THIÊN THẦN VÀ ÁC QUỶ

Tại CERN, cô thư ký Sylvie Baudeloque cảm thấy đói bụng và muốn về nhà. Nhưng rủi thay, Kohler đã vượt qua cơn nguy kịch. Ông ta vừa gọi điện, không phải là đề nghị, mà là yêu cầu Sylvie làm thêm giờ. Không một lời giải thích.
Bao năm nay, Sylvie đã tự dặn mình không nên để bụng sự trái tính trái nết của Kohler - sự im lặng, thói quen kỳ quặc muốn dùng chiếc máy quay phim kỳ dị của ông ta để ghi lại tất cả các cuộc gặp gỡ. Chị thầm ước con người này sẽ có lần bắn nhầm phải chính mình khi đang bắn súng trường trong trường bắn giải trí của trung tâm. Nhưng rõ ràng ông ta là một xạ thủ rất cừ.
Lúc này, ngồi một mình bên bàn làm việc, Sylvie thấy bụng đang sôi lên ùng ục. Kohler vẫn chưa quay lại, cũng chẳng có một lời chỉ dẫn về công việc của chị tối nay. Ngồi một mình mà chịu đói kiểu này thật là chán, chị thầm nghĩ. Sylvie để lại trên bàn một lời nhắn cho Kohler, định chạy ù sang khu nhà ăn của viện để kiếm thứ gì ăn qua loa cho đỡ đói.
Nhưng Sylvie không thực hiện được ý định đó.
Đi ngang qua khu giải trí của CERN, một dãy phòng có trang bị ti-vi chị nhận thấy tất cả các phòng này đều đầy chật người, rõ ràng là những nhân viên này đã bỏ ăn tối để vào đây xem thời sự. Hình như có chuyện động trời. Sylvie bước vào phòng đầu tiên. Phòng này thấy toàn những anh chàng lập trình viên trẻ tuổi. Trông thấy hàng chữ lớn trên ti-vi, Sylvie há hốc mồm.
THẢM HỌA TẠI VATICAN
Nghe xong bản tin, Sylvie không dám tin vào tai mình. Một hội kín sát hại các Hồng y Giáo chủ? Để chứng minh điều gì? Lòng căm thù của họ ư? Địa vị thống trị của họ ư? Hay sự ngu dốt của họ?
Nhưng điều kỳ quặc là bầu không khí trong căn phòng này không một chút buồn bã hay ủ rũ.
Hai anh chàng kỹ thuật viên trẻ tuổi chạy qua, tay vẫy vẫy những chiếc áo phông in ảnh Bill Gates và lời nói của nhà tỉ phú này: RỒI MỘT NGÀY CÁC KỸ THUẬT VIÊN MÁY TÍNH SẼ THỐNG TRỊ THẾ GIỚI.
- Illuminati! - Một người hô to. - Tôi đã bảo là hội này có thật mà lại!
- Không tin nổi! Cứ tưởng chỉ là một trò chơi thông thường.
- Họ giết Giáo hoàng rồi, các bạn ơi! Giáo hoàng cơ đấy!
- Ối dào! Anh được bao nhiêu điểm rồi hả?
Tất cả cười rộ lên.
Sylvie sững sờ. Là một con chiên mộ đạo làm việc cùng những nhà khoa học, đôi khi chị phải chịu đựng những lời xầm xì vô thần đầy báng bổ, nhưng những anh chàng này dường như vô cùng phấn khích trước mất mát của giáo hội. Làm sao họ có thể nói những lời báng bổ đến thế? Sao họ lại căm thù nhà thờ đến thế?
Trong tâm thức của Sylvie, nhà thờ chỉ là một tổ chức vô hại… một nơi tràn ngập tình yêu thương và sự chia sẻ… đôi khi chỉ là nơi người ta đến để hát to lên mà không sợ bị người khác để ý.
Nhà thờ là nơi in dấu những sự kiện quan trọng trong đời chị - đám tang, đám cưới, lễ rửa tội, những ngày lễ - và nhà thờ chẳng bao giờ đòi hỏi gì để đổi lại cho vai trò của nó. Thậm chí tiền quyên góp cũng là tùy tâm. Sau những buổi giảng bài ngày Chủ nhật ở nhà thờ lũ trẻ trở nên đáng yêu hơn, tâm hồn chúng đầy ắp những ý tưởng giúp đỡ người khác và sống tốt hơn. Những cái đó có gì là xấu?
Sylvie luôn ngạc nhiên khi thấy những người được cho là lỗi lạc ở CERN không thể nào hiểu nổi tầm quan trọng của nhà thờ.
Chẳng lẽ họ thực sự tin rằng những hạt quark và meson có thể tác động đến những người bình thường? Rằng các phương trình có thể thực sự thay thế cho niềm tin vào đấng tối linh?
Choáng váng, Sylvie bước dọc hành lang, qua những phòng giải trí khác. Tất cả các phòng có ti-vi đều chật cứng. Lúc này, chị bắt đầu thắc mắc về cuộc gọi từ Vatican mà Kohler nhận lúc trước. Trùng hợp ngẫu nhiên? Rất có thể. Đôi khi Vatican vẫn gọi điện cho CERN, một động thái có tính chất ngoại giao trước khi đưa ra một lời bình luận gay gắt nào đó về những nghiên cứu ở đây - gần đây nhất là thành tựu đột phá của CERN về công nghệ nano, lĩnh vực mà giáo hội vẫn chỉ trích vì e ngại những liên quan của nó đến công nghệ gen. CERN chẳng bao giờ để ý.
Dường như đã thành lệ, gần như ngay sau loạt đạn của Vatican sẽ là cuộc điều tra của một tổ chức nào đó liên quan đến việc có cho phép triển khai tiếp nghiên cứu đó hay không. "Không gì đáng sợ bằng bị báo chí nhòm ngó", Kohler vẫn thường nói vậy.
