắc này, Langdon hoàn toàn không còn nhớ đến khu chung cư chật chội của anh, sự mệt mỏi của bản thân, cũng như lình huống cấp bách và ngặt nghèo đã khiến anh có mặt ở nơi này. Langdon ngẩn ngơ ngắm nhìn cuốn sách. Trong những khoảnh khắc được chạm tay vào lịch sử như thế này,
Langdon thường mụ mị đi vì một niềm thành kính đến tột cùng… giống như khi được ngắm nhìn những nét vẽ tài hoa trên khuôn mặt của nàng Mona Lisa.
Xấp giấy nến màu vàng câm lặng trước mặt Langdon lúc này đúng là bản thảo viết tay của tác giả và đúng với niên đại giả định của nó. Nếu không kể đến độ bạc màu không thể tránh khỏi, cuốn sách rõ ràng đã được bảo quản một cách hoàn hảo. Có những vết rạn màu không đáng kể, độ mịn của giấy nến cũng không còn được hoàn hảo lắm. Nhưng nhìn một cách tổng quan thì quả là được bảo quản rất tốt. Langdon quan sát kỹ đường viền trang trí bằng tay quanh trang bìa, mắt anh bắt đầu mờ đi do độ ẩm quá thấp. Vittoria không thốt nên lời.
- Đưa cho tôi con dao nhỏ nào. - Langdon chỉ cho Vittoria cái khay đựng đầy những dụng cụ dùng cho công tác lưu trữ làm bằng thép không rỉ. Vittoria lấy con dao cho anh. Langdon đưa tay đón lấy. Con dao thuộc loại tốt. Langdon dùng tay kiểm tra bề mặt của dao để đảm bảo rằng không có dị vật cứng nào mắc ở đó. Rất thận trọng, anh lách lưỡi dao dưới vỏ hộp rồi nậy nhẹ, chiếc nắp bật tung.
Trang đầu tiên đầy những dòng chữ bay bướm cầu kỳ đến mức gần như không thể đọc nổi. Langdon nhận thấy ngay lập tức không có sơ đồ hay con số nào hết. Đây là một bài luận.
- Thuyết nhật tâm. - Vittoria dịch tiêu đề trên tờ giấy đôi. Cô nhìn lướt khắp trang giấy. - Hình như Galileo muốn phàn đối bằng được thuyết địa tâm. Tiếng Ý cổ, cho nên tôi không thể dịch được.
- Quên chuyện đó đi, chúng ta đang tìm kiếm toán học. Langdon đáp. - Ngôn ngữ thuần khiết.
Anh lại dùng con dao giở sang trang tiếp theo. Một bài luận nữa. Không thấy toán học và sơ đồ Bàn tay đeo găng của Langdon bắt đầu nhơm nhớp mồ hôi.
- Chuyển động của các hành tinh. - Vittoria lại tiếp tục dịch tiêu đề bài luận.
Langdon nhíu mày. Giờ mà là một thời điểm nào khác thì Langdon đã say sưa dọc kỹ bài này; không thể tin được là mô hình chuyển động của các hành tinh mà NASA đang sử dụng, kết quả của quá trình quan sát bằng các loại kính thiên văn hiện đại nhất, lại giống y xì những phán đoán ban đầu của Galileo.
- Không có toán học. - Vittoria nói - Bài này nói về chuyển động lùi và quỹ đạo hình e-líp hay cái gì đó tương tự.
Quỹ đạo e-líp . Langdon nghĩ đến vô số những rắc rối mà Galileo đã phải đương đầu khi ông miêu tả rằng các hành tinh chuyển động theo quỹ đạo hình e-líp. Vatican ưa thích sự hoàn hảo của quỹ đạo hình tròn và khăng khăng cho rằng quỹ đạo di chuyển chuẩn xác phải là hình tròn. Trái lại, hội Illuminati của Galileo lại cho rằng hình e-líp cũng rất hoàn hảo, và tôn sùng đặc điểm đối ngẫu và nhị tâm của nó. Đến tận thời hiện đại, hình e- líp vẫn còn rất phố biến trong các phù điêu và biểu tượng của hội Tam Điểm.
- Trang tiếp đi. - Vittoria nói.
Langdon lật trang giấy.
- Chu kỳ của mặt trăng và thuỷ triều. - Vittoria nói - Không có chữ số không thấy sơ đồ.
Langdon lại giở tiếp. Không thấy gì. Anh tiếp tục lật thêm hơn chục trang nữa. Không thấy gì. Không thấy gì. Không thấy gì.
- Tôì cứ tưởng ông ấy là nhà toán học chứ. - Vittoria nói - Ở đây thấy toàn chữ là chữ.
Langdon thấy không khỉ bắt đầu loãng dần. Hi vọng cũng đang tiêu tan dần. Xấp giấy thì đang mỏng dần đi.
- Trang này không có gì. - Vittoria nói - Không toán học. Có mấy ngày tháng, vài chữ số, nhưng không thấy gì có hơi hướng đóng vai trò đầu mối cả.
Langdon lật nốt trang giấy cuối cùng và thở dài. Cũng vẫn chỉ là một bài luận.
- Cuốn sách mỏng thật. - Vittoria nhíu mày.
Langdon gật đầu.
- Merdra. - Dân thành Rome vẫn thường nói thế.
Chết tiệt, Langdon rủa thầm. Hình của anh phản chiếu trong lớp kính trông đầy mai mỉa, chẳng khác gì hình ảnh phản chiếu sáng nay nhìn anh từ bên ngoài cửa sổ máy bay. Con ma già khú đế .
- Chắc chắn phải có cái gì chứ. - Langdon lên tiếng, chính anh cũng bị giật mình vì giọng nói khàn đặc của bản thân. - Segno chỉ ở quanh đâu đây thôi. Tôi biết mà.
- Hay suy đoán của anh về DIII không chính xác?
Langdon quay lại, chằm chằm nhìn cô gái.
- Thôi được - Vittoria nhượng bộ. - Suy luận đó rất lôgíc. Hay đầu mối không phải dưới dạng toán học?
- Ngôn ngữ thuần khiết . Còn là cái gì khác được đây?
- Nghệ thuật thì sao?
- Cả cuốn sách không có sơ đồ hay tranh minh hoạ nào.
- Tôi chỉ biết là ngôn ngữ thuần khiết tức là không phải tiếng Ý.
- Lôgíc nhất vẫn là toán học.
- Tôi cũng thấy thế.
Langdon không thể chấp nhận thất bại nhanh chóng đến vậy.
- Chắc các con số được viết bằng chữ. Toán học được diễn tả bằng lời thay vì bằng các phương trình.
- Tôi sẽ dành thời gian đọc tất cả các trang vậy.
- Chúng ta làm gì có thời gian. Phải chia đôi việc ra. - Langdon lật xấp giấy lại trang đầu. - Tôi biết chút ít tiếng Ý nên đọc được các con số. - Anh dùng dao gạt xấp giấy ra làm hai, kiểu như những người chơi bạc chia đôi xấp bài, rồi đặt gần chục trang trước mặt Vittoria. - Chắc chắn ở trong này. Tôi biết mà.
Vittoria cúi xuống và dùng tay lật trang giấy đầu tiên.
- Dùng dao! - Langdon nói ngay: Anh lấy một con dao nữa trong khay và đưa cho cô gái. - Phải dùng dao!
- Tôi đeo găng rồi còn gì. - Vittoria làu bàu. - Làm sao mà hỏng được cơ chứ!
- Thì cô cứ dùng dao đi.
Vittoria cầm lấy con dao.
- Anh có đang cảm thấy giống tôi không?
- Căng thẳng á?
- Không. Thiếu không khí.
Rõ ràng là Langdon cũng đã bắt đầu cảm nhận thấy điều đó.
Không khí hết nhanh hơn anh tưởng. Họ phải khẩn trương lên.
Những vấn đề hóc búa thuộc lĩnh vực lưu trữ kiểu này không có gì xa lạ đối với anh, nhưng vẫn cần phải có thời gian. Không nói thêm một lời, Langdon cúi xuống dịch trang giấy đầu tiên.
Hiện ra đi quỷ tặc, hiện ra đi nào .

Chú thích:
(1) Uficcio delta Propaganda delle Fede: Văn phòng quảng cáo.
(2) Diagramma della Verita: Biểu đồ chân lý
 
Ở một địa điểm trong thành Rome, có một bóng đen lảng vảng quanh một con dốc lát đá dẫn xuống ga tàu điện ngầm. Lối đi cổ được thắp sáng bằng đuốc, khiến cho bầu không khí càng nóng nực và ngột ngạt. Từ trên đỉnh dốc vang lên tiếng nói hoảng hốt của những người đã có tuổi, vang vọng trong không gian chật hẹp tù túng.
Vào đến trong ngách nhỏ, hắn nhìn thấy họ vẫn y nguyên như lúc hắn bỏ họ lại đó - bốn ông già trong trạng thái khiếp đảm, bị giam phía sau những song sắt rỉ ngoét của một căn phòng nhỏ.
- Ngươi là ai? - Một người hỏi bằng tiếng Pháp. - Ngươi muốn gì ở chúng ta?
- Này! - Một người khác nói tiếng Đức. - Thả chúng ta ra!
- Ngươi có biết chúng ta là ai không? - Một người nữa hỏi bằng tiếng Anh, chất giọng Tây Ban Nha.
- Tất cả im mồm! - Hắn ra lệnh, giọng rít lên đầy đã tâm.
Một trong bốn ông già ấy, ông già người Ý nhìn sâu vào khoảng trống đen ngòm trong mắt hắn và quả quyết rằng vừa trông thấy địa ngục. Chúa hãy cứu giúp chúng con , ông cầu nguyện.
Tên sát thủ xem đồng hồ một lần nữa và quay lại nhìn những nạn nhân của hắn.
- Đến lúc rồi. - Hắn tuyên bố. - Lão nào đầu tiên đây?
Trong vòm lưu trữ số 10, Robert Langdon đang săm soi từng chữ trên trang giấy trước mật, miệng lẩm nhẩm các số đếm bằng tiếng Ý. Ngàn… trăm… một hai, ba… năm mươi.. Anh cần những gì liên quan đến các con số. Bất kì thứ gì !
Dò đến hết trang, anh dùng con dao lật trang giấy qua một bên.
Trong khi gài sẵn lưỡi dao vào trang giấy tiếp theo, Langdon luống cuống, không cầm vững nổi con đao nữa. Mấy phút sau, anh cúi xuống và thấy con dao trong tay đã bị quẳng sang một bên từ lúc nào, anh đang dùng tay để lật các trang giấy. Ôi! Langdon kêu thầm, cảm thấy mình thật không phải phép chút nào. Khả năng kiểm soát bản thân của anh đang giảm đi nhanh chóng do thiếu ôxi. Sau khi chết chắc mình sẽ bị thiêu trong hoả ngục dành riêng cho các nhân viên lưu trữ mật thôi .
- Thế có phải tiện hơn hẳn không. - Vittoria thốt lên khi thấy Langdon dùng tay để lật tài liệu. Cô cũng quẳng con dao sang một bên và làm hệt như vậy.
- Thấy gì không?
Vittoria lắc đầu:
- Chẳng có dấu vết nào của toán học cả. Tôi đang đọc lướt đây… nhưng chẳng tìm thấy gì giống đầu mối cả.
Langdon tiếp tục đọc xấp tài liệu, cảm thấy mỗi lúc một khó khăn hơn. Khả năng đọc tiếng Ý của anh vốn đã kém, lại thêm chữ viết nhỏ, ngôn ngữ cổ nên rất chậm. Vittoria đọc xong trước, đang lật trang cuối cùng với vẻ thất vọng. Rồi đột nhiên lại đặt tờ giấy xuống để xem xét một cách kỹ lưỡng. Xem xong trang cuối cùng, Langdon vừa rủa thầm trong bụng vừa ngước mắt lên nhìn Vittoria. Cô gái đang nheo mắt, chăm chú nhìn vào một điểm trên trang giấy.
- Gì thế? - Anh hỏi.
Vittoria không ngẩng lên:
- Các trang của anh có chú thích ở dưới không?
- Không thấy có. Sao?
- Trang này có chú thích. Rất mờ, lại đúng vào chỗ giấy nhàu.
Langdon nhìn sang xem cô gái thấy cái gì, nhưng chỉ thấy mỗi số trang ghi ở góc trên bên phải của tờ giấy. Trang 5. Phải sau giây lát anh mới nhận ra sự trùng lặp ngẫu nhiên của con số 5.
Trang số 5. Năm, môn đồ của thuyên Pitago, sao năm cánh, hội Illuminati. Langdon băn khoăn không hiểu có phải hội Illuminati đã chọn đúng trang 5 để gài đầu mối vào hay không. Trong ánh sáng màu đỏ sẫm mờ mờ ảo ảo đang phủ trùm lên cả hai người,
Langdon chợt thấy lóe lên một tia hi vọng mong manh.
- Chú thích đó có phải toán học không?
Vittoria lắc đầu:
- Chữ viết. Chỉ có một dòng. Khổ chữ nhỏ vô cùng. Gần như không đọc nổi.
Hi vọng tiêu tan.
- Đáng ra phải là toán học chứ. Ngôn ngữ thuần khiết cơ mà.
- Đúng thế, tôi cũng biết thế. - Cô gái lưỡng lự - Nhưng mà rất có thể anh muốn nghe nội dung chú thích này đấy.
Vittoria có vẻ khá hào hứng.
- Đọc đi!
Dí sát mặt vào tờ giấy, Vittoria đọc lo:
- Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng .
- Con đường ánh sáng à? - Langdon thấy các cơ bắp căng lên. - Lại xem nào?
- Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng .
Nghe xong, Langdon lại thấy tràn trề hi vọng. Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng . Chưa thể biết ngay dòng chữ này sẽ giúp gì cho họ, nhưng rõ ràng là nó đề cập trực tiếp đến Con đường ánh sáng . Con đường ánh sáng . Thử thách linh thiêng . Đầu óc anh như một cỗ máy phải hoạt động hết tốc lực nhưng lại không được cấp đủ năng lượng.
- Dịch chính xác chưa đấy?
Vittoria chần chừ:
- Thật ra thì… - Cô gái ngước lên nhìn anh,
Ánh mắt là lạ:
- Thực ra thì tôi không hề dịch. Dòng này viết bằng tiếng Anh.
Trong thoáng chốc, Langdon tưởng vòm kính quá kín đã ảnh hưởng đến thính lực của mình.
- Tiếng Anh à?
Vittoria đẩy tờ giấy tới trước mặt anh, Langdon đọc dòng chữ nhỏ xíu ở lề dưới.
Con đường ánh sáng thử thách linh thiêng.
- Tiếng Anh à? Tiếng Anh đóng vai trò gì trong một cuốn sách viết bằng tiếng Ý nhỉ?
Vittoria nhún vai. Có vẻ như cả cô gái cũng đang cảm thấy choáng váng.
- Hay chính tiếng Anh là cái mà họ cho là ngôn ngữ thuần khiết ? Nó là ngôn ngữ quốc tế của khoa học mà. Ở CERN chúng tôi chỉ sử dụng mỗi thứ tiếng này thôi.
- Nhưng đây là từ thế kỷ 17 cơ mà. - Langdon phản bác. - ở Ý hồi đó làm gì có ai nói tiếng Anh, thậm chí cả… -. Chợt nhận ra điều mình sắp nói, anh ngừng lời. - Thậm chí cả…giới tăng lữ nữa.
Trí não Langdon căng ra như sợi dây đàn, và những lời nói của anh mỗi lúc một gấp gấp hơn.
- Vào thế kỷ 17, tiếng Anh chính là ngôn ngữ mà Vatican chưa để mắt tới. Họ giao tiếp với nhau bằng tiếng Ý, tiếng La-tinh, tiếng Đức, thậm chí cả tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, nhưng trong toà thánh không một ai biết tiếng Anh. Họ coi đó là thứ ngôn ngữ uế tạp nên chỉ phù hợp với những kẻ phàm phu tục tử như Chaucer và Shakespeare.
Langdon chợt nghĩ tới bốn phân nhóm của hội Illuminati: Đất, Nước, Khí và Lửa. Truyền thuyết về những cái tên bằng tiếng Anh của các nhóm này bất giác trở nên sáng rõ lạ kỳ. Anh cho rằng tiếng Anh được Galileo coi là ngôn ngữ thuần khiết là vì Vatican không sử dụng ngôn ngữ này à?
- Đúng thế. Hoặc là bằng cách dùng tiếng Anh để chỉ đầu mối, Galileo muốn bịt mắt Vatican một cách kín đáo.
- Nhưng có thấy đầu mối nào đâu. - Vittoria không đồng tình. - Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng. Câu này có ý nghĩa quái quỷ gì vậy?
Đúng thế thật , Langdon ngẫm nghĩ. Dù sao thì dòng chữ này cũng chẳng mang lại lợi ích gì. Nhưng rồi anh chợt nhận ra một chi tiết kỳ lạ khi lặp đi lặp lại những từ ngữ ấy trong đầu. Lạ thật , Langdon nghĩ. Nếu thế thật thì sao đây?
- Phải ra khỏi đây ngay. - Vittoria nói, giọng hổn hển.
Langdon chẳng nghe thấy gì. Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng.
- Đây là một dòng thơ ngũ âm viết theo nhịp Iambic(1) . Bất thình lình anh nói lớn. - Năm cặp gồm những âm có trọng âm và không có trọng âm.
Vittoria không hiểu:
- Iambic là thế nào?
Trong thoáng chốc, tâm trí Langdon chợt trở về với những buổi sáng chủ nhật ngồi trong lớp học Anh ngữ tại Học viện Phillips Exeter. Địa ngục trần gian. Hôm đó ngôi sao bóng rổ của trường Peter Greer không thể nào nhớ được những cặp âm cần thiết trong một dòng thơ viết theo thể Iambic của Shakespeare.
Thầy Bissel, một giáo viên rất nhiệt tình và sôi nổi, đã nhảy lên bàn và gào to lên:
- Greer, năm âm tiết! Hãy nghĩ đến những cái đĩa trong chạn bát nhà em mà xem! Lầu Năm góc! Năm cạnh! Năm! Năm! Năm! Thế!
Năm cặp âm, Langdon nhớ lại. Theo định nghĩa thì mỗi cặp có hai âm tiết. Không ngờ sự nghiệp của anh lại dựa trên những liên tưởng kỳ lạ đến vậy. Iambic là một thể thơ rất cân đối dựa trên hai con số thiêng của hội Illuminati: số 5 và số 2!
Tìm thấy rồi! Langdon muốn gạt ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí. Chỉ là sự trùng lặp ngẫu nhiên thôi mà! Nhưng nó vẫn cứ bám lấy anh. Năm… liên quan đến Pitago và ngôi sao năm cánh. Hai… chỉ sự tồn tại song song của mọi hiện tượng.
Trong thoáng chốc, một ý nghĩ nữa khiến Langdon sững sờ.
Thể thơ Iambic , do sự đơn giản của nó, vẫn được mệnh danh là thể thơ thuần khiết. Ngôn ngữ thuần khiết? Không lẽ đây chính là ngôn ngữ thuần khiết mà hội Illuminati vẫn nhắc đến? Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng …
- Chà chà. - Vittoria thét lên.
Langdon quay lại và thấy cô gái đang xoay ngược tờ giấy.
Langdon chột dạ. Lại nữa à?
- Câu thơ này không thể là biểu tượng đối xứng hai chiếu được đâu!
- Không, không phải biểu tượng đối xứng hai chiều… nhưng mà… - Cô gái tiếp tục xoay xoay tờ giấy theo những góc vuông.
- Cái gì thế!
Vittoria ngẩng lên:
- Đó không phải là dòng thơ duy nhất.
- Còn dòng nữa à?
Mỗi lề có một dòng. Trên, dưới, phải, trái. Có vẻ là một bài thơ.
- Bốn dòng à? - Langdon xúc động đến nỗi nổi cả gai ốc. Galileo là nhà thơ ư? - Để tôi xem nào.
Vittoria không chịu rời tờ giấy. Cô vẫn tiếp tục xoay tờ giấy theo những góc 90 độ.
- Ban nãy tôi không nhìn thấy là vì chúng được in ở ngoài lề. - Cô gái dí sát mặt xuống tờ giấy - Chà, anh biết không, Galileo không tự viết những vần thơ này đâu.
- Cái gì?
- Thấy có chữ ký của John Milton.
- John Milton à?
Nhà thơ nổi tiếng người Anh, người đã viết tuyệt tác Thiên đường đã mất là người cùng thời với Galileo, và là người đầu tiên trong danh sách những người bị tình nghi có dính líu đến Illuminati. Từ lâu Langdon đã cho rằng những giai thoại về mối liên hệ giữa Milton và hội Illuminati của Galileo là đúng.
Milton không những đã hành hương đến Rome năm 1638 để "tiếp kiến những người khai sáng", một chuyến đi được rất nhiều người biết tới mà ông còn có những buổi gặp gỡ với Galileo trong suốt thời gian nhà khoa học vĩ đại này bị giam lỏng tại gia. Những cuộc gặp này đã được ghi lại trong các bức hoạ Phục Hưng, đặc biệt là bức Galileo và Milton của Annibale Gatti hiện vẫn được trưng bày tại bảo tàng IMSS ở Florence.
- Milton có biết Galileo, phải thế không? - cuối cùng thì Vittoria cũng chịu đưa cho Langdon tờ giấy. - Biết đâu vì lòng ái mộ mà ông ấy đã viết tặng Galileo bài thơ này.
Môi bặm lại, Langdon đón lấy tờ giấy. Đặt trang giấy phầng phiu trên mặt đất, anh bắt đầu đọc dòng thơ ở lề trên. Rồi quay tờ giấy 90 độ, anh đọc hàng chữ in dọc theo lề phải. Xoay một lần nữa, anh đọc hàng chữ ở lề dưới, và cuối cùng là lề trái. Tất cả có bốn dòng. Dòng đầu tiên Vittoria phát hiện được thực ra là dòng thứ ba của bài thơ. Kinh ngạc đến sững sờ, anh đọc đi đọc lại bốn dòng chữ, xoay theo chiều kim đồng hồ: trên, phải, dưới, trái. Đọc xong, Langdon thở phào. Không còn nghi ngờ gì nữa.
- Cô đã tìm ra, thưa cô Vetra.
Cô gái khẽ cười:
- Bây giờ chúng ta ra ngoài được chưa?
- Tôi phải chép lại những dòng này cái đã. Cần phải tìm một cái bút chì và một tờ giấy.
Vittoria lắc đầu:
- Quên ý nghĩ đó đi thôi, thưa giáo sư. Làm gì có thời gian mà chép. Chuột Mickey đang kêu tích tắc kia kìa. - Cô gái giằng lấy tờ giấy trên tay Langdon và lao ra ngoài.
Langdon đứng phắt dậy:
- Không được mang tờ giấy ra ngoài! Làm thế thì…
Nhưng Vittoria đã ra khỏi vòm kính.

Chú thích:
(1) Iambic : Một kiểu nhịp điệu trong văn vắn tiếng Anh gồm có sự xen kẽ giữa những âm tiết có trọng âm và không có trọng âm trong một dòng thơ.
 
Langdon và Vittoria chạy như bay ra khoảng sân trước cửa Nhà mái vòm bí mật. Không khí trong lành ùa mạnh vào hai lá phổi Langdon. Cảm giác hoa mắt nhanh chóng biến mất. Tuy nhiên, cảm giác tội lỗi thì không. Anh vừa đồng loã với hành động lấy cắp một thứ tài sản vô giá vốn được bảo vệ trong những vòm kính tốt nhất trên thế giới. Giáo chủ Thị thần vừa mới nói ban nãy, ta hoàn toàn tin tưởng ở con.
- Nhanh chân lên. - Vittoria vừa nói vừa đi như chạy qua Via Borgia để về văn phòng của Tổng Tư lệnh Olivetti, tay vẫn cầm tờ giấy.
- Nếu không khí ẩm bám vào tờ giấy nến đó thì…
- Bình tĩnh nào. Khi nào giải mã xong, chúng ta sẽ trả tờ giấy thiêng số 5 này về vòm kính ngay lập tức.
Langdon sải bước thật nhanh để theo cho kịp. Vượt qua cảm giác tội lỗi, anh vẫn thấy vô cùng kinh ngạc về những thông tin vừa có được. Hoá ra John Milton là thành viên của hội Illuminati. Chính ông ấy đã sáng tác bài thơ trong trang sách thiêng số 5 của Galileo mà Vatican không hề hay biết.
Đi hết khoảng sân rộng, Vittoria đưa cho Langdon tờ giấy.
- Có chắc là anh sẽ giải mã được bài thơ này không? Hay chúng ta vừa mất toi mấy nơ-ron thần kinh trong cái vòm kính ấy rồi?
Langdon cẩn thận đón lấy tờ giấy rồi nhanh chóng đút vào túi áo khoác rộng nhất của mình, để tránh ánh mặt trời và hơi ẩm.
- Tôi giải mã xong rồi.
Vittoria dừng phắt lại:
- Anh làm sao?
Langdon vẫn đi tiếp. Vittoria hối hả bước theo:
- Anh mới đọc có một lần mà! Tôi tưởng giải mã phải kỳ công lắm chứ!
Langdon biết cô gái nói không sai, nhưng chỉ đọc một lần duy nhất là anh đã giải mã segno được ngay. Một khổ thơ viết theo nhịp Iambic vô cùng hoàn hảo, và bàn thờ đầu tiên của khoa học đã hiện ra rõ mồn một. Thật lòng mà nói thì thành công quá dễ dàng này khiến Langdon cảm thấy hơi bất ổn. Từ bé anh đã được giáo dục đức tính chăm chỉ lao động của người Thanh giáo.
Trong tâm trí anh vẫn còn vang lên câu cách ngôn vùng New England mà cha anh rất hay đọc: Không khó khăn gian khổ mà vẫn đạt được tức là đã sai đường . Hi vọng câu nói này không phải lúc nào cũng đúng.
- Tôi đã giải mã xong. - Anh vừa nói vừa rảo bước. -Tôi biết vụ hành quyết đầu tiên sẽ diễn ra ở đâu. Chúng ta phải cảnh báo cho Olivetti ngay lập tức.
Vittoria gạn hỏi:
- Làm thế nào mà anh biết ngay được thế? Cho tôi xem lại tờ giấy cái nào? - Cô gái nhanh nhẹn thò cánh tay mềm mại vào túi áo của Langdon rồi lôi tờ giấy ra ngoài.
- Cẩn thận! Đừng có… - Langdon phản ứng.
Vittoria mặc kệ. Tay mở rộng tờ giấy, cô nhẹ nhàng bước đi bên anh, cố tận dụng ánh sáng để xem cho kỹ. Cô gái bắt đầu ngâm nga đọc, Langdon giơ tay định lấy lại tờ giấy, nhưng lập tức bị cuốn hút bởi chất giọng trầm trầm êm ái đến không ngờ của Vittoria.
Trong thoáng chốc, những vần điệu nhịp nhàng như đưa Langdon ngược về quá khứ… tưởng chừng như mình trở thành người cùng thời với Galileo, và đang nghe bài thơ lần đầu trong đời. biết rằng đây là một bước kiểm tra, là sơ đố, là đầu mối dẫn đến những bàn thờ khoa học… bốn cột mốc đánh dấu con đường. bí mật xuyên qua thành Rome. Những vần thơ đang được ngân lên từ đôi môi của Vittoria:
Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ
Nguyên tố huyền bí hiển nhiên khắp thành Rome
Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng
Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả .
Vittoria đọc bài thơ hai lần, như thể muốn để cho những câu chữ kia tự ngân vang trong tĩnh lặng.
Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ
Nguyên tố huyền bí hiển nhiên khắp thành Rome
Nguyên tố huyền bí. Rõ quá rồi. Đất, Khí, Lửa, Gió. Các thành tố của khoa học, bốn mốc chỉ đường của hội Illuminati được nguỵ trang thành những tượng đài tôn giáo.
- Mốc đầu tiên dường như là lăng mộ của Santi. - Vittoria nói.
Langdon mỉm cười:
- Tôi đã bảo là không đến nỗi quá khó mà lại!
- Santi là ai? - Vittoria hào hứng hỏi. - Và mộ của ông ấy nằm ở đâu?
Langdon cười một mình. Thật lạ, rất ít người biết đến Santi, họ của một trong những nghệ sĩ Phục Hưng nổi tiếng nhất. Tên riêng của ông thì cả thế giới đều biết đến… mới 25 tuổi, người nghệ sĩ có tài năng thiên bầm này đã được Giáo hoàng Julius đệ nhị tin cậy, và đến khi từ giã cõi đời ở tuổi 38, ông đã để lại cho hậu thế một di sản độc nhất vô nhị gồm những bức hoạ tuyệt tác trên tường. Santi là một vĩ nhân trong giới nghệ sĩ, và chỉ những nhân vật thật tầm cỡ mới được biết đến bằng tên riêng: Napoleon, Galileo, Jesus… và dĩ nhiên là những vị á thánh mà tên tuổi luôn được nhắc đến trong khuôn viên đại học Harvard như Sting, Madonna, Jewel, và cả một nghệ sĩ vốn tên là Prince, sau đổi thành XXX - biểu tượng mà Langdon đặt tên là "Hình chữ thập chìa khoá lưỡng tính".
Langdon nói:
- Santi là họ của nghệ sĩ Phục Hưng bậc thầy Raphael.
Vittoria có vẻ ngạc nhiên:
- Raphael à? Có thật là Raphael không?
- Không thể có người nào khác. - Langdon tiếp tục sải bước về phía văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ.
- Tức là con đường bắt đầu từ lăng mộ của Raphael à?
- Hoàn toàn hợp lý. - Langdon vẫn bước tiếp. - Hội Illuminati vẫn thường coi các hoạ sĩ và nghệ sĩ điêu khắc vĩ đại là những thành viên danh dự của phong trào Khai sáng. Rất có thể họ đã chọn lăng mộ của Raphael như một cách để tôn vinh người nghệ sĩ này.
Langdon còn biết rằng, cũng giống như nhiều nghệ sĩ bậc thầy khác, Raphael đã từng bị nghi ngờ có liên quan đến chủ nghĩa vô thần.
Vittoria cẩn thận trả tờ giấy vào trong túi áo khoác của Langdon.
- Raphael được chôn cất ở đâu?
Langdon hít một hơi thật sâu:
- Nghe có vẻ khó tin, nhưng ông ấy được an táng trong điện Pantheon.
Vittoria hoài nghi:
- Điện Pantheon à?
- Raphael được chôn cất lại điện Pantheon.
Quả thật Langdon hơi thất vọng, không ngờ điểm đầu tiên của con đường ánh sáng lại chính là điện Pantheon. Anh những tưởng bàn thờ số một của khoa học phải là một nơi nào đó yên tĩnh, khác hẳn các nhà thờ, nó phải là một nơi nào đó rất thanh tịnh. Ngay từ thế kỷ XVII, điện Pantheon được thiết kế với một mái vòm cực lớn có lỗ ở giữa, đã trở thành một trong những địa danh nổi tiếng nhất ở thành Rome.
- Mà Pantheon có phải là nhà thờ không nhỉ? - Vittoria thắc mắc.
- Nhà thờ Thiên Chúa cổ kính nhất ở Rome đấy.
Vittoria lắc đầu:
- Anh có thực sự tin rằng vị Hồng y Giáo chủ đầu tiên sẽ bị hành quyết ở điện Pantheon không? Đó đâu phải là một trong những điểm du lịch đông đúc nhất ở Rome.
Langdon nhún vai:
- Illuminati đã tuyên bố là họ muốn cả thế giới phải trông thấy. Hành quyết một vị Hồng y Giáo chủ ở Pantheon thì dĩ nhiên sẽ gây chú ý rồi.
- Nhưng làm gì có kẻ nào dám táo tợn giết người ở điện Pantheon rồi tẩu thoát trót lọt được cơ chứ? Không thể có chuyện đó.
- Không thể giống như việc bắt cóc bốn vị Hồng y Giáo chủ ngay tại Vatican chứ gì? Bài thơ này đã nêu chính xác địa điểm đó.
- Và anh tin chắc là Raphael được an táng tại Pantheon à?
- Tôi đã trông thấy mộ của ông ấy nhiều lần rồi.
Vittoria gật đầu, nhưng có vẻ vẫn chưa tin tưởng lắm:
- Mấy giờ rồi?
Langdon xem đồng hồ:
- 7 giờ 30 phút.
- Điện Pantheon có xa không?
- Khoảng độ một dặm. Còn kịp.
- Bài thơ nói đến nấm mồ trần tục của Santi . Anh nghĩ xem còn có ý nghĩa gì khác nữa không?
Langdon phăm phăm băng qua khoảng sân rộng của thánh đường Sentinel:
- Trần lục à? Thực ra thì khắp thành Rome chẳng có nơi nào trần tục hơn điện Pantheon. Cái tên của nó bắt nguồn từ tên của một giáo phái vốn vẫn tiến hành các nghi lễ của họ tại đó: Pantheism, họ thờ tất cả các thần, đặc biệt là Mẹ Đất.
Hồi còn học kiến trúc ở trường đại học, Langdon đã vô cùng kinh ngạc khi biết rằng kích thước của gian chính trong cung điện này liên quan đến nữ thần đất Gaia. Kích thước chính xác đến mức mái vòm hình cầu khống lồ vừa khít với cung điện, không lệch một li.
- Được rồi. - Vittoria nói, có vẻ đã bị thuyết phục. - Thế còn cái hang quỷ? Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ?
Về điều này thì Langdon không được rõ lắm.
- Rất có thể hang quỷ chính là oculus , - anh phỏng đoán - Là cái giếng trời hình tròn nổi tiếng trên mái điện Pantheon.
Nhưng đấy là nhà thờ cơ mà. - Vittoria vừa nói vừa bước thoăn thoắt. - Sao họ lại gọi nó là hang quỷ?
Chính bản thân Langdon cũng đã đắn đo về chi tiết này. Anh chưa bao giờ nghe nói tới cái tên hang quỷ, nhưng đã từng đọc một bài luận viết từ thế kỷ thứ VI, nội dung của nó lúc này bỗng trở nên thích hợp kỳ lạ. Thiên tài Bede đã từng viết rằng cái lỗ tròn trên mái điện Pantheon là do một con quỷ đã đục ra để thoát khỏi toà nhà sau khi được đức thánh cha Baniface đệ tử phong thánh.
- Tại sao hội Illuminati lại dùng cái tên Santi trong khi hoạ sĩ này nổi tiếng khắp nơi với cái tên Raphael? - Vittoria hỏi khi hai người đi đến một khoảng sân nhỏ.
- Cô hỏi nhiều thật đấy.
- Cha tôi vẫn thường bảo thế.
- Có thể là vì hai lí do. Thứ nhất, Raphael có quá nhiều âm tiết, và không hợp với nhịp thơ Iambic .
- Có vẻ hơi suy diễn.
Langdon đồng ý:
- Thôi được, rất có thể dùng tên "Santi" là để cho đầu mối trở nên khó hiểu hơn, để đảm bảo rằng chỉ có người của phong trào Khai sáng mới hiểu được.
Cách giải thích này cũng không thuyết phục được Vittoria:
- Chắc chắn cả cái tên Santi cũng rất nổi tiếng khi Raphael còn sống.
- Không nổi tiếng mới hay chứ. Phải rất danh giá mới được gọi bằng tên riêng. Raphael không thích người ta nhắc đến họ của mình, giống hệt các ca sĩ nhạc pop thời nay. Như Madonna chẳng hạn, cô ta có bao giờ dùng cái họ Ciccone của mình đâu.
Vittoria có vẻ khoái trá:
- Hoá ra anh biết họ của Madonna.
Langdon hơi ngượng. Khi phải chung sống với 10.000 đứa trẻ vị thành niên, đầu óc con người ta rất dễ trở thành một mớ hổ lốn.
Khi Langdon và Vittoria đang vượt qua cánh cổng cuối cùng để vào Văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ thì họ bất thần bị chặn lại.
- Fennatevi !(1) Tiếng hô dõng dạc vang lên ngay sau lưng họ.
Langdon và Vittoria quay lại, một khẩu súng trường đang chĩa thẳng vào cả hai.
- Attento(2) ! - Vittoria vừa lùi lại vừa thét lên. - Cẩn thận…
- Non spostatevi(3) - Người lính gác ngắt lời, lách cách lên cò súng.
- Soldato(4) ! - Từ bên kia khoảng sân có người lên tiếng. Olivetti xuất hiện trước cửa trung tâm an ninh. - Để họ vào!
Người lính gác có vẻ bối rối:
- Ma, Signore, è una donna…
- Cho vào! - Olivetti quát.
- Signore, non posso(5) …
- Ngay lập tức! Anh vừa được lệnh mới rồi đấy. Hai phút nữa đại tá Rocher sẽ thông báo tình hình với cả đội. Chúng ta phải tổ chức truy lùng.
Với vẻ bối rối, người lính gác sải bước vào trung tâm an ninh.
Olivetti từ từ tiến lại bên Langdon và Vittoria, vẻ rất nóng nảy:
- Vào tận Nhà mái vòm bí mật của chúng tôi cơ à? Tôi muốn có một lời giải thích.
- Chúng tôi có một tin tốt đây. - Langdon đáp.
Olivetti nhíu mày:
- Còn chưa biết có tốt thật hay không.