Sylvie cân nhắc việc nhắn tin cho Kohler, dù ông ta có đang ở đâu để bảo ông ta bật ti-vi lên. Ông ấy có quan tâm không nhỉ? Ông ấy đã biết chưa? Dĩ nhiên, chắc chắn ông ấy phải biết rồi. Biết đâu Kohler lại còn đang ghi băng toàn bộ bản tin này, và đang nở nụ cười đầu tiên trong năm.
Tiếp tục đi dọc hành lang, cuối cùng thì Sylvie cũng tìm được một nơi mà bầu không khí có vẻ dịu hơn… gần như là buồn bã.
Trong phòng này, chị thấy những gương mặt có tuổi và đáng kính trọng nhất ở CERN. Lúc Sylvie bước vào trong phòng, họ thậm chí không ngẩng lên nhìn.
***
Ở đầu kia của toà nhà lớn, trong căn phòng lạnh lẽo của Leonardo Vetra, Maximilian Kohler đã đọc xong cuốn sổ nhật ký bọc da lấy từ ngăn kéo bàn của Vetra. Lúc này ông đang xem bản tin. Mấy phút sau, Kohler cất cuốn sổ vào chỗ cũ, tắt ti-vi và ra khỏi phòng.
***
Ở một nơi khác rất xa, tại Vatican, Hồng y Mortati bê khay lá phiếu. Tới chân ống khói nhà nguyện Sistine. Ngài đốt những lá phiếu trên khay, khói đen bốc lên.
Một lần bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.
Ánh sáng toả ra từ những chiếc đèn pin chẳng thấm tháp gì so với bóng tối âm u dày dặc trong Đại thánh đường St. Peter.
Khoảng không đen ngòm trên đầu như đang đè nặng xuống và Vittoria cảm thấy sự trống trải đen kịt xung quanh chẳng khác gì một vùng biển hoang vắng. Cô cố gắng bước đi sát bên cạnh những người lính gác Thuỵ Sĩ trong khi Giáo chủ Thị thần vẫn sải những bước dài. Trên cao, một chú chim câu kêu gù gù rồi vỗ cánh bay đi.
Dường như cảm nhận được tâm trạng bất an của Vittoria, Giáo chủ Thị thần bước chậm lại và đặt tay lên vai cô. Một luồng sức mạnh lập tức truyền qua bàn tay ấy, như thể con người này đang dùng phép màu nhiệm để truyền cho Vittoria sự điềm tĩnh rất cần thiết cho những công việc mà họ sắp tiến hành.
Chúng ta định làm gì thế này ? Vittoria thầm nghĩ. Thật là một hành động điên rồ!
Tuy nhiên, Vittoria biết rằng đây là một việc không thể không lẫm, vì như thế có nghĩa là bất kính, là khủng khiếp. Cần có thông tin để đưa ra những quyết sách cần thiết… những thông tin đang bị chôn vùi trong nhà mồ của Vatican. Không hiểu họ sẽ tìm thấy gì. Có đúng là hội Illuminati đã sát hại Đức Thánh Chúa không? Phải chăng cánh tay của họ có thể vươn dài đến thế? Không lẽ mình sẽ là người đầu tiên tổ chức khám nghiệm tử thi của một vị Giáo hoàng?
Thật mỉa mai, trong thánh đường tăm tối này, Vittoria cảm thấy sợ hãi, khác hắn những đêm cô bơi giữa bầy cá ăn thịt người ngoài biển khơi. Thiên nhiên chính là nhà của cô. Và lúc nào cô cũng hiểu thiên nhiên. Nhưng với cô, linh hồn của loài người thì luôn luôn bí hiểm. Đám đông nhà báo tập trung bên ngoài khiến Vittoria nghi đến loài cá ăn thịt người. Thi thể bị đóng dấu sắt nung của đức Hồng y trên ti-vi khiến cô nghĩ đến người cha của mình… và tiếng cười ghê rợn của kẻ giết người. Hắn đang ở đâu đó ngoài kia. Cơn giận dữ trong lòng Vittoria đã nhấn chìm cảm giác sợ hãi từ lúc nào.
Đi qua một cây cột lớn - lớn hơn bất kỳ cây cột bằng gỗ nào khác cô gái trông thấy một luồng ánh sáng màu vàng cam. Luồng sáng này dường như phát ra từ dưới nền của trung tâm Đại thánh đường. Đến gần hơn, Vittoria nhận ra đó chính là điện thờ dưới lòng đất nổi tiếng, nơi cất giữ những di vật quý giá nhất của Vatican. Đến gần hơn, Vittoria chăm chú nhìn cỗ quan tài lớn bằng vàng, được thắp sáng bởi hàng chục ngọn đèn dầu.
- Đây chính là lăng mộ trong thánh đường St. Peter phải không? - Hỏi vậy nhưng cô đã biết rõ đây là nơi nào. Tất cả những ai từng đến thánh đường St. Peter đều biết những gì được cất giữ trong những cỗ quan tài bằng vàng này.
- Thực ra thì không phải vậy. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Rất nhiều người vẫn hiểu lầm như thế. Đây không phải là chỗ đựng thánh tích. Trong hòm này là những chiếc khăn choàng pallium để Giáo hoàng phát cho những Hồng y mới được phong chức!
- Tôi tưởng là…
- Rất nhiều người cũng tưởng thế đấy. Các sách hướng dẫn du lịch gọi nó là hầm mộ trong thánh đường St. Peter, nhưng hầm mộ thật sự nằm ở tận dưới sâu trong lòng đất cơ. Vatican khai quật được hầm mộ này từ những năm 40. Không một ai được phép xuống đó.
Vittoria kinh ngạc. Bước theo những người khác, xa dần vùng sáng, cô nghĩ đến câu chuyện của những người hành hương vượt qua hàng ngàn cây số chỉ để được nhìn thấy chiếc quan tài bằng vàng này và nghĩ rằng họ đã đến được với Thánh Peter.
- Thế tại sao Vatican không công bố tin đó?
- Tất cả chúng ta đều được một cái gì đó khi nghĩ rằng mình được tiếp xúc với đấng tối linh… dù chỉ trong tưởng tượng.
Là một nhà khoa học, Vittoria không thể không công nhận rằng đây là một lập luận lôgíc. Cô đã từng đọc vô số nghiên cứu về hiệu ứng của sự trấn an - thuốc aspirin chữa lành bệnh cho những bệnh nhân ung thư trong khi bản thân người bệnh thì tin chắc rằng họ đang dùng một loại thần được nào đó. Suy cho cùng thì đó chẳng phải là đức tin hay sao?
Thay đổi chưa bao giờ là sở trường cửa Vatican. Thừa nhận những sai lầm trong quá khứ hay hiện đại hoá bản thân nó là những gì Giáo hội xưa nay luôn tìm cách tránh né. Và Đức Thánh Cha đã cố gắng thay đổi điều đó. - Giáo chủ Thị thần ngừng một lát - Hoà nhập với thế giới hiện đại, tìm những phương cách mới để tiếp cận Chúa.
Trong bóng tối, Vittoria gật đầu:
- Giống như khoa học chứ gì?
- Thật ra mà nói thì có lẽ khoa học lại là cái không thích hợp.
- Không thích hợp? - Vittoria có thể nghĩ ra rất nhiều từ ngữ để nói về khoa học, nhưng trong thời hiện đại này, từ không thích hợp rõ ràng không thể là một trong những từ ấy.
- Khoa học có thể chữa lành vết thương, nhưng cũng có thể giết chết người ta. Cái đó phụ thuộc vào người nắm khoa học trong tay. Linh hồn của người đó mới chính là cái ta quan tâm tới.
- Cha bắt đầu đến với Chúa từ bao giờ?
- Từ trước khi ta chào đời.
Vittoria trợn tròn mắt.
- Rất tiếc, câu hỏi đó đối với ta luôn có vẻ là lạ. Ta muốn nói rằng lúc nào ta cũng tâm niệm rằng mình sẽ phụng sự Chúa. Từ khi biết nghĩ. Tuy nhiên đến khi trở thành một thanh niên trong quân ngũ thì ta mới thực sự ý thức đầy đủ về tâm nguyện ấy của mình.
Vittoria ngạc nhiên:
- Cha đã từng đi lính ư?
- Hai năm. Ta nhất định không chịu cầm súng, thế là họ bắt ta lái máy bay. Loại trực thăng Medevac. Thỉnh thoảng ta vẫn lái máy bay đấy.
Vittoria cố mường tượng cảnh một vị thầy tu trẻ đang lái máy bay. Thật kỳ lạ, cô thấy con người này thật phù hợp với bảng điều khiển máy bay. Uy lực của Giáo chủ Thị thần Ventresca thực ra cũng là kết quả của phẩm chất này.
- Cha có bao giờ lái máy bay cho Đức Thánh Cha không?
- Lạy chúa, không. Vị khách đặc biệt đó thì xin dành cho các phi công chuyên nghiệp. Nhưng đôi khi Đức Thánh Cha cho phép ta trở về Gandolfo bằng máy bay trực thăng. - Giáo chủ Thị thần im lặng giây lát, rồi quay sang nhìn Vittoria. - Cô Vetra, cảm ơn cô đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hôm nay. Ta rất lấy làm tiếc về cha của cô, thật đấy.
- Cảm ơn cha!
- Ta không bao giờ biết mặt cha ruột của mình. Ông ấy đã qua đời trước khi ta chào đời. Lên 10 tuổi thì ta mồ côi mẹ.
Vittoria ngước nhìn lên.
- Cha cũng mồ côi ư? - Đột nhiên cô thấy vị thầy tu này trở nên thật gần gũi.
- Ta sống sót sau một tai nạn. Thảm hoạ đó đã khiến mẹ ta thiệt mạng.
- Thế ai chăm sóc cha?
- Chúa. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Người đã gửi đến cho ta một người cha khác, theo đúng nghĩa đen của từ ấy. Một linh mục ở vùng Palermo xuất hiện ở bệnh viện và đón nhận ta. Lúc đó ta không hề ngạc nhiên. Từ khi còn bé, ta đã cảm nhận được sự quan tâm và tình yêu của Chúa dành cho mình. Sự xuất hiện của vị linh mục ấy đơn giản là đã khẳng định những gì ta nghĩ rằng sẽ xảy đến. Chúa đã chọn ta làm kẻ nô bộc của người.
- Cha tin rằng Chúa đã chọn cha ư?
- Phải. Bây giờ ta vẫn tin như vậy. - Không hề có chút giả dối nào trong giọng nói của Giáo chủ Thị thần, mà chi có lòng biết ơn sâu sắc - Trong nhiều năm, ta đã làm việc dưới sự giám hộ của vị giám mục ấy. Sau đó người được phong chức Hồng y Giáo chủ Tuy nhiên, người vẫn không quên ta. Trong tâm khảm của ta, người chính là cha.
Một luồng sáng bất ngờ rọi vào khuôn mặt của vị thầy tu trẻ, và Vittoria dọc thấy sự cô đơn trong đôi mắt ấy.
Họ đến bên một cây cột rất cao, và những ánh đèn pin cùng chiếu xuống một cái hố. Nhìn những bậc thang dẫn xuống khoảng tối đen ngòm bên dưới, bất giác Vittoria muốn quay lui.
Những người lính gác đỡ Giáo chủ Thị thần bước xuống. Và cả cô nữa.
- Rồi sao nữa? - Vừa bước xuống, Vittoria vừa hỏi, cố phát âm một cách mạch lạc. - Vị Hồng y Giáo chủ đó sau thế nào?
- Người rời khỏi Hội đồng hồng y để đảm nhiệm một vị trí khác.
Vittoria ngạc nhiên.