Chú thích:
(1) Fennatevi: Đứng lại.
(2) Attento: Cấn thận.
(3) Non spostatevi: Đứng im.
(4) Soldato: Người lính.
(5) Signore, non posso: Thưa ngài, không thể…
 
Bốn chiếc xe Alfa Romeo 155 T-Sparks rú ga lao như bay dọc con đường Via Dei Coronari chẳng khác gì máy bay phản lực đang cất cánh từ đường băng. Trên xe là hơn chục lính gác Thuỵ Sĩ mặc thường phục được trang bị súng lục bán tự động Cherchi-Pardini, hộp hơi cay, súng gây mê nòng dài. Ba xạ thủ mang súng laze.
Từ ghế của mình cạnh người lái xe trên chiếc xe dẫn đầu, Olivetti quay lại nhìn Langdon và Vittoria, ánh mắt đầy giận dữ.
- Các vị hứa hẹn với tôi là sẽ giải thích rõ ràng cặn kẽ, vậy mà chỉ có thế?
Trong chiếc xe chật chội, Langdon cảm tưởng như bị bỏ tù:
- Tôi hiểu là ông đang…
- Này làm sao mà ông hiểu nổi cơ chứ! - Olivetti không bao giờ cao giọng, nhưng lúc này ông ta đang gằn từng lời nói - Ngay trong đêm diễn ra Mật nghị Hồng y , thế mà tôi phải cử những người lính được việc nhất đi ra khỏi phạm vi thành Vatican. Và giờ tôi lại còn phải bao vây điện Pantheon chỉ vì những lời phỏng đoán của một tay người Mỹ lạ hoắc sau khi gã đọc một bài thơ được sáng tác từ 400 năm trước. Đã thế tôi lại còn phải giao việc tìm kiếm phản vật chất cho những sĩ quan hạng hai nữa chứ!
Langdon phải hết sức kìm chế mới ngăn được ý định lôi tờ giấy trong túi áo ra và dúi vào tận mặt Olivetti.
- Tôi chỉ biết là những thông tin tôi tìm được nhắc đến mộ của Raphael, mà mộ của Raphael thì ở trong Pantheon.
Người sĩ quan đang lái xe gật đầu:
- Anh ấy nói đúng đấy, thưa chỉ huy. Tôi đã cùng với vợ…
- Lái xe đi. - Olivetti cộc cằn. Ông ta lại quay về phía Langdon - Làm sao tên sát thủ có thể giết người rồi tẩu thoát ở một địa điểm đông đúc như thế được cơ chứ?
- Tôi không biết. - Langdon đáp - Nhưng rõ ràng là hội Illuminati vô cùng cao tay. Họ đã đột nhập được vào CERN và Vatican. Phải nhờ vận may chúng ta mới được biết địa điểm hành quyết đầu tiên. Điện Pantheon là cơ hội duy nhất để ông có thể tóm được kẻ sát nhân.
- Lại càng thêm mâu thuẫn. - Olivetti lớn tiếng. - Cơ hội duy nhất là sao? Ông vừa mới nói là có hẳn một con đường kia mà. Hàng loạt tín hiệu chỉ đường cơ mà. Nếu điện Pantheon là đúng thì chúng ta có thể lần theo các dấu hiệu đó. Chúng ta có bốn cơ hội để tóm cổ hắn.
- Ban nãy tôi cũng có hi vọng đó. - Langdon đáp. - Và cách đây một thế kỷ thì… chúng ta cũng đã có cơ hội đó.
Phát hiện ra bàn thờ khoa học đầu tiên chính là Pantheon là một sự kiện buồn vui lẫn lộn. Lịch sử quả là có lắm trò ma mãnh để trêu ngươi những người đeo đuổi nó. Khả năng những tác phẩm điêu khắc phong phú trong điện Pantheon còn y nguyên như cũ sau bao thế kỷ thật là mong manh. Bao lâu nay, Langdon vẫn khát khao được tìm thấy con đường này và được đặt chân đến thánh địa của hội Illuminati. Nhưng buồn thay, điều này giờ đây là không thể.
- Cuối thế kỷ XVII, Vatican đã di chuyển và phá huỷ hầu hết các tác phầm điêu khắc trong điện Pantheon.
Vittoria kinh ngạc:
- Tại sao?
- Vì chúng là tượng các vị thần Olympia. Đáng tiếc là đầu mối đầu tiên cũng đã bị mất… cùng với nó là…
- Liệu còn có hi vọng tìm được con đường ánh sáng và những đầu mối khác hay không? - Vittoria hỏi.
Langdon lắc đầu:
- Chúng ta chỉ có một vận may duy nhất: điện Pantheon. Sau đó thì con đường ánh sáng bị mất dấu hoàn toàn.
Olivetti trừng trừng nhìn hai người một hồi, rồi quay lên phía trước.
- Quay lại! - ông ta gắt gỏng bảo người lái xe.
Anh lái xe đánh xe sang vệ đường và nhấn phanh. Ba chiếc Alfa Romeo sau lưng họ cũng lập tức dừng lại. Cuộc truy lùng của đội lính gác Thuỵ Sĩ bỗng nhiên ngừng lại.
- Ông làm cái gì thế? - Vittoria chất vấn.
- Việc của tôi chứ còn cái gì. - Olivetti đáp, vẫn ngồi nguyên trên ghế, giọng ông ta lạnh như băng:
- Thưa ông Langdon, khi ông hứa hẹn sẽ giải thích trên đường đến điện Pantheon, tôi tưởng là sẽ có một lời giải thích rõ ràng vì sao đội lính gác của chúng tôi phải có mặt ở đó. Nhưng sự thật không phải vậy. Vì để đến đây, tôi đã phải bỏ dở những công việc khác vô cùng quan trọng, và cũng vì những lời giải thích của ông về những vật hiến tế trinh tiết cũng như bài thơ cổ kia không hề rõ ràng, tôi không thể tiếp tục làm việc này được nữa. Tôi sẽ cho đừng điệp vụ này ngay lập tức.
Ông ta rút máy bộ đàm, nhấn nút bật máy.
Vittoria chộp lấy cánh tay Olivetti:
- Ông không được làm thế.
Olivetti dập máy bộ đàm, trợn cặp mắt vằn đỏ và nhìn Vittoria chòng chọc:
- Cô đã bao giờ đến điện Pantheon chưa, thưa cô Vetra?
- Chưa bao giờ, nhưng mà…
Thế thì để tôi nói cho mà nghe, Pantheon là một căn phòng duy nhất. Căn phòng hình tròn xây bằng đá và xi măng. Chỉ có một lối vào. Không cửa sổ, chỉ có một lối vào duy nhất rất hẹp.
Và lúc nào cũng có ít nhất bốn lính gác La Mã đứng canh ở đó để giữ cho điện thờ khỏi bị phá hoại bởi những kẻ khủng bố ngoại đạo và đám khách du lịch Gypsy láu cá.
- Kết luận? - Vittoria lạnh lùng hỏi.
Kết luận à? - Những ngón tay của Olivetti ghì chặt nệm ghế. - Kết luận là không thể có những chuyện như cô vừa nói! Cô có thể cho tôi ví dụ về khả năng có một Hồng y Giáo chủ bị sát hại ngay trong Pantheon được không? Làm thế nào mà kẻ xấu có thể qua mặt lính gác để đưa con tin vào bên trong điện? Olivetti nhoài hẳn người về phía sau, hơi thở sực mùi cà phê của ông ta lúc này phả thẳng vào mặt Langdon:
- Bằng cách nào hả ông Langdon? Cho tôi một kịch bản xem nào.
Langdon cảm tưởng như chiếc xe chật chội đang thu hẹp lại.
- Làm sao mà biết được! Tôi có phải là kẻ sát nhân đâu mà biết hắn ta sẽ hành động kiểu nào! Tôi chỉ biết là…
- Một kịch bản à?
Vittoria đốp lại, giọng vô cùng điềm tĩnh:
- Ông nghe thử nhé. Hắn dùng máy bay trực thăng, thả vị Hồng y Giáo chủ đã bị khắc dấu nung đỏ trên người qua lỗ tròn trên mái vòm. Nạn nhân thét lên thất thanh, rồi rơi xuống sàn đá cẩm thạch và chết.
Tất cả mọi người trong xe đều quay đầu lại nhìn Vittoria chằm chằm. Langdon chẳng còn biết nói gì. Trí tưởng tượng của cô đáng sợ thật, cô gái ạ, lại còn nhanh nữa chứ.
Olivetti nhíu mày:
- Có thể, tôi thừa nhận… nhưng khó có thể…
- Hay kẻ sát nhân cho Hồng y Giáo chủ uống thuốc, rồi đặt ông ấy lên xe lăn, đầy vào như kiểu người ta đẩy một vị khách du lịch cao tuổi. Vào đến bên trong, hắn dùng dao cắt cổ nạn nhân, rồi bước ra ngoài.
Giả thuyết này khiến Olivetti thay đổi thái độ.
Không tồi chút nào ! Langdon thầm nghĩ.
- Hoặc là kẻ sát nhân có thể… - Vittoria nói tiếp.
- Tôi nghe rồi. - Olivetti ngắt lời. - Đủ rồi.
Ông ta thở một hơi thật sâu. Có tiếng gõ côm cốp vào cửa sổ xe khiến mọi người giật nảy mình. Hoá ra là một sĩ quan ngồi trên chiếc xe theo sau.
Olivetti hạ kính cửa sổ xuống.
- Ổn cả chứ, thưa chỉ huy? - Người lính gác này mặc thường phục.
Anh ta vén tay áo lên, để lộ ra chiếc đồng hồ nhà binh màu đen đeo trên cổ tay. - 7 giờ 40 rồi sếp ạ, chúng ta cần thời gian để vào đúng vị trí
Olivetti trầm ngâm gật đầu, im lặng một hồi. Ông ta đi đi ngón tay trên kính cửa sổ, vẽ thành một vệt dài trên tấm kính phủ đầy bụi, mắt chăm chú nhìn hình ảnh của Langdon phản chiếu trong gương xe. Langdon thấy mình bị săm soi tỉ mỉ.
Cuối cùng ông ta quay lại nói với người lính bên ngoài cửa sổ, giọng đầy miễn cưỡng:
- Chia cả đội thành các nhóm độc lập. Các xe theo thứ tự đi về Piazza Della Rotunda, Via Degli Orfani, Piazza Sant'Ignazio, và Sant Eustachio. Cự li là hai toà nhà tính từ mục tiêu. Vào đúng vị trí, nổ máy sẵn sàng và đợi lệnh tôi. Ba phút.
- Tốt lắm, thưa chỉ huy. - Anh lính nói và quay về xe của mình.
Langdon gật đầu nhìn Vittoria đầy tán thưởng. Cô gái cũng mỉm cười với anh. Trong thoáng chốc, Langdon cảm nhận thấy một sức hút mạnh mẽ, như thể một thỏi nam châm nào đó đang hút hai người lại gần nhau.
Vẫn ngồi nguyên trên ghế, viên chỉ huy quay lại nhìn Langdon chòng chọc:
- Thưa ông Langdon, mong rằng những phỏng đoán của ông là chính xác.
Langdon mỉm cười, không được thoải mái lắm. sao mà sai được cơ chứ?
Cảm thấy chất cromolyn và leukotriene mát lạnh đang toả ra khắp cơ thể, làm giãn hai thanh quản và các mao mạch phổi, Maximilian Kohler, giám đốc của CERN mở mắt ra. Ông đã thở được bình thường. Kohler thấy mình đang nằm ở một phòng riêng trong khu trạm xá của CERN, chiếc xe lăn ở ngay cạnh gi.ường.
Kohler nhận thấy người ta đã mặc cho ông chiếc áo bệnh nhân bằng giấy, quần áo ông mặc lúc trước giờ được gấp gọn ghẽ và để ngay đầu gi.ường. Từ ngoài cửa vọng vào tiếng nói chuyện của các cô y tá. Nằm im, nghe ngóng trong một phút, rồi hết sức nhẹ nhàng, ông trườn lên đầu gi.ường, đưa tay với bộ quần áo. Vật lộn với hai cẳng chân bị liệt, Kohler tự mặc quần áo, sau đó trườn sang xe lăn.
Cố nén cơn ho, ông dùng lay đẩy xe lăn ra cửa, thận trọng không dùng động cơ. Đến sát cánh cửa, Kohler nhòm ra ngoài.
Sảnh ngoài không có ai.
Lặng lẽ, Maximilian Kohler lẻn ra khỏi khu trạm xá.
17 giờ 46 phút… và 30 giây.
Mặc dù đang nói chuyện qua máy bộ đàm, Olivetti cũng chỉ nói rất khẽ.
Mặc chiếc áo khoác vải tuýt, ngồi ở ghế sau của chiếc xe Alfa Romeo đang đỗ tại quảng trường Concorde, cách điện Pantheon ba toà nhà, Langdon toát mồ hôi. Cạnh anh, Vittoria đang chăm chú theo dõi Olivetti ra những mệnh lệnh cuối cùng cho đội lính gác Thuỵ Sĩ.
- Dàn quân thành vòng vây tám điểm. - Ông ta nói - Bao vây kín lối vào. Đối tượng có thể đã biết mặt các anh, nên phải nấp kín. Chỉ dùng vũ khí không sát thương. Bố trí một người cảnh giới mái vòm. Ưu tiên một là mục tiêu. Ưu tiên hai là tài sản.
Lạy chúa tôi, Langdon cảm thấy ớn lạnh khi nghe Olivetti nói đến khả năng vị Hồng y Giáo chủ có thể bị hại. Ưu tiên hai là tài sản.
- Nhắc lại. Vũ khí không sát thương. Bắt sống đối tượng. Bắt đầu hành động. - Olivetti ngắt máy bộ đàm.
Vittoria có vẻ ngạc nhiên và giận dữ.
- Thưa chỉ huy, không có ai vào bên trong à?
Olivetti quay lại:
- Vào trong à?
- Vào trong Pantheon chứ sao! Vào địa điểm hành quyết ấy!
- Cô nghe đây. - Olivetti nói, ánh mắt sắc lạnh. - Nếu trong đội lính của tôi đã có người bị mua chuộc thì chắc chắn hung thủ đã biết mặt tất cả đội. Đồng nghiệp của cô vừa cảnh báo với tôi rằng đây là cơ hội duy nhất để tóm cổ đối tượng. Tôi không có ý định cho người của tôi vào trong để đánh động hung thủ.
- Thế nhỡ hắn đã có mặt ở trong đó sẵn rồi thì sao?
Olivetti xem đồng hồ:
- Hắn đã báo hiệu thời điểm: 8 giờ. Chúng ta còn 15 phút.
- Hắn nói là sẽ sát hại vị Hồng y đầu tiên vào lúc 8 giờ. Nhưng rất có thể hắn đã đưa nạn nhân vào trong đó trước rồi. Nhỡ người của ông thấy hắn đi ra nhưng không biết hắn là hung thủ thì sao? Phải có người vào đó để chắc chắn là trong điện không có gì chứ.
- Thế thì quá mạo hiểm!
- Không hề, nếu người vào trong đó không bị nhận ra.
- Cải trang lúc này sẽ là quá mất thì giờ và…
- Tức là tôi đây này. - Vittoria nói.
Langdon quay lại, chằm chằm nhìn cô gái. Olivetti lắc đầu:
- Không thể được.
- Hắn đã giết cha tôi.
- Chính xác. Hắn có thể nhận ra cô.
- Ông đã nghe hắn nói trên điện thoại rồi đấy. Hắn không hề biết rằng Leonardo Vetra có một cô con gái. Chắc chắn hắn không biết tôi là ai. Tôi có thể giả làm khách du lịch và vào trong. Nếu thấy có gì khả nghi thì tôi sẽ bước ra giữa quảng trường và ra hiệu cho người của ông vào ngay.
- Tôi rất tiếc, nhưng làm thế là không được.
- Báo cáo. - Máy bộ đàm của Olivetti kêu khọt khẹt. - Chúng tôi đã vào vị trí ở hướng Bắc, nhưng bị đài phun nước chặn mất tầm nhìn. Chúng tôi chỉ nhìn thấy lối vào nếu chuyển đến đứng nấp ở quảng trường. Ý chỉ huy thế nào? Chấp nhận không nhìn thấy gì hay là mạo hiểm ạ?
Rõ ràng là Vittoria không thể chịu đựng thêm được nữa.
- Thấy chưa? Để tôi vào! - Cô gái mở cửa xe và lao ra ngoài.
Olivetti vứt ngay máy bộ đàm xuống ghế, chạy vòng ra trước đón đầu cô gái.
Langdon cũng lao ra khỏi xe. Vittoria định làm cái quái gì thế không biết!
Olivetti chặn Vittoria lại:
- Cô Vetra, cô có trực giác rất tốt, nhưng tôi không thể để thường dân can thiệp vào chuyện này được.
- Can thiệp à? Ông đang chơi trò mạo hiểm. Hãy để tôi giúp ông.
- Tôi cũng muốn bố trí trinh sát bên trong, nhưng mà…
- Nhưng mà làm sao? - Vittoria căn vặn nhưng mà tôi là đàn bà phải không?
Olivetti làm thinh.
- Tốt nhất là ông đừng bao giờ nói ra điều đó, ông chỉ huy ạ.
- Ông biết quá rõ rằng ý kiến đó là đúng, và nếu ông để những quan điểm kỳ quặc cổ xưa…
- Hãy để yên cho chúng tôi làm việc.
- Hãy để tôi giúp các ông một tay.
- Quá nguy hiểm. Chúng tôi sẽ không thể giữ liên lạc với cô. Không thể để cô cầm theo máy bộ đàm được. Lộ ngay.
Vittoria thò tay vào túi áo, lôi ra chiếc điện thoại cầm tay:
- Vô số khách du lịch vẫn mang theo cái này đấy.
Olivetti nhíu mày.
Vittoria mở máy điện thoại và giả gọi một cuộc:
- Chào anh yêu. Em đã ở trong Pantheon rồi. Anh cũng nên vào ngay đi. - Cô dập máy và nhìn thẳng vào Olivetti - Ai mà biết được nào? Tinh huống này thì nguy hiểm thế nào được? Để tôi làm trinh sát cho các ông!
Cô gái đưa tay chỉ chiếc máy bộ đàm giắt trên thắt lưng Olivetti:
- Số của ông là gì?
Olivetti không trả lời.
Trong lúc hai người đang tranh luận, anh lái xe chăm chú quan sát và dường như có những suy nghĩ riêng. Anh ta ra khỏi xe và kéo viên chỉ huy sang một góc. Họ thì thào trao đổi khoảng mười giây, rồi Olivetti gật đầu và quay lại bên Vittoria:
- Cô hãy ghi số này vào máy. - Rồi ông ta bắt đầu đọc số.
Vittoria ghi số vào máy của mình.
- Giờ thì gọi thử xem!
Vittoria bấm nút gọi tự động. Điện thoại của Olivetti đổ chuông. Ông ta mở máy, nói dõng dạc:
- Hãy vào trong toà nhà, cô Vetra, nhìn quanh, rồi ra khỏi đó và gọi về báo lại nhúng gì cô trông thấy.
Vittoria dập mạnh điện thoại:
- Rõ, thưa chỉ huy.
Langdon chợt thấy lo cho sự an toàn của cô gái.
- Từ từ đã.
Anh nói với Olivetti:
- Ông định cử cô ấy vào trong đó một mình hay sao?
Vittoria từ mắt nhìn anh:
- Robert, tôi sẽ không sao đâu mà.
Người lái xe của đội lính gác Thuỵ Sĩ lại kéo Olivetti sang một góc.
- Làm thế quá nguy hiểm. - Langdon bảo Vittoria.
- Đúng thế đấy. - Olivetti nói - Thậm chí nhân viên cừ nhất của tôi cũng không bao giờ tác chiến một mình. Anh trung uý này vừa mới thuyết phục tôi rằng để cả hai người cùng vào vai thì sẽ thích hợp hơn.
- Cả hai chúng tôi à? - Langdon do dự. - Thực ra ý tôi là…
- Cả hai người hãy vào cùng nhau, - Olivetti đề nghị. - Như thế các vị sẽ giống như một đôi uyên ương đang đi du lịch. Và như thế thì người nọ sẽ hỗ trợ cho người kia. Được thế thì tôi yên tâm hơn.
Vittoria nhún vai:
- Được thôi, nhưng chúng ta phải nhanh chân lên.
Langdon rên lên. Ý tưởng hay ho lắm, thưa các vị.
Olivetti chỉ tay xuống cuối đường:
- Đi hết phố này là đến Via Degli Orfani. Rẽ trái. Đi thẳng là đến Pantheon. Hai phút đi bộ là đến nơi. Tôi sẽ ở đây để bao quát chung và đợi tin của hai người.
- Các vị cũng cần có vũ khí để tự vệ. - Ông ta rút ra một khẩu súng lục - Có ai biết bắn không?
Tim Langdon đập thình thịch. Chúng tôi không cần đến súng đâu.
Vittoria chìa tay ra:
- Từ cách xa 40 mét, trên boong tàu đang lắc lư tôi có thể bắn trúng một con cá heo đang nhảy nước.
- Tốt lắm. - Olivetti đưa khẩu súng cho cô gái. - Giấu đi.
Vittoria liếc nhìn chiếc quần soóc cô đang mặc. Rồi quay sang nhìn chiếc áo khoác của Langdon.
- Ồ xin đừng ! Langdon thầm nghĩ, nhưng nhanh như cắt, Vittoria mở nắp túi áo ngực của Langdon rồi cất khẩu súng vào đó. Ý như có người vừa thả tảng đá vào trong áo. Niềm an ủi duy nhất của Langdon là Diagramma được cất ở túi áo kia.
- Thế này trông hoàn toàn vô hại. Chúng tôi đi luôn đây.
Vittoria nói rồi khoác tay Langdon đi xuống cuối phố.
Người lái xe gọi với theo:
- Cầm tay nhau được thì càng tốt. Nhớ rằng các vị là khách du lịch. Thậm chí còn đang hưởng tuần trăng mật cơ đấy . Hãy thử cầm tay nhau xem nào?
Đi đến cuối phố, Langdon thấy rõ ràng Vittoria đang cố giấu nụ cười trên mặt.
Phòng tác chiến của đội lính gác Thuỵ Sĩ cạnh doanh trại Corpo Di Vigilanza thường là nơi sắp xếp lực lượng an ninh để bảo vệ Đức Thánh Cha khi người xuất hiện trước công chúng trong các sự kiện quan trọng của Vatican. Nhưng hôm nay, căn phòng này được dùng vào một mục đích khác.
Người đang đứng trước mặt đội lính tác chiến lúc này là đại tá Elias Rocher, sĩ quan chỉ huy số hai của đội lính gác Thuỵ Sĩ.
Rocher có khuôn ngực rộng, dáng khoan thai. Ông ta mặc bộ quân phục màu xanh lam truyền thống của sĩ quan cấp tá, trên đầu là chiếc mũ bê-rê đỏ chói đội lệch. Giọng nói của ông ta nghe thanh thoát và du dương lạ lùng so với vẻ ngoài to lớn. Dù ăn nói lưu loát và mạch lạc, ánh mắt của Rocher lúc nào cũng mờ đục y như mắt những loài thú ăn đêm. Lính của Rocher vẫn gọi đùa ông ta là "Orso" - chàng gấu mít ướt. Đôi khi họ còn nói đùa rằng Rocher là "chú gấu lặc lè mượn oai rắn độc". Chỉ huy trưởng Olivetti chính là rắn độc. Rocher cũng có nọc độc chết người y như con rắn kia, nhưng ít ra còn nghe tiếng bước chân mỗi khi ông ta đến gần.
Tất cả binh lính của Rocher đều đang đứng nghiêm, mọi cơ bắp trên cơ thể họ đều im phắc, mặc dù những tin tức họ đang được cập nhật khiến cho huyết áp của toàn đội đang tăng dần lên.
Đứng tận cuối hàng thiếu uý tân binh Chartrand thầm ước giá như anh được là một trong 99% những người đã nộp đơn nhưng không đủ điều kiện để được nhận vào đội ngũ này. Mới 20 tuổi đầu, Chartrand là người ít tuổi nhất trong đội lính gác Thuỵ Sĩ. Anh mới phục vụ ở Vatican được ba tháng. Giống như tất cả các thành viên khác của đội, Chartrand được quân đội Thuỵ Sĩ huấn luyện, rồi phục vụ hai năm tại Bern, sau đó mới được tham gia vào các cuộc sàng lọc cửa Vatican tại các căn cứ bí mật đặt ở ngoại vi thành Rome. Tuy nhiên, không một bài huấn luyện nào trong suốt quá trình dài đó đế cập đến một tình huống nguy kịch đến mức này.
Lúc đầu, Chartrand tưởng những gì đang được thông báo chỉ là một bài tập huấn luyện mà thôi. Vũ khí của tương lai? Giáo phái cổ xưa? Các vị Hồng y Giáo chủ bị bắt cóc? Sau đó Rocher cho cả đội xem thứ vũ khí đó do camera truyền về. Rõ ràng đây không phải là tập dượt.
- Chúng ta sẽ buộc phải cắt điện ở một số khu vực để loại trừ những sóng từ nhiễu không cần thiết. Cả đội chia thành các nhóm bốn người, đeo kính hồng ngoại để nhìn trong đêm tối. Tiến hành rà soát bằng máy dò thiết bị nghe lén truyền thống, hiệu chỉnh đối với những từ trường dưới 3Ω (Omega). Có ai thắc mắc gì không?
Không.
Thần kinh Chartrand căng như sợi dây đàn.
- Lỡ chúng ta không tìm thấy kịp thời thì sao? - Anh lên tiếng, và ngay lập tức thấy hối tiếc vì đã hỏi câu đó.
Gấu mít ướt đội mũ bê-rê đỏ nhìn anh chằm chằm, sau đó ông ta buồn bã ra lệnh giải tán:
- Nhanh chân lên, các bạn.
Cách điện Pantheon hai khu phố, Vittoria và Langdon đi lướt qua hàng dãy xe tải đang đỗ, cánh lái xe đa số đang gà gật ngủ.
Trong thành phố Vĩnh Cửu này, thời gian ngủ trưa dường như dài vô tận. Đâu đâu cũng thấy cảnh người ta gà gật ngủ giữa nơi công cộng, một tập quán có từ xa xưa ở Tây Ban Nha.
Langdon cố tập trung tư tưởng, nhưng tình huống này kỳ quặc ngoài sức tưởng tượng. Cách đây có sáu giờ đồng hồ, anh còn đang ngon giấc ở Cambridge. Nhưng lúc này đây, anh đang ở châu Âu và bất đắc dĩ phải tham gia vào một cuộc tỉ thí giữa những gã khổng lồ, mang một khẩu súng lục bán tự động trong túi áo ngực, nắm tay một cô gái mà anh chỉ vừa mới gặp.
Langdon quay sang nhìn Vittoria. Cô gái đang tập trung quan sát phía trước. Vittoria siết tay anh rất chặt, biểu hiện của một phụ nữ độc lập và kiên quyết. Những ngón tay của cô gái đan trong tay anh một cách tự nhiên và thân mật. Không một chút do dự. Langdon mỗi lúc một cảm thấy bị cuốn hút. Phải thật tỉnh táo , anh tự nhắc nhở bản thân.
Dường như Vittoria đọc được suy nghĩ của anh:
- Hãy thư giãn đi nào. - Cô gái nói với anh, nhưng mặt vẫn hướng thẳng ra phía trước Chúng ta phải đóng giả làm một đôi uyên ương đấy.
- Tôi vẫn thư giãn đấy chứ.
- Anh bóp nát tay tôi đến nơi rồi đây này.
Langdon đỏ mặt, anh nới lỏng các ngón tay.
- Anh hãy thở qua mắt đi. - Cô gái khuyên.
- Gì cơ?
- Để giúp cơ bắp được thư giãn. Tên gọi của bài tập này là Pranayama .
- Piranha hả?
- Không phải loài cá ăn thịt đó. Pranayama cơ. Nhưng cái đó không quan trọng.
Họ băng qua góc phố và rẽ vào Piazza Della Rotunda, điện Pantheon đã hiện ra trước mắt. Như bao lần trước, Langdon chiêm ngưỡng cung điện với nỗi kinh sợ. Pantheon. Đền thờ tất cả các vị chúa. Các vị chúa của người vô thần. Chúa của tự nhiên và trái đất. Nhìn từ bên ngoài, cấu trúc của toà nhà có vẻ vuông và thấp.
Phần lớn mái vòm hình tròn bị những cây cột cao và những mảng trang trí lớn hình tam giác che khuất. Tuy nhiên, hàng chữ phô trương và kiêu ngạo khắc trên lối vào khẳng định rằng họ đã đến đúng chỗ. M. AGRIPPA L F COS TERTIUM FECIT. Langdon thầm dịch hàng chữ sang tiếng Anh, như bao nhiêu lần trước, lòng đầy hứng khởi. Marcus Agrippa, quan tổng trấn nhiệm kỳ 3, đã cho xây ngôi đền này.
Thật là khiêm tốn , Langdon thầm nhận xét và đưa mắt ngắm khu vực xung quanh. Lác đác có mấy người khách du lịch vai đeo máy ảnh đang đi tha thẩn trong điện. Mấy người khác đang ngồi thưởng thức cà phê đá tại quầy cà phê ngoài trời La Tazza di D'oro's. Ngay ngoài lối vào điện Pantheon có bốn người lính đang đứng gác, đúng như Olivetti dự đoán.
- Trông có vẻ yên tĩnh. - Vittoria nhận xét.
Langdon gật đầu, nhưng lòng cảm thấy vô cùng bất ổn. Giờ đây anh đã đến tận nơi, anh mới thấy tình huống này quả là không thực tế. Bất chấp thái độ tin tưởng tuyệt đối của Vittoria, anh cảm thấy tất thảy mọi người đã bị anh đặt vào một tình huống thật bấp bênh. Bài thơ của hội Illuminati vang lên trong tâm trí. Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ. ĐÚNG RỒI , Langdon tự nhủ. Đây chính là chỗ đó. Nấm mồ của Santi. Đã rất nhiều lần anh đến nơi này, đứng dưới mái vòm hình tròn có lỗ trổ ở chính giữa, và ngắm nhìn nấm mồ của Raphael vĩ đại.
- Mấy giờ rồi? - Vittoria hỏi.
Langdon xem đồng hố:
- 7 giờ 55. Còn 10 phút nữa.
- Hi vọng mấy anh chàng kia bắn chuẩn xác. - Vittoria vừa nói vừa đưa mắt nhìn những du khách đứng rải rác trong điện. - Nếu xảy ra chuyện trong điện này thì chúng ta dễ bị bắn chéo cánh sẻ lắm.
Đến gần lối vào, Langdon thở một cách nặng nhọc. Khẩu súng trong túi áo khoác nặng trĩu xuống. Anh thầm e ngại nhỡ những người lính gác này chặn hai người lại và lục soát rồi phát hiện ra khẩu súng thì không biết sẽ thế nào. Nhưng những người lính nây chẳng buồn nhìn họ đến lần thứ hai. Rõ ràng là cả hai đang đóng giả rất đạt.
Langdon thì thào bảo Vittoria:
- Chắc cô cũng chưa bao giờ dùng súng trừ trường hợp bắn chỉ thiên, đúng thế không?
- Anh không tin tôi à?
- Tin á? Tôi đã biết cô là ai đâu!
Vittoria nhíu mày:
- Thế mà tôi lại nghĩ rằng chúng ta là một cặp uyên ương cơ đấy!
 