- Sau đó, đáng tiếc là người đã ra đi.
- Thật sao? - Vittoria thốt lên. - Lâu chưa ạ?
Giáo chủ Thị thần quay lại, trong bóng tối, vẻ mặt đầy đau đớn:
- Chính xác là cách đây 15 hôm. Và ngay bây giờ chúng ta sẽ gặp lại người.
Vòm kính lưu trữ của Vatican được chiếu sáng bởi những bóng đèn màu đỏ. Vòm kính này nhỏ hơn nhiều so với những vòm khác ở đây ít khí hơn, ít thời gian hơn. Giá mà ban nãy Langdon nhớ ra để yêu cầu Olivetti cho bật quạt thông gió lên thì tốt biết mấy.
Langdon nhanh chóng xác định được khu vực chứa các tài liệu về mỹ thuật. Khu vực này không thể lẫn vào đâu được. Nó chiếm trọn 8 giá sách đầy ắp. Giáo hội Cơ đốc sở hữu hàng triệu tác phẩm nghệ thuật ở khắp nơi trên thế giới.
Langdon nhìn lướt qua các giá đề tận cái tên Gianlorenzo Bernini. Anh bắt đầu tận từ giữa giá trở xuống, ở khu mà có lẽ sẽ thấy vần B. Lúc đầu anh tưởng cuốn sổ đang cần tận đã bị thất lạc, nhưng chỉ sau chốc lát, Langdon kinh hãi phát hiện ra rằng những cuốn sổ này không được xếp theo thứ tự A, B, C. Sao mình không thấy ngạc nhiên nhỉ ?
Mãi khi quay lại tìm từ đầu, trèo thang lên tận trên đỉnh giá cao nhất, anh mới hiểu ra cách sắp xếp tài liệu trong vòm này.
Cheo leo tận tầng trên cũng là những cuốn sổ cái dày nhất về các bậc thầy thời Phục Hưng - Michelangelo, Raphael, Da Vinci, Botticelli. Hoá ra là thế, vì đây là nơi lưu trữ tài liệu về "tài sản của Vatican" cho nên vị trí các cuốn sổ phụ thuộc vào giá trị của từng bộ sưu tập. Cuốn Bernini nằm giữa hai cuốn sổ đề Raphael và Michelangelo. Dày những gần mười phân.
Hổn hển vì phải vật lộn với cuốn sổ quá dày, Langdon xuống thang Rồi hệt như một cậu bé vớ được cuốn truyện tranh yêu thích; anh nằm soài xuống sàn; lật trang bìa.
Cuốn sổ này có bìa vải rất chắc chắn. Bên trong là tiếng Ý, chữ viết tay. Mỗi trang nói về một tác phẩm, có cả một đoạn miêu tả ngắn gọn ngày tháng, địa điểm, giá nguyên liệu, đôi khi có cả phác hoạ tác phẩm đó. Langdon lật nhanh một lượt… 800 trang tất cả. Bernini quả là một người bận rộn.
Hồi còn là sinh viên, Langdon đã có lần thắc mắc tại sao một số nghệ sĩ có thể sáng tạo nhiều tác phẩm đến thế trong quãng đời ngắn ngủi của họ. Về sau, anh đã vô cùng thất vọng khi hiểu ra rằng các nghệ sĩ đó thực sự tự sáng tác rất ít. Họ lập ra các xưởng nghệ thuật và đào tạo các nghệ sĩ trẻ, và để cho những nghệ sĩ học việc này thực hiện các ý tưởng của mình. Những nhà điêu khắc như Bernini thường nặn các nguyên mẫu thu nhỏ bằng đất sét sau đó thuê người khác sao chép sang chất liệu đá cầm thạch. Nếu Bernini phải đích thân tạo ra tất cả các tác phẩm của mình, chắc đến tận đầu thiên niên kỷ thứ ba này ông vẫn chưa thể làm xong.
Phụ lục . Langdon tự nói một mình để gạt những ý nghĩ vẩn vơ không cần thiết khỏi tâm trí. Anh lật đến cuối cuốn sổ, định tìm vần F để tận các tác phẩm có liên quan đến Lửa, nhưng không thấy. Anh lầm bầm trong miệng: Làm sao những người này lại căm ghét kiểu xếp theo trật tự A, B, C đến thế không biết.
Các tác phẩm rõ ràng là được xếp theo trật tự thời gian. Xong tác phẩm này, Bernini lại bắt đầu tác phẩm khác. Tất cả được xếp theo ngày tháng. Chẳng ích lợi gì.
Nhìn phần phụ lục, một chi tiết đáng thất vọng nữa đập vào mắt anh. Không có một tác phẩm nào có tiêu đề liên quan đến Lửa. Hai tác phẩm đã tận được: Habbakuk và thiên thần , cũng như Gió Tây , đều không có tiêu đề liên quan trực tiếp đến Đất và Khí.
Langdon thử lật lung tung cuốn sổ, hi vọng một hình minh hoạ nào đó có thể đem lại cho anh một ý. Tưởng bất ngờ. Nhưng chẳng thấy gì. Anh chỉ thấy hàng chục tác phẩm mà anh chưa nghe nói tới bao giờ, và cũng có nhiều tác phẩm anh đã biết từ trước… Daniel và Sư tử, Thần mặt trời và Daphne, có cả gần chục đài phun nước. Những đài phun nước này bỗng khiến anh để tâm. Nước. Biết đâu bàn thờ khoa học thứ tư lại là một đài phun nước nào đó. Để ngợi ca nước thì một đài phun nước dĩ nhiên là không gì bằng.
Langdon hi vọng có thể tóm được kẻ sát nhân trước khi phải nghĩ đến Nước - Bernini đã thiết kế hàng chục đài phun nước ở Rome, và hầu hết đều được bố trí phía trước các thánh đường.