Đặc quánh chất lịch sử, bầu không khí trong điện Pantheon có vẻ lạnh lẽo và ẩm ướt. Trên đầu họ, khoảng trần đồ sộ thoải rộng như thể không trọng lượng - với vòm thoải dài tới 42 mét không có cột đỡ trần cung điện này còn rộng hơn cả mái vòm của nhà thờ St. Peter. Như bao lần khác, Langdon thấy rờn rợn khi bước vào căn phòng thênh thang này. Tại đây, kỹ thuật và nghệ thuật hoà quyện vào nhau thật tuyệt vời. Từ trên cao, những tia nắng hoàng hôn đang chiếu xuyên qua giếng trời hình tròn trứ danh. Oculus, Langdon thầm nghĩ, hang quỷ .
Họ đã vào đến nơi.
Langdon dõi mắt theo nhịp cuốn của trần nhà thoải dần xuống những mảng tường rất nhiều cột, thoải xuống đến tận nền đá hoa cương dưới chân họ. Thấy có tiếng nói chuyện rì rầm hoà lẫn với tiếng chân bước của các du khách, Langdon đưa mắt nhìn một lượt khoảng hơn chục người khách du lịch đang tha thẩn trong toà nhà chạng vạng tối. Hắn đã đến chưa nhỉ?
- Có vẻ khá yên ắng. - Vẫn cầm tay Langdon, Vittoria nhận xét.
Langdon gật đầu.
- Mộ của Raphael ở đâu?
Langdon cố xác định phương hướng. Anh đưa mắt nhìn khắp gian điện hình tròn. Những ngôi mộ. Những bàn thờ. Những cây cột. Các hốc tường. Anh đưa tay chỉ mộ phần được trang trí lộng lẫy bên tay trái.
- Tôi nghĩ mộ của Raphael nằm ở góc kia kìa.
Vittoria nhìn một lượt khắp gian phòng lớn.
- Tôi chả thấy có kẻ nào giống một tên sát thủ sắp hành quyết vị Hồng y Giáo chủ ở đây cả! Hay chúng ta đi một vòng xem thế nào?
Langdon gật đầu.
- Trong điện này thì hắn chỉ có thể trốn ở một nơi duy nhất. Chúng ta nên kiểm tra các hốc tường.
- Các hốc tường à?
- Đúng thế. - Langdon chỉ tay. - Các hốc xây lõm vào trong tường kia kìa.
Rải rác khắp căn phòng tròn, xen giữa những ngôi mộ là những hốc được xây lõm vào trong tường. Dù không lớn lắm, nhưng những hốc này đủ để một người có thể nấp kín bên trong.
Những hốc này một thời từng là nơi đặt tượng các vị thánh Olympia, nhưng buồn thay, chúng đã bị phá huỷ khi Vatican quyết định biến Pantheon thành nhà thờ Thiên Chúa. Langdon cảm thấy công phẫn, anh đang đứng ngay tại bàn thờ khoa học đầu tiên, nhưng tất cả các đầu mối đều đã biến mất. Không hiểu xưa kia bức tượng đó được đặt ở đâu, và không hiểu nó chỉ tay về hướng nào. Đối với Langdon, không gì tuyệt vời bằng tìm được pho tượng với cánh tay kín đáo chỉ về hướng con đường ánh sáng - manh mối của hội Illuminati. Và không hiểu người nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati là ai nhỉ?
- Tôi sẽ đi về mạn trái, - Vittoria chỉ tay sang bên trái. - Anh đi về bên phải nhé. Hẹn gặp nhau sau 180 độ.
Langdon gật đầu đồng ý.
Vittoria đi về bên trái, và lập tức tính chất cấp thiết và mức độ nguy hiểm của thực tại choán lấy tâm trí của anh. Anh quay người, đi về bên phải. Giọng nói của kẻ sát nhân như văng vẳng khắp đại diện lạnh lẽo. Đúng 8 giờ. Những vật tế trinh tiết sẽ được dâng trước bàn thờ khoa học. Vào những thời điểm hết sức chính xác. Tám, chín, mười, mười một giờ, rồi nửa đêm. Langdon xem đồng hồ: 7 giở 52 phút. Còn 8 phút.
Hướng đến hốc tường đầu tiên, Langdon phải băng qua mộ một vị vua theo đạo Thiên Chúa của ý. Nhưng giống như nhiều ngôi mộ khác ở Rome, chiếc quan tài bằng đá này không nằm thẳng bức tường, mà tạo thành những góc xiên lệch kì dị. Một nhóm du khách có vẻ như đang thắc mắc về điều này. Nhưng Langdon không thể dừng lại để giải thích cho họ. Quan quách của nhiều người theo đạo Thiên Chúa chính thống không được đặt ngay ngắn so với kiến trúc chung, và mục đích là để đảm bảo rằng người quá cố được đặt quay đầu về hướng Đông. Vừa mới tháng trước, Langdon đã thảo luận về tập tục mang đậm màu sắc mê tín này với các sinh viên ở lớp biểu tượng học khoá 212.
- Thật là phi lý hết sức! - Một nữ sinh ngồi bàn đầu đã thốt lên sau khi nghe Langdon thuyết giảng về những ngôi mộ quay về hướng Đông. - Tại sao những người theo đạo Thiên Chúa lại phải bố trí ngôi mộ quay đầu về phía mặt trời mọc cơ chứ? Chúng ta đang bàn về đạo Thiên Chúa cơ mà… có phải những giáo phái thờ mặt trời đâu?
Langdon mỉm cười, vừa đi đi lại lại trên bục giảng vừa ăn một trái táo.
- Mời anh Hitzrot! - Anh nói lớn.
Một chàng thanh niên đang gà gật ở bàn cuối giật nảy mình:
- Sao? Em ạ?
Langdon chỉ tay vào một bức tranh Phục Hưng dán trên tường:
- Ai đang quỳ trước chúa kia?
- Dạ… một vị thánh ạ.
- Tốt lắm. Làm sao anh biết đó là thánh?
- Vì có một vầng hào quang ạ.
- Tốt. Và vầng hào quang có gợi cho anh nghĩ tới cái gì không?
- Hitzrot cười toét miệng:
- Có ạ. Những đồ tạo tác của người Ai Cập học từ kỳ trước. Những… những… đĩa mặt trời!
- Cảm ơn Hitzrot. Mời anh ngủ tiếp. - Langdon quay lại nói với cả lớp - Những vầng hào quang này giống như hầu hết các biểu tượng khác của Thiên Chúa giáo, được du nhập từ tín ngưỡng thờ mặt trời của người Ai Cập cổ đại. Chúng ta thấy rất nhiều ví dụ của tín ngưỡng thờ mặt trời trong Thiên Chúa giáo.
- Nhưng thưa thầy, - cô gái ngồi bàn đầu lên tiếng - Tuần nào em cũng đi nhà thờ, nhưng có thấy thờ thần mặt trời đâu?
- Thế à? Thế ngày 25 tháng 12 hàng năm là ngày gì thế?
- Lễ giáng sinh ạ. Ngày sinh của chúa Giê-su.
- Nhưng theo kinh thánh, chúa sinh vào tháng 3, vậy ta kỷ niệm cái gì vào cuối tháng 12 đây?
Im lặng.
Langdon mỉm cười:
- Thưa các bạn, ngày 25 tháng 12 là ngày những người ngoại đạo cổ xưa thờ Mặt trời Bất khuất, trùng với ngày đông chí. Đó là một thời khắc rất tuyệt diệu trong năm, khi mặt trời trở lại, và ngày bắt đầu dài ra.
Langdon gặm thêm một miếng táo nữa.
- Các tôn giáo trên con đường chinh phục các giáo phái khác, thường duy trì những ngày lễ cũ để đỡ gây sốc. Hiện tượng này được gọi là sự chuyển hoá. - Langdon giảng giải. - Điều này giúp người ta nhanh quen với đức tin mới. Họ vẫn kỷ niệm những ngày lễ thánh như trước, vẫn cầu nguyện ở những thánh địa cũ, vẫn giữ nguyên các biểu tượng… và người ta chỉ đơn giản thay các vị chúa khác vào.
Lúc này cô sinh viên ngồi bàn đầu có vẻ đã phát cáu:
- Thầy nói rằng đạo Thiên Chúa chỉ là một hình thức tân trang lại tín ngưỡng thờ mặt trời hay sao?
- Không phải thế. Thiên Chúa không chỉ vay mượn các biểu tượng từ độc nhất tín ngưỡng thờ mặt trời. Nghi lễ phong thánh của chúng ta cũng bắt nguồn từ nghi lễ "tôn thánh" của người Euhemerus cổ xưa. Nghi lễ "bữa ăn thánh" - tức Lễ ban Thánh thể cũng có nguồn gốc từ nền văn minh của người Aztecs. Thậm chí cả khái niệm chúa hi sinh thân mình để chịu tội thay cho loài người cũng không phải là thuần tuý cơ đốc giáo; sự hi sinh của một chàng trai trẻ vì tội lỗi của những người khác trong tộc của mình là tập tục cổ xưa của người Quetzacoatl.
Cô gái trợn tròn mắt:
- Thế thì có bất cứ cái gì thực sự xuất phát từ đạo Thiên Chúa không?
- Trong bất kỳ tôn giáo lớn có tổ chức nào, rất ít nghi lễ thực sự được sinh ra bởi chính tôn giáo ấy. Chẳng có tôn giáo nào bắt đầu từ vạch xuất phát cả. Mỗi tôn giáo đều kế thừa các tôn giáo khác. Những tôn giáo hiện nay đều là một tập hợp những nỗ lực của loài người trong nỗ lực chung nhằm tìm hiểu về đấng tối linh.
- Nhưng mà… thưa thầy, - Hitzrot đánh bạo lên tiếng, có vẻ đã tỉnh ngủ. - Em biết có một thứ chắc chắn là có nguồn gốc Thiên Chúa giáo. Đó là hình tượng Chúa, đúng không ạ? Các nghệ sĩ theo đạo Thiên Chúa không bao giờ vẽ đức Chúa giống như hình tượng con chim ưng cửa người Aztec, hay bất kỳ hình tượng kỳ quặc nào khác. Chúa luôn được vẽ trong hình hài một ông già có chòm râu trắng. Vậy hình tượng đức Chúa của chúng ta có phải là sản phẩm của chính Thiên Chúa giáo không ạ?
Langdon mỉm cười. Những người mới chuyển sang đạo Thiên Chúa từ bỏ những vị thần mà trước đây họ tôn thờ như các vị chúa vô thần, Chúa của người La Mã, người Hi Lạp, Thần mặt trời, Mithraic… Họ hỏi nhà thờ rằng đức Chúa trời mới trông như thế nào. Một cách rất khôn ngoan, nhà thờ đã chọn khuôn mặt quen thuộc nhất, uy lực nhất và đáng sợ nhất trong lịch sử.
Hitzrot có vẻ hoài nghi:
- Là một ông già có chòm râu dài bạc trắng ạ?
Langdon đưa tay chỉ một loạt ảnh những vị thần cổ đại dán trên tường. Trên cùng là bức vẽ một ông già có chòm râu dài bạc trắng trong tư thế ngồi.
- Thần Zeus trông có quen không nào?
Đúng lúc đó giờ học kết thúc.
***
- Xin chào. - Một người đàn ông nói.
Langdon giật bắn người. Tâm trí anh trở lại với điện Pantheon.
Quay lại, Langdon thấy một ông già mặc áo khoác màu xanh lam có chữ thập đỏ trước ngực. Ông già mỉm cười, phô ra hàm răng xám xịt.
- Anh chắc là người Anh? - Ông ta nói đặc giọng vùng Tuscan.
Langdon chớp mắt, một lúc mới hiểu được câu hỏi của ông già:
- À… không. Tôi là người Mỹ.
Ông ta có vẻ hơi ngượng:
- Lạy chúa, anh ăn mặc lịch sự quá, tôi cứ tưởng… xin được lượng thứ.
- Tôi giúp gì được cho ông? - Langdon hỏi, trống ngực đập thình thịch.
- Thực ra thì tôi đang nghĩ rằng có thể giúp anh được chút gì đó. Tôi là hướng dẫn viên ở đây. - Ông ta kiêu hãnh chỉ tay vào tấm phù hiệu gắn trên ngực. - Công việc của tôi là làm cho chuyến thăm quan thành Rome của anh trở nên hấp dẫn hơn.
Hấp dẫn hơn! Chắc chắn là bản thân chuyến thăm này đã đủ hấp dẫn lắm rồi .
- Trông anh có vẻ rất đặc biệt, - người hướng dẫn viên đưa đẩy. - Chắc là anh rất quan tâm đến lĩnh vực văn hoá. Cho phép tôi giới thiệu với anh lịch sử của cung điện này.
Langdon lịch sự mỉm cười:
- Ông tử tế quá. Nhưng tôi là một giáo sư về lịch sử nghệ thuật, và…
- Thế thì tuyệt! - Mắt ông già sáng lên như thể vừa vớ được món hời. - Chắc chắn anh sẽ rất thích nơi này!
- Có lẽ tôi thích được…
Ông già bắt đầu thao thao bài diễn văn đã học thuộc sẵn:
- Điện Pantheon được Marcus Agrippa cho xây dựng từ năm 27 trước công nguyên.
- Đúng thế! - Langdon ngắt lời. - Và được Hadrian cho xây dựng lại năm 119 sau công nguyên.
- Cho đến tận năm 1960, nó là toà nhà mái vòm không cột đỡ lớn nhất thế giới. Nhưng toà nhà vòm Superdome ở New Orleans giờ đã chiếm mất kỷ lục đó.
Langdon rên lên. Không thể làm thế nào cho ông ta im đi được.
- Và vào thế kỷ thứ 5, một nhà thần học đã gọi điện Pantheon là Ngôi nhà của Quỷ dữ, ông ta cảnh báo rằng lỗ trổ hình tròn trên nóc vòm sẽ là lối để quỷ dữ nhập vào cung điện!
Langdon cố không nghe. Anh hướng mắt lên lỗ tròn lớn trên nóc vòm, và nhớ lại giả thuyết lạnh sống lưng mà Vittoria đưa ra lúc nãy. Một vị Hồng y bị đóng dấu sắt nung, rồi bị thả cho rơi qua lỗ vòm, rơi xuống sàn đá cẩm thạch. Nếu thế thì quỷ là một sự kiện để giới truyền thông đổ xô đến . Langdon nhìn quanh tìm cánh nhà báo. Không thấy ai. Anh hít một hơi thật sâu. Thật là một ý tưởng kỳ quặc. Khâu hậu kỳ cho sự kiện động trời này quả là không chu đáo chút nào.
Langdon bước đi, tiếp tục cuộc tìm kiếm, và hướng dẫn viên kia vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt bên tai anh. y như một kẻ gàn dở. Khiếp thật , Langdon thầm nghĩ trong bụng, không gì đáng sợ hơn một sử gia sốt sắng đến mức thái quá.
Phía bên kia cung điện, Vittoria cũng đang ra sức tìm kiếm. Lần đầu tiên kể từ khi nghe tin cha mất, cô gái ở một mình. Những sự kiện ảm đạm dồn dập trong 8 tiếng đồng hồ vừa qua giờ đây đang tái hiện lại trong tâm trí cô gái trẻ. Cha cô mới bị sát hại bất thình lình, vô cùng dã man. Một điều không kém phần đau đớn là phát minh của cha cô đã bị phá hỏng - giờ thì nó đã trở thành một loại phương tiện của bọn khủng bố. Nỗi ân hận dâng đầy trong tâm trí Vittoria - chính phát minh của cô đã tạo ra khả năng đưa phản vật chất ra khỏi phòng thí nghiệm… lúc này cái hộp của cô đang chờ nổ ở một góc nào đó trong toà thánh. Vì sốt sắng muốn giúp cha chứng minh bằng được một chân lý giản đơn, cô gái đã vô tình gây ra tai hoạ.
Nhưng cũng thật kỳ lạ, sự có mặt của một người hoàn toàn xa lạ lại đang khiến cho cô gái cảm thấy vô cùng yên tâm. Robert Langdon. Trong đôi mắt của anh, cô gái cảm nhận được sự bình yên… y như mặt biển hiền hoà mà cô vừa phải rời bỏ sáng sớm hôm nay. Thật hạnh phúc vì Langdon đang ở đây. Anh không chỉ là nguồn sức mạnh, là tia hi vọng của cô, mà còn dùng bộ óc sắc bén của mình để vạch ra phương án truy bắt kẻ sát nhân.
Hít thở thật sâu, Vittoria tiếp tục tìm kiếm dọc theo bức tường uốn tròn. Chính bản thân cô gái cũng phải kinh ngạc khi nhận thấy niềm khát khao muốn báo thù đang dâng lên ngùn ngụt trong lòng mình suốt từ sáng đến giờ. Dù đã nguyện một lòng yêu thương tất cả mọi chúng sinh… cô vẫn muốn kẻ sát nhân phải chết. Không một lời giáo huấn nào về nghiệp báo có thể khiến Vittoria chìa nốt bên má kia ra để nhận thêm một cái tát nữa. Bị kích động, đầy cảnh giác, lần đầu tiên trong đời Vittoria cảm nhận một luồng ý chí ngùn ngụt trong dòng máu Italy của mình… lời thề sẽ dùng sức mạnh công lý để bảo vệ danh dự gia đình của tổ tiên Sicili . Báo thù . Vittoria thầm nhắc nhở bản thân, và lần đầu tiên trong đời, cô thật sự hiểu ý nghĩa của hai âm tiết ấy. Ý nghĩ về sự báo thù khiến cô gái trở nên mạnh mẽ hơn.
Vittoria đến bên ngôi mộ của Raphael Santi. Từ đằng xa đã thấy ngay đây là mộ phần của một nhân vật đặc biệt. Khác với những mộ phần khác, quan tài của ông được đặt thụt vào trong tường và có một tấm chắn Plexiglas bảo vệ đằng trước. Đứng bên ngoài lan can, Vittoria có thể trông thấy đòng chữ ở mặt trước của chiếc quan tài đá. Cô xem xét mộ phần, rồi đọc những dòng chữ khắc trên một tấm biển cạnh quan tài của Raphael.
RAPHAEL SANTI, 1483-1520.
Vittoria đọc lại lần nữa.
Rồi lại đọc lại.
Một tích tắc sau, Vittoria lao vụt đi như tên bắn.
- Robert! Robert!
 
Người hướng dẫn viên vẫn bám theo sát gót khiến Langdon phải hết sức vất vả mới kiểm tra hết được phần bên phải của cung điện. Anh đang chuẩn bị kiểm tra nốt hốc tường cuối cùng thì ông già lại bắt đầu thao thao bất tuyệt.
- Anh có vẻ thích mấy cái hốc tường này ghê nhỉ! - Ông ta nói đầy hào hứng. - Anh biết không, tường ở đây khá dày, cho nên mới không cần cột đỡ cái mái vòm trên kia đấy.
Langdon gật đầu, chẳng buồn nghe, và tiếp tục xem xét cái hốc tường tiếp theo. Đội nhiên có ai đó ở đằng sau túm chặt lấy anh. Đó là Vittoria. Thở không ra hơi, cô gái đang túm chặt lấy cánh tay Langdon. Ánh mắt hoảng sợ của Vittoria khiến cho anh không thể nghĩ đến bất kỳ tình huống nào khác. Đã tìm thấy thi thể của nạn nhân . Langdon chợt cảm thấy sợ hãi.
- A… vợ anh đây rồi! - Ông già hướng dẫn viên reo lên, sung sướng vì có thêm một vị khách nữa. Ông ta chỉ đôi giày đi bộ và chiếc quần soóc của Vittoria:
- Nhìn thì biết ngay cô là người Mỹ!
Vittoria nheo mắt:
- Tôi là người Ý.
Nụ cười của ông ta tắt ngấm:
- Thế à?
- Robert này, - Vittoria thì thào, cố quay lưng về phía ông già hướng dẫn viên. - Diagramma của Galileo đâu. Đưa tôi xem cái nào.
- Diagramma à? - Ông già hỏi, giọng lấy lòng. - Chà chà, hai vị chắc hẳn rất am hiểu lịch sử đây! Tiếc thay, không thể xem tài liệu đó được đâu. Nó được bí mật cất giữ trong Nhà mái vòm…
- Xin lỗi ông một chút. - Langdon nói, lúng túng trước sự sợ hãi của Vittoria. Kéo cô sang một bên, anh cẩn thận rút tờ giấy từ trong túi áo ra. - Chuyện gì thế?
- Ngày tháng ghi ở đây là bao giờ? - Vittoria vừa săm soi tờ giấy vừa hỏi.
Ông già hướng dẫn viên đã đứng ngay cạnh họ, mắt chăm chăm nhìn tờ giấy, miệng há hốc:
- Này, đây… không phải là…
- Bản sao dành cho khách du lịch thôi mà. - Langdon nói chặn trước. - Cảm ơn ông đã giúp đỡ, hai vợ chồng chúng tôi muốn nói chuyện riêng một lúc.
Ông già lùi lại một chút, mắt vẫn không rời tờ giấy.
- Ngày... tháng? - Vittoria nhắc lại. - Galileo xuất bản cuốn này bao giờ.
Langdon chỉ tay vào những chữ số La Mã ở cuối trang giấy:
Ngày xuất bản đây. Chuyện gì thế?
Vittoria đọc con số.
- 1639 à?
- Ừ. Sao thế?
Ánh mắt Vittoria đầy vẻ lo lắng:
- Lôi thôi rồi, Robert ạ. Tôi thôi to rồi. Ngày tháng không khớp nhau.
- Ngày tháng nào không khớp nhau?
Ngày trên mộ phần của Raphael. Mãi đến năm 1759 ông ấy mới được đưa về chôn cất ở đây. Một thế kỷ sau khi Diagramma được xuất bản.
Langdon trợn tròn mắt, không hiểu cô gái vừa nói gì.
- Không. Raphael mất năm 1520, trước Diagramma rất lâu đấy chứ.
- Đúng thế, nhưng mà mãi sau này ông ấy mới được đưa về an táng tại đây.
Langdon lại không hiểu gì.
- Cô vừa nói cái gì thế?
- Tôi vừa đọc thấy mà. Di hài của Raphael được chuyển về Pantheon năm 1758, trong một dự án tôn vinh các nhân vật kiệt xuất của nước Ý.
Hiểu ra những lời ấy, Langdon thấy đất dưới chân như sụp xuống.
- Khi bài thơ này được sáng tác thì phần mộ của Raphael được đặt ở một địa điểm khác. - Vittoria tuyên bố. - Vào thời đó, Pantheon chẳng liên quan gì đến Raphael cả!
Langdon như nghẹt thở.
- Nhưng điều đó… có nghĩa là…
- Đúng vậy! Có nghĩa là chúng ta đến nhầm địa điểm rồi!
Langdon thấy đầu óc quay cuồng. Không thể nào…rõ ràng là…
Vittoria chạy lại và túm tay ông già hướng dẫn viên, kéo lại:
- Thưa ông, xin hãy cho chúng tôi biết, vào thế kỷ 17 thì mộ phần của Raphael được đặt ở đâu?
- Ở Urb… Urbrino, - Ông ta lắp bắp vẻ bối rối. - Ở quê hương của ông ấy.
- Không thể nào! - Langdon lầm bầm nói một mình. - Bàn thờ khoa học của hội Illuminati ở Rome, chắc chắn là thế!
- Illuminati à? - Ông già há hốc miệng lại một lần nữa đưa mắt nhìn tờ giấy Langdon đang cầm trên tay. - Các vị là ai thế?
Vittoria lại hỏi tiếp:
- Chúng tôi đang tìm một địa danh được gọi là lăng mộ trần tục của Santi. Ở Rome. Ông có biết nó ở đâu không?
Ông ta có vẻ băn khoăn:
- Đây chính là lăng mộ duy nhất của Raphael ở Rome.
Langdon cố tập trung suy nghĩ, nhưng đầu óc cứ đờ ra. Nếu vào năm 1655, mộ phần của Raphael không được đặt tại Rome thì bài thơ nói đến nơi nào nhỉ? Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ? Nghĩa là sao nhỉ? Nghĩ đi nào!
- Thế có nghệ sĩ nào khác tên là Santi không? - Vittoria hỏi.
Ông hướng dẫn viên nhún vai:
- Theo tôi biết thì không có.
- Thế có bất kỳ ai nổi tiếng có tên như thế không? Ví dụ một nhà thơ, nhà thiên văn học, hay nhà khoa học nào đó tên là Santi, có không?
Lúc này thì hình như ông già hướng dẫn viên lại muốn bỏ đi.
- Không có đâu cô ạ. Santi duy nhất mà tôi biết chính là kiến trúc sư Raphael.
- Kiến trúc sư à? - Vittoria hỏi vặn. - Tôi tưởng ông ấy là hoạ sĩ chứ!
- Ông ấy là cả hai chứ. Tất cả họ đều thế cả, Michelangelo, Da Vinci, Raphael.
Không hiểu là nhờ có những lời nói của ông già, hay vì những mộ phần trang trí cầu kỳ xung quanh khiến cho Langdon nghĩ ra, nhưng điều đó không quan trọng, anh bỗng nảy ra ý ấy. Santi là kiến trúc sư. Từ ý tưởng, những ý nghĩ khác lần lượt hiện ra như trong một thế cờ đô-mi-nô. Các kiến trúc sư thời Phục Hưng sống chỉ để làm hai việc: tôn vinh chúa trong các nhà thờ lớn, và tôn vinh những nhân vật đức cao vọng trọng bằng những mộ phần lộng lẫy. Mộ phần của Santi. Lẽ nào lại là thế? Những suy nghĩ lúc này nảy ra nhanh hơn nữa…
Mona Lisa của Da Vinci
Hoa huệ nước của Monet
David của Michelangelo.
Lăng mộ trần tục của Santi…
- Santi đã thiết kế lăng mộ đó. - Langdon lên tiếng.
Vittoria quay phắt lại:
- Gì cơ?
- Bài thơ không nhắc đến mộ phần của Santi, mà một mộ phần do ông ấy thiết kế.
- Anh nói gì cơ?
- Tôi đã nhầm. Không phải là phần mộ nơi Santi được chôn cất mà là mộ phần Santi thiết kế cho người khác cơ. Một nửa các công trình kiến trúc ở Rome thời Phục Hưng và Ba-rốc là các mộ phần. - Langdon vừa nói vừa mỉm cười - Chắc Raphael phải thiết kế đến hàng trăm lăng mộ!
Vittoria có vẻ khổ sở:
- Hàng trăm cơ à?
Nụ cười của Langdon tắt ngấm:
- Ối trời đất ơi.
- Có cái nào trong số đó trần tục không, thưa giáo sư?
Langdon chợt thấy rối bời. Anh biết quá ít về các tác phẩm của Raphael. Michelangelo thì còn đỡ, chứ anh đã bao giờ để ý đến các tác phẩm của Raphael đâu. Anh nhớ tên một vài lăng mộ nổi tiếng nhất của Raphael, nhưng không biết hình dạng chúng thế nào.
Thấy Langdon lúng túng, Vittoria quay sang hỏi ông hướng dẫn viên, khi ông ta đang định bỏ đi. Cô gái túm tay ông ta lôi lại:
- Tôi cần tìm một lăng mộ do Raphael thiết kế. Một lăng mộ có thể coi là trần tục.
Ông già lúc này cũng lúng túng:
- Một lăng mộ của Raphael à? Tôi cũng không biết đâu. Ông ấy thiết kế nhiều lắm. À, có thể các vị cũng biết một nhà nguyện nhỏ do ông ấy thiết kế, nhà nguyện chứ không phải lăng mộ. Các kiến trúc sư thường thiết kế các nhà nguyện thông với lăng mộ.
Langdon chợt nhận ra điều đó.
- Thế có lăng mộ hay nhà nguyện nào của Raphael mà trần tục không?
Ông già nhún vai:
- Tiếc quá. Cái đó thì tôi không hiểu gì cả. Tôi chẳng thấy cái nào có thể coi là trần tục hết. Có lẽ tôi phải đi đây.
Vittoria túm tay ông ta, rồi đọc dòng đầu tiên của bài thơ. "Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ" . Ông có hiểu thế là sao không?
- Tôi chẳng hiểu gì cả.
Đột nhiên Langdon ngẩng phắt lên. Vừa rồi anh quên biến mất phần sau của câu thơ. Hang quỷ?
- Đúng rồi! - Langdon hỏi ông già hướng dẫn viên - Đúng rồi! Có nhà nguyện nào của Raphael có giếng trời hình tròn không?
Ông ta lại lắc đầu lần nữa:
- Theo như tôi biết thì chỉ có ở mỗi điện Pantheon này thôi. - Ngừng một lát. - Nhưng mà…
- Nhưng sao? - cả Vittoria lẫn Langdon cùng đồng thanh.
Lúc này ông già lại ngẩng cao đầu và tiến lại bên họ.
- Hang quỷ… - ông ta tự lẩm bẩm một mình. - Hang quỷ… thì là… buco diavolo phải không nhỉ?
Vittoria gật đầu:
- Hiểu theo nghĩa đen thì đúng là thế.
Ông già khẽ mỉm cười:
- Có một thuật ngữ mà lâu rồi không thấy ai nhắc đến. Nếu tôi không nhầm, thì buco diavolo nghĩa là cái hầm.
- Cái hầm à? - Langdon hỏi lại. - Giống như hầm mộ phải không?
- Đúng, nhưng là một dạng hầm mộ đặc biệt. Chắc hang quỷ là một từ cổ để nói đến một hầm mộ lớn đặt trong nhà nguyện, bên dưới một mộ phần khác.
- Một cái hầm mộ đào thêm à? - Langdon hỏi ngay, anh đã hiểu ông già định nói đến cái gì.
Người hướng dẫn viên già có vẻ rất nể phục:
- Đúng rồi, tôi định dùng từ ấy đấy.
Langdon phân vân. Hầm mộ đào thêm là một giải pháp rẻ tiền của nhà thờ trong một số tình huống rất khó xử. Khi nhà thờ muốn thể hiện sự tôn vinh với một thành viên của mình bằng cách đặt mộ phần của người đó trong nhà nguyện, những người còn lại trong gia tộc thường yêu cầu phải chôn các thành viên khác của gia đình họ chung vào một chỗ… để đảm bảo rằng họ cũng sẽ được mai táng trong nhà thờ. Tuy nhiên, nhiều nhà thờ không có đủ tiền bạc và diện tích để xây mộ phần cho cả một gia tộc như thế, nên họ cho đào những hầm mộ đào thêm - một cái hố để chôn những thành viên khác của hoàng tộc nhưng không phải là những người thực sự kiệt xuất - gần mộ phần ban đầu. Sau đó, người ta đặt lên trên miệng hố một cái nắp mà các nghệ sĩ thời Phục Hưng gọi là cái nắp cống, không hơn. Tuy tiện lợi, nhưng trào lưu xây hầm mộ đào thêm nhanh chóng hết thời vì người ta rất hay ngửi thấy mùi thối trong nhà thờ. Hang quỷ , Langdon thầm nghĩ. Anh chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ này. Nhưng nó phù hợp đến mức lạ lùng.
Lúc này thì trống ngực Langdon đập thình thịch. Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ . Chỉ còn một chi tiết duy nhất cần phải hỏi cho rõ.
- Raphael có thiết kế lăng mộ nào có hang quỷ loại này không?
Người hướng dẫn viên gãi gãi đầu:
- Thực ra thì… tiếc quá… tôi chỉ nghĩ ra được có một thôi.
Chỉ một ? Langdon không mong ước gì hơn.
- Ở đâu? - Vittoria gần như hét lên.
Ông già hướng dẫn viên ngạc nhiên nhìn họ:
- Đó là nhà nguyện Chigi. Lăng của Agostino Chigi và anh trai ông ấy, nhà Mạnh Thường Quân giàu có của khoa học và nghệ thuật.
- Khoa học à? - Langdon vừa đưa mắt sang Vittoria vừa hỏi lại.
- Ở đâu? - Vittoria lại hỏi.
Ông già phớt lờ câu hỏi đó, lại sung sướng được làm nhiệm vụ hướng dẫn. - Cũng không thể khẳng định chắc chắn là nó có trần tục hay không, nhưng chắc chắn là rất khác biệt.
- Khác biệt à? - Langdon hỏi. - Khác thế nào?
Khác biệt trong cách kiến trúc. Một nghệ sĩ khác đảm nhiệm phần trang trí nội thất, tôi không nhớ rõ người đó là ai.
Langdon lúc này đã sốt sắng lắm rồi. Một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati à? Có thể lắm .
- Nhưng dù người đó là ai đi nữa thì phần nội thất cũng không được xuất sắc lắm. - Ông già nói tiếp - Làm gì có ai muốn bị chôn dưới một cái Kim tự tháp cơ chứ!
Langdon gần như không dám tin vào tai mình:
- Kim tự tháp à? Trong nhà nguyện có cả Kim tự tháp à?
- Tôi biết, thật chẳng hợp chút nào. - Ông già đáp.
Vittoria túm chặt cánh tay ông ta:
- Thưa ông, nhà nguyện Chigi ở chỗ nào?
- Cách đây một dặm về hướng Bắc. Ở thánh đường Santa Maria Del Popolo.
Vittoria thở phào:
- Cảm ơn ông. Nào…
- Này, tôi vừa nghĩ ra, đúng là tôi ngốc thật.
Vittoria đứng phắt lại:
- Xin đừng nói là ông lại nhầm nữa nhé.
Ông ta lắc đầu:
- Không đâu, nhưng đáng ra tôi phải nghĩ ra sớm hơn mới phải. Nhà nguyện Chigi còn có một cái tên nữa, trước đây người ta gọi nó là Capella Della Tera.
- Nhà thờ Đất à? - Langdon hỏi.
- Không. - Vittoria vừa trả lời vừa lao ra cửa. - Nhà thờ Trái Đất.
Vừa lao ra khỏi Piazza Della Rotunda, Vittoria Vetra vừa lôi điện thoại di động ra.
- Chỉ huy Olivetti, không phải ở đây rồi!
Olivetti có vẻ ngỡ ngàng:
- Sao? Cô nói gì?
- Bàn thờ khoa học đầu tiên là nhà nguyện Chigi cơ!
- Ở đâu? - Olivetti bắt đầu cáu. - Nhưng mà ông Langdon nói là…
- Santa Maria Del Popolo! Một dặm về phía Bắc! Đưa người của ông sang đấy ngay. Còn 4 phút nữa!
Nhưng người của tôi vào vị trí ở đây hết rồi! Làm sao có thể…
- Đi ngay đi! - Vittoria dập điện thoại.
Sau lưng cô gái, Langdon cũng vừa hổn hển lao ra khỏi điện Pantheon.
Cô gái túm tay Langdon, kéo anh chạy ra dãy xe tải trông như không người lái đang đợi san. Vittoria đấm ầm ầm vào mui chiếc xe đầu tiên. Người lái xe đang ngủ gật giật bắn người, và ngồi thẳng dậy, đầy sợ hãi. Vittoria mở ngay cửa sau, ấn Langdon vào trong xe, rồi cô cũng nhảy nốt vào.
- Santa Maria Del Popolo. - Cô hô to. - Nhanh lên!
Nửa sợ hãi, nửa thụ động, người lái xe gạt cần số, chiếc xe trườn ra giữa đường.
 