Langdon quay lại với vấn đề của hiện tại. Lửa . Mắt nhìn lướt cuốn sổ dày cộp, Langdon chợt thấy vang lên trong tâm trí những lởi nói đầy khích lệ của Vittoria. Hai tác phẩm trước đều rất quen thuộc đối với anh… rất có thể anh cũng đã biết tác phẩm thứ ba này rồi cũng nên . Lại lại về phần phụ lục, Langdon tìm những tác phẩm anh đã biết. Một số có vẻ cũng quen quen, nhưng vẫn không thấy ý tưởng nào nảy ra trong đầu. Rất có thể anh sẽ chết trước khi tìm ra tác phẩm đó, dù thực sự không muốn, anh vẫn quyết định mang cuốn sổ cái ra khỏi vòm lưu trữ. Thực ra chỉ là một cuốn sổ cái thôi mà, anh tự an ủi bản thân. Lần này rất khác với việc đưa nguyên tác của Galileo ra ngoài . Nhớ đến tờ giấy nến viết về Galileo trong túi áo, anh tự nhủ phải nhớ mang trả vào chỗ cũ trước khi rời khỏi nơi này.
Vội vã Langdon định nhấc cuốn sổ lên, nhưng đúng lúc này một hình ảnh khiến anh dừng ngay lại. Dù phần phụ lục liệt kê rất nhiều, nhưng chỉ một tác phẩm khiến anh cảm thấy là lạ.
Phần chú thích cho thấy đây là một tác phẩm nổi tiếng của Bernini, Khoảnh khắc đê m.ê của thánh Teresa. Mới hoàn thành chưa được bao lâu, nó đã bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu trong toà thánh: Điều này chưa có gì đáng chú ý, anh biết quá khứ sóng gió của tác phẩm này. Dù được nhiều người coi là kiệt tác, nhưng tác phẩm điêu khắc này bị Giáo hoàng Urban VIII cho là đậm chất tính dục và không thích hợp với Vatican. Ngài đã cho chuyển tác phẩm này đến một nhà thờ nhỏ hẻo lánh của thành phố. Điều đáng chú ý là tác phẩm này đã được dời đến một trong năm nhà thờ mà Langdon hiện đang quan tâm. Thêm vào đó ở đây còn ghi là di chuyển theo đề nghị của tác giả.
Theo đề nghị của tác giả? Thật khó hiểu. Khả năng Bernini muốn giấu tác phẩm của mình vào một nơi hẻo lánh là rất ít. Các nghệ sĩ đều muốn tác phẩm của mình được trưng bày trong những khung cảnh trang trọng, không phải ở…
Langdon đắn đo. Trừ phi…
Anh thậm chí không dám tin vào suy đoán của mình. Không lẽ là thế thật? Phải chăng Bernini cố tình tạo ra một tác phẩm quá đậm chất dục tính để buộc Vatican phải chuyển nó đi chỗ khác?
Đến một địa điểm do Bernini tự chọn? Biết đâu là một nhà thờ khuất nẻo nào đó nằm đúng hướng mà Gió Tây chỉ tới?
Langdon bắt đầu thấy phấn khởi trong lòng, nhưng những gì anh biết về tác phẩm này lờ mờ hiện ra trong trí nhớ. Đâu có liên quan gì đến Lửa. Tất cả những ai đã từng nhìn thấy tác phẩm này đều phải thừa nhận rằng nó chẳng có vẻ gì liên quan đến khoa học. Liên quan đến tinh dục thì có, chứ khoa học thì không chút nào. Có nhà phê bình nghệ thuật người Anh đã từng nói rằng, không thể nào dùng Khoảnh khắc đê m.ê của thánh Teresa làm vật trang trí cho một nhà thờ Thiên Chúa giáo. Dĩ nhiên Langdon hiểu vì sao lại có sự bất đồng quan điểm như vậy. Dù được tạo ra bằng một đôi tay thiên tài, nó vẫn là tượng Thánh Teresa trong tư thế nằm ngửa đang uốn éo, quằn quại trong cảm giác đê m.ê.
Khó có thể lọt vào mắt xanh của Vatican. Langdon vội lật đến trang miêu tả tác phẩm này. Trông thấy hình phác hoạ tác phẩm, anh bất giác cảm thấy có hi vọng. Trong tranh, rõ ràng là Thánh Teresa đang trong cảm giác ngây ngất đê m.ê, nhưng cạnh thiếu phụ này còn có một hình vẽ nữa, bức tượng thứ hai mà Langdon không hề nhớ ra.
Một thiên thần.
Anh bất giác nhớ lại truyền thuyết về bức tượng…
Vốn là một nữ tu sĩ, xơ Teresa đã được phong thánh sau khi tuyên bố rằng trong giấc ngủ, bà được một thiên thần ghé thăm. Về sau, các nhà phê bình đều cho rằng cuộc viếng thăm đó mang yếu tố dục tính chứ không có tính chất tâm linh. Cần cuối trang giấy, Langdon thấy những đoạn trích dẫn quen thuộc. Những lời nói của chính thánh Teresa khiến cho người ta không thể nghĩ theo bất kỳ hướng nào khác:
"Cây giáo lớn bằng vàng của thiên thần… rực lửa… xiên thẳng vào th.ân thể ta nhiều lần… xuyên vào ruột gan ta… một sự ngọt ngào đến vồ cùng khiến ta muốn khoảnh khắc đó không bao giờ chấm dứt".
Langdon cười mỉm. Những lời lẽ bóng bẩy này rõ ràng ám chỉ một cuộc truy hoan thực sự, không thể là bất kì thứ gì khác . Đọc những câu miêu tả trong trang giấy này, anh càng thấy phấn khởi. Dù đây là tiếng Ý, từ Lửa vẫn thấy xuất hiện rất nhiều lần:
… mũi giáo của thiên thần rực lửa
… đầu thiên thần toả ra những tia lửa
… người trinh nữ bừng bừng trong ngọn lửa đam mê…
Nhìn hình vẽ minh hoạ thêm một lần nữa, Langdon mới thực sự tin chắc. Cây giáo rực lửa của thiên thần được giương lên cao, như một ngọn hải đăng chỉ hướng. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả . Thậm chí đây còn là một thiên thần Seraph, mà nghĩa đen của từ này chính là "đấng rực lửa" .