Gunther Glick đã giằng con chuột máy tính từ tay Chinita Macri, và giờ chị ta đang đứng lom khom ở cuối chiếc xe hòm chật chội của BBC, nhìn qua vai Glick.
- Thấy chưa. - Glick vừa nói vừa gõ thêm vài ký tự vào bàn phím.
- Có phải mỗi British Tattler cho đăng bài về những gã này đâu?
Macri cúi xuống gần hơn. Glick nói đúng. Cơ sở dữ liệu của BBC cho thấy rằng họ đã cho đăng sáu bài báo cả thảy trong vòng 10 năm qua về một hội kín tên là Illuminati. Trời ơi không thể tin nổi, Macri thầm nghĩ.
- Tay nào viết những bài đó thế? Mấy tay ba hoa chích chòe chứ gì?
- BBC đâu có thuê những đồ rác rưởi đó.
- Họ thuê anh đấy thôi.
Glick gầm gừ:
- Sao cô lại đa nghi thế không biết! Có rất nhiều tài liệu chứng minh sự tồn tại của Illuminati trong một giai đoạn lịch sử dài đấy.
- Thì mấy mụ phù thuỷ vật thể bay không xác định, rồi cả thuỷ quái hồ Loch Ness nữa chứ.
Glick đọc tên những bài báo được liệt kê.
- Cô đã bao giờ biết có người tên là Winston Churchill chưa?
- Tên kêu gớm nhỉ.
- BBC đã từng đăng một loạt phóng sự về cuộc đời của ông ta. Mà là tín đố Cơ đốc giáo trung thành đấy nhé. Cô có biết là năm 1920, Churchill cũng đã lên án hội Illuminati và cảnh báo người dân Anh về một âm mưu toàn cầu chống lại lương tri không?
Macri vẫn chưa tin:
- Báo nào đăng tuyên bố đó? British Tattler à?
Glick cười mỉm:
- London Herald. Ngày 8 tháng 2 năm 1920.
- Không thể nào.
- Cô nhìn cho kỹ đi!
Macri nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. London Herald, ngày 8 tháng 2 năm 1920. Sao mình lại không biết nhỉ?
- Thế thì chắc Churchill bị bệnh hoang tưởng rồi.
- Không phải mỗi mình ông ấy đâu. - Glick vừa đọc tiếp vừa nói - Có vẻ như năm 1921 thì Woodrow Wilson cũng đã cho phát đi ba lời cảnh báo trên đài phát thanh về nguy cơ hội Illuminati khống chế hệ thống ngân hàng của Mỹ. Có cần tải nguyên văn những lời đó xuống cho cô xem không?
- Thôi khỏi cần.
Nhưng Glick vẫn tải về một bản phát thanh.
- Ông ấy nói đây nhé: "Có một thế lực được tổ chức rất chặt chẽ, rất tinh vi, rất hoàn hảo. Nó có mặt ở hầu hết mọi nơi, đến nỗi người ta chỉ dám thì thầm thật khẽ mỗi khi cả gan chỉ trích nó".
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến chương trình phát thanh đó.
- Chắc là vì năm 1921 thì cô còn vắt mũi chưa sạch.
- Hay đấy. - Macri lại thấy thích lời châm chọc này. Cô biết tuổi tác đang ngày một hiện rõ trên khuôn mặt của mình. Ở tuổi 43, những lọn tóc đen dày của cô đã bắt đầu ngả sang màu muối tiêu. Nhưng quá kiêu hãnh, Macri không bao giờ nhuộm tóc. Mẹ của Macri, một tín đồ Baptist ở miền Nam, đã dạy cô biết tự bằng lòng và tôn trọng bản thân. Vì con là một phụ nữ da đen, mẹ cô dặn dò, đừng bao giờ cố che giấu bản thân. Ngày con làm điều đó cũng là ngày con chết. Hãy đứng thật thẳng, mỉm cười rạng rỡ, và để mọi người phải băn khoăn không hiểu điều bí mật nào đã khiến con cười rạng rỡ đến thế.
- Đã nghe nói đến Cecil Rhodes bao giờ chưa? - Glick hỏi.
Macri nhìn lên:
- Nhà tài chính người Anh đó hả?
- Đúng rồi. Người thành lập quỹ học bổng Rhodes đấy. Đừng nói với tôi là…
- Người của Illuminati.
- Báo nào?
- BBC, thật đấy. Ngày 16 tháng 11 năm 1984.
- Báo mình đăng tin Rhodes là người của Illuminati á?
- Chứ sao. Và theo thông tin của chúng ta thì quỹ học bổng Rhodes được thành lập từ nhiều thế kỷ nay để tuyển mộ những bộ óc lỗi lạc nhất cho hội Illuminati.
- Thật lố bịch! Bác tôi ngày xưa cũng nhận học bổng Rhodes đây!
Glick nháy mắt:
- Cả Bill Clinton cũng thế.
Macri lúc này đã thật sự phát điên. Chưa bao giờ chị chấp nhận những bài báo nhăng nhít kiểu này. Nhưng Macri cũng biết rằng BBC luôn cho thẩm định kỹ lưỡng tất cả những thông tin mà hãng công bố.
- Sự kiện này thì chắc cô biết. - Glick đọc - BBC, ngày 5 tháng 3 năm 1998. Chủ tịch Uỷ ban hạ viện, Chris Mullin, yêu cầu tất cả các nghị sĩ Anh là thành viên hội Tam Điểm phải công khai mối quan hệ đó.
Macri còn nhớ sự kiện này. Rốt cuộc thì hội kín đó hoá ra lại có liên quan đến các nhận viên cảnh sát, thậm chí cả quan toà.
- Nhưng để làm gì thế?
Glick đọc tiếp:
- Lo lắng rằng có thể những chi nhánh bí mật của hội Tam Điểm sẽ khống chế toàn bộ thể chế chính trị và hệ thống tài chính.
- Đúng thế.
- Gây ra bao nhiêu là ầm ỹ. Hội Tam Điểm trong nghị viện đã tỏ ra công phẫn. Mà thế là phải thôi. Hoá ra đa số họ chỉ là những người ngây thơ gia nhập hội Tam Điểm để làm các công việc từ thiện. Họ không hề biết gì về những mối liên hệ trong quá khứ của hội đó.
- Những liên hệ chưa được chứng minh rõ ràng.
- Thế cả thôi - Glick đọc lướt các bài báo. - Xem đây này. Thông tin cho thấy Illuminati liên quan đến cả Galileo, hội Guerenets ở Pháp, hội Alumbrados ở Tây Ban Nha. Thậm chí cả Karl Max và cách mạng Nga.
- Rất có thể lịch sử bị bóp méo lắm chứ.
- Được rồi. Cô muốn những sự kiện gần đây chứ gì? Xem đi. Đây là bài trên tờ Wall Street Journal nhắc đến Illuminati nhé.
Tên tờ báo khiến Macri chú ý.
- Journal à?
- Đoán xem trò chơi điện tử được ưa thích nhất ở Mỹ hiện nay là gì nào?
- s.ex với Pamela Anderson chứ gì?
- Gần đúng. Tên của nó là Illuminati: trật tự thế giới mới.
Macri nhìn qua vai Glick để đọc phần giới thiệu trò chơi: "Steve Jackson Games đã thành công ngoài sức tưởng tượng… một cuộc thám hiểm có tính lịch sử. Trong đó một hội kín xấu xa ở Bavaria rắp tâm muốn thông trị cả thế giới. Hãy lên mạng để tham gia…"
Macri ngước mắt lên như sắp sửa phát ốm đến nơi:
- Mấy gã hội viên Illuminati này thì có liên quan gì đến Thiên Chúa giáo đây?
- Không chỉ mỗi Thiên Chúa giáo đâu nhé. - Glick nói - Mà là mọi tôn giáo nói chung! - Glick ngẩng mặt lên, cười toe toét. - Nhưng qua cuộc gọi ban nãy thì có thể đoán rằng họ quan tâm đặc biệt tới Vatican đấy.
- Ồ thôi đi! Anh không thật sự tin vào những lời tự giới thiệu của gã đó đấy chứ?
- Rằng gã là sứ giả của Illuminati ư? Chuẩn bị hành quyết bốn Hồng y Giáo chủ ư? - Glick mỉm cười. - Tôi hi vọng đó là sự thật.
Chiếc taxi đưa Vittoria và Langdon chạy hết một vòng qua Via Della Scrofa chỉ trong một phút. Xe dừng lại ở phía Nam của Piazza Del Popolo, sát 8 giờ. Không có đồng lia nào trong túi, Langdon trả người lái xe bằng tiền đô la một cách hết sức hậu hĩnh. Cả hai lao vội ra khỏi xe. Quảng trường khá yên ắng, chỉ nghe thấy tiếng nói cười của mấy người dân địa phương vọng ra từ một quán cà phê Rosati gần đó vốn rất được giới trí thức Ý ưa chuộng. Không khí thoảng mùi cà phê và bánh ngọt.
Langdon vẫn chưa hết choáng váng vì những phán đoán sai lầm của mình ở Pantheon. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn lướt qua quảng trường một lượt là giác quan thứ sáu của anh đã cảm nhận được ngay. Quảng trường này được thiết kế với khá nhiều biểu tượng quan trọng của Illuminati. Không những được xây hình e-líp, mà ở chính tâm của nó còn có một cột tháp kiểu Ai Cập - một cây cột bằng đá hình Kim tự tháp. Những cột tháp kiểu này, vốn là chiến lợi phẩm thu được sau những chuyến viễn chinh của đế chế Rome, ngày nay vẫn còn nằm rải rác khắp thành Rome, và được các nhà biểu tượng học gọi là Kim tự tháp cao quý - luôn luôn vươn thẳng lên trời.
Ngước mắt nhìn lên đỉnh cây cột tháp bằng đá nguyên khối, Langdon nhận ra một thứ khác nữa, một thứ rất đặc biệt.
- Chỗ này đúng rồi đấy. - Anh nói khẽ, cảm thấy mọi lo lắng vừa tiêu tan hết. - Cô nhìn xem. - Langdon đưa tay chỉ Porta Del Popolo - cổng vòm bằng đá phía cuối quảng trường. Suốt bao thế kỷ nay, nó vẫn đứng đó. Trên đỉnh vòm có một biểu tượng được khắc vào đá. - Có thấy quen không?
Vittoria ngước lên nhìn.
- Một ngôi sao toả sáng trên đỉnh cột đá hình tam giác phải không?
Langdon lắc đầu:
- Một luồng ánh sáng toả xuống từ đỉnh Kim tự tháp.
Vittoria quay lại, tròn mắt kinh ngạc:
- Giống hệt như… hình quốc huy của nước Mỹ kìa.
- Chính xác. Biểu tượng của hội Tam Điểm trên tờ bạc một đô la.
Vittoria hít thở thật sâu và đưa mắt nhìn khắp quảng trường một lượt. - Thế cái nhà thờ quái quỷ ấy đâu?
Thánh đường Santa Maria Del Popolo trông như một chiến thuyền bị đặt sai chỗ, đứng xiên xẹo dưới chân một ngọn đồi ở phía Đông Nam của quảng trường. Với một lô giàn giáo xây dựng choán hết mặt tiền, công trình kiến trúc từ thế kỷ 11 này trông lại càng kỳ dị hơn.
Cùng Vittoria tiến thẳng đến nhà thờ nhỏ này, Langdon cảm tưởng như đang đi trên mây. Anh ngước lên nhìn toà nhà, thầm băn khoăn. Chẳng lẽ một vụ án mạng lại sắp xảy ra đằng sau những bức tường này thật sao? Ước gì Olivetti nhanh chân lên một chút. Khẩu súng trong túi áo ngực của Langdon tụ nhiên trở nên thật vô dụng.
Cầu thang ở mặt tiền của thánh đường nhỏ này có kiểu dáng khá thân thiện. Nhưng tấm biển treo ở giàn giáo thì lại đề: "NGUY HIỀM - CẤM VÀO ", thật chẳng hợp nhau chút nào.
Một thánh đường trong thời kỳ đóng cửa để sửa chữa thế này quả là lý tưởng đối với kẻ sát nhân. Khác với ban nãy ở điện Pantheon, hai người chẳng cần bày đặt đóng vai làm gì, chỉ cần tìm một lối vào.
Không do dự, Vittoria len ngay vào khe hở giữa hai giàn giáo, định leo lên cầu thang.
- Vittoria! Biết đâu hắn vẫn còn ở trong đấy! - Langdon gọi to.
Vittoria làm như không nghe thấy gì. Cô gái bước tới sát cánh cửa gỗ dẫn vào trong nhà thờ. Langdon vội chạy theo sát gót Vittoria. Anh chưa kịp nói gì thì Vittoria đã nắm cánh cửa rồi kéo ra. Langdon nín thở. Cánh cửa không nhúc nhích.
- Chắc phải có một lối vào khác. - Vittoria nói.
- Có thể lắm, nhưng chỉ một phút nữa là Olivetti có mặt ở đây. - Langdon nói - Bây giờ mà vào trong luôn thì quá nguy hiểm. Chúng ta nên đứng đây mà đợi cho đến khi…
Vittoria quay sang nhìn Langdon, mắt tóe lửa:
- Nếu có một lối vào nữa thì cũng có một lối ra nữa. Gã này mà thoát thân được là chúng ta cầm chắc thất bại.
Langdon hiểu điều đó.
Lối đi nhỏ bên phải nhà thờ vừa hẹp vừa tối hai bên đều có tường cao. Không khí nồng nặc mùi nước giải - thứ mùi thường gặp ở thành phố này, nơi mà số lượng quán bar lớn gấp 20 lần số nhà vệ sinh công cộng.
Langdon và Vittoria hối hả bước đi trên lối nhỏ nồng nặc mùi khai đó. Đi xuống được khoảng 15 mét thì Vittoria giật giật cánh tay Langdon rồi chỉ về phía trước.
Langdon cũng đã trông thấy. Trước mặt họ là một cánh cửa gỗ nặng nề, đúng là một lối đi điển hình dành riêng cho các tu sĩ. Từ nhiều năm nay, hầu hết những lối đi kiểu này không còn được sử dụng nữa vì đất đai chật hẹp cộng với những công trình mới được xây dựng sát bên cạnh nhà thờ đã khiến cho những lối đi này trở nên bất tiện.
Vittoria tiến ngay về phía cánh cửa. Đến nơi, cô gái bối rối nhìn quả đấm cửa. Phía sau Vittoria mấy bước, Langdon trông thấy một cái đai bằng sắt lủng lẳng ở chỗ đáng ra phải có quả đấm cửa.
- Cái đai đấy mà! - Langdon khẽ thì thào và nhẹ nhàng đưa tay kéo nó lên. Cái đai bật đánh tách. Vittoria đứng né sang một bên, vẻ lo lắng. Khẽ khàng, Langdon quay cái đai theo chiều kim đồng hồ. Cái vòng sắt quay đủ một vòng 360 độ, chẳng thấy gì. Nhíu mày, Langdon xoay theo chiều ngược lại, vẫn y như thế.
Vittoria nhìn xuống cuối lối đi.
- Liệu còn lối vào nào khác không?
Langdon nghĩ là không. Hầu hết các thánh đường thời Phục Hưng đều được thiết kế như những pháo đài để đế phòng trường hợp thành phố bị cướp phá. Càng ít lối vào càng tốt. Anh nói:
- Nếu có một lối nữa thì chắc phải ở đằng sau. Là lối thoát ra ngoài thì đúng hơn là lối vào.
Chân Vittoria đã xăm xăm bước tới.
Langdon theo cô gái đi sâu thêm vào trong. Hai bên là hai bức tường cao ngất. Chuông nhà thờ đâu đó điểm 8 giờ…
***
Vittoria gọi anh, nhưng Langdon không nghe thấy. Anh đang dừng chân bên một khung cửa sổ bụi bặm, và cố nhòm vào bên trong.
- Robert! - Cô gái thì thào rất khẽ.
Langdon ngẩng lên. Vittoria đã đi đến cuối ngõ hẹp. Cô gái đứng lại đợi anh, tay chỉ về phía sau nhà thờ. Langdon phải chạy mới theo kịp. Dưới chân bức tường đằng sau thánh đường, một chiếc cổng được trố trên một mảng tường bao bằng đá - một lối đi hẹp dẫn xuống tầng hầm của nhà thờ.
- Lối vào đây có phải không? - Vittoria hỏi.
Langdon gật đầu. Thực ra là lối ra, nhưng không cần thiết phải tranh luận về chi tiết nhỏ này làm gì .
Vittoria quỳ xuống, nhòm vào con đường hầm.
- Thử vào xem thế nào, biết đâu cửa mở.
- Đợi đã! - Langdon nói.
Cô gái quay lại nhìn Langdon, vẻ sốt ruột.
Langdon thở dài:
- Để tôi đi trước.
Vittoria tỏ ra ngạc nhiên:
- Lại một cử chỉ nghĩa hiệp nữa ư?
- Tuổi tác nên dẫn đường cho cái đẹp.
- Đây có phải là lời ngợi khen không nhỉ?
Langdon cười mỉm, vượt lên trước cô gái, và bước vào vùng tối trước mặt.
- Cẩn thận cầu thang đấy.
Anh dò dẫm từng bước một trong bóng tối, một tay lần dọc theo bức tường, đầu ngón tay chạm vào một mảng tường xù xì.
Trong khoảnh khắc, Langdon chợt nhớ lại huyền thoại về Daedalus, cậu bé đã dùng một bàn tay để lần theo bức tường, thế mà có thể ra khỏi mê cung, chỉ vì biết rằng nếu chạm được vào bức tường là sẽ không bị lạc lối. Langdon tiến lên phía trước, dù trong thâm tâm không hề muốn một chút nào.
Càng đi càng thấy dường hầm dần dần hẹp lại, Langdon cũng bước chậm hơn. Vittoria vẫn theo sát gót anh. Bức tường ngoặt sang bên trái, và họ thấy một cái hốc hình bán nguyệt. Thật lạ, ở đây có ánh sáng mờ. Langdon lờ mờ trông thấy một khung cửa bằng gỗ nặng nề.
- Ái chà. - Anh thốt lên.
- Khoá à?
- Trước đây thôi.
- Sao lại trước đây thôi? - Vittoria đã đứng ngay cạnh anh.
Langdon đưa tay chỉ. Từ bên trong, một luồng sáng hắt ra, soi rõ cánh cửa mở hé… bản lề cửa đã bị bật tung ra, và thanh sắt được dùng làm dụng cụ vẫn còn dựng ngay cạnh đó.
Hai người lặng đi trong giây lát. Rồi trong bóng tối, Langdon thấy Vittoria lần tay vào ngực anh, sờ soạng trong túi áo khoác.
- Thư giãn đi nào, giáo sư. - Cô gái nói - Tôi chỉ lấy khẩu súng ra thôi mà.
Cũng vào lúc ấy, trong Bảo tàng Vatican, một đội lính gác Thuỵ Sĩ đang toả ra khắp mọi hướng. Bảo tàng tối om, và cả đội đều đeo loại kính nhìn xuyên bóng tối bằng tia hồng ngoại của hải quân Hoa Kỳ. Đeo cặp kính này vào, tất cả mọi vật đều chuyển thành một thứ màu xanh rất kỳ quái. Họ đeo những chiếc tai nghe gắn với một máy dò có hình ăng-ten đang đu đưa nhịp nhàng trước mặt - loại thiết bị họ vẫn dùng hai tuần mỗi lần để tìm máy nghe lén trong toà thánh. Cả nhóm di chuyển một cách trật tự và nhịp nhàng, kiểm tra từng bức tượng, từng hốc tường, từng ngăn tủ, thậm chí cả dưới gầm tủ. Những chiếc ăng-ten này sẽ phát tín hiệu báo động nếu phát hiện từ trường, dù vô cùng yếu.
Tuy nhiên, đêm nay họ chưa phát hiện được gì.
 
Được chiếu bởi một luồng ánh sáng yếu ớt, bên trong nhà thờ Santa Maria Del Popolo trông như một cái hang âm u. Nền điện chính đang bị lật tung lên để sửa, ngổn ngang những đất đá; bàn xoa, cuốc, và cả xe cút kít - thánh đường lúc này trông chẳng khác gì một nhà ga tàu điện ngầm chưa thi công xong. Những cây cột khổng lồ sừng sững chống đỡ cho mái vòm trên cao. Dù ánh sáng rất yếu, họ vẫn nhìn thấy vô số hạt bụi đang lởn vởn trong không khí. Langdon và Vittoria đứng giữa khung cảnh ngổn ngang, nhìn điện thờ đang bị cày xới tơi tả.
Không gian lặng ngắt. Sự yên ắng đầy chết chóc.
Vittoria dùng cả hai tay để giương khẩu súng lên. Langdon xem đổng hồ: 8 giờ 4 phút. Vào đây thế này thì đúng là mất trí thật rồi. Nguy hiểm quá, Langdon thầm nghĩ. Tuy nhiên, anh biết rằng nếu kẻ sát nhân có còn ở đây đi chăng nữa thì hắn cũng có thể ra ngoài bằng bất cứ cửa nào, và cuộc tập kích một súng của họ sẽ chẳng có tác dụng gì. Cách duy nhất là bắt quả tang đúng lúc hắn đang hành động… nhưng đấy là trong trường hợp hắn vẫn còn ở đây. Langdon cảm thấy thật áy náy, vì sai lầm của anh mà họ đã đến Pantheon và lỡ mất cơ hội. Lúc này anh chẳng còn tư cách gì để bàn đến chuyện có an toàn hay không nữa, chính anh đã đẩy mọi người vào tình thế bất lợi này.
Vittoria đưa mắt nhìn khắp nhà thờ một lượt, vẻ mặt khổ sở.
- Đây chính là nhà nguyện Chigi đấy à? - Cô thì thào hỏi.
Nhìn xuyên qua bầu không khí âm u ma quái, Langdon nhìn về phía cuối điện thờ và những mảng tường bao ngoài. Không như nhiều người vẫn lầm tưởng, các nhà thờ thời Phục Hưng đều gồm có nhiều nhà nguyện nhỏ, những nhà thờ lớn như Notre Damme còn có hơn chục nhà nguyện bên trong. Các nhà nguyện này trông giống những cái hốc hơn là những căn phòng thực thụ - chúng là những hốc tường hình bán nguyệt, kết nối các mộ phần xung quanh với bức tường ngoài của thánh đường.
Tin xấu rồi , Langdon thầm nghĩ khi trông thấy mỗi bên tường có tới bốn cái hốc. Ở đây có 8 nhà nguyện tất cả. Dù 8 chưa phải là một con số quá lớn, nhưng vì đang trong quá trình tu sửa, nên tất cả 8 nhà nguyện đều được phủ một lớp nilông trong suốt ở bên ngoài - chắc chắn là để tránh không cho bụi lọt vào những mộ phần bên trong.
- Có thể là bất cứ nhà nguyện phủ nilông nào trong số này. - Langdon đáp. - Nếu không nhìn vào bên trong từng hốc một thì không có cách gì xác định được đâu là nhà nguyện Chigi. Có lẽ chúng ta nên đợi đến khi Oli…
- Cái nào là nhà nguyện thứ hai bên trái? - Cô gái hỏi.
Langdon nhìn Vittoria, anh thấy ngạc nhiên về thuật ngữ ngành kiến trúc mà cô vừa nói - Nhà nguyện thứ hai bên trái á?
Vittoria đưa tay chỉ mảng tường sau lưng Langdon. Có một phiến đá được gắn trên tường được khắc những hình y hệt như anh vừa thấy ở bên ngoài nhà thờ: Kim tự tháp dưới ánh sao.
Cạnh đó là một tấm biển phủ đầy bụi với dòng chữ:
GIA HUY CỦA ALEXANDER CHIGI
MỘ PHẦN THỨ HAI BÊN TRÁI
Langdon gật đầu. Gia huy của Chigi cũng có hình Kim tự tháp và một ngôi sao à? Anh chợt băn khoăn, biết đâu nhà Mạnh Thường Quân giàu có Chigi cũng là người của hội Illuminati. Anh gật đầu với Vittoria:
- Giỏi lắm, Nancy Drew ạ.
- Gì cơ?
- Không có gì, tôi chỉ…
Một tấm kim loại bất chợt rơi xuống ngay sát chỗ họ đang đứng. Tiếng loảng xoảng ầm ỹ vang khắp cả nhà thờ. Vittoria chĩa ngay súng về phía có tiếng động, còn Langdon thì kéo cô gái vào sau một cây cột lớn. Im lặng. Họ đợi. Lại thấy động nữa, lần này là tiếng sột soạt. Langdon nín thở. Đáng ra mình không nên vào trong này mới phải! Tiếng động dần trở nên rõ hơn, từng chặp một như thể tiếng người đi cà nhắc. Rồi đối tượng của họ bất thắn xuất hiện từ sau một cây cột.
- Figlio di puttana !(1) - Vittoria vừa làu bàu vừa nhảy lùi lại.
Langdon cũng giật bắn người.
Cạnh cây cột con chuột cống khổng lồ đang tha cái bánh mì ai đó bỏ dở. Nhìn thấy họ, nó dừng lại hồi lâu, đưa mắt nhìn dọc theo nòng súng trên tay Vittoria, sau đó, rõ ràng là chẳng có cảm giác gì đặc biệt, nó tiếp tục tha chiến lợi phẩm của mình ra phía sau nhà thờ.
- Đồ chết dẫm! - Langdon thở hắt ra, trống ngực đập liên hồi.
Vittoria hạ súng xuống, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh.
Langdon nhìn về phía cây cột ban nãy và trông thấy một hộp đồ nghề của thợ mộc nằm xiên xẹo trên sàn, rõ ràng là vừa bị con chuột kia kéo rơi từ trên giá để đồ xuống.
Langdon đưa mắt quan sát thánh đường dài và sâu, rồi thì thầm:
- Nếu hắn vẫn còn ở trong này thì chắc chắn cũng nghe thấy tiếng loảng xoảng vừa xong. Có chắc là cô không muốn đợi Olivetti đến không?
- Mộ phần thứ hai bên trái là chỗ nào? - Vittoria lặp lại câu hỏi lúc trước.
Langdon đành phải miễn cưỡng quay lại để xác định phương hướng, các nhà thờ luôn được bài trí rất giống sân khấu, không thể dùng trực giác mà đoán hướng được. Anh quay mặt về phía điện thờ chính. Trung tâm sân khấu. Rồi Langdon chỉ tay ra sau vai.
Cả hai cùng quay lại và nhìn về hướng anh vừa chỉ.
Hình như nhà nguyện Chigi là cái thứ ba trong số bốn hốc tưởng bên phải. Tin tốt là Langdon và Vittoria đang ở đúng bên tay phải của thánh đường rộng. Tin xấu là họ ở tận đầu kia so với mộ phần đó. Họ sẽ phải đi dọc theo thánh đường, đi qua ba mộ phần khác, mà cái nào cũng được phủ một tấm nilông ở ngoài y hệt mộ phần của Chigi.
- Đợi đã! - Langdon bảo cô gái. - Để tôi đi trước.
- Không được.
- Tôi là người đã phạm sai lầm ở Pantheon.
Cô gái quay sang nhìn anh:
- Nhưng tôi lại là người đang cầm súng.
Nhìn vào mắt cô gái, Langdon có thể đoán được Vittoria đang nghĩ gì… Tôi là người vừa bị mất người cha yêu quý. Tôi chính là người góp phần tạo nên thứ vũ khí chết người đó. Da đầu của hắn phải thuộc về tôi…
Langdon thấy rằng nếu cố ngăn cản cũng chẳng ích lợi gì, nên để mặc cô gái. Anh đi dọc theo thánh đường, sát bên Vittoria.
Ngang qua mộ phần che nilông đầu tiên, anh cảm thấy căng thẳng như thể đang tham gia vào một trò chơi siêu thực nào đó. Mình sẽ vén bức màn thứ ba , anh thầm nghĩ.
Nhà thờ thật yên ắng, những bức tường đá dày đã chặn hết mọi âm thanh của thế giới bên ngoài. Trong khi hai người vượt qua hết mộ phần này đến mộ phần khác, những bóng người ốm yếu hiện lên trên những tấm nilông trong phủ dầy bụi, trông như ma. Đá cẩm thạch chạm khắc , Langdon tự nhủ, hi vọng lần này không nhầm lẫn nữa. Giờ đã là 8 giờ 6 phút tối. Không hiểu kẻ giết người có hành động chính xác và thoát ra ngoài trước khi anh và Vittoria vào đây không nhỉ? Hay hắn vẫn còn ở đây ? Langdon cũng không biết anh thích tình huống nào hơn.
Trong thánh đường mỗi lúc một tối dần hốc tường thứ hai trông khá rùng rợn. Những cánh cửa kính mốc meo, phủ dầy bụi bặm càng tạo cảm giác đêm xuống nhanh hơn. Đúng lúc họ đi qua, tấm rèm nhựa ngay sát hai người bỗng nhiên bay phấp phới, như thể một luồng gió vừa bất ngờ thốc vào. Langdon băn khoăn, không biết có phải một người nào đó vừa mở một cánh cửa hay không.
Gần đến nơi, Vittoria bước chậm lại. Có gái chĩa thẳng súng về phía trước, gật đầu ra hiệu bảo Langdon đọc tấm bia đá cạnh mộ phần. Có mấy chữ được khắc trên đá cẩm thạch:
NHÀ NGUYỆN CHIGI
Langdon gật đầu. Không một tiếng động, họ di chuyển vào trong hốc tường, nấp sau một cây cột lớn. Vittoria giương súng lên, chĩa vào tấm nilông trước mặt, xăm soi một hồi. Rồi cô ra hiệu bảo Langdon kéo tấm nilông ra.
Đây mới là lúc nên cầu nguyện đây. anh thầm nghĩ. Một cách miễn cưỡng, anh với tay qua vai cô gái. Hết sức thận trọng, Langdon kéo tấm nilông sang một bên. Được khoảng 2 cm thì tấm nilông bắt đầu kêu sột soạt. Cả hai cứng người lại. Lặng phắc. Một lát sau, Vittoria chậm rãi, nhoài người về phía trước, nhòm qua khe hở. Langdon nhìn qua vai Vittoria.
Trong thoáng chốc, cả hai đều nín thở.
- Trống không. - Cuối cùng Vittoria lên tiếng, cô hạ khẩu súng xuống. - Chúng ta muộn mất rồi.
Langdon không nghe thấy gì. Anh cảm thấy vô cùng kinh ngạc và như vừa mới lạc vào một thế giới hoàn toàn khác lạ. Anh chưa bao giờ tưởng tượng được một nhà nguyện đẹp đến thế này. Với từng màu chủ đạo là nâu hạt dẻ, nhà nguyện Chigi có một vẻ đẹp thật độc đáo. Con mắt sành sỏi của Langdon được thoả thê ngắm nghía. Nhà nguyện này không thể nào trần tục hơn được nữa, dường như chính Galileo và hội Illuminati đã trang trí cho mộ phần này.
Trên cao, mái vòm của nhà nguyện được chiếu sáng bởi những ngôi sao và bày hành tinh của hệ mặt trời đang phản chiếu ánh sáng. Dưới đó là 12 biểu tượng của hoàng đạo - những biểu tượng phi Thiên Chúa giáo và trần tục bắt nguồn từ thiên văn học. Hoàng đạo là một khái niệm gắn bó chặt chẽ với Đất, Khí, Lửa và Nước. Bốn cung phần tư tượng trưng cho quyền lực, trí tuệ nhuệ khí và cảm xúc. Đất tượng trung cho quyền lực , Langdon nhớ lại.
Trên tường, sâu vào trong, là biểu tượng của bốn mùa trong năm - xuân, hạ, thu, đông. Nhưng đáng kinh ngạc hơn cả chính là hai cấu trúc khổng lồ choán gần hết căn phòng.
Langdon lặng đi, say sưa chiêm ngưỡng. Không thể tưởng tượng được , anh thầm nghĩ. Không thể tưởng tượng được ! Nhưng hoàn toàn có thật. Hai bên nhà nguyện là hai Kim tự tháp bằng đá cẩm thạch cao 3 mét.
- Không thấy vị Hồng y nào cả. - Vittoria thì thào. - Cũng chẳng thấy hung thử. Cô gái kéo tấm nilông sang một bên rồi bước vào trong.
Langdon say sưa ngắm hai toà Kim tự tháp bằng đá cầm thạch. Chúng có chức năng gì trong một nhà nguyện Thiên chúa giáo nhỉ? Và không thể tin nổi, đó chưa phải là tất cả. Ở chính tâm của hai Kim tự tháp này là hai tấm phù hiệu bằng vàng… những tấm phù hiệu mà chưa bao giờ Langdon nhìn thấy… hình e-lip hoàn hảo. Hai chiếc đĩa bóng loáng này phản chiếu ánh mặt trời rọi xuống từ trên mái vòm. Phải chăng là hình e-lip, Kim tự tháp, và cả chòm sao của Galileo? Căn phòng này chứa trong nó nhiều biểu tượng của hội Illuminati hơn bất kỳ căn phòng nào Langdon có thể tưởng tượng được.
- Robert! - Vittoria kêu lên, giọng khiếp đảm - Nhìn kìa!
Langdon quay lại, nhìn theo hướng tay cô gái đang chỉ, quay về với thực tại.
- Quỷ thần ơi! - Anh thét lên, lùi ra xa.
Trên sàn nhà, một bộ khung xương đang chòng chọc nhìn hai người - một bức khảm chi tiết, cầu kỳ trên nền cầm thạch, mô phỏng thần chết đang bay. - Bộ khung xương này đang cầm một tấm bảng khắc những hình biểu tượng mà họ vừa trông thấy bên ngoài. Tuy nhiên, không phải những biểu tượng ấy làm máu trong người Langdon đông cứng lại mà vì hình chạm khắc này được thực hiện trên một phiến đá tròn đã được nhấc sang một bên y như một cái miệng cống, và giờ được để ghếch lên bên cạnh miệng hố hình tròn trên sàn.
- Hang quỷ đây rồi. - Langdon hổn hển nói. Quá mải mê với những trang trí trên trần nhà, anh đã không trông thấy nó. Mùi thối bốc lên nồng nặc.
Vittoria đưa hai tay lên che miệng.
- Kinh quá.
- Khí từ dưới xông lên đấy. - Langdon giải thích khí thoát ra từ các thi hài đang phân huỷ.
Anh lấy ống tay áo bịt mũi và cúi xuống miệng hố, nhìn xuống dưới. Đen ngòm.
- Chẳng trông thấy gì cả.
- Liệu dưới đó có người không nhỉ?
- Chỉ có trời mới biết.
Vittoria đưa tay chỉ một cái thang gỗ đã mọt dẫn xuống dưới, được ghếch lên miệng hố.
Langdon lắc đầu:
- Chẳng khác gì địa ngục.
- Biết đâu trong đống đồ nghề ngoài kia lại có cái đèn pin nào đó.
Dường như Vittoria muốn lấy cớ để chạy khỏi nhà nguyện hôi thối này:
- Để tôi ra xem sao.
- Cẩn thận đấy. - Langdon nói với theo. - Không biết chừng hung thủ vẫn còn…
Nhưng Vittoria đã chạy ra ngoài.
Quả là một phụ nữ mạnh mẽ , Langdon thầm nhận xét.
Anh quay lại miệng hố, mùi hôi thối nồng nặc đến mức Langdon thấy choáng váng. Nín thở, anh cúi đầu xuống dưới miệng hố để nhòm vào bóng tối mịt mùng bên dưới. Dần dần, khi mắt đã quen với bóng tối, Langdon bắt đầu trông thấy những hình bóng lờ mờ. Cái hố này hoá ra là một căn phòng nhỏ. Hang quỷ . Không hiểu bao nhiêu thế hệ nhà Chigi đã được lặng lẽ mai táng tại căn phòng này. Langdon nhắm mắt lại và đợi cho hai đồng tử giãn ra để nhìn được rõ hơn. Mở mắt ra, anh thấy một hình bóng câm lặng nhảy múa bên dưới. Langdon run lên, nhưng tụ ép bản thân không được ngồi nhỏm dậy. Mình trông thấy một cái gì đó. Không biết có. phải là xác chết không nhỉ? Hình bóng ấy mờ đi. Langdon lại nhắm mắt lần nữa và đợi, lần này lâu hơn, để cho hai mắt có thể thu nhận được những tia sáng yếu ớt nhất.
Bắt đầu có cảm giác chóng mặt, và tâm trí Langdon không thể tập trung nổi. Chỉ vài giây nữa thôi mà. Không hiểu vì nhịn thở và hít phải mùi thối hay vì chúi đầu xuống quá lâu mà Langdon bắt đầu thấy buồn nôn. Cuối cùng anh mở mắt ra, và cảnh tượng bày ra trước mắt thật không thể tin nổi.
Anh đang thấy một hầm mộ nhỏ tràn ngập thứ ánh sáng xanh kỳ quái Nghe có tiếng xì xì quanh đây. Ánh sáng lập lòe trên những mảng tường quanh miệng hố. Đột nhiên một bóng den dài xuất hiện ngay trước mặt Langdon. Giật bắn người, anh ngồi phắt dậy.
- Cẩn thận! - Có người kêu lên ngay sau lưng anh.
Chưa kịp quay lại, Langdon đã cảm thấy đau nhói sau gáy.
Vittoria đang quay đầu cây đèn xì ra khỏi gáy Langdon, ánh sáng xanh ma quái cùng với tiếng xì xì tràn ngập khắp nhà nguyện nhỏ.
Langdon chụp tay lên gáy:
- Cô đang làm cái quái gì thế hả?
- Tôi chiếu sáng cho anh mà. - Cô gái đáp. - Anh nhổm lên trúng vào cây đèn.
Langdon nhìn cây đèn xì trên tay Vittoria.
- Tôi tìm mãi mới được đấy. Không có đèn pin. - Cô gái nói.
Vittoria đưa cho anh cây đèn xì, mặt nhăn lại vì mùi thối.
- Loại khí này có bắt lửa không nhỉ?
- Hi vọng là không.
Anh cầm cây đèn và chầm chậm tiến lại bên miệng hố. Cẩn thận, Langdon đứng bên miệng hố, chĩa cây đèn xuống dưới, soi sáng mảng tường bên phải hầm mộ. Chiếu đèn sang hướng khác, anh trông thấy những bậc cầu thang dẫn xuống dưới.
Hầm mộ này có hình tròn, bán kính khoảng 6 mét. Cách mặt sàn 10 mét là nền hầm. Sàn của nó màu sẫm và không bằng phẳng. Trần tục. Rồi Langdon trông thấy một người.
Bản năng mách bảo anh hãy lùi lại.
- Đây rồi. - Langdon nói, tự ép mình đứng nguyên tại chỗ. Trên mặt sàn màu sẫm, người này có vẻ khá xanh xao.
- Hình như ông ấy đã bị lột hết quần áo.
Langdon rọi đèn vào thi thể trần trụi.
- Có phải một trong bốn vị Hồng y đây không?
Langdon chưa thể khẳng định chính xác, nhưng còn có thể là ai khác được nữa cơ chứ. Anh chăm chú quan sát khuôn mặt tái nhợt ấy. Bất động. Không còn sự sống. Nhưng mà… Langdon ngập ngừng. Tư thế của người này có cỏ vẻ gì đó rất lạ. Hình như là…
Langdon nói vọng xuống:
- Xin chào!
- Anh nghĩ rằng ông ấy còn sống à?
Không thấy người bên dưới trả lời.
- Không thấy cử động, - Langdon nói với Vittoria. - Nhưng mà trông ông ấy… Không thể nào.
- Trông ông ấy làm sao? - lúc này Vittoria cũng bắt đầu nhòm xuống dưới.
Langdon cố căng mắt nhìn:
- Trông như là ông ấy đang đứng.
Vittoria nín thở, cúi xuống để nhìn vào trong hầm mộ. Thoáng sau, cô lùi lại.
- Anh nói đúng. Ông ấy đang đứng! Biết đâu ồng ấy còn sống và đang cần chúng ta giúp đỡ! - Cô gọi xuống - Xin chào! Mi puó sentire ?(2)
Không thấy có tiếng vọng nào trong hầm mộ ẩm thấp. Yên lặng hoàn toàn.
Vittoria quay sang cái thang gỗ ọp ẹp:
- Tôi xuống xem thế nào.
Langdon túm tay cô gái:
- Đừng! Nguy hiểm lắm. Để tôi xuống!
Lần này thì Vittoria không phản đối.