Mặc dù không thuộc kiểu người tin vào số mệnh, nhưng khi đọc tên của thánh đường đó, Langdon cũng phải tin là có những yếu tố tiền định.
Santa Maria Della Vittoria .
Vittoria , anh vừa đọc nhẩm vừa cười rạng rỡ. Tuyệt thật.
Lúc đứng lên, Langdon cảm thấy chóng mặt. Anh liếc nhìn cái thang, lưỡng lự không biết có nên đưa trả quyển sổ vào chỗ cũ không. Mặc kệ, anh thầm nghĩ. Cứ để cha Jaqui cất cũng được . Rồi anh gấp cuốn sổ lại, đặt ngay ngắn dưới đáy giá sách.
Vừa bước lại bên nút bấm đang toả sáng nhè nhẹ ở cửa ra, Langdon vừa thở dốc. Tuy nhiên, vận may tình cờ vẫn khiến anh cảm thấy phấn chấn.
Nhưng đúng lúc Langdon giơ tay định nhấn nút mở cửa thì vận may ấy kết thúc…
Bất thình lình, vòm kính như thở dài đánh thượt một cái. Đèn mở dần, rồi nút khoá cửa cũng tắt ngấm. Như một con mãnh thú vừa thở hắt ra lần cuối cùng trong đời, toàn bộ vòm kính chuyển thành tối thui Có người vừa cắt cầu dao điện.
 
Các hầm mộ linh thiêng của Vatican được bố trí bên dưới Đại thánh đường St. Peter. Những Giáo hoàng đã quá cố đều được an táng tại đây.
Vittoria đã xuống đến bậc thang cuối cùng, và bước vào trong hầm mộ. Đường hầm tối tăm nơi đây khiến cô nghĩ tới cỗ máy gia tốc hạt Hadron tại CERN - tối tăm và lạnh lẽo. Lờ mờ hiện ra dưới luồng sáng của những chiếc đèn pin, nơi này đầy vẻ ma quái. Hai bên lối đi có rất nhiều hốc được khoét sâu vào trong tưởng. Và sâu trong những hốc ấy là bóng dáng nặng nề thô kệch của những cỗ quan tài đá.
Vittoria thấy choáng váng. Vì lạnh đấy mà , cô tự nhủ, dù biết rằng đó không phải là lý do duy nhất. Cô có cảm tưởng như họ đang bị theo dõi, không phải bởi những con người bằng xương bằng thịt, mà bởi những bóng ma trong đêm tối nơi này. Bên trên các quan tài là những hình nộm mô phỏng các Giáo hoàng quá cố đầy đủ lễ phục, to bằng người thật, nằm chắp tay trước ngực.
Trông như thể những hình nhân ấy từ trong quan tài nhô lên, vượt qua sức cản của nắp quan tài bằng đá cẩm thạch, để thoát ra khỏi những ràng buộc của cái chết. Những luồng sáng từ mấy cây đèn pin tiếp tục tiến lên phía trước, những hình nhân ấy tạo thành những bóng đen, hiện ra trước mắt họ, đổ dài xuống, rồi biến mất, y như một vũ điệu ma quái mô phỏng một cuộc tỉ thí võ nghệ đầy ghê rợn.
Tất cả mọi người đều im lặng, không biết vì thành kính hay vì sợ hãi. Có lẽ là cả hai. Giáo chủ Thị thần nhắm mắt, chân bước thẳng về phía trước, như thể ngài đã thuộc lòng từng lối đi từ lâu lắm rồi. Vittoria có cảm giác rằng vị thầy tu trẻ tuổi này đã nhiều lần có những cuộc dạo chơi kỳ quái kiểu này từ khi Đức Thánh Cha tạ thế… có lẽ là để cầu nguyện bên quan tài của người.
Ta đã nhiều năm làm việc dưới sự giám hộ của đức Hồng y Giáo chủ, chính miệng viên Thị thần này đã nói thế. Người như là cha của ta vậy. Giáo chủ Thị thần đã nói những lời này khi kể về vị giám mục đã cứu ông ra khỏi quân ngũ. Tuy nhiên, đến lúc này cô mới hiểu hết toàn bộ câu chuyện. Chính vị giám mục đỏ sau này đã trở thành Giáo hoàng và người phụ tá trẻ của ngài đã trở thành Giáo chủ Thị thần.
Chi tiết này làm cho tất cả trở nên rất rõ ràng. Vittoria thầm nghĩ.
Cô gái luôn có những trực cảm rất chính xác về nội tâm của người khác, và vị thầy tu trẻ tuổi này đã khiến cô phải băn khoăn suốt từ lúc đặt chân đến toà thánh. Vừa mới gặp gỡ, Vittoria đã cảm nhận trong tâm can của con người này một nỗi đau vò xé, đáng sợ hơn nhiều so với những sự kiện dồn dập đang xảy đến ngay lúc này. Đằng sau vẻ điềm tĩnh này là một linh hồn bị giằng xé dữ dội. Giờ thì Vittoria biết chắc rằng trực giác của mình không sai chút nào. Vị thầy tu này không những đang đứng trước hiểm hoạ đáng sợ nhất trong lịch sử Vatican, mà còn phải chèo chống trong thế đơn thương độc mã.
Những người lính lúc này đã bước chậm lại, dường như trong bóng tối dày đặc, họ không thể xác định được vị trí của đức Giáo hoàng vừa tạ thế. Giáo chủ Thị thần thì vẫn phăm phăm bước tới đầy tự tin, sau đó dừng lại trước một mộ phần bằng đá hoa cương có vẻ sáng hơn so với những ngôi mộ khác. Ngay bên trên quách đá là hình mô phỏng cựu Giáo hoàng. Nhận ra khuôn mặt mà có đã mấy lần trông thấy trên ti-vi, Vittoria chợt thấy kinh hãi. Chúng ta định làm gì thế này ?