Chú thích:
(1) Figlio di puttana: Con trai của kẻ ăn chơi.
(2) Mi puó sentire? - Có nghe thấy tôi nói không?
 
Chinita Macri tức phát điên. Cô đang ngồi trên hàng ghế sau, chiếc xe hòm của hãng BBC đang đỗ ở góc phố Via Tomacelli.
Gunther Glick đang săm soi bản đồ thành Rome, rõ ràng là đã bị mất phương hướng. Đúng như cô e ngại, người báo tin bí hiểm kia đã gọi lại, và lần này họ đã có thông tin cụ thể.
- Piazza Del Popolo. - Glick lẩm bẩm. - Đó là nơi chúng ta cần đến. Ở đó có nhà thờ, và bên trong là bằng chứng.
- Bằng chứng gì? - Chinita dừng tay lau ống kính máy quay, quay sang hỏi - Bằng chứng rằng một vị Hồng y Giáo chủ đã bị giết hại à?
- Anh ta nói chính xác như thế đấy.
- Anh tin anh ta thật đấy à?
Như bao lần khác, Chinita ước gì cô được là người đưa ra quyết định. Tuy nhiên, kỹ thuật viên camera luôn luôn phải tuân theo mọi ý tưởng kỳ quặc của các phóng viên. Nếu Gunther Glick muốn nghe theo sự chỉ dẫn của nhân vật nào đó qua điện thoại, thì Macri chỉ là một con chó bị xích vào dây của anh ta.
Chinita quan sát Glick. Anh ta đang ngồi trên ghế lái xe, có vẻ quyết làm bằng được chuyện này. Chắc chắn cha mẹ anh ta đều là diễn viên hài và đang lúc phẫn chí nên đặt cho anh ta cái tên Gunther Glick. Chả trách anh chàng lúc nào cũng sôi sùng sục muốn thể hiện bản thân mình. Tuy nhiên, dù vô cùng hăm hở và háo hức, Glick vẫn chỉ là một anh chàng làng nhàng và tầm thường… nhưng dễ mến. Gần giống như Hugh Grant.
- Hay là chúng ta quay lại nhà thờ St. Peter? - Macri cố tỏ ra nhẹ nhàng. - Sau đó chúng ta xác minh lại tin này cũng được mà. Mật nghị Hồng y đã bắt đầu được một giờ rồi. Nhỡ các Hồng y công bố quyết định đúng lúc chúng ta vắng mặt thì sao?
Glick dường như không muốn nghe thấy gì.
- Tôi nghĩ là chúng ta sẽ phải rẽ phải ngay ở chỗ này. - Anh ta xoay tấm bản đồ, rồi tiếp tục săm soi. - Đúng rồi, rẽ phải ở đây… sau đó rẽ trái ngay lập tức. Anh ta bắt đầu cho xe quay sang con phố nhỏ trước mặt họ.
- Cẩn thận! - Macri thét lên. Là kỹ thuật viên camera, cô có cặp mắt cực kỳ tinh tường. May mà Glick cũng nhanh nhẹn không kém. Anh ta đạp mạnh cần phanh, tránh khỏi ngã tư đúng lúc một đoàn bốn chiếc xe Alfa Romeo thình lình xuất hiện, lao nhanh như tên bắn. Vừa vượt qua sát mặt họ, lập tức cả bốn chiếc xe đều phanh lại, giảm tốc độ, rồi rẽ vào khu phố trước mặt. Chúng đi đúng con dường mà Glick đang định rẽ vào.
- Khủng khiếp! - Macri kêu lên.
Glick có vẻ giật mình.
- Cô có thấy không?
- Có chứ! Sao lại không! Suýt nữa họ cho chúng ta đi đời còn gì.
- Không, tôi nói đến những cái xe kia cơ mà. - Giọng Glick chợt trở nên vô cùng hào hứng.
- Tất cả đều cùng một loại.
- Tức là bọn họ vừa điên vừa không có một tí trí tưởng tượng nào.
- Cả bốn chiếc xe đều chật kín.
- Thì sao?
- Tình cờ là bốn chiếc xe giống hệt nhau, mỗi chiếc đều tình cờ chở bốn người sao?
- Anh chưa bao giờ nghe nói tới đội xe tuần tra à?
- Ở Ý á? Glick quan sát ngã tư. - Làm gì mà đã tân tiến được đến mức ấy. - Anh ta gạt cần tăng tốc lao theo bốn chiếc xe vừa chạy qua.
Macri bị hất ngược vào lưng ghế. - Anh đang làm cái quái gì thế hả?
Glick tăng tốc lao xuống phố rồi rẽ trái theo những chiếc xe Alfa Romeo.
- Linh cảm mách bảo tôi rằng chúng ta không phải là những kẻ duy nhất tìm đến nhà thờ đó.
Không thể leo xuống một cách nhanh chóng được.
Trong nhà nguyện Chigi, Langdon lần từng bậc trên chiếc thang cọt kẹt… mỗi lúc một xuống sâu thêm. Xuống hang quỷ, anh nghĩ thầm. Mặt Langdon hướng về bức tường, lưng quay về phía hầm mộ, lòng thầm hỏi không hiểu hôm nay anh sẽ còn phải xông vào bao nhiêu chỗ tối tăm tù túng kiểu này nữa. Mỗi bước chân của Langdon lại khiến cái thang gỗ như muốn rên lên, và mùi thịt đang phân huỷ, mùi ầm thấp cùng một lúc ập vào lỗ mũi khiến anh ngạt thở. Không hiểu lúc này Olivetti đang ở chỗ nào.
Vittoria đang đứng trên miệng hố, đưa cầy đèn xì xuống dưới để soi đường cho Langdon. Càng xuống sâu, ánh sáng toả ra từ đốm lửa càng yếu đi. Thứ duy nhất trở nên mạnh thêm chính là mùi hôi thối.
Xuống được mười hai bậc thì Langdon giẫm phải một bậc thang bị mục trơn nhãy và trượt chân. Anh vội nhoài người về phía trước, hai tay bám chặt vào bậc thang để khỏi rơi xuống dưới. Vừa nguyền rủa những vết trầy xước trên cánh tay, anh vừa bám chặt vào cái thang và tiếp tục trèo xuống.
Thêm được ba bậc nữa, Langdon lại suýt ngã, nhưng lần này chẳng có nấc thang nào bị mục. Thật hãi hùng. Anh vừa đối mặt với một cái hốc trong tường và trông thấy vô số đầu lâu ngay trước mặt. Cố giữ cho hơi thở đều đặn, anh nhìn quanh và nhận ra rằng ở độ sâu này thì tất cả các mảng tường đều có những hốc lõm như thế - hốc nào cũng đầy hài cốt. Trong ánh sáng xanh của đèn xì, cảm giác như cả một mê cung những hốc mắt trống toang hoác và những bộ khung xương đang trong quá trình phân huỷ vây chặt lấy Langdon.
Những bộ khung xương trong ánh lửa bập bùng, anh nhăn mặt đầy hài hước, nhớ lại cách đây đúng một tháng, anh cũng đã trải qua một buổi tối y như hôm nay. Một buổi tối với những bộ khung xương và ánh lửa bập bùng. Bữa ăn tối trong ánh nến để gây quỹ cho viện khảo cổ học New York - món cá ngừ sốt trong bóng của một bộ xương khủng long. Anh là khách mời của Rebecca Strauss người mẫu một thời, nay là bình luận viên trong chuyên mục nghệ thuật của tờ Thời báo , một trận cuồng phong với vải nhung đen, thuốc lá, và bộ ngực được tôn cao đầy khiêu khích. Từ hôm đó Rebecca đã gọi cho anh hai lần. Nhưng Langdon vẫn chưa trả lời cả hai cú gọi đó. Mình chả lấy gì làm mã thượng , anh tự la rầy bản thân. Không hiểu trong cái hố hôi thối này thì Rebecca sẽ chịu được bao lâu nhỉ.
Hết bậc thang cuối cùng, đặt chân xuống nến đất xốp và ẩm ướt Langdon thấy nhẹ cả người. Tự trấn an rằng các bức tường xung quanh sẽ không ùa vào quây chặt lấy mình, Langdon đưa mắt quan sát hầm mộ. Hình tròn, đường kính khoảng 6 mét. Lại tiếp tục lấy ống tay áo bịt mũi, Langdon quay lại nhìn cái xác. Trong ánh sáng yếu ớt, cái xác hiện ra lờ mờ. Một cái xác trắng ởn, nhẽo nhẹt, mặt quay về phía đối diện. Bất động. Im lìm.
Vừa bước dò dẫm trong hầm mộ âm u, Langdon vừa tự hỏi người này đang nhìn cái gì. Ông ta quay lưng lại nên Langdon không thể trông thấy mặt, nhưng rõ ràng là ông ta đang đứng.
- Xin chào. - Langdon đã sắp sửa chết ngạt đến nơi. Không thấy gì Đến gần hơn, anh nhận thấy người này rất thấp. Quá thấp…
- Có chuyện gì thế! - Từ trên cao, Vittoria hỏi vọng xuống, cây đèn xì trên tay cô gái hơi rung rung. Langdon không trả lơi. Anh đang đến gần để quan sát. Với cảm giác kinh tởm, anh dần hiểu ra sự việc Hầm mộ như đang co hẹp lại quanh Langdon. th.ân thể ông già này như một con quỷ nhô lên từ trong lòng đất. Một nửa th.ân thể thì đúng hơn. Ông ta bị chôn đến ngang thắt lưng trong đất. Bị đặt trong tư thế đứng, nửa người bị vùi dưới đất. Quần áo bị lột sạch. Hai tay bị trói quặt ra sau bằng chính chiếc khăn choàng của Hồng y. Tấm thân đã mềm rũ ra bị dựng thẳng lên, sống lưng ngả ra sau, y như một cái ba lô du lịch đã bị gãy sống bằng sắt ở trong. Đầu người này ngửa hẳn ra sau, mắt hướng lên thiên đường như thể đang cầu xin chúa xuống cứu giúp.
- Ông ấy chết rồi à? - Vittoria gọi xuống.
Langdon tiến lại gần cái xác. Hy vọng là thế để ông ấy đỡ phải chịu đựng. Còn cách không đầy 1 mét, Langdon nhìn vào đôi mắt đang hướng lên trên - chúng lòi hẳn ra ngoài, xám xịt và bê bết máu. Langdon cúi xuống để nghe hơi thở, nhưng lập tức lùi phắt ra. - Lạy chúa tôi.
- Gì thế?
Langdon gần như nghẹn lời.
- Ông ấy chết rồi. Tôi vừa phát hiện ra nguyên nhân! - Cảnh tượng thật khủng khiếp. Miệng vị Hồng y này đã bị găng ra, rồi bị lèn dầy đất. - Hung thủ đã nhét một nắm đất vào họng ông ấy. Ông ấy bị chết ngạt rồi.
- Đất à? Vittoria hỏi. - Đất phải không?
Langdon chợt nhớ ra đất . Anh gần như quên hẳn. Bốn thành tố Đất Khí, Lửa và Nước . Kẻ sát nhân đã đe doạ sẽ dùng bốn thành tố cổ xưa của khoa học để đóng dấu lên từng nạn nhân. Yếu tố đầu tiên là đất . Từ lăng mộ trần tục của Santi . Choáng váng vì mùi hôi thối, Langdon vòng ra trước mặt thi thể của vị Hồng y. Với hiểu biết sâu sắc về biểu tượng học, anh băn khoăn không hiểu biểu tượng đối xứng của Đất trông như thế nào. Nhưng chỉ sau tích tắc, biểu tượng ấy đã hiện ra ngay trước mắt. Bao thế kỷ tồn tại của hội Illuminati xoay đảo trong tâm trí Langdon. Ngực vị Hồng y già cả này đã bị nung cháy, và bê bết máu. d.a thịt cháy đen. Ngôn ngữ thuần khiết…
Langdon trân trối nhìn biểu tượng ấy, và bắt đầu thấy hầm mộ tròng trành xoay đảo.

- Đất! - Langdon lẩm bẩm, cố nghiêng đầu để nhìn biểu tượng này ngược từ dưới lên. - Đất!
Rồi kinh hãi đến tột độ, anh nhớ ra. Còn ba biểu tượng nữa.
Ánh nến dịu dàng soi sáng nhà nguyện Sistine không thể khiến Hồng y Mortati cảm thấy yên lòng. Mật nghị Hồng y đã chính thức bắt đầu. Và đã bắt đầu với điềm gở.
Nửa giờ trước, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã bước vào nhà nguyện theo đúng thể thức. Ngài đã bước đến trước bàn thờ chúa và đọc diễn văn khai mạc. Sau đó, viên Thị thần của cố Giáo hoàng mở rộng hai bàn tay, và phát biểu với thái độ vô cùng thẳng thắn, thẳng thắn đến mức chưa từng có trong nhà nguyện Sistine, trước bàn thờ chúa.
- Các vị đều biết rõ là bốn vị Hồng y được lựa chọn hiện không có mặt ở đây trong Mật nghị Hồng y của chúng ta. - Giáo chủ Thị thần nói - Nhân danh cố Giáo hoàng, tôi đề nghị các vị hãy vì đức tin và sứ mệnh của mình, hãy tiến hành nghi lễ. Cầu Chúa phù hộ để Mật nghị của chúng ta có được một lựa chọn sáng suốt. - Sau đó Giáo chủ Thị thần đi ra ngoài.
Một Hồng y Giáo chủ lên tiếng:
- Nhưng các ngài ấy đâu?
Giáo chủ Thị thần dừng lại:
- Điều đó thì quả thực là tôi không thể nói ra.
- Khi nào thì họ sẽ trở lại đây?
- Điều đó quả thực là tôi không thể nói ra.
- Các ngài ấy đều bình an chứ?
- Điều đó thì tôi không dám khẳng định.
- Liệu các ngài ấy có trở về đây hay không ?
Im lặng hồi lâu.
- Xin các ngài hãy giữ đức tin. - Giáo chủ Thị thần nói rồi ra khỏi phòng.
Theo đúng truyền thống, cánh cửa dẫn vào nhà nguyện được khoá ngoài bằng hai vòng xích. Ngoài hành lang có bốn lính Thuỵ Sĩ đứng gác. Hồng y Mortati biết rằng từ giờ đến lúc bầu xong Giáo hoàng mới, chỉ có một cách duy nhất để mở cánh cửa đó ra - một là có người bên trong bị ốm nặng, hai là những người được lựa chọn quay trở lại. Đức cha cầu mong rằng tình huống thứ hai sẽ xảy ra, dù trong thâm tâm, cha không mấy tin tưởng rằng sẽ có chuyện đó.
Ý chí mạnh mẽ thể hiện trong giọng nói của Giáo chủ Thị thần đã giúp Hồng y Mortati đưa ra quyết định, vì bổn phận trước Chúa, chúng ta phải tiến hành. Và cha đã tiến hành bỏ phiếu. Còn có thể làm được gì khác nữa đây?
Phải mất 30 phút thì Hồng y Mortati mới làm xong những nghi lễ mở đầu cho lần bỏ phiếu đầu tiên vì kiên nhẫn đợi bên bàn thờ. Theo thứ bậc từ cao xuống thấp, các vị Hồng y Giáo chủ đến bên bàn thờ và tiến hành chính xác thủ tục bỏ phiếu.
Rồi vị Hồng y cuối cùng cũng đã đến bên bàn thờ và quỳ xuống.
- Xin chúa Ki tô chứng giám, lá phiếu của con sẽ dành cho người mà con tin rằng nên được bầu.
Vị Hồng y này tuyên bố, y hệt như các vị khác đã làm trước đó.
Vị Hồng y đứng dậy, giơ lá phiếu lên cao cho tất cả các Hồng y trong phòng nhìn thấy. Sau đó hạ lá phiếu xuống chiếc đĩa đặt trên chiếc chén thánh lớn. Vị này cầm đĩa lên, sau đó trút lá phiếu của mình vào trong chén thánh. Dùng đĩa thế này để đảm bảo rằng mỗi vị Hồng y chỉ có thể bỏ một lá phiếu duy nhất.
Dốc xong lá phiếu vào chén thánh, vị Hồng y này đặt lại cái đĩa lên miệng chén, cúi lạy cây thánh giá, rồi quay về chỗ ngồi của mình.
Lá phiếu cuối cùng đã được bỏ.
Giờ đã đến lúc Hồng y Mortati làm công việc của mình. Một tay giữ cái đĩa trên miệng chén thánh. Hồng y Mortati có cái cốc vài lần để đảo vị trí các lá phiếu, sau đó bỏ đĩa sang một bên, nhặt ngẫu nhiên từng lá phiếu lên và mở ra, lá phiếu có bề ngang đúng 5,8 cm. Cha đọc to lên cho tất cả mọi người đều nghe thấy.
Cha đọc hàng chữ được in sẵn ở hàng trên cùng trong phiếu bầu. "Tôi bầu người sau đây vào vị trí Giáo hoàng…" Rồi cha đọc tên người được bầu ở bên dưới. Xướng tên xong, cha giơ kim chỉ lên, chọc kim đúng vào chữ Eligo, cẩn thận đẩy nhẹ tờ phiếu theo sợi chỉ. Cuối cùng, cha chú thích vào trong sổ nhật ký bầu chọn.
Sau đó, Hồng y Mortati lại lặp lại đầy đủ những thủ tục ấy: nhặt một lá phiếu trong chén thánh, đọc to lên, rồi ghi vào sổ nhật ký bầu chọn. Ngay lập tức, Hồng y Mortati biết là lần bỏ phiếu đầu tiên đã không thành. Không có sự đồng thuận. Mới đọc bảy lá phiếu đã thấy tên những bảy vị Hồng y. Và như thường lệ, mọi người giấu nét chữ viết tay điển hình của mình bằng cách viết chữ vuông hoặc chữ thật bay bướm - một động tác thật mỉa mai vì trong trường hợp này họ bầu cho chính bản thân mình. Nhưng cha biết rằng sự lừa dối này không xuất phát từ lòng tự tôn hay tham vọng cá nhân, nó chỉ là một cách để kéo dài thời gian. Một biện pháp phòng vệ - mục đích của nó là để không một vị Hồng y nào có đủ số phiếu trúng cử… để buộc phải tiến hành vòng bỏ phiếu lần hai.
Tất cả các vị giáo chủ đều muốn đợi những người được lựa chọn…
Sau khi kiểm xong lá phiếu cuối cùng, Hồng y Mortati tuyên bố vòng bỏ phiếu đã thất bại . Ngài cột hai đầu sợi chỉ lại, buộc tất cả các lá phiếu vào với nhau, sau đó đặt lên một cái đĩa bằng bạc và rắc hoá chất lên trên, rồi mang chiếc đĩa lại bên ống khói sau lưng và châm lửa. Khi các lá phiếu bốc cháy, hoá chất vừa được rắc lên sẽ tạo ra một làn khói đen. Theo ống khói này, làn khói sẽ bay lên nóc nhà nguyện để mọi người nhìn thấy. Hồng y Mortati vừa gửi thông điệp đẩu tiên ra thế giới bên ngoài.
Một vòng bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.
 