- Ta biết là chúng ta không còn nhiều thời gian. - Giáo chủ Thị thần nói - Nhưng dù sao thì hãy cùng cầu nguyện một lát.
Những người lính Thuỵ Sĩ cúi đầu xuống. Vittoria cũng làm theo, tim đập thình thịch. Giáo chủ Thị thần quỳ xuống và khấn nguyện bằng tiếng Ý. Nghe những lời cầu nguyện của vị thầy tu trẻ tuổi, nỗi đau trong lòng cô gái chợt dâng trào… những giọt nước mắt khóc cho người cha vừa qua đời… người cha linh thần của cô. Giáo chủ Thị thần như đang khấn nguyện cho cả cố Giáo hoàng lẫn cha của Vittoria.
- Cha tôn kính, người chỉ lối, người bạn lớn của con. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần âm vang trong bầu không khí tĩnh mịch. Hồi còn bé con đã được cha căn dặn rằng tiếng nói trong tim con cũng chính là tiếng nói của Chúa. Cha đã dặn con phải luôn tuân phục những mệnh lệnh trong tim ấy, bất chấp mọi khó khăn gian khổ Lúc này con đang nghe thấy những mệnh lệnh ấy, và sắp sửa phải làm một việc thật khó khăn. Xin cha hãy cho con sức mạnh. Xin cha hãy xá tội cho con. Những gì con sắp làm… chính là vì tất cả những gì cha vẫn luôn tôn thờ. Amen!
Amen . - Những người lính lặp lại.
Amen. Cha ơi . Vittoria gạt nước mắt.
Giáo chủ Thị thần chậm rãi đứng dậy và bước tránh sang một bên.
- Hãy đẩy nắp quan tài ra.
Những người lính gác Thuỵ Sĩ lưỡng lự:
- Thưa cha, theo luật thì chúng con phải tuân theo lệnh cha. - Một người lính nói - Chúng con sẽ…
Giáo chủ Thị thần hiểu những suy nghĩ của người lính trẻ:
- Một ngày nào đó, ta sẽ phải cầu xin sự tha thứ của các bạn vì đã đẩy các bạn vào tình huống khó khăn này. Nhưng hôm nay, bơn phận của các bạn là làm theo mệnh lệnh của ta. Luật thánh được ban hành là để bảo vệ Giáo hội. Lúc này, ta yêu cầu các bạn vi phạm luật thánh cũng là vì lợi ích của Giáo hội.
Im lặng giây lát, người đội trưởng ra lệnh cho hai người còn lại. Cả ba người đặt đèn pin xuống đất, bóng họ đố dài về phía trước. Họ tiến lại bên quan tài. Trong những luồng sáng từ mặt đất hắt lên, ba người lính đặt tay lên một đầu nắp quan tài, gồng người lên trong tư thế chuẩn bị. Nhận được hiệu lệnh, cả ba cùng ra sức đẩy thật mạnh. Nắp quan tài bằng đá gần như không hề nhúc nhích, Vittoria thầm cầu cho họ không đủ sức để mở chiếc quách đá này. Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ hãi khi nghĩ tới những gì mình sẽ phải trông thấy.
Ba người lính đẩy mạnh hơn nữa, nhưng nắp quan tài vẫn không hề lay chuyển.
- Để ta giúp một tay. - Giáo chủ Thị thần xắn ống tay áo thầy tu lên quá khuỷu. - Hai, ba nào! - Tất cả đều thở hổn hển.
Vittoria định giúp họ, nhưng chưa kịp lên tiếng thì nắp quan tài bắt đầu dịch chuyển. Bốn người đàn ông lại đẩy thêm một lần nữa, tiếng đá nghiến vào đá nghe lộng óc, nắp quan tài dịch hẳn sang một bên, mở ra một góc khá rộng - hình nộm của Giáo hoàng trên nắp quan tài bị ngửa hẳn đầu ra sau, còn hai chân thì xiên thắng ra trước mặt họ.
Tất cả đều bất giác lùi lại.
Một người lính nhặt cây đèn pin dưới chân lên. Anh ta lưỡng lự rồi chiếu đèn vào mộ phần. Luồng sáng lúc đầu run rẩy, rồi nhanh chóng ổn định. Những người lính khác cũng lần lượt làm theo. Dường như cả ba người lính đều muốn quay đầu bỏ chạy. Gần như đồng thời, họ đưa tay làm dấu thánh.
Quan sát mộ phần, Giáo chủ Thị thần rùng mình, hai vai rũ xuồng như đang phải mang một gánh nặng quá sức. Một lúc lâu sau ngài mới quay mặt đi.
Vittoria tưởng miệng Đức Thánh Cha đã cứng đờ, và cô sẽ phải bẻ gãy xương hàm để quan sát lưỡi. Nhưng hoá ra điều đó là không cần thiết. Hai gò má đã chảy xệ hẳn xuống, và miệng Giáo hoàng mở rộng.
Lưỡi của ngài đen sì.
Langdon băng qua khoảng sân Belvedere, hướng tới đài phun nước trước cửa trụ sở của đội lính gác Thuỵ Sĩ, đồng hồ Mickey trên cổ tay anh dính đầy máu, đã 9 giờ 41 phút. Máu đã ngừng chảy, nhưng cánh tay anh giờ nhức nhối hơn nhiều. Đến nơi, anh thấy dường như tất cả những người khác cũng vừa mới đồng loạt tụ về Olivetti, Rocher, Giáo chủ Thị thần, Vittoria và mấy người lính Thuỵ Sĩ.
Vittoria chạy ngay đến bên Langdon.
- Robert! Anh bị thương rồi này!
Langdon chưa kịp nói câu gì thì đã thấy Olivetti đứng ngay trước mặt.