Tưởng như sắp chết đến nơi vì mùi thối, Langdon loạng choạng trèo lên trên chỗ có ánh sáng trên miệng hầm mộ. Anh nghe thấy nhiều giọng nói trên đó, nhưng chẳng hiểu gì cả. Biểu tượng của Illuminati trên ngực đức Hồng y giáo chủ xấu số quay cuồng trong tâm trí anh. Đất. đất. Leo lên gần đến nơi, thị lực của anh bỗng nhiên giảm hẳn, Langdon như sắp ngất. Còn hai bậc thang nữa thì anh bị trượt chân. Langdon dưới người lên, cố bám lấy bậc thang bên trên, nhưng với không đến. Anh tuột tay, và suýt nữa thì rơi xuống hầm mộ tối om. Hai cánh tay đau nhức, rồi đột nhiên Langdon thấy mình lơ lửng trong không trung, và lắc lư ngay trên miệng hầm.
Những cánh tay mạnh mẽ của hai người lính gác Thuỵ Sĩ xốc nách Langdon và kéo anh lên. Trong giây lát, anh đã nhô đầu lên trên miệng hầm và thở hổn hển. Họ kéo anh qua cái nắp hầm hình tròn, rồi đặt anh nằm ngửa trên mặt sàn cẩm thạch.
Lúc này Langdon không nhớ nổi mình đang ở đâu. Anh thấy những ngôi sao ở ngay trên đầu… những hành tinh đang quay trong quỹ đạo. Những hình bóng lờ mờ lướt qua trước mắt. Mọi người đang quát tháo. Anh cố nhổm người dậy và thấy mình đang nằm ngay dưới chân Kim tự tháp. Một giọng nói quen thuộc đang quát tháo ầm ỹ làm Langdon tỉnh táo hẳn.
Olivetti đang quát mắng Vittoria:
- Tại sao các vị không phát hiện ra chỗ này ngay từ đầu?
Vittoria đang cố gắng giải thích tình hình. Cô gái chưa nói hết câu thì ông ta đã quay sang quát tháo đám nhân viên của mình.
- Đưa đức Hồng y ra khỏi chỗ đó mau! Lục soát toàn bộ nhà thờ!
Langdon gắng sức ngồi dậy. Nhà nguyện Chigi đặc những lính gác Thuỵ Sĩ. Tấm nilông che lối vào đã bị xé toạc đì, không khí trong lành ùa vào hai lá phổi của Langdon. Các giác quan dần dần hồi phục trở lại, Langdon thấy Vittoria tiến lại bên anh, vẻ mặt như một thiên thần.
- Anh ổn chứ? - Vittoria cầm tay anh để bắt mạch. Những ngón tay dịu dàng chạm vào d.a thịt Langdon.
- Cảm ơn. - Lúc này thì Langdon đã ngồi được ngay ngắn. - Olivetti điên mất rồi.
Vittoria gật đầu:
- Ông ấy có quyền làm như thế. Lúc đầu chúng ta đã sai lầm mà.
- Sai lầm của tôi đấy chứ.
- Vậy thì anh hãy chuộc lỗi đi. Lần sau thì phải tóm được hắn.
Lần sau, Langdon thấy lời động viên này thật ác. Làm gì còn lần nào khác nữa! Chúng ta thua mất rồi!
Vittoria xem đồng hồ đeo tay của Langdon.
- Mickey nói rằng chúng ta còn 40 phút nữa. Anh hãy tỉnh táo lại đi để giúp tôi tìm đầu mối thứ hai.
- Tôi đã nói rồi, Vittoria, các tác phẩm điêu khắc giờ không còn nữa. Con dường ánh sáng bây giờ… - Langdon chợt bỏ dở câu nói.
Vittoria mỉm cười dịu dàng.
Đột nhiên Langdon loạng choạng đứng lên. Anh liên tục quay đầu hết vòng này đến vòng khác, chăm chú nhìn những hình vẽ và tác phẩm nghệ thuật quanh mình. Kim tự tháp, những ngôi sao, các hành tinh, hình e-lip. Đột nhiên anh nhận ra tất cả. Đây mới chính là bàn thờ khoa học đầu tiên! Đây chứ không phải điện Pantheon!
Lúc này anh mới hiểu thế nào là nhà nguyện của hội Illuminati, tinh tế hơn cung điện Pantheon trứ danh nhiều! Nhà nguyện Chigi là một góc kín đáo, đúng ra thì nó chỉ là một cái hốc tường, một công trình để tôn vinh nhà Mạnh Thường Quân vĩ đại của khoa học, và được trang trí bằng những hình tượng rất thế tục.
Thật là hoàn hảo .
Langdon đứng trước bức tường, chăm chú quan sát hình Kim tự tháp khổng lồ được khắc trên đá. Vittoria nói hoàn toàn đúng. Nếu nhà nguyện này chính là bàn thờ khoa học đầu tiên thì ở đây phải có tác phẩm điêu khắc được dùng để chỉ hướng.
Langdon chợt thấy một luồng điện xuyên khắp toàn thân, hoá ra anh vẫn còn cơ hội. Nếu dấu hiệu chỉ đường vẫn còn nguyên ở đây thì họ có thể lần theo dấu để tìm ra bàn thờ khoa học tiếp theo, và vẫn còn cơ hội tóm được hung thủ.
Vittoria đến bên Langdon:
- Tôi đã biết người nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati là ai rồi.
Langdon quay phắt lại:
- Gì cơ?
- Giờ chúng ta chỉ việc xác định xem tác phẩm điêu khắc nào ở đây chính là…
- Gượm đã nào! Cô biết nhà điêu khắc của hội Illuminati à?
Langdon đã dành cả một thập kỷ để tìm cái tên đó.
Vittoria mỉm cười:
- Chính là Bernini. - Cô gái ngừng một lát. - Là Bernini.
Langdon biết ngay cô gái đã nhầm. Không thể nào là Bernini được. Gianlorenzo Bernini cũng là nhà điêu khắc nổi tiếng của mọi thời đại, danh tiếng của ông chỉ kém mỗi Michelangelo mà thôi. Trong suốt thế kỷ XVII, Bernini đã sáng tạo ra nhiều tác phẩm hơn bất kỳ nghệ sĩ nào khác. Tiếc là họ đang tìm một nghệ sĩ khác, một người vô danh.
Vittoria nhíu mày:
- Trông anh chả có tí hào hứng nào.
- Không thể là Bernini được.
- Sao không? Bernini cũng cùng thời với Galileo. Lại cũng là một nghệ sĩ điêu khắc thiên tài.
- Ông ấy rất nổi tiếng và rất sùng đạo Cơ đốc.
- Đúng thế. Ý hệt như Galileo. - Vittoria đáp.
- Không. - Langdon tranh luận. - Chẳng giống Galileo chút nào.
Galileo là cái gai trong con mắt của Vatican. Còn Bernini lại là cục cưng của tăng đoàn. Giáo hội cưng chiều Bernini. Ông ấy còn được chọn là người phụ trách các công trình nghệ thuật cho Vatican. Thậm chí ông ấy còn sống trong khuôn viên toà thánh suốt đời cơ mà!
Một lớp vỏ bọc hoàn hảo. Chiến thuật cài người của Illuminati.
Langdon thấy bối rối.
- Vittoria này, những thành viên của Illuminati vẫn nhắc đến người nghệ sĩ của họ bằng cụm từ bậc thầy vô danh.
- Đúng thế, vô danh đối với riêng họ thôi. Anh hãy nghĩ về những bí mật của hội Tam Điểm mà xem - chỉ những thành viên cao cấp nhất mới được biết toàn bộ sự thật. Có thể là Galileo giữ bí mật về danh tính của Bernini và không cho các thành viên khác biết… vì sự an toàn của chính nghệ sĩ này. Vì thế cho nên Vatican mới không thể phát hiện ra ông ấy.
Langdon vẫn chưa tin hẳn, nhưng buộc phải thừa nhận là những lập luận của Vittoria rất có ý nghĩa. Hội Illuminati vẫn nổi tiếng về phương pháp giữ bí mật đặc biệt này, chỉ những thành viên cấp cao mới được biết toàn bộ sự thật. Đó chính là yếu lố then chốt để đảm bảo sự bí mật của cả hội… rất ít người được biết toàn bộ sự thật.
Và bởi vì Bernini là người mà hội Illuminati cài vào toà thánh cho nên mới có hình hai Kim tự tháp như thế này. - Vittoria mỉm cười Langdon quay sang ngắm hai bức điêu khắc khổng lồ và lắc đầu: Bernini là một nhà điêu khắc sùng đạo. Không có lý gì ông ấy lại khắc hai Kim tự tháp này.
Vittoria nhún vai:
- Anh hãy khẳng định điều đó với tấm biển sau lưng kia kìa.
Langdon quay sang nhìn tấm biển:
MỸ THUẬT Ở NHÀ NGUYỆN CHIGI
Kiên trúc sư là Raphael,
Những trang trí nội thất do Gianlorenzo Bernini đảm nhiệm .
Langdon đọc tấm biển hai lần, vẫn chưa cảm thấy thuyết phục.
Gianlorenzo Bernini nổi tiếng với những tác phẩm điêu khắc rất thánh thiện như Đức mẹ đồng trinh Mary, các thiên thần, những nhà thông thái, và các Giáo hoàng. Ông ấy tạc hai Kim tự tháp này để làm gì?
Langdon ngước lên nhìn hai bức điêu khắc cao ngất, hoàn toàn mất phương hướng. Hai Kim tự tháp, mỗi bên một cái đĩa hình e-líp sáng loáng. Trông chẳng có chút hơi hướng Thiên Chúa giáo nào. Hai Kim tự tháp, các vì sao trên trời, biểu tượng hoàng đạo. Trang trí nội thất do Gianlorenzo Bernini đảm nhiệm.
Nếu như vậy thì quả là Vittoria đã nói đúng. Tức là Bernini là nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati, không một bàn tay nào khác liên quan đến những tác phẩm nghệ thuật trong nhà nguyện này! Langdon không thể tiếp nhận thông tin này một cách dễ dàng.
Bernini là người của hội Illuminati.
Bernini đã sáng tạo ra các biểu tượng đối xứng hai chiều của hội Illuminati.
Bernini là người đã đánh dấu con đường ánh sáng .
Langdon không nói nên lời. Có thể nào chính tại nhà nguyện bé nhỏ này, bậc thầy Bernini đã đặt tác phẩm điêu khắc chỉ ra con đường đến bàn thờ khoa học thứ hai ngay trong thành Rome?
- Bernini. Tôi không thể tưởng tượng nổi.
Nếu không phải là một nghệ sĩ lừng danh của Vatican thì ai là người có đủ tài năng để rải các tác phẩm nghệ thuật của mình khắp thành Rome mà đánh dấu con đường ánh sáng đây? Chắc chắn không thể là người không có tên tuổi rồi.
Langdon phân vân. Anh nhìn hai Kim tự tháp, băn khoăn liệu một trong hai kim tự tháp có thể là dấu hiệu để lần theo hay không. Hay là cả hai? Hai Kim tự tháp này quay về hai hướng khác nhau. Langdon nói:
- Tôi không dám khẳng định là có thể hiểu được hàm ý của chúng. Hai tác phẩm này quá giống nhau, không biết phải…
- Nhưng tôi nghĩ rằng đó không phải là thứ chúng ta cần tìm.
- Ở đây làm gì có tác phẩm điêu khắc nào khác.
Vittoria đưa tay chỉ về phía Olivetti và mấy người lính gác Thuỵ Sĩ đang đứng bên miệng hang quỷ.
Langdon đi theo hướng tay chỉ của cô gái đến bức tường ở đằng xa. Lúc đầu anh không trông thấy gì. Rồi một người lính đứng dịch đi một chút, anh thoáng nhìn thấy. Đá cầm thạch trắng. Cánh tay. Thân mình. Rồi một khuôn mặt được tạc trên đá. Nửa bị che khuất bởi hốc tường. Hai bức tượng to bằng người thật quấn chặt lấy nhau. Mạch Langdon đập rộn. Quá chú ý đến Kim tự tháp và hang quỷ, anh đã không trông thấy tác phẩm này.
Langdon băng qua căn phòng, chen qua đám lính gác Thuỵ Sĩ. Đến gần, anh nhận ra chất Bernini không thể trộn lẫn - bố cục đầy xúc cảm, khuôn mặt được chạm khắc tỉ mỉ, trang phục buông thùng xuống, trên nền đá cẩm thạch trắng, loại trắng nhất mà Vatican có thể mua được bằng tiền. Đứng nhìn hai khuôn mặt trên đá, Langdon thở dốc.
- Họ là ai? - Vittoria đã đến đứng cạnh anh, cô gái lên tiếng.
Langdon kinh ngạc.
- Habakkuk và Thiên thần , - anh nói, gần như thì thầm. Đây là một tác phẩm khá nổi tiếng của Bernini, và được nhắc đến trong một số giáo trình về lịch sử nghệ thuật. Langdon quên mất rằng nó được đặt chính tại đây.
- Habakkuk?
- Ừ. Nhà tiên tri đã tiên đoán về sự diệt vong của trái đất.
Vittoria có vẻ lo lắng:
- Theo anh đây có phải là dấu hiệu dẫn đường không?
Langdon gật đầu, vẫn chưa hết sững sờ. Chưa bao giờ anh cảm thấy một niềm tin chắc chắn hơn thế này. Đây chính là dấu hiệu đầu tiên của hội Illuminati. Không còn nghi ngờ gì nữa. Dù đoán rằng dấu hiệu sẽ chỉ ra bàn thờ khoa học tiếp theo, Langdon không ngờ nó lại rõ ràng đến mức này. Cả thiên thần lẫn Habakkuk đều giương thẳng cánh tay và chỉ vào trong không trung.
Langdon bất giác mỉm cười:
- Cũng không đến nỗi quá khó hiểu, phải không?
Vittoria có vẻ rất phấn khởi, nhưng không hiểu.
- Tôi cũng thấy là họ đang chỉ, nhưng hai người chỉ về hai hướng ngược nhau. Thiên thần chỉ một đằng, còn nhà tiên tri thì chỉ hướng ngược lại.
Langdon cười khùng khục. Quả thế thật. Dù cả hai bức tượng đều chỉ tay vào trong không trung, chúng chỉ những hướng hoàn toàn ngược nhau. Nhưng Langdon đã giải xong câu đố này. Chợt cảm thấy mình lại tràn đầy sinh lực, anh quay ngay ra cửa.
- Anh đi đâu đấy? - Vittoria gọi.
- Ra ngoài trời! - Langdon lại đã có thể bước đi phăm phăm. - Tôi xem bức tượng chỉ về hướng nào!
- Từ từ đã nào! Anh đã biết là phải theo chỉ dẫn của tượng nào chưa?
- Bài thơ đấy! - Langdon đáp. - Dòng cuối cùng!
Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả ? Cô gái ngước lên cánh tay của thiên thần. Bất chợt hai mắt Vittoria nhoà lệ:
- Lạy chúa tôi!
Gunther Glick và Chinita Macri đang ở trong chiếc xe hòm của hãng BBC tại quảng trường Popolo. Họ đến đây ngay sau đội xe Alfa Romeo, và vừa kịp để chứng kiến một chuỗi sự kiện cực kỳ khác thường. Chưa biết những gì trông thấy có ý nghĩa gì, nhưng Chinita vẫn bật máy quay.
Vừa đến nơi, lập tức Chinita và Glick trông thấy một đội thanh niên trẻ lao ra từ bốn chiếc xe đỗ quanh nhà thờ, còn giương sẵn súng ống. Một người đàn ông đã luống tuổi, vẻ rắn rỏi, dẫn một đội qua cửa chính vào trong nhà thờ. Họ lấy súng phá tan khoá cửa. Macri không nghe thấy gì, cô đoán súng của họ có lắp bộ phận giảm thanh. Rồi những người lính vào bên trong.
Chinita đề nghị ngồi im trong xe để quay phim. Suy cho cùng thì súng vẫn là súng, vả lại ngồi đây cũng có thể quan sát rất tốt. Glick cũng không có ý kiến gì. Lúc này, bên kia quảng trường, người đi ra đi vào tấp nập, gọi nhau ý ới.
Chinita điều chỉnh ống kính để theo sát một toán lính đang sục sạo xung quanh nhà thờ. Tất cả bọn họ, dù đang mặc quần áo dân sự, đều di chuyển với sự chuẩn xác của cánh nhà binh.
- Theo anh thì họ là ai? - cô hỏi.
- Tôi làm thế quái nào mà biết được. - Glick ngồi như mọc rễ trên ghế. - Quay được hết đấy chứ?
- Không sót chút nào.
Glick tỏ vẻ tự mãn:
- Giờ cô còn muốn về đợi tin Giáo hoàng nữa không nào?
Chinita không biết nói gì. Chắc chắn ở đây đang có chuyện, nhưng cô đã hoạt động trong lĩnh vực báo chí lâu năm, và biết rằng nhiều sự kiện trông có vẻ hấp dẫn nhưng thực ra lại chẳng gây ấn tượng gì.
- Chưa có gì chắc chắn cả. Rất có thể những anh chàng này cũng nhận được cùng một cú gọi giống như chúng ta và đang kiểm tra thôi. - Cô đáp. - Biết đâu chỉ là báo động giả.
Glick chộp lấy cánh tay cô:
- Kia kìa! Chú ý! - Anh ta chỉ về phía nhà thờ.
Chinita xoay máy về hướng đó.
- Xin chào anh bạn. - Cô vừa căn tâm hình vào đúng người đàn ông mới. Từ trong nhà thờ bước ra.
- Gã nhanh nhẹn đó là ai thế?
Chinita quay cận cảnh.
- Chưa thấy mặt bao giờ. - Cô quay sát khuôn mặt và nụ cười của người đó - Nhưng nếu được gặp lại thì tôi không phản đối đâu.
Robert Langdon chạy xuống cầu thang và ra giữa quảng trường. Trời đang tối dần, ngày xuân ở thành Rome thường khá dài. Mặt trời đã khuất sau những toà nhà xung quanh, bóng tối bắt đầu tạo thành những vệt ngang dọc khắp quảng trường.
- Được rồi Bernini. - Langdon tự nói một mình. - Thiên thần chỉ về nơi nào không biết.
Langdon quay lại nhìn kỹ hướng của nhà thờ. Anh tưởng tượng nhà nguyện Chigi bên trong với bức điêu khắc Thiên thần và nhà tiên tri . Không chút do dự, Langdon quay về hướng Tây, về hướng mặt trời sắp lặn. Thời gian đang cạn dần.
- Tây Nam. - Langdon nói và cau có nhìn những quầy bán hàng che khuất mất tầm nhìn. - Dấu hiệu tiếp theo ở hướng kia kìa.
Langdon vắt óc hồi tưởng lại từng giai đoạn lịch sử nghệ thuật của nước Ý. Dù rất quen thuộc với các tác phẩm của Bernini, Langdon biết nghệ sĩ này đã sáng tạo ra vô số tác phẩm, và những người không chuyên như anh không bao giờ nhớ hết được. Tuy nhiên, nếu xem xét mức độ nổi tiếng của dấu hiệu đầu tiên - Habakkuk và thiên thần - Langdon hi vọng dấu hiệu thứ hai cũng là một tác phẩm mà anh đã biết.
Đất, Khí, Lửa và Nước . Anh nghĩ Đất thì họ đã tìm được trong nhà nguyện Chigi - Habakkuk, người đã tiên đoán về sự diệt vong của trái đất.
Tiếp theo sẽ là Khí. Langdon cố động não. Một tác phẩm của Bernini có liên quan đến Khí! Trí nhớ anh hoàn toàn trống rỗng. Nhưng trong trái tim thì tràn trề sinh lực. Mình đang đứng trên con đường ánh sáng! Con đường này vẫn còn nguyên vẹn!
Nhìn về hướng Tây Nam, Langdon căng mắt tìm một cái tháp chuông, hay mái chóp nhọn nhà thờ. Chẳng thấy gì. Cần phải có bản đố. Nếu biết được nhà thờ nào nằm ở phía Tây Nam, biết đâu anh lại nảy ra ý tưởng nào đó. Khí, anh cố vắt óc. Khí. Bernini. Điêu khắc. Khí. Nghĩ đi!
Langdon quay lại, lao vào trong nhà thờ. Đến chân cầu thang thì anh gặp Olivetti và Vittoria đang chạy trở ra.
- Hướng Tây Nam, - Langdon vừa nói vừa thở hổn hển. - Nhà thờ tiếp theo nằm về hướng Tây Nam.
Olivetti lạnh lùng khẽ hỏi:
- Lần này có chắc không đấy?
Langdon chẳng để tâm.
- Cần một cái bản đồ. Bản đồ các nhà thờ ở Rome.
Viên chỉ huy chòng chọc nhìn Langdon một hồi, mặt lạnh tanh.
Langdon xem đồng hồ.
- Chúng ta chỉ còn có nửa giờ nữa thôi.
Olivetti bước qua trước mặt Langdon, ra chỗ đỗ xe ngay trước cửa chính nhà thờ. Langdon hi vọng ông ta đi lấy bản đồ.
Vittoria có vẻ rất phấn khởi:
- Thiên thần chỉ về hướng Tây Nam à? Anh không biết nhà thờ nào nằm hướng đó sao?
- Toà nhà chết dẫm kia làm tôi chả nhìn thấy gì cả. - Langdon lại quay ra nhìn những toà nhà bao quanh quảng trường. - Vả lại tôi cũng không thông thạo lắm về các nhà thờ ở thành Rome… - Chợt anh ngừng bặt.
Vittoria có vẻ giật mình:
- Gì thế?
Langdon lại quay ra nhìn quảng trường. Bước lên mấy bậc cầu thang, giờ anh đã ở cao hơn một chút. Vẫn chưa nhìn thấy gì, nhưng anh nhận thấy mình đang đi đúng hướng. Mắt Langdon ngước lên giàn giáo ngổn ngang cao ngất ngay trước mặt tiến nhà thờ. Cao những sáu tầng, lên gần đến chóp nhà thờ, cao hơn nhiều so với những toà nhà bao quanh quảng trường. Ngay tức khắc anh biết phải làm gì.
Bên kia quảng trường, Gunther Glick và Chinita Macri vẫn ngồi nguyên trong chiếc xe truyền hình lưu động của hãng BBC.
- Quay được cảnh vừa rồi chứ? - Gunther hỏi.
Macri chỉnh ống kính, hướng về người đàn ông đang trèo lên giàn giáo. - Anh chàng này ăn mặc quá bảnh nên không hợp với vai người nhện.
- Thế còn phu nhân của người nhện là ai thế?
Chinita liếc nhìn cô gái xinh đẹp đứng bên dưới giàn giáo:
- Tôi cá là anh sẽ tìm hiểu bằng được đấy.
- Có lẽ tôi nên gọi cho tổng biên tập.
- Đừng vội. Xem thế nào đã. Tốt nhất là có cái gì chắc chắn trong tay rồi hãy lộ chuyện bỏ không trực tin về Mật nghị Hồng y .
- Liệu có đúng là thằng cha nào đó đã giết chết một lão khọm già không nhỉ?
Chinita mắng:
- Sau này anh phải xuống địa ngục là cái chắc.
- Và sẽ mang theo giải Pulitzer xuống dưới đó.
 
Càng lên cao, giàn giáo càng lắc lư. Tuy nhiên, cứ mỗi bước Langdon lại thấy toàn cảnh thành phố rõ nét hơn. Anh tiếp tục leo lên.
Lên đến giàn trên cùng, Langdon thở hổn hển. Anh đu người lên tấm gỗ cao nhất, phủi bỏ lớp bụi vữa, đứng thẳng lên. Độ cao không hề khiến Langdon khó chịu. Trái lại, nó càng khiến anh thấy mạnh mẽ hơn.
Quang cảnh thật đáng kinh ngạc. Những mái ngói đỏ của thành Rome trải ra trước mắt Langdon y như một biển lửa đang bừng lên trong ánh hoàng hôn. Từ trên cao này, lần đầu tiên trong đời, Langdon nhìn cao hơn những lớp khói xăng ôtô và những ô nhiễm khác để thấy thành Rome vẫn cổ kính như xưa - thành phố của Chúa.
Nheo mắt nhìn về phía mặt trời lặn, Langdon tìm một mái nhọn của nhà thờ, hay một tháp chuông. Nhưng nhìn mãi về phía chân trời vẫn chẳng thấy gì. Ở thành phố này có hàng trăm nhà thờ, anh thầm nghĩ. Chắc chắn phải có một nhà thờ nào đó nằm về hướng Tây Nam nhà thờ này! Giá như nhà thờ đó vẫn còn nguyên, anh tự nhắc bản thân. Giá như nó vẫn chưa trở thành phế tích!
Tự nhủ rằng phải nhìn cho thật kỹ, Langdon nhìn lại theo hướng ấy một lần nữa. Tuy nhiên, anh biết không phải nhà thờ nào cũng có chóp nhọn nổi bật lên, đặc biệt là những thánh đường nhỏ nằm khuất nẻo. Đấy là chưa kề đến sự thay đổi kinh khủng của thành phố này từ thế kỷ XVII đến nay. Thời đó, luật quy định rằng không một công trình nào được xây cao hơn nhà thờ. Nay thì đã thấy vô số toà nhà chọc trời, tháp truyền hình và cao ốc.
Lần thứ hai, mắt Langdon lại chạm đến tận đường chân trời mà vẫn chưa thấy gì. Không có một chóp nhọn nào! Tít phía xa, nằm sát rìa thành phố, mái vòm vĩ đại của Michelangelo che mất mặt trời. Đại thánh đường St. Peter. Thành Vatican. Langdon băn khoăn không hiểu Mật nghị Hồng y đang diễn tiến thế nào, không hiểu đội lính Thuỵ Sĩ đã tìm thấy hộp phản vật chất chưa.
Linh tính mách bảo anh rằng họ chưa thấy… và sẽ không thể nào tìm thấy được. Bài thơ lại vang lên trong tâm trí Langdon. Anh nghiên cứu thật kỹ, từng dòng một. Từ nấm mồ trần tục của Santi, hầm mộ hang quỷ, Langdon đã tìm thấy lăng mộ của Santi. Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome. Các yếu tố này là Đất, Khí, Lửa và Nước. Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng . Con đường của hội Illuminati được đánh dấu bằng các tác phẩm điêu khắc của Bernini. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả.
Thiên thần chỉ tay về hướng Tây Nam…
***
- Cầu thang đằng trước kìa? - Glick thốt lên, cuống quít chỉ tay qua kính chắn gió. - Cái gì kia kìa!
Macri ngay lập tức hướng ống kính về cửa chính. Rõ ràng là có chuyện. Một người đàn ông dáng dấp nhà binh đưa một chiếc Alfa Romeo lại sát gần chân cầu thang và mở sẵn cửa sau xe. Lúc này ông ta đang quan sát khắp quảng trường như thể sợ có người nhìn trộm. Trong một thoáng chốc, Macri tưởng đã bị phát hiện, nhưng rồi cặp mắt ấy lại tiếp tục hướng sang phía khác. Vẻ hài lòng, anh ta rút máy bộ đàm ra và nói câu gì đó. Gần như ngay lập tức, một đội quân từ trong nhà thờ kéo ra.
Hệt như một đội bóng Mỹ tản ra để vào vị trí sau khi đã hội ý xong, những người lính Mỹ này xếp thành một hàng ở bậc thang trên cùng. Di chuyển theo kiểu xếp hàng rào bằng người, họ đi xuống dưới. Phía sau họ, bị che khuất hoàn toàn, là bốn thanh niên đang khiêng một vật gì đó. Khá nặng. Khá chật vật.
Glick nhoài người về phía trước:
- Có phải bọn họ lấy cắp cái gì không nhỉ?
Chinita siết chặt ống thu máy quay, hướng ống kính về phía bức tường, hi vọng chộp được một khe hở. Chỉ một phần mười giây là đủ cô thầm cầu mong. Một tấm hình duy nhất thôi , Macri thầm nghĩ, tôi chỉ cần có thể thôi mà. Nhưng hàng người di chuyển như thể họ đã bị móc chặt vào nhau. Một khe hở thôi mà ! Macri kiên trì hướng ống kính về phía họ, và rốt cuộc thì cô cũng được toại nguyện. Khi những người lính cố nhấc vật họ đang khiêng vào trong xe, Macri đã có được tấm hình đang ao ước. Một người lính đứng tuổi bị lỡ chân. Chỉ trong một giây đồng hồ, nhưng thế đã là quá đủ Macri đã chộp được khoảnh khắc đó. Được hơn mười kiểu ảnh cả thảy.
- Gọi cho tổng biên tập đi. - Chinita bảo Glick. - Có một xác chết đấy!
Cách đó rất xa, tại CERN, Maximilian Kohler cho xe lăn chạy về phòng nghiên cứu của Leonardo Vetra. Với sự chuẩn xác đến kinh ngạc, ông ta lục tìm trong xấp tài liệu của Vetra. Không thấy thứ cần tìm, Kohler chuyển sang phòng ngủ của nhà khoa học này.
Ngăn kéo trên cùng của chiếc bàn cạnh gi.ường ngủ được khoá cẩn thận. Kohler lấy một con dao trong nhà bếp để cạy tung ra.
Trong ngăn kéo chính là thứ ông ta đang tìm kiếm.
Langdon tụt xuống khỏi giàn giáo, anh phủi bụi vôi vữa vương đầy quần áo. Vittoria đã đứng đợi sẵn dưới mặt đất.
- Không thấy gì à? - Cô gái hỏi.
Anh lắc đầu:
- Họ đã đưa thi thể đức Hồng y lên xe rồi.
Langdon đưa mắt nhìn chiếc xe, Olivetti và mấy người lính đang trải một tấm bản đồ thành phố lên mui xe.
- Họ đang tìm về hướng Tây Nam đấy à?
Vittoria gật đầu.
- Không thấy nhà thờ. Tính từ đây thì nhà thờ đầu tiên là thánh đường St. Peter.
Langdon cằn nhằn. Ít ra thì họ cũng đã thống nhất được một điểm. Anh tiến lại phía Olivetti, những người lính đứng dạt ra để nhường đường.
Olivetti ngẩng lên nói:
- Không thấy gì. Nhưng bản đồ này không đánh dấu tất cả các thánh đường. Chỉ thấy những nhà thờ lớn thôi. ít nhất là 50 thánh đường.
- Chúng ta đang ở đâu? - Langdon hỏi.
Olivetti lấy ngón tay chỉ vị trí quảng trường Piazza Del Popolo và đi tay theo hướng Tây Nam. Ngón tay chạy qua một mảng đặc những ô vuông đen, biểu tượng của những nhà thờ lớn của Rome. Rủi thay, những nhà thờ lớn này đều được xây từ thế kỷ XVII.
- Chúng ta phải quyết thật nhanh. - Olivetti nói - Anh có chắc là hướng Tây Nam không?
Langdon mường tượng lại cánh tay vươn thẳng của thiên thần, tình hình lúc này đã cấp bách lắm rồi.
- Rất chắc chắn.
Olivetti nhún vai rồi lại đi ngón tay theo hướng Tây Nam một lần nữa. Ngón tay ông ta lướt qua cầu Hoàng hậu Margherita, Via Cola Di Riezo, rồi quảng trường Piazza Del Risorgimento, không gặp bất kỳ một nhà thờ nào cho đến khi chạm vào quảng trường St. Peter.
- Đại thánh đường St. Peter thì sao? - Một người lính có vết sẹo rất dài trên mặt hỏi. - Đó cũng là nhà thờ đấy chứ.
Langdon lắc đầu:
- Phải là một địa điểm công cộng cơ. Trông chỗ đó chẳng có vẻ gì là công cộng cả.
- Nhưng nhà thờ St. Peter nằm đúng hướng ấy còn gì. - Vittoria góp ý cô đang đứng sau lưng Langdon. - Quảng trường thì phải là nơi công cộng chứ.
Langdon đã nghĩ đến điều đó từ trước:
- Nhưng làm gì có bức tượng nào đâu?
- Ở giữa quảng trường có một tảng đá nguyên khối đấy thôi.
Cô gái nói đúng. Có một Kim tự tháp bằng đá nguyên khối đặt ở chính giữa quảng trường St. Peter. Kim tự tháp cao cả . Một sự trùng lặp kỳ lạ, Langdon nghĩ thầm. Nhưng anh gạt địa điểm đó khỏi đầu:
- Các Kim tự tháp của Vatican không phải do Bernini sáng tạo ra. Đó là do Caligula mang về đặt ở đó. Và chẳng liên quan gì đến Khí cả. - Đấy là chưa kể còn một vấn đế nữa: Bài thơ nói rằng những nguyên tố trải khắp thành Rome . Quảng trường St. Peter nằm trong Vatican cơ mà, có thuộc địa phận Rome đâu.
- Cái đó còn tuỳ. - Người lính gác ban nãy ngắt lời.
Langdon ngẩng lên:
- Gì cơ?
- Chỉ là một bất đồng nhỏ thôi. Hầu hết các bản đồ đều coi quảng trường St. Peter là thuộc Vatican, nhưng vì nó nằm ngoài đường bao, nên suốt bao thế kỷ nay, các nhà chức trách thành phố vẫn cho rằng nó thuộc về thành Rome.
- Anh nói đùa! - Langdon thốt lên. Chi tiết này thì anh chưa hề biết.
- Tôi nói thế là vì chỉ huy và cô Vittoria hỏi về một tác phẩm điêu khắc có liên quan đến Khí.
Langdon tròn mắt:
- Và anh biết một tác phẩm như thế ở quảng trường St. Peter à?
- Không hẳn. Đó không hẳn là một tác phẩm điêu khắc. Nói thế không đúng lắm.
- Để anh ta nói xem nào. - Olivetti yêu cầu.
Người lính nhún vai:
- Tôi biết tác phẩm đó chẳng qua vì ngày nào cũng gác ở quảng trường. Tôi biết rõ từng viên gạch trên quảng trường St. Peter.
- Tác phẩm điêu khắc đó trông thế nào? - Langdon hỏi. Anh bắt đầu băn khoăn, chẳng lẽ hội Illuminati lại táo bạo đến mức đặt biểu tượng của họ ngay bên cạnh Đại thánh đường St. Peter.
- Ngày nào tôi cũng đi tuần ở đó. - Người lính nói - Tác phẩm đó nằm đúng hướng Tây Nam tính từ đây, cho nên tôi mới nhớ ra. Ban nãy tôi đã nói rồi, không hẳn là một tác phẩm điêu khắc, nó chỉ là một.. khối dẹt thôi.
Olivetti có vẻ thất thần:
- Khối dẹt à?
- Vâng, thưa chỉ huy. Một khối đá cẩm thạch được gắn trên nền quảng trường. Ngay dưới chân Kim tự tháp. Nhưng không phải hình chữ nhật, mà là hình e-líp. Trên khối đá đó có khắc hình một cơn gió đang thổi rất mạnh. - Anh ta ngừng lời giây lát. - Khí, nếu anh muốn nói cho có vẻ học thuật một chút.
Langdon kinh ngạc nhìn người lính trẻ tuổi:
- Tác phẩm chạm khắc! - anh thốt lên.
- Chạm khắc là một thể loại khác của nghệ thuật điêu khắc! - Langdon nói.
Điêu khắc là nghệ thuật tạo hình đa diện và cả trên mặt phẳng nữa. Bao năm nay anh vẫn dùng phấn viết định nghĩa đó lên bảng đen trên giảng đường. Chạm khắc là các tác phẩm điêu khắc có hai mặt, như hình Abraham Lincoln trên đồng tiền xu. Những tấm bảng tròn trong nhà nguyện Chigi do Bernini tạo nên cũng là những ví dụ điển hình cho thể loại này.
- Bassoreliévo phải không? - Người lính gác dùng thuật ngữ bằng tiếng Ý.
- Đúng rồi! - Tay Langdon đập mạnh xuống mui xe. - Thế mà suýt nữa tôi không nghĩ ra. Tấm lát lớn mà anh vừa nhắc đến trên quảng trường St. Peter có tên là Gió Tây. Nó còn được gọi là Respiro di Dio(1) .
- Hơi thở của Chúa à?
- Đúng rồi! Khí! Chính tay nhà điêu khắc đã đặt tấm đá ở đó!
Vittoria có vẻ không hiểu:
- Tôi tưởng Michelangelo thiết kế Đại thánh đường St. Peter?
- Đúng, chỉ mỗi thánh đường thôi! - Langdon thốt lên đây đắc thắng. - Còn quảng trường St. Peter là do Bernini thiết kế!
Khi chiếc xe hòm Alfa Romeo lao ra khỏi quảng trường Piazza Del Popolo, mọi người đều quá vội vàng nên không trông thấy chiếc xe truyền hình của hãng BBC đang bám theo sau.

Chú thích:
(1) Respiro di Dio: Hơi thở của Chúa.
 
Gunther Glick tăng ga hết cỡ, lạng lách giữa dòng xe cộ để bám theo đội xe Alfa Romeo đang phóng qua cầu Margherita trên sông Tiber. Thường thì Glick thận trọng giữ một khoảng cách an toàn, nhưng hôm nay phải cố hết sức mới theo kịp đoàn xe này. Mấy gã này đúng là đang bay chứ không phải đang chạy.
Ngồi ở khu làm việc phía sau xe, Macri vừa kết thúc cuộc gọi về tổng đài ở London. Cô gác máy và gào to cho Glick nghe thấy:
- Anh muốn nghe tin tốt hay tin xấu?
Glick nhíu mày. Lần nào liên hệ với đại bản doanh là lần đó thấy khó khăn.
- Tin xấu đi.
- Tổng biên tập tức phát điên vì chúng ta bỏ vị trí.
- Ngạc nhiên thật.
- Mọi người ở nhà cũng tưởng người báo tin đó nói láo.
- Dĩ nhiên.
Và sếp doạ là thêm chút nữa thì anh bị lột da đầu.
Glick gầm gừ:
- Tuyệt lắm. Thế còn tin tốt?
- Họ đồng ý xem thứ đoạn phim chúng ta vừa quay được.
Glick thôi làu nhàu, toét miệng cười. Rồi sẽ biết kẻ nào bị lột da đầu.
- Truyền về đi.
- Phải dừng xe thì mới truyền được.
Glick cho xe lao thẳng vào phố Via Cola Di Rienzo
- Giờ không dừng được đâu.
Anh cho xe ngoặt trái tại Piazza Risorgimento, bám sát đội xe Alfa Romeo.
Macri phải ra sức giữ cho máy tính khỏi rơi xuống sàn, mọi thứ đến chao đảo.
- Thiết bị truyền hình của tôi mà vỡ thì xin mời anh chạy bộ mà mang đoạn băng này về London.
- Giữ cho chắc vào, bạn thân mến. Tôi linh cảm là sắp đến đích rồi.
Macri hỏi ngay:
- Đến đâu?
Glick đưa mắt nhìn mái vòm quen thuộc vừa hiện ra ngay trước mắt. Anh mỉm cười:
- Đúng nơi chúng ta khởi hành.
Bốn chiếc xe Alfa Romeo hoà vào dòng xe cộ quanh quảng trường St. Peter. Họ tản ra những vị trí khác nhau trên quảng trường, lặng lẽ đưa những lính gác mặc thường phục vào những vị trí đã chọn sẵn. Xuống xe, những người lính này hoà lẫn vào đám đông du khách cùng xe ô tô cửa các hãng truyền thông rồi nhanh chóng biến mất. Mấy người lính tiến về phía dãy cột ở mé quảng trường. Dường như họ cũng vừa tan biến nốt. Ngồi trong xe quan sát, Langdon thấy lưới đang được chăng khắp quảng trường St. Peter.
Sau khi phái hết người của mình vào vị trí, ông chỉ huy Olivetti còn điện vào toà thánh yêu cầu bố trí thêm lính gác mặc thường phục quanh tác phẩm Gió Tây của Bernini. Nhìn không gian rộng lớn ở quảng trường St. Peter, một mối băn khoăn lại đấy lên trong lòng Langdon: sát thủ của Illuminati định tẩu thoát khỏi đây bằng cách nào? Làm sao hắn có thể đưa được một vị Hồng y tới đây rồi hành quyết lộ liễu thế này ?
Langdon giơ đồng hồ Mickey lên xem giờ. 8 giờ 54 phút. Sáu phút nữa.
Đang ngồi trên ghế trước, Olivetti quay lại bảo Langdon và Vittoria:
- Tôi nhờ hai vị vào quan sát ngay tại đỉnh của tác phẩm điêu khắc hay chạm trổ hay quỷ tặc gì đó. Y như lần trước. Giả làm khách du lịch. Nếu thấy gì thì dùng điện thoại báo cho tôi.
Chưa kịp nói gì, Langdon đã bị Vittoria cầm tay lôi ra ngoài.
Mặt trời sắp lặn sau thánh đường St. Peter. Bóng toà nhà đổ xuống, phủ gần kín quảng trường. Bước vào vùng bóng râm, lạnh và ầm ướt, Langdon chợt cảm thấy buốt giá. Luồn lách giữa đám đông du khách, anh quan sát từng khuôn mặt, tự hỏi không hiểu ai trong số họ chính là sát thủ. Bàn tay của Vittoria thật ấm áp.
Băng qua quảng trường St. Peter rộng lớn, Langdon nhận thấy Bernini thực sự đã mang lại cho địa danh này dáng vẻ mà người ta mong muốn: Khiến cho tất cả những ai đặt chân đến đây đều cảm thấy mình nhỏ bé. Lúc này, Langdon thấy mình quả thực rất nhỏ bé. Nhỏ bé và đói khát. Các ý tưởng nảy sinh trong đầu mình đúng là một mớ hổ lốn loạn xạ, anh thầm nhận xét.
- Ta đến chỗ Kim tự tháp chứ? - Vittoria hỏi.
Langdon gật đầu, quay sang trái và sải bước.
- Mấy giờ rồi? - Vittoria bước đi nhanh nhẹn nhưng không hề có vẻ vội vàng.
- Năm phút nữa.
Vittoria không nói gì, nhưng Langdon thấy cô gái siết tay anh chặt hơn. Khẩu súng vẫn ở trong túi áo Langdon, hi vọng cô gái không phải dùng đến nó. Anh không dám nghĩ đến cảnh Vittoria giương súng lên giữa quảng trường St. Peter, bắn vỡ sọ hung thủ, trong khi giới truyền thông đang hướng tất cả sự chú ý vào cô gái. Tuy nhiên, sự kiện kiểu đó vẫn chẳng thấm tháp gì so với cảnh một vị Hồng y Giáo chủ bị đóng dấu sắt nung lên người và bị sát hại ngay tại nơi này.
Khí , Langdon ngẫm nghĩ. Nguyên tố thứ hai của khoa học . Anh cố mường tượng biểu tượng này, và cả cách thức bọn chúng sát hại nạn nhân. Một lần nữa, Langdon quan sát tấm đá granite lớn ngay dưới chân mình - quảng trường St. Peter - một hoang mạc dày đặc lính gác Thuỵ Sĩ. Nếu kẻ sát nhân dám hành động một cách liều lĩnh, không hiểu hắn sẽ tẩu thoát bằng cách nào.
Tại trung tâm quảng trường, Kim tự tháp Ai Cập bằng đá nguyên khối do Caligula mang về vẫn vươn thắng lên trời xanh. Đinh Kim tự tháp cao đúng 24 mét, có gắn một cây thánh giá lớn bằng sắt. Vừa đủ cao để đón những tia nắng cuối cùng còn toả xuống quảng trường, nó ánh lên một cách kỳ diệu… không biết bao nhiêu người vẫn tin rằng trong cây thánh giá này có một mấu sắt từ cây thập tự mà đức Ki tô đã bị đóng dinh lên.
Hai đài phun nước được bố trí đối xứng hai bên Kim tự tháp bằng đá. Các chuyên gia về lịch sử nghệ thuật đều biết rằng hai đài phun nước này được Bernini đặt đúng hai tâm điểm của quảng trường hình e-líp, nhưng cho đến tận ngày hôm nay, Langdon chưa bao giờ quan tâm đến chi tiết đặc biệt này. Đột nhiên anh nhận thấy thành Rome đầy rẫy những Kim tự tháp, hình e-líp, và sự đối xứng.
Đến gần khối đá, Vittoria bước chậm lại. Cô gái thở thật sâu, như muốn thầm bảo Langdon hãy cùng thư giãn với mình. Langdon cũng bắt chước, anh chùng vai xuống, thả lỏng những cơ mặt đang căng lên.
Ngay sát Kim tự tháp bằng đá này, bên ngoài thánh đường rộng lớn nhất thế giới, là bàn thờ khoa học thứ hai - Gió Tây của Bernini - một khối hình e-líp ngay trên quảng trường St. Peter.
***
Từ chỗ dãy cột bao quanh quảng trường, Gunther Glick quan sát Những hôm khác thì người đàn ông mặc áo khoác vải tuýt và cô gái mặc quần soóc ka ki sẽ chẳng khiến anh mảy may chú ý. Trông họ y như những du khách bình thường đang đi ngắm cảnh. Nhưng hôm nay thì khác, ngày hôm nay có cuộc gọi báo tin đầy bí ẩn, có những chiếc xe lạ lùng chạy như bay khắp thành Rome, rồi người đàn ông mặc áo khoác vải tuýt kia trèo lên tận trên giàn giáo cao ngất để tìm kiếm cái gì đó. Glick sẽ quan sát họ thật kỹ.
Anh nhìn sang phía bên kia quảng trường và trông thấy Macri. Cô ta đang có mặt ở đúng vị trí anh yêu cầu - cách xa hai người đó chếch về một bên. Macri cầm máy quay một cách uể oải, nhưng dù cho Chinita đã cố tỏ ra lơ đễnh, Glick vẫn cảm thấy như thế là quá lộ liễu. Không một nhà báo nào khác ra tận góc xa đó, và ba chữ cái BBC sơn rõ mồn một trên máy quay đang khiến một số du khách để ý.
Lúc này thì đoạn phim quay thi thể bị lột trần đang được truyền về đại bản doanh BBC bằng thiết bị truyền sóng vệ tinh trên xe hòm. Giờ đây những hình ảnh trong phim đang bay qua ngay trên đầu anh về London. Không hiểu tổng biên tập sẽ quyết định thế nào.
Giá như ban nãy Macri tiếp cận được cái xác sớm một chút trước khi đám quân nhân mặc thường phục kia can thiệp vào thì thật là tốt. Lúc này thì chính đội quân mặc thường phục đó đang vây kín quảng trường. Sắp có một sự kiện động trời xảy ra.
Truyền thông sẽ góp phần tạo nên sự hỗn loạn , kẻ giết người đã tuyên bố như vậy. Biết đâu anh vừa bỏ lỡ một tin giật gân. Glick quan sát những chiếc xe hòm trên quảng trường, rồi quay lại nhìn Macri đang bám chặt hai người khách du lịch bí ẩn. Glick linh cảm rằng anh chưa bỏ lỡ gì hết…
Còn hơn 3 mét nữa mới tới nơi, Langdon đã đưa mắt quan sát.
Dù lác đác có khách du lịch chắn mất tầm nhìn, anh vẫn thấy Gió Tây của Bernini nổi bật hẳn so với những phiến đá granite xám lát quảng trường. Vittoria cũng đã trông thấy tác phẩm này, cô gái siết chặt nắm tay.
- Thư giãn đi nào. - Langdon nhắc khẽ. - Hãy làm động tác Yoga ban nãy đi.
Tay Vittoria nới lỏng ra một chút.
Đến tận nơi, họ thấy mọi thứ đều rất bình thường. Du khách đang tha thẩn ngắm nhìn, mấy nữ tu sĩ đang nói chuyện, một cô bé đang cho bồ câu ăn ngay dưới chân Kim tự tháp bằng đá.
Langdon cố không giơ đồng hồ lên xem. Chắc chắn đã gần đến giờ.
Hai người đã giẫm chân lên tấm đá hình e-líp. Cả hai dừng lại, không tỏ ra quá đột ngột, chỉ như hai du khách ghé lại để xem xét chút đỉnh "Gió Tây" , Vittoria dọc dòng chữ khắc trên tảng đá.
Langdon trân trân nhìn tác phẩm điêu khắc trên đá hoa cương, đột nhiên thấy mình thật ngờ nghệch. Đọc bao nhiêu sách, đến Rome không biết bao nhiêu lần, thế mà ý nghĩa của Gió Tây chưa bao giờ lóe lên trong đầu anh.
Cho đến tận hôm nay…
Tác phẩm chạm khắc này có hình e-líp, dài khoảng hơn 1 mét, được thực hiện trên nến đá thô - Gió Tây được biểu hiện bằng một khuôn mặt thiên thần. Bernini đã vẽ một luồng gió mạnh thổi ra từ miệng thiên thần, thổi từ Vatican ra… hơi thở của Chúa.
Đây chính là cách Bernini tôn vinh nguyên tố thứ hai của khoa học… Khí… làn gió siêu trần từ một đôi môi thiên thần. Ngắm nghía một lúc, Langdon càng thấy thêm nhiều sắc thái ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Bernini vẽ năm luồng gió giật … năm! Chưa hết, hai bên phiến đá hình e-líp còn có hai vì sao toả sáng. Langdon nghĩ đến Galileo. Hai vì sao, gió giật năm lần, hình e-líp, sự đối xứng…
Langdon thấy choáng váng, đầu đau nhức.
Gần như ngay lập tức, Vittoria lại bắt đầu sải bước, cô gái lôi Langdon ra khỏi phiến dá hình e-líp.
- Có người đang theo dõi chúng ta thì phải. - Cô gái nói.
Langdon ngẩng lên nhìn:
- Đâu?
Đi được khoảng 10 mét nữa Vittoria mới trả lời. Cô đưa tay làm ra bộ chỉ cho Langdon xem mái vòm trên cao:
- Có một người đã đi theo chúng ta khắp quảng trường. - Làm ra bộ vô tình, Vittoria liếc sang bên. - Vẫn đang bám theo đấy, cứ đi tiếp đi.
- Cô cho rằng đó là thủ phạm à?
Vittoria lắc đầu:
- Không. Trừ phi hội Illuminati quyết định thuê một phụ nữ mang theo camera của hãng BBC để làm việc đó.
Khi chuông nhà thờ St. Peter vang lên, cả Vittoria lẫn Langdon cùng giật nảy người. Đã đến giờ. Nhằm cắt cái đuôi nhà báo kia, họ đã bước ra xa Gió Tây , giờ cả hai cùng quay trở lại bên tác phẩm chạm khắc bằng đá này.
Bất chấp những hồi chuông lanh lảnh, quang cảnh vẫn thực sự yên bình. Du khách đang dạo bước. Một ông lão vô gia cư say bét nhè đang ngồi gà gật một cách kỳ dị ngay dưới chân Kim tự tháp.
Một cô bé đang cho lũ chim bồ câu ăn. Langdon băn khoăn, hay nhà báo kia đã khiến cho hung thủ thấy chờn? Không đời nào , anh nhớ lại giọng điệu của hắn trên điện thoại. Tôi sẽ khiến cho các vị Hồng y đó trở thành tâm điểm của báo chí.
Khi hồi chuông thứ chín đã tắt hẳn, một bầu không khí yên ắng đầy chết chóc bao phủ quảng trường.
Thế rồi… bé gái bắt đầu thét lên.
Langdon là người đầu tiên lao đến bên cô bé.
Cô bé tội nghiệp sợ cứng cả người, chỉ tay về phía ông già say đang ngồi trên những bậc thềm của Kim tự tháp. Trông thật khổ sở chắc ông lão là một trong những người vô gia cư ở thành phố này. Từng đám tóc nâu bê bết xoà trước trán, và tấm vải bẩn quấn quanh người. Vẫn tiếp tục gào ầm ỹ, cô bé chạy vụt về phía đám đông.
Kinh hoảng, Langdon lao về phía ông già đó. Một vệt màu tối đang loang rộng trên tấm vải bẩn thiu. Máu tươi, vẫn đang chảy.
Thế rồi, dường như tất cả cùng xảy ra đồng thời.
Như thể bị vò nhàu từ tận trong gan ruột, ông già ngã vật xuống. Langdon lao vội đến, nhưng không kịp. Ông già lộn nhào về phía trước, lăn qua mấy bậc đá, rồi ngã sấp mặt xuống nền.
Bất động.
Langdon quỳ xuống. Vittoria đã đứng ngay cạnh anh. Đám đông bắt đầu xúm quanh họ.
Vittoria đặt tay lên gáy người vừa ngã.
- Mạch còn đập. - Cô nhận định. - Lật ông ấy lên.
Không đợi phải bảo, Langdon đã túm hai vai ông già và lật lên. Mớ xống áo bẩn thỉu tuột xuống như tảng thịt thối tự rời ra. Ông già ngã phịch xuống nền đá. Ngay giữa ngực con người khốn khổ này, d.a thịt bị nung cháy đen.
Vittoria thở hắt ra, lùi ngay lại.
Langdon đờ người vừa buồn nôn, vừa kinh sợ. Biểu tượng được khắc lên người vị Hồng y này thật đơn giản:

- Khí, - Vittoria nghẹn lời. - Đây chính là Hồng y Giáo chủ.
Lính gác Thuỵ Sĩ ngay lập tức có mặt, lùng sục tìm hung thủ, ầm ỹ quát tháo.
Một du khách đứng gần đó kể lại rằng trước đó mấy phút, một thanh niên da màu đã tử tế dìu ông già vô gia cư này đến giữa quảng trường, thậm chí còn nán lại bên ông ta giây lát rồi mới hoà vào đám đông du khách.
Vittoria xé toang tấm giẻ rách quấn quanh thân mình nạn nhân. Có hai vết thủng khá sâu ở hai bên vết sắt nung, ngay dưới mạng sườn. Cô gái xoay mặt nạn nhân lại và bắt đầu hô hấp nhân tạo. Langdon hoàn toàn không lường nổi những gì diễn ra sau đó. Vittoria vừa bắt đầu hà hơi thì máu cũng bắt đầu phun vọt ra từ hai vết thương hai bên, chẳng khác gì một con cá voi đang phun nước. Chất lỏng mằn mặn ấy bắn đầy vào mặt Langdon.
Vittoria ngừng lại ngay lập tức, vẻ vô cùng kinh hãi:
- Phối của đức cha…, - cô gái lắp bắp, - hắn đã chọc thủng hai lá phổi!
Langdon lấy tay gạt máu trên mặt, quan sát hai vết thủng.
Tiếng xì xì vẫn còn chưa hết hẳn. Hai lá phổi của vị Hồng y Giáo chủ đã bị huỷ hoại. Ngài đã tạ thế.
Vittoria lấy tấm vải đậy kín thi thể, đó cũng là lúc những người lính gác Thuỵ Sĩ có mặt.
Langdon đứng đó, tâm trí rối bời. Và anh trông thấy người đó: Người phụ nữ cầm máy quay vẫn bám theo anh và Vittoria từ nãy đang đứng khom lưng ngay gần đó. Chiếc máy quay của hãng BBC trên vai cô ta đang chạy rè rè. Ánh mắt của Langdon và của người đó gặp nhau, chỉ trong một tích tắc, anh biết rằng toàn bộ sự việc đã bị ghi lại. Rồi nhanh như một con mèo, cô ta chạy vụt đi.
Chinita Macri chạy thục mạng. Cô vừa quay được những thước phim để đời.
Chiếc máy quay lúc này chẳng khác gì cái mỏ neo trong khi Macri ỳ ạch chạy len qua đám đông trên quảng trường. Hầu như tất cả mọi người đều đang di chuyển theo hướng ngược lại - về phía có người bị sát hại. Macri lại đang cố chạy khỏi nơi đó càng nhanh càng tốt. Người đàn ông mặc áo khoác vải tuýt đã trông thấy cô, lúc này chắc chắn nhiều người đang tìm cách bắt cô lại, những người mà Macri không hề biết mặt.
Macri vẫn chưa hết bàng hoàng trước những hình ảnh mà cô vừa ghi được. Không hiểu người bị sát hại có đúng là Hồng y Giáo chủ hay không. Lúc này thông tin mà Glick nhận đã có vẻ bớt hoang đường.
Macri đang chạy về chiếc xe hòm của hãng BBC thì một thanh niên dáng dấp nhà binh bất ngờ hiện ra ngay trước mắt. Cả hai nhìn thẳng vào mắt nhau, và cùng dừng lại. Nhanh như chớp, anh ta giơ máy bộ đàm lên nói gì đó, rồi tiến lại phía Macri. Lập tức quay trở lại đám đông, Macri vắt chân lên cổ, tim đập thình thình.
Vừa lao bừa vào đám đông chen chúc, Macri vừa tháo cuộn phim ra khỏi máy quay. Nhãn hiệu Cellulose Gold đây , Macri thầm nghĩ, rồi gài cuốn phim vào túi sau, lấy vạt áo khoác lấp lên. Lần đầu tiên trong đời, Macri lấy làm mừng vì đã gài thêm một cái túi da vào thắt lưng. Glick đang ở chỗ quái nào không biết!
Một người lính khác xuất hiện bên tay trái, chân sải bước rất nhanh. Macri biết không còn nhiều thời gian nữa. Cô lại lao vào giữa đám đông. Lấy một cuộn phim trắng từ trong túi ra, Macri lắp ngay vào máy quay. Rồi bắt đầu cầu nguyện.
Khi Macri chỉ còn cách chiếc xe hòm của BBC khoảng gần 30m thì hai người lính ban nãy lù lù hiện ra ngay trước mất, tay khoanh trước ngực. Không còn đường chạy nữa.
- Phim. - Một người cáu kỉnh nói - Nhanh lên.
Macri lùi lại, tay ôm lấy máy quay:
- Không đời nào.
Một người lính gạt vạt áo khoác sang một bên, để lộ ra khẩu súng giắt ở thắt lưng.
- Có giỏi thì các người cứ việc bắn đi. - Bản thân Macri cũng phải ngạc nhiên vì giọng điệu táo tợn của mình.
- Phim. - Người lính thứ nhất nhắc lại.
Glick biên đi đâu rồi không biết ! Macri giậm chân, cố sức nói thật to:
- Tôi là nhà báo chuyên nghiệp của BBC! Theo điều 12 luật Tự do báo chí, cuộn phim này là tài sản của công ty Phát thanh và Truyền hình Anh quốc!
Anh ta không hề nao núng. Người thanh niên cầm súng đã tiến sát đến bên Macri:
- Tôi là trung uý đội lính gác Thuỵ Sĩ, và theo luật thánh về quyền giám sát đối với mảnh đất mà cô đang đứng đây, cô sẽ bị lục soát, cuộn phim sẽ bị tịch thu.
Đám đông bắt đầu xúm lại.
Macri kêu to:
- Dù thế nào tôi cũng không giao cuộn phim cho anh nếu chưa có ý kiến của ban biên tập ở London: Các anh phải…
Hai người lính không để cho Macri nói thêm. Một người tước chiếc máy quay trên tay Macri, người kia túm lấy cô và lôi về phía Vatican.
- Đi. - Anh ta vừa lôi Macri xềnh xệch qua đám đông vừa nói.
Macri thầm cầu nguyện là họ sẽ không khám người cô và tịch thu cuộn băng. Nếu cô có thể bảo vệ nó đến lúc…
Đột nhiên, một điều tưởng như thần thoại đã xảy ra. Trong đám đông, một người luồn tay quanh thắt lưng Macri, cuốn băng bị lấy khỏi chiếc túi da trên thắt lưng cổ. Macri quay lại, và lập tức im bặt. Sau lưng cô, Gunther Glick vừa nháy mắt đầy tinh quái rồi lẩn vào đám đông.
Robert Langdon loạng choạng bước vào nhà vệ sinh cạnh phòng làm việc của Giáo hoàng. Anh chùi máu trên mặt và trên môi. Không phải máu của anh, mà là của Hồng y Giáo chủ Lamassé, người vừa bị sát hại dã man giữa quảng trường tấp nập ngay bên cạnh Vatican. Sinh linh trinh tiết hiến tế trên bàn thờ khoa học . Đến lúc này thì kẻ sát nhân đã thực hiện thành công lời đe doạ của hắn.
Nhìn hình ảnh của mình trong gương, Langdon cảm thấy bất lực Hai mắt anh trũng sâu, cằm bắt đầu thấy râu mọc lởm chởm.
Căn phòng này thật sang trọng và sạch sẽ - đá hoa cương đen, đồ đạc bằng vàng, khăn bông, xà phòng thơm.
Langdon cố gạt khỏi trí não biểu tượng đầy máu me ấy. Khí .
Nhưng nó vẫn bám chặt vào tâm trí. Từ lúc thức dậy đến giờ, anh đã trông thấy hai biểu tượng đối xứng… và sẽ còn trông thấy hai cái nữa.
Ngoài kia, hình như Olivetti, Giáo chủ Thị thần và đại tá Rocher đang bàn bạc xem nên làm gì tiếp. Rõ ràng là toán lính được phân công tìm hộp phản vật chất vẫn chưa thấy gì. Hoặc là những người lính đã bỏ sót hốc nào đó, hoặc là cái hộp đó đã được đặt vào những nơi mà Olivetti không dám nghĩ tới.
Langdon lau khô mặt và tay. Rồi anh quay sang tên chỗ đi tiểu.
Không thấy. Chỉ có một bệ xí duy nhất. Langdon mở nắp bô.
Khi sự căng thẳng rút dần khỏi cơ thể, anh bắt đầu cảm nhận sự mệt mỏi ghê gớm đã ngấm vào tận xương tuỷ từ bao giờ.
Những cảm giác anh vừa trải qua thật là khủng khiếp, và cũng thật phi lý. Langdon kiệt sức, anh đã qua một ngày không ăn, không ngủ, lần theo con đường ánh sáng, và chứng kiến hai vụ giết người man rợ. Cảm giác kinh sợ hãi hùng về một kết cục không tránh khỏi xoáy sâu vào tâm can anh.
Nghĩ đi , Langdon tự ra lệnh cho mình. Nhưng đầu óc anh hoàn toàn trống rỗng.
Đúng vào lúc giật van xả nước một ý nghĩ bất chợt nảy ra trong óc Langdon. Đây là nhà vệ sinh của Đức Thánh Cha , anh thầm nghĩ. Mình vừa trút bao nhiêu ô trọc vào nhà vệ sinh của Giáo hoàng.
Langdon bật cười thành tiếng. Chốn linh thiêng .
 
Tại London, một kỹ thuật viên của đài BBC lấy cuộn băng ra khỏi thiết bị thu sóng vệ tinh và lao như tên bắn qua phòng máy.
Cô ào vào phòng tổng biên tập, bật đầu máy VCR trong phòng rồi nhấn nút.
Trong khi đoạn phim được chiếu lên, cô giải thích với tổng biên tập về cuộc điện thoại với Gunther Glick hiện đang có mặt tại Vatican. Và ban lưu trữ hình ảnh của BBC cũng vừa xác định được danh tính của nạn nhân trên quảng trường St. Peter.
Từ trong văn phòng lao ra ngoài, tổng biên tập vừa sải bước vừa hô hào ầm ỹ. Tất cả mọi hoạt động trong ban biên tập đều đồng loạt ngừng lại.
Năm phút nữa truyền hình trực tiếp! - ông ta hô lớn. - Chuẩn bị phát tin trực tiếp! Bộ phận phối hợp mạng đâu, bắt đầu vào việc! Chúng ta có tin hay để bán, có cả hình ảnh đi kèm!
Các nhân viên phối hợp thị trường vội vã vồ lấy những chiếc máy Rolodexes trên bàn.
- Chuyên gia hình ảnh đâu! - Một người gọi to.
- 30 giây nữa là cắt xong. - Người phụ trách đáp.
- Nội dung?
- Án mạng, trực tiếp!
Người phụ trách bộ phận thị trường có vẻ phấn chấn:
- Giá bản quyền và phát lại?
- Mỗi thứ một triệu đô la Mỹ.
- Nhiều cái đầu cùng ngẩng lên:
- Cái gì?
- Nghe thấy không hả? Tôi muốn nhằm vào những gã to đầu nhất CNN, MSNBC, và ba gã lớn nhất. Cho họ xem trước nhé.
- Cho họ 5 phút để cân nhắc trước khi BBC phát sóng.
- Chuyện quái quỷ gì thế? - Một người hỏi. - Thủ tướng bị lột da sống à?
Tổng biên tập lắc đầu:
- Còn hay hơn thế.
Cũng vào lúc đó, tại thành Rome, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, kẻ giết người đang thưởng thức sự tĩnh lặng trên một chiếc ghế bành êm ái. Hắn ngắm nghía căn phòng với ánh mắt thán phục. Mình đang ngồi trong Đền thờ ánh sáng , hắn thầm nghĩ. Đại bản doanh của Illuminati . Không thể tin nổi, căn phòng vẫn còn đây sau bao nhiêu năm tháng.
Theo đúng mệnh lệnh được giao, hắn quay số của người phóng viên BBC mà hắn đã gọi lúc trước. Đến lúc rồi. Cả thế giới sẽ bị một cú sốc kinh hoàng.
Vittoria nhấp mấy ngụm nước và nhấm nháp mấy cái bánh điểm tâm mà một người lính gác Thuỵ Sĩ vừa mang lại cho cô.
Biết là nên ăn chút ít, nhưng Vittoria chẳng còn lòng dạ nào. Lúc này bầu không khí trong văn phòng của Giáo hoàng thật hối hả, mọi người đang sôi nổi bàn luận. Đại tá Rocher, Tổng Tư lệnh Olivetti và khoảng gần chục người lính đang đánh giá mức độ thiệt hại và thảo luận hành động tiếp theo.
Đứng ngay gần họ, Robert Langdon nhìn ra quảng trường St. Peter với vẻ thất vọng. Vittoria tiến lại bên anh:
- Có ý tưởng gì không?
Langdon lắc đầu.
- Ăn bánh vậy?
Nhìn thấy cái bánh, tâm trạng Langdon bỗng nhiên khá hẳn lên.
- Hay lắm, cảm ơn. - Rồi anh ăn ngon lành.
Những tiếng bàn luận xung quanh họ đột nhiên ngưng bặt khi hai người lính gác hộ tống Giáo chủ Thị thần Ventresca vào phòng. Nếu như trước đó trông ngài chỉ có vẻ phờ phạc thì lúc này đã thực sự thất thần.
- Có chuyện gì thế? - Ngài hỏi Olivetti. Nhìn ánh mắt của Giáo chủ Thị thần, có thể đoán rằng ngài đã được thông báo những sự kiện tồi tệ nhất.
Olivetti báo cáo vắn tắt tình hình, hệt như các sĩ quan vẫn làm ngoài mặt trận. Các sự kiện được miêu tả một cách chính xác và chân thực.
- Tìm thấy thi thể của đức Hồng y Ebner trong thánh đường Santa Maria Del Popolo ngay sau 8 giờ. Ngài chết vì ngạt và bị khắc lên người biểu tượng đối xứng của từ "Đất" .
- Đức Hồng y Lamassé bị sát hại trên quảng trường St. Peter cách đây 10 phút. Hai lá phổi bị chọc thủng. Ngài cũng bị đóng dấu sắt nung hình chữ "Khí" lên ngực. Cả hai lần hung thủ đều chạy thoát.
Giáo chủ Thị thần bước lại bên bàn làm việc của Đức Thánh Cha, nặng nhọc ngồi xuống, đầu cúi gục.
- Tuy nhiên, đức Hồng y Guidera và Baggia vẫn còn sống.
Giáo chủ Thị thần ngẩng lên, ánh mắt đau đớn:
- Đây là lời động viên của ông đấy ư? Hai vị Tổng giám mục đã bị sát hại, ông chỉ huy ạ. Và hai vị nữa cũng chẳng còn sống được bao lâu nếu ông không tìm thấy họ.
- Chúng ta sẽ tìm được. - Olivetti trấn an. - Con tin là thế.
- Tìm à? Chúng ta đã làm được gì ngoài thất bại đâu.
- Không đúng. Chúng ta thua hai keo nhỏ, thưa đức cha, nhưng nhìn đại cục thì vẫn thắng. Bọn Illuminati muốn cho vụ việc này rùm beng trên báo chí, nhưng cho đến lúc này chúng ta đã chặn được đã tâm đó. Thi thể của cả hai đức Tổng giám mục đã được đưa về một cách kín đáo. Ngoài ra, đại tá Rocher còn khẳng định rằng nhóm binh lính đang tìm khối phản vật chất đã có những tiến bộ đáng kể.
Đầu vẫn đội mũ bê-rê đỏ, đại tá Rocher bước lại gần. Vittoria thấy dù sao thì ông ta cũng có vẻ hơn những người lính gác khác - người này cương quyết nhưng không cứng nhắc. Giọng nói của Rocher trong trẻo và du dương, chẳng khác gì tiếng đàn vi-ô-lông:
- Thưa cha, hi vọng là trong vòng một giờ nữa chúng ta sẽ tìm được cái hộp đó.
- Ông đại tá, có thể ta đang bi quan, nhưng để lục khắp Vatican thì phải mất nhiều thời gian hơn thế. - Giáo chủ Thị thần nói.
- Lục soát toàn bộ thì đúng là thế. Nhưng sau khi xem xét tình hình, con tin rằng cái hộp đó được đặt ở một trong bốn khu vực trắng của chúng ta: những khu vực mở cửa cho du khách vào thăm, bảo tàng trong Đại thánh đường St. Peter chẳng hạn. Con đã cho cắt điện ở những khu vực đó và tổ chức tìm kiếm.
- Ông chỉ cho lục soát một phần nhỏ trong địa phận của Vatican thôi à?
- Vâng, thưa cha. Kẻ địch khó có thể thâm nhập sâu hơn vào trong lòng thành phố này. Chiếc camera bị mất được lắp ở một địa điểm công cộng - cầu thang lên xuống viện bảo tàng. Như thế có nghĩa là kẻ đó không có khả năng thâm nhập sâu hơn. Vì lí do đó hắn chỉ có thể đặt camera và phản vật chất ở một địa điểm công cộng khác mà thôi. Và chúng ta đang tập trung tìm kiếm những khu vực đó.
- Nhưng kẻ đó đã bắt cóc cả bốn vị Hồng y cơ mà. Điều này cho thấy hắn có khả năng thâm nhập vào sâu hơn ta tưởng nhiều?
- Không nhất thiết phải thế. Cần phải nhớ rằng hôm nay các vị Tổng giám mục đều dành phần lớn thời gian ở thánh đường St. Peter và các bảo tàng của Vatican để chiêm ngưỡng địa điểm vốn đông đúc này. Rất có thể bốn vị Hồng y Giáo chủ mất tích đã bị bắt đi tại những địa điểm này.
- Nhưng làm cách nào hắn đưa được các ngài qua bức tường bao?
- Cái này thì chúng con đang xem xét ạ.
- Ta hiểu. - Giáo chủ Thị thần thở hắt ra và đứng dậy. Ngài bước tới bên Olivetti. - Ông chỉ huy, ta muốn nghe kế hoạch sơ tán của ông trong trường hợp cần thiết.
- Chúng con vẫn đang tiến hành việc đó, thưa cha. Nhưng chắc chắn là không bao lâu nữa đại tá Rocher sẽ tìm được hộp phản vật chất.
- Đại tá Rocher giậm gót giày như thể chuẩn bị ra mắt trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm nào đó. - Lính của con đã dò xong hai phần ba khu vực trắng rồi, thưa cha. Chắc chắn sẽ tìm thấy.
Hình như Giáo chủ Thị thần không được vững tin như vậy.
Đúng lúc ấy, người lính có vết sẹo dài dưới mắt mang vào phòng một cái kẹp dài cùng với tấm bản đồ. Anh ta tiến đến bên Langdon:
- Thưa ông Langdon, tôi đã tin được những thông tin ông yêu cầu liên quan tới Gió Tây .
Langdon nuốt vội cái bánh ăn dở.
- Tốt lắm. Chúng ta cùng xem nào.
Những người kia vẫn tiếp tục thảo luận, Vittoria đến bên Langdon khi người lính trải tấm bản đồ lên bàn làm việc của Giáo hoàng.
Anh ta chỉ quảng trường St. Peter:
- Chúng ta đang ở đây. Gió Tây thổi về phía Đông, tính từ thành phố Vatican. - Người lính gác Thuỵ Sĩ di ngón tay từ quảng trường St. Peter, qua sông Tiber, vào trung tâm thành Rome cổ. - Ông thấy đấy, hướng này quét qua hầu hết thành Rome. Có tới gần 20 nhà thờ nằm rải rác dọc hướng này.
Langdon thất vọng:
- 20 cơ à?
- Có thể nhiều hơn.
- Có nhà thờ nào nằm ngay trên đường thẳng này không?
- Một số nhà thờ có vẻ khá gần. - Người lính đáp. - Nhưng lấy tay di trên bản đồ kiểu này thì khó mà chính xác được.
Langdon quay ra trân trân nhìn quảng trường St. Peter. Anh càu nhàu tay gãi cằm. Thế còn LỬA? Có nhà thờ nào trong số đó có tác phẩm của Bernini liên quan đến LỬA không?
Im lặng.
- Còn Kim tự tháp đá thì sao? - Anh lại hỏi. - Có nhà thờ nào khác được xây dựng gần Kim tự tháp đá không?
Người lính bắt đầu xem bản đồ.
Vittoria thấy mắt Langdon ánh lên một tia hi vọng, và cô hiểu anh đang nghĩ gì. Đúng đấy! Hai nhà thờ đầu tiên đều ở cạnh những Kim tự tháp bằng đá nguyên khối! Biết đâu chúng chính là dấu chỉ đường! Những Kim tự tháp vươn cao đánh dấu con đường ánh sáng chăng? Càng nghĩ, Vittoria càng thấy điều đó có lý. bốn ngôi sao vươn lên trên bầu trời thành Rome, đánh dấu bốn bàn thờ khoa học.
- Có vẻ hơi suy diễn, nhưng tôi biết rằng trong thời đại của Bernini, rất nhiều Kim tự tháp đá được dựng lên hoặc bị đi dời sang chỗ khác. Chắc chắn có liên quan đến việc này.
- Hoặc là Bernini có thể đặt những dấu hiệu chỉ đường gần các Kim tự tháp có sẵn. - Vittoria nói thêm.
Langdon gật đầu:
- Đúng đấy.
- Tin xấu rồi. - Người lính đáp. - Chẳng có Kim tự tháp đá nào trên đường thẳng này. - Anh ta lại đi ngón tay trên bản đồ. - Cả những Kim tự tháp nằm xa xa một chút cũng không có. Không có cái nào.
Langdon thở dài.
Vittoria muốn sụp xuống. Cô cứ ngỡ ý tưởng đó phải sáng giá lắm. Rõ ràng là không dễ dàng như cô tưởng. Vittoria cố giữ tâm trạng lạc quan:
- Robert, anh suy nghĩ đi. Chắc chắn anh phải biết một tác phẩm nào đó của Bernini có liên quan đến LỬA chứ. Bất kỳ tác phẩm nào.
- Tin tôi đi, tôi cũng đang vắt óc đây. Nhưng Bernini sáng tác nhiều kinh khủng. Hàng trăm tác phẩm. Cứ tưởng Gió Tây sẽ chỉ đường đến một nhà thờ cụ thể nào đó, một địa điểm dễ nhận ra nào đó.
- Lửa. - Vittoria nhắc lại. - Lửa. Không có cái tên nào nảy ra trong óc à?
Langdon nhún vai:
- Có một bản phác hoạ rất nổi tiếng tên là Pháo Hoa, nhưng không thuộc thể loại điêu khắc, đã thế lại được lưu trữ ở Leipzig, tận bên Đức.
Vittoria nhíu mày:
- Anh có tin chắc rằng hơi thở là dấu hiệu chỉ hướng đi tiếp theo không?
- Cô cũng trông thấy tác phẩm đó rồi, Vittoria. Bố cục cân xứng tuyệt đối, Yếu tố duy nhất có thể chỉ hướng đi chính là hơi thở .
Vittoria biết rằng Langdon nói đúng.
- Đấy là còn chưa suy luận rằng Gió Tây tượng trưng cho Khí , cho nên bay theo hơi thở là hoàn toàn hợp lý.
Vittoria gật đầu. Tức là chúng ta sẽ lần theo hướng của hơi thở . Nhưng đến điển nào ?
Olivetti đến bên họ:
- Các vị tìm được gì chưa?
- Quá nhiều nhà thờ, thưa chỉ huy. - Người lính Thuỵ Sĩ đáp.
- Khoảng hơn 20 nhà thờ tất cả. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên chia người ra…
- Quên chuyện đó đi. - Olivetti đáp. - Biết rõ địa điểm mà chúng ta còn bắt hụt hắn những hai lần. Chia người ra như thế tức là bỏ ngỏ. Vatican không người bảo vệ và bỏ dở cuộc tìm kiếm hộp phản vật chất.
- Chúng tôi cần có một cuốn sách tham khảo. - Vittoria nói - Một phụ lực các tác phẩm của Bernini. Đọc tên các tác phẩm biết đâu lại tìm được cái gì đó.
- Cũng không chắc lắm đâu. - Langdon nói - Nếu tác phẩm đó được sáng tác riêng cho hội Illuminati thì biết đâu nó được đặt ở nơi kín đáo, và có thể không được liệt kê trong danh sách.
Vittoria không chịu tin.
- Hai tác phẩm kia đều thuộc loại nổi tiếng và anh đều đã biết về chúng đấy thôi.
Langdon nhún vai:
- Thì đúng là như vậy.
Nếu có thể lần theo danh sách để tìm một tác phẩm có tiêu đề liên quan đến Lửa, thì có thể chúng ta sẽ tìm được một bức tượng nào đó được đặt đúng trên đường thẳng này!
Langdon buộc phải chấp nhận rằng đó là một suy diễn lôgíc.
Anh quay sang nói với Olivetti:
- Tôi cần có danh sách các tác phẩm của Bernini. Chắc các ông phải có một cuốn sách nhỏ để trên bàn trà nào đó chứ?
- Sách để trên bàn trà là sao? - Olivetti không hiểu thuật ngữ này.
- Cái đó không quan trọng. Bất kỳ danh sách nào cũng được. Trong bảo tàng của Vatican thì sao nhỉ? Chắc phải có danh sách tác phẩm của Bernini chứ?
Người lính gác có sẹo trên mặt nhíu mày:
- Bảo tàng giờ đã bị cắt điện, và phòng danh mục tham khảo thì quá rộng lớn. Nếu không có nhân viên ở đó giúp một tay thì…
- Các tác phẩm mà Bernini sáng tác trong thời gian làm việc cho Vatican à? - Olivetti ngắt lời người lính.
- Chắc thế. - Langdon đáp. - Ông ấy làm việc tại đây gần như suốt đời. Và chắc chắn là trong giai đoạn có vụ việc về Galileo.
Olivetti gật đầu:
- Thế thì còn có một danh mục tham khảo khác!
Vittoria chợt cảm thấy đầy hi vọng:
- Ở đâu?
Người chỉ huy không trả lời. Ông ta kéo người lính sang một bên, thì thào gì đó. Người lính có vẻ không tin lắm, nhưng vẫn gật đầu vẻ phục tùng. Olivetti nói xong, người lính quay sang bảo Langdon:
- Thưa ông Langdon, xin mời đi lối này. 9 giờ 15 rồi, chúng ta phải khẩn trương lên.
Langdon và người lính quay ra cửa. Vittoria định đi theo:
- Tôi sẽ đi cùng các anh.
Olivetti túm tay cô gái:
- Không đâu, thưa cô Vetra. Có điều này tôi phải nói với cô. - Giọng ông ta chắc nịch.
Langdon và người lính ra ngoài. Lúc kéo Vittoria lại bên mình, trông mặt Olivetti rất nghiêm trọng. Không biết Olivetti muốn trao đổi với Vittoria chuyện gì nhưng chưa kịp nói thì máy bộ dàm của Olivetti lúc đó lại kêu khọt khẹt: "Báo cáo chỉ huy".
Tất cả mọi người trong phòng đều quay lại.
Một giọng nói lo lắng vang lên trong máy:
- Chỉ huy hãy bật ti-vi lên.
Hai giờ trước, lúc ra khỏi toà nhà mái vòm bí mật của Vatican, Langdon không nghĩ rằng mình sẽ quay lại nơi này sớm đến vậy.
Bở hơi tai vì phải chạy cho kịp người lính gác Thuỵ Sĩ suốt cả đoạn đường dài, Langdon lại đang đứng trước cửa nhà vòm.
Người lính có vết sẹo trên mặt hộ tống Langdon qua những vòm kính sáng mờ. Lúc này, sự yên ắng trong nhà vòm có vẻ rờn rợn, thật may là Langdon không phải vào đây một mình.
- Chắc là vòm này. - Người lính nói khi dẫn Langdon đến cuối căn phông lớn, trước một dãy vòm kính. Người lính đọc các tấm bảng ở đầu các vòm và ra hiệu cho Langdon. - Đúng đây rồi, y như phỏng đoán của chỉ huy.
Langdon đọc tấm bảng: ATTIVI VATLCANI. Tài sản của Vatican? Anh đọc lướt danh sách. Bất động sản… tiền tệ… ngân hàng Vatican… đồ cổ… danh sách còn rất dài.
- Tài liệu về toàn bộ tài sản của Vatican đây. - Người lính nói.
Langdon nhìn cái vòm kính. Lạy chúa tôi . Dù bên trong tối om, Langdon vẫn thấy tài liệu xếp đầy ngổn ngộn.
- Chỉ huy nói rằng tất cả các tác phẩm mà Bernini sáng tác trong thời gian được Vatican bảo trợ đều được liệt kê ở đây.
Langdon gật đầu, trực giác cửa ông chỉ huy quả là tốt. Vào thời của Bernini, tất cả các tác phẩm mà một hoạ sĩ sáng tác trong thời kỳ được Vatican bảo trợ đều trở thành tài sản của toà thánh theo luật định. Đúng ra thì đây là một điều luật phong kiến chứ không phải là sự bảo trợ. Nhưng hầu như không một nghệ sĩ bậc thầy nào phàn nàn về điều đó. - Bao gồm cả những nhà thờ đặt bên ngoài lãnh địa Vatican sao?
Người lính gật đầu, vẻ ngạc nhiên:
- Dĩ nhiên. Tất cả các nhà thờ Thiên Chúa giáo ở thành Rome đều là tài sản của toà thánh.
Langdon nhìn danh sách đang cầm trên tay. Khoảng 20 nhà thờ toạ lạc gần như đúng trên đường thắng mà Gió Tây chỉ tới.
Một trong số đó là bàn thờ khoa học thứ ba, hi vọng anh có đủ thời gian để xác định được nhà thờ đó. Thường thì Langdon sẽ rất sung sướng khi được đích thân xem xét từng nhà thờ. Tuy nhiên, hôm nay anh chỉ có khoảng 20 phút để tìm được cái cần tìm - nhà thờ duy nhất có chứa một tác phẩm của Bernini liên quan đến Lửa.
Langdon bước đến bên cánh cửa quay điện tử để vào trong vòm. Người lính vẫn đứng yên. Hình như anh ta đang lưỡng lự, không được thoải mái lắm. Langdon mỉm cười:
- Không sao đâu. Không khí hơi loãng, nhưng vẫn thở được.
- Nhiệm vụ của tôi là hộ tống ông đến đây và quay về trụ sở ngay.
- Anh đi ngay à?
- Vâng. Lính gác Thuỵ Sĩ không được phép vào trong vòm. Vào tận trong này thế là đã vi phạm điều lệnh rồi. Chỉ huy vừa nhắc tôi xong.
- Vi phạm điều lệnh à? - Các người không cần biết đêm nay có chuyện gì sao? Ông chỉ huy chết tiệt nhà anh là người phía mình hay phía địch thế?
Bao nhiêu vẻ thân thiện trên sắc mặt của người lính tiêu tan hết sạch. Vết sẹo dài dưới mắt anh ta bắt đầu giật giật. Người lính trợn tròn mắt, đột nhiên trông có vẻ giống Olivetti đến lạ lùng.
- Tôi xin lỗi. - Langdon nói, thầm lấy làm tiếc vì câu nói của mình. - Chỉ là vì… tôi muốn nhờ anh giúp một tay.
Người lính vẫn không chớp mắt.
- Xin lỗi, tói phải làm theo mệnh lệnh, và không được phép thảo luận gì hết. Nếu ông tìm thấy gì thì hãy liên lạc với chỉ huy ngay lập tức.
Langdon bối rối:
- Nhưng ông ấy đang ở tận đẩu đâu kia mà?
Người lính lấy máy bộ đàm giắt ở thắt lưng và để trên một cái bàn cạnh đó:
- Kênh một nhé. - Sau đó anh ta biến mất trong bóng tối.
 
Chiếc ti vi Hitachi màn hình rộng được đặt kín đáo ở một ngăn tủ khuất trong góc đối diện với bàn làm việc của Giáo hoàng. Hai cánh tủ lúc này mở toang, và tất cả mọi người đều xúm lại.
Vittoria cũng lại gần chiếc ti-vi. Sau khoảng gần một phút, trên màn hình hiện lên khuôn mặt của một nữ phát thanh viên trẻ tuổi.
Người phụ nữ tóc nâu này có đôi mắt nai thật mơ màng.
"Đây là chương trình thời sự của MSNBC. Kelly Horan Jones, truyền hình trực tiếp từ Vatican".
Sau lưng người này là quang cảnh Đại thánh đường St. Peter trong đêm, đèn điện sáng trưng.
- Có phải trực tiếp đâu! - Đại tá Rocher bực bội. - Đấy là cảnh nền chụp sẵn. Chúng ta tắt hết đèn rồi còn đâu.
Olivetti xì một cái, ra hiệu bảo ông ta trật tự.
Người phát thanh viên nói tiếp, vẻ căng thẳng:
"Những diễn biến gây sốc trong thời gian diễn ra bầu cử ở Vatican tối nay. Chúng tôi vừa được tin hai thành viên của Hội đồng hồng y đã bị sát hại một cách dã man tại Rome".
Olivetti lầm bầm nguyền rủa.
Khi cô phát thanh viên tiếp tục nói, một người lính xuất hiện ở cửa:
- Thưa chỉ huy, tổng đài báo rằng tất cả mọi đường dây đều có người gọi đến. Họ muốn biết quan điểm của chúng ta về…
- Ngắt đi. - Olivetti nói, mắt không rời màn hình.
Người lính có vẻ không hiểu:
- Nhưng thưa chỉ huy…
- Đi đi!
Anh ta biến mất.
Hình như Giáo chủ Thị thần cũng định nói gì rồi lại thôi. Viên Thị thần trẻ tuổi chỉ giận dữ nhìn Olivetti một hồi rồi quay lại màn hình ti vi.
MSNBC bắt đầu cho phát một đoạn băng. Những người lính gác Thuỵ Sĩ khiêng thi thể đức Hồng y Ebner xuống cầu thang ở nhà thờ Santa Maria Del Popolo và chuyển ngài vào một chiếc xe Alfa Romeo. Hình ảnh đứng lại, thi thể trần truồng của vị Hồng y Giáo chủ lộ ra ngay trước khi họ đưa ngài vào thùng xe.
- Kẻ chết tiệt nào quay cảnh này nhỉ? - Olivetti hỏi.
Người phát thanh viên của đài MSNBC vẫn đang nói tiếp.
"Người ta cho rằng đây chính là thi thể của Hồng y Giáo chủ Ebner đến từ Frankfurt, nước Đức. Những người đang đưa xác của ngài ra khỏi nhà thờ chắc chắn là các thành viên của đội lính gác Thuỵ Sĩ …"
Hình như cô phát thanh viên này đang cố tạo ra vẻ mặt đau buồn. ống kính tập trung vào khuôn mặt của cô ta, và vẻ đau buồn lại rõ thêm chút nữa.
"Bây giờ, MSNBC xin có lời khuyến cáo. Những cảnh mà chúng tôi sắp phát đi là rất rõ nét và có thể không thích hợp với những ai quá mẫn cảm…"
Vittoria nhăn nhó, nhà đài chỉ giả vờ tỏ ra quan tâm đến phản ứng của người xem mà thôi. Lời cảnh báo này đã tạo được hiệu ứng mà họ muốn có - sự tò mò đến tột độ. Không một người nào có thể chuyển kênh sau khi đã nghe lời hứa hẹn này.
Người phát thanh viên nhắc lại một lần nữa:
"Xin nhắc lại, những ai quá mẫn cảm không nên xem những thước phim mà chúng tôi sắp phát sau đây… "
- Đoạn phim nào? - Olivetti chất vấn. - Các người làm gì có…
Màn hình chiếu cảnh một đôi nam nữ trên quảng trường St. Peter, đang di chuyển giữa đám đông. Vittoria nhận ra ngay, đó chính là cô và Robert Langdon. Một dòng chữ hiện lên ở góc màn hình: BẢN QUYÊN: BBC. Một tiếng chuông vang lên.
- Ôi không thể nào. - Vittoria kêu lên. - Không thể nào.
Giáo chủ Thị thần có vẻ bối rối. Ngài quay sang hỏi Olivetti:
- Tôi tưởng đã tịch thu được cuốn băng rồi?
Đột nhiên, một đứa bé kêu thét lên. ống kính hướng thẳng vào một bé gái đang chỉ tay vào ông già vô gia cư máu me bê bết. Ngay lập tức, Robert Langdon xuất hiện trong khung hình, tìm cách giúp đỡ đứa bé. Cận cảnh.
Những người có mặt trong phòng làm việc của Giáo hoàng đều sững sờ trước tấn bi kịch hiện ra trước mặt. Thi thể của Hồng y đổ vật xuống. Vittoria xuất hiện, gọi người đến giúp. Máu. Dấu sắt nung . Kinh hoàng, cô gái không thể tiếp tục hô hấp nhân tạo cho nạn nhân.
"Những thước phim kinh hoàng này vừa được quay cách đây vài phút bên ngoài bức tường bao của Vatican. - Người phát thanh viên bình luận. - Theo các nguồn tin chúng tôi có được thì đó chính là thi thể của đức Hồng y. Giáo chủ người Pháp Lamassé… "
Lý do ngài ăn vận kiểu này và bị sát hại dã man như vậy vẫn còn bí ẩn. Cho đến lúc này, Vatican vẫn từ chối đưa ra lời bình luận.
Đoạn băng lại được phát lại lần nữa.
- Từ chối bình luận à? - Rocher lẩm bẩm. - Phải cho người ta có thời gian đã chứ!
Người phát thanh viên vẫn tiếp tục nói, mày nhíu lại.
- Mặc dù MSNBC vẫn chưa xác minh được động cơ của hành động này, nhưng các nguồn tin cho thấy trách nhiệm thuộc về một nhóm tự xưng là Illuminati.
Olivetti giật mình:
- Cái gì?
- Quý vị hãy tìm hiểu thêm về Illuminati bằng cách truy cập trang web của chúng tôi, địa chỉ là…
- Không thể nào! - Olivetti kêu lên, cuống quít bấm nút chuyển kênh.
Kênh truyền hình tiếp theo có một người dẫn chương trinh gốc Bồ Đào Nha:
"…một giáo phái tôn thờ quỷ dữ có tên là Illuminati, theo các nhà sử học thì…"
Lúc này Olivetti bắt đầu bấm nút chuyển kênh như một cái máy. Kênh nào cũng đang có chương trình phát trực tiếp. Hầu hết đều bằng tiếng Anh.
- Tối nay đội lính gác Thuỵ Sĩ đã chuyển một xác chết ra khỏi một nhà thờ. Nhiều người cho rằng đó chính là thi thể của Hồng y…
Đèn điện trên quảng trường St. Peter và ở các bảo tàng đều đã bị tắt hết và cuộc truy lùng…
- Chúng tôi đã mời đến trường quay một người chuyên nghiên cứu về các hội kín, Tyler Tingley, và ông sẽ bình luận về sự kiện gây chấn động này…
- Có tin đồn rằng trong buổi tối nay sẽ có thêm hai vụ hành quyết nữa…
Đang đặt ra câu hỏi liệu Hồng y Baggia có thể thoát nạn hay không…
Vittoria quay mặt đi. Các sự kiện đồn dập quá. Ngoài kia, trong ánh hoàng hôn đang tắt dần, tấn bi kịch này đã trở thành một thỏi nam châm hút mọi người đến Vatican. Đám đông tụ tập ngoài quảng trường mỗi phút lại phình to hơn. Thêm rất nhiều người nữa đang đi bộ đến quảng trường, và cánh phóng viên đang dỡ dụng cụ từ trên xe xuống để bắt đầu tác nghiệp.
Olivetti đặt thiết bị điều khiển từ xa xuống bàn, quay sang Giáo chủ Thị thần.
- Thưa cha, con chẳng hiểu thế nào nữa. Con đã tịch thu cuốn băng trong camera của người phóng viên đó rồi cơ mà!
Trong thoáng chốc, hình như người thầy tu trẻ tuổi này sững sờ đến mức không nói nên lời.
Tất cả mọi người trong phòng đều im lặng. Người lính gác Thuỵ Sĩ đứng im, sẵn sàng đợi lệnh.
Hình như Giáo chủ Thị thần mệt mỏi đến mức không còn sức để nổi cáu nữa:
- Dường như tình hình tối tệ hơn nhiều so với những gì ta được báo cáo lại. - Ngài nhìn đám đông đang lụ tập ngoài cửa sổ. - Ta phải phát biểu đôi lời.
Olivetti lắc đầu:
- Xin cha đừng làm thế. Đó chính là điều mà Illuminati đang mong muốn. Khẳng định sự thật lúc này khác gì tăng cường thêm sức mạnh cho bọn chúng. Chúng ta nên yên lặng.
- Còn những người ngoài kia? Giáo chủ Thị thần chỉ tay ra ngoài cửa sổ. - Chẳng mấy chốc sẽ có cả chục ngàn người. Rồi hàng trăm ngàn. Cứ mập mờ thế này thì họ sẽ gặp nguy hiểm. Ta cần phải cảnh báo họ. Sau đó chúng ta phải sơ tán Hội đồng hồng y.
- Chúng ta vẫn còn thời gian, thưa cha. Hãy để đại tá Rocher kết thức cuộc tìm kiếm phản vật chất đã.
Giáo chủ Thị thần quay sang ông ta:
- Ông dám ra lệnh cho ta đấy à?
- Không. Con chỉ khuyên cha thôi. Nếu cha lo lắng cho những người ngoài kia thì chúng ta có thể thông báo rằng một ống dẫn ga bị rò rỉ và phải giải tán đám đông. Thừa nhận rằng chúng ta đã trở thành con tin thì còn nguy hiểm hơn thế nhiều.
- Ông chỉ huy, ta nói một là một, hai là hai. Ta sẽ không biến căn phòng này thành nơi để rao truyền những lời dối trá. Ta sẽ chỉ nói sự thật mà thôi.
- Sự thật ư? Sự thật rằng thành Vatican đang bị một giáo phái ma quỷ đe doạ sẽ huỷ diệt tất cả ư? Làm thế chỉ khiến chúng ta thêm bất lợi.
Giáo chủ Thị thần trừng mắt:
- Còn có thể bất lợi hơn thế này được nữa cơ à?
Bất ngờ Rocher kêu lên, ông ta chộp lấy điều khiển, cho tiếng to lên. Tất cả đều quay lại.
Trên màn hình, vẻ mặt của cô phát thanh viên kênh MSNBC lúc này đã thật sự hoang mang. Ngay cạnh cô là bức ảnh của cố Giáo hoàng …Tin động trời, đài BBC vừa mới chuyển cho chúng tôi. Có ta liếc nhìn xuống dưới như thể muốn khẳng định lại một lần nữa rằng quả thực đây là tin tức phải loan báo. Không còn băn khoăn nữa, cô ta ngước lên, vẻ mặt nghiêm trọng:
- Hội Illuminati vừa nhận trách nhiệm về… - Cô phát thanh viên vẫn lưỡng lự. - Họ đã nhận trách nhiệm về cái chết của cố Giáo hoàng cách đây 15 ngày.
Giáo chủ Thị thần há hốc mồm.
Rocher đánh rơi dụng cụ điều khiển từ xa đang cầm trên tay.
Vittoria không dám tin vào tai mình.
- Theo luật thánh thì không được phép khám nghiệm tử thi đối với thi thể của Giáo hoàng, nên hội Illuminati tuyên bố rằng không ai có thể khẳng định được hành động giết người của họ.
Người phát thanh viên nói tiếp:
- Tuy nhiên, họ khẳng định rằng nguyên nhân dẫn tới cái chết đột ngột của Đức Thánh Cha chính là do bị đầu độc chứ không phải do bị nhồi máu cơ tim như Vatican đã thông báo.
Căn phòng lại trở nên yên lặng như tờ.
Olivetti kêu lên:
- Điên rồ! Nói dối trắng trợn!
Rocher lại lia lịa chuyển kênh. Tin này cũng đang xuất hiện trên tất cả các kênh khác, như thể một thứ bệnh dịch vậy. Kênh nào cũng chỉ nói về một chuyện. Người ta thi nhau chọn những tiêu đề thật kêu để tác động đến tình cảm người xem.
ÁN MẠNG TẠI VATICAN
GIÁO HOÀNG BỊ ĐẦU ĐỘC
QUỶ SA-TĂNG ĐÃ ĐẠT CHÂN VÀO NGÔI NHÀ CỦA CHÚA.
Giáo chủ Thị thần quay mặt đi:
- Cầu chúa lòng lành.
Rocher bấm nút, định bỏ qua kênh BBC.
- …báo tin cho tôi về vụ án mạng tại nhà thờ Santa Maria Del Popolo…
- Khoan đã. - Giáo chủ Thị thần nói - Lại kênh đó đi.
Rocher lại nhấn nút. Trên màn hình, một người đàn ông vẻ mặt đứng đắn đang ngồi bên bàn điểm tin. Màn hình lớn ngay cạnh ông ta hiện lên ảnh một người có chòm râu đỏ khá kỳ dị. Bên dưới màn hình có dòng chữ:
GUNTHER GLICK - TRỰC TIẾP TỪ VATICAN.
Rõ ràng là Glick đang dùng điện thoại để báo tin về, đường dây lạo xạo. "…Kỹ thuật viên camera đi cùng với tôi đã ghi lại cảnh thi thể của Hồng y Giáo chủ được đưa ra khỏi nhà nguyện Chigi…"
- Tôi xin được nhắc lại với quý khán giả. - Người đàn ông ngồi bên bàn điểm tin lên tiếng - Phóng viên Gunther Glick của BBC chính là người đầu tiên đưa tin về sự kiện này. Đến lúc này thì anh đã hai lần tiếp xúc trên điện thoại với một người được cho là sát thủ của Illuminati. Gunther này, anh nói là người này vừa gọi điện và chuyển cho anh thông điệp của Illuminati phải không?
- Đúng thế.
- Có đúng là người này tuyên bố rằng hội Illuminati nhận trách nhiệm về cái chết của Giáo hoàng không? - Chính người dẫn chương trình cũng tỏ ra hoài nghi.
- Chính xác. Người này nói với tôi rằng Giáo hoàng tạ thế không phải vì bị nhồi máu cơ tim, như Vatican vẫn tưởng thế. Thực ra hội Illuminati đã đầu độc ngài.
Tất cả mọi người có mặt trong phòng làm việc của Đức Thánh Cha đến như hoá đá.
- Đầu độc à? - Người dẫn chương trình hỏi lại. - Nhưng mà… nhưng mà…bằng cách nào ?
- Họ không nói cụ thể, chỉ có mỗi chi tiết là… họ đã giết ngài bằng một loại thuốc có tên là… - Có tiếng giấy sột soạt. - Một loại thuốc có tên là Heparin.
Giáo chủ Thị thần, Olivetti và Rocher sững sờ nhìn nhau.
- Heparin à? - Rocher lên tiếng, vẻ vô cùng bối rối. - Chẳng phải là…
Mặt Giáo chủ Thị thần tái xám:
- Chính là thuốc của Đức Thánh Cha.
Vittoria kinh ngạc:
- Giáo hoàng dùng thuốc Heparin à?
- Người bị chứng nghẽn mạch. - Giáo chủ Thị thần đáp - Ngày nào Đức Thánh Cha cũng phải tiêm một mũi.
Rocher kinh ngạc đến lặng người:
- Nhưng Heparin có phải là thuốc độc đâu. Sao Illuminati lại tuyên bố là…?
- Nếu dùng không đúng liều thì Heparin sẽ trở thành thuốc độc - Vittoria giải thích. - Nó là một chất chống đông cực mạnh. Dùng quá liều sẽ gây ra hiện tượng xuất huyết bên trong và cả xuất huyết não.
Olivetti nhìn cô gái đầy nghi hoặc:
- Làm sao cô biết điều đó?
- Các nhà nghiên cứu hải dương học thường tiêm thuốc này cho các loài thú có vú họ bắt được để phòng hiện tượng máu vón cục do giảm vận động. Nhiều con thú đã chết vì bị chích thuốc không đúng liều. - Vittoria ngừng giây lát. - Dùng Heparin quá liều ở người thường gây ra các triệu chứng rất dễ nhầm với chứng nhồi máu cơ tim… đặc biệt là nếu không được khám nghiệm tử thi.
Giáo chủ Thị thần lúc này có vẻ thực sự lo lắng.
- Thưa cha, rõ ràng đây là thủ đoạn của Illuminati nhằm buộc chúng ta công khai mọi chuyện. Không một ai có thể cho Giáo hoàng dùng thuốc quá liều được. Những kẻ đó không có cách gì tiếp cận được Đức Thánh Cha. Giả sử chúng ta có ăn phải mồi nhử của chúng và tìm cách bác bỏ lời buộc tội đó chăng nữa thì cũng làm gì có cách? Luật thánh nghiêm cấm khám nghiệm tử thi đối với Đức Thánh Cha. Mà có khám nghiệm tử thi thì cũng chẳng tìm được gì. Chỉ có vết tích của Heparin trong cơ thể do Đức cha vẫn tiêm hàng ngày mà thôi.
- Đúng thế. - Giáo chủ Thị thần gằn giọng. - Nhưng có một chi tiết vẫn khiến ta phải suy nghĩ. Không một ai ở ngoài có thể biết những loại thuốc Đức cha vẫn dùng.
Im lặng.
- Nếu Đức Thánh Cha dùng Heparin quá liều, sẽ có các dấu vết trên cơ thể. - Vittoria nói.
Olivetti quay phắt lại phía cô gái:
- Cô Vetra, nếu cô chưa nghe thấy thì tôi xin nhắc lại rằng luật thánh nghiêm cấm khám nghiệm tử thi trong trường hợp này. Chúng ta không thể phạm đến sự uy nghiêm của Đức Thánh Cha bằng cách mổ xẻ cắt vụn cơ thể người ra mà xem xét chỉ vì một lời cáo buộc hiểm độc của kẻ địch!
Vittoria thấy ngượng.
- Tôi không có ý nói rằng… - Cô không có ý tỏ ra bất kính. - Dĩ nhiên là tôi không định nói rằng chúng ta nên khai quật thi thể của người…
Tuy nhiên cô vẫn do dự. Những lời Robert nói với cô trong nhà nguyện Chigi chợt vang lên trong tâm trí cô. Anh đã nói rằng quách của Giáo hoàng không bao giờ được chôn dưới đất, và người ta cũng không dùng xi măng để trét kín nắp quan tài đá. Đây là một tục lệ bắt nguồn từ thời các vua Pharaoh, người ta tin rằng nếu bít kín quan tài thì linh hồn người chết sẽ vĩnh viễn bị nhốt ở trong đó. Và người ta dùng trọng lực để thay thế cho vữa, nắp các quan tài đá thường nặng hàng tạ. Về mặt kỹ thuật thì có thể…
- Những dấu vết gì vậy? - Đột nhiên Giáo chủ Thị thần thắc mắc.
Quá sợ hãi, tim Vittoria đập loạn nhịp.
- Dùng Heparin quá liều sẽ gây ra chảy máu vòm miệng.
- Cái gì miệng?
- Lợi của nạn nhân sẽ chảy máu. Sau khi nạn nhân đã chết, máu sẽ đông lại và toàn bộ vòm miệng chuyển thành màu đen.
Vittoria đã một lần xem bức ảnh chụp ở vườn thú London, người luyện thú ở đó đã có lần cho hai con cá heo dùng thuốc này quá liều. Hai cái xác cứng đờ nổi lềnh bềnh trong bể nuôi, miệng há hoác, để lộ ra hai cái lưỡi đen sì như trát bồ hóng.
Giáo chủ Thị thần không nói gì. Ngài nhìn ra ngoài cửa sổ.
Giọng nói của Rocher hết hẳn âm sắc lạc quan:
- Thưa cha, nếu lời cáo buộc rằng Đức Thánh Cha bị đầu độc là thật thì…
- Thật là thế nào! - Olivetti lớn giọng - Người ngoài không thể nào tiếp cận được Đức Thánh Cha!
- Giả sử lời cáo buộc đó là thật, rằng Đức Thánh Cha đã bị đầu độc - Rocher lặp lại, - thì điều này có tác động rất lớn đến chiến dịch dò tìm phản vật chất. Vụ đầu độc này có nghĩa là Vatican đã bị cài nội gián ở cấp rất cao. Cho nên chỉ dò tìm trong khu vực trắng là không thích hợp. Có nghĩa là chúng ta không thể tìm thấy cái hộp đó trong khoảng thời gian còn lại.
Olivetti chĩa sang đồng sự của mình một cái nhìn lạnh lẽo:
- Đại tá để tôi nói cho anh nghe những gì sắp diễn ra ở đây.
- Không. - Giáo chủ Thị thần đột nhiên quay lại. - Để ta nói cho các ông nghe những gì sẽ xảy ra. - Ngài nhìn thẳng vào Olivetti. - Tình hình đã trở nên quá tồi tệ. Trong vòng 20 phút nũa, ta sẽ đích thân quyết định có cần thiết phải sơ tán thành Vatican và hoãn Mật nghị Hồng y hay không. Quyết định của ta là tối thượng. Ông nghe rõ chưa?
Olivetti không chớp mắt, cũng không nói gì.
Lúc này hình như người thầy tu trẻ bỗng mạnh mẽ hẳn lên, như thể vừa tìm được một nguồn sinh lực dự trữ nào đó trong cơ thể Đại tá Rocher:
- Ông hãy hoàn tất việc dò tìm khu vực trắng, và báo cáo trực tiếp với ta ngay khi hoàn thành nhiệm vụ.
Rocher gật đầu và liếc nhìn Olivetti vẻ e ngại.
Giáo chủ Thị thần chọn hai người lính gác.
- Ta muốn anh chàng phóng viên đài BBC, tên là Gunther Glick có mặt tại văn phòng này ngay lập tức. Vì đã liên lạc trực tiếp với Illuminati nên anh ta có thể giúp ích cho chúng ta. Đi ngay đi.
Hai người lính ấy biến mất.
Lúc này Giáo chủ Thị thần quay sang ba người lính còn lại:
- Hôm nay ta không cho phép mất thêm bất kỳ sinh mạng nào nữa. Trong vòng hai giờ nữa, các anh phải xác định được hai địa điểm còn lại và tóm cổ thủ phạm về đây. Nghe rõ chưa?
- Nhưng thưa cha, chúng ta còn chưa biết… - Olivetti nói.
- Ông Langdon đang lo chuyện đó rồi. Chắc chắn ông ấy sẽ làm được. Ta tin như thế.:
Nói xong, Giáo chủ Thị thần tiến về phía cửa ra vào bằng những bước chân đầy dũng khí. Vừa đi, ngài vừa chỉ ba ngươi lính còn lại:
- Còn ba anh, hãy theo ta. Ngay bây giờ.
Ba người lính làm theo.
Ra đến bậu cửa, Giáo chủ Thị thần dừng lại:
- Cô Vetra, cả cô nữa, hãy đi theo ta.
Vittoria lưỡng lự:
- Cha định đi đâu?
Người thầy tu sải bước:
- Đi thăm một người bạn cũ.
 
×
Quay lại
Top