- Ông Langdon, thấy ông vẫn an toàn thế này tôi nhẹ cả người. Tôi xin lỗi vì sự nhầm lẫn trong Nhà mái vòm bí mật.
- Nhầm lẫn là thế nào? - Langdon chất vấn. - Ông biết quá rõ là…
- Đó chính là lỗi của tôi. - Rocher bước lại, tỏ vẻ hối hận. - Tôi không hề biết ông đang ở trong phòng lưu trữ. Một số địa điểm thuộc khu vực trắng chung đường điện với toà nhà đó. Chúng tôi đã mở rộng khu vực tìm kiếm. Chính tôi đã dập cầu dao điện. Nếu mà biết trước thì tôi đã…
- Robert, Đức Thánh Cha đã bị đầu độc. - Vittoria cầm bàn tay bị thương của anh. - Hội Illuminati đã ám hại người.
Langdon nghe thấy, nhưng hầu như không hiểu gì. Quá nhiều sự kiện. Anh chỉ cảm thấy bàn tay Vittoria thật êm ái dễ chịu.
Giáo chủ Thị thần rút từ trong ống tay áo thầy tu ra một chiếc khăn tay lụa và đưa cho Langdon. Ngài không nói gì. Nhưng ánh mắt rực lên một ngọn lửa mới mẻ.
- Robert này, anh nói là đã xác định được địa điểm tiếp theo rồi phải không? - Vittoria hỏi.
Langdon thấy như đang bay:
- Đúng thế. Đó chính là…
- Đừng. - Olivetti ngắt lời. - Ông Langdon, có một lý do khiến tôi bảo ông đừng nêu lên địa điểm đó trên máy bộ đàm. - Ông ta quay lại mấy người lính gác Thuỵ Sĩ đang có mặt trong phòng. - Phiền các anh ra ngoài hộ một chút.
Những người lính rút hết sang trung tâm an ninh bên cạnh. Không một ai tỏ ra tự ái. Chỉ có sự phục tùng.
Olivetti quay lại với những người trong phòng.
- Tôi rất đau lòng khi phải nói ra điều này, nhưng để ám sát Đức Thánh Cha, kẻ xấu dứt khoát phải thông đồng với một kẻ nào đó trong hàng ngũ của chúng ta. Vì đại cục, chúng ta không thể tin tưởng bất kỳ người nào. Kể cả những người lính của tôi. - Dường như ông ta rất đau lỏng khi phải nói ra những lời cuối cùng ấy.
Rocher có vẻ lo lắng:
- Có sự câu kết tức là…
- Đúng thế! - Olivetti đáp. - Hiệu quả của việc dò tìm cũng không thể đảm bảo được. Tuy nhiên chúng ta phải chấp nhận canh bạc này. Cứ tìm tiếp đi.
Dường như Rocher định nói gì đó, nhưng lại thôi. Ông ta đi ra ngoài.
Giáo chủ Thị thần hít một hơi thật sâu. Ngài không nói gì, nhưng Langdon cảm thấy trong con người này có một quyết tâm sắt đá dường như thời điểm có tính quyết định đã đến.
- Ông chỉ huy này. - Giáo chủ Thị thần tỏ ra quyết đoán. - Ta sẽ tuyên bố hoãn Mật nghị Hồng y .
Olivetti bĩu môi, có vẻ không đồng tình:
- Con nghĩ rằng cha không nên làm thế. Chúng ta vẫn còn những 2 giờ 20 phút nữa.
- Loáng một cái là hết.
Giọng nói của Olivetti đầy thách thức:
- Thế cha định một mình sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn hay sao?
- Ta sẽ làm mọi việc có thể để cứu lấy Giáo hội. Còn cách thức thế nào thi không cần ông phải quan tâm.
Olivetti đứng thẳng người lên:
- Dù cha có định làm gì thì con cũng không có quyền ngăn cản. - Ông ta ngừng giây lát. - Đặc biệt là sau thất bại này, trên cương vị chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ, con chỉ xin cha hãy kiên nhẫn thêm chút nữa. Cha hãy đợi thêm 20 phút… đợi đến sau 10 giờ. Nếu thông tin của ông Langdon chính xác thì chúng ta có cơ hội bắt sống được hung thủ. Tức là vẫn còn cơ hội để không phải phá vỡ truyền thống và giữ gìn sự tôn nghiêm cho Giáo hội.
- Tôn nghiêm ư? - Giáo chủ Thị thần cười khẩy. - Chúng ta đã mất cái đó từ lâu rồi ông chỉ huy ạ. Có lẽ ông vẫn chưa chịu nhận ra, chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh mất rồi.
Một người lính từ trung tâm an ninh bước vào phòng, lên tiếng gọi Giáo chủ Thị thần:
- Thưa cha, có tin báo chúng ta đã bắt giữ được người phóng viên BBC đó, anh ta tên là Gunther Glick.
Giáo chủ Thị thần gật đầu:
- Bảo cả anh ta lẫn người kỹ thuật viên camera đợi ta ở cửa nhà nguyện Sistine.
Olivetti trợn tròn mắt:
- Cha định làm gì thế?
- 20 phút thôi đấy, ông chỉ huy ạ! - Vị thầy tu trẻ tuổi bước ra ngoài.
Lần này, khi chiếc xe Alfa Romeo của Olivetti lao ra khỏi thành Vatican, không thấy có chiếc xe lạ nào bám theo sau. Trên băng ghế sau, Vittoria đang dùng những thứ tìm được trong một cái túi cứu thương để băng tay cho Langdon.
Mắt Olivetti vẫn nhìn thẳng về phía trước:
- Được rồi, ông Langdon, giờ chúng ta đi đâu?
Dù còi báo động rú ầm ĩ, chiếc xe Alfa Romeo của Olivetti vẫn chẳng khiến mọi người để ý. Họ đang qua cầu và lao thẳng vào trung tâm thành Rome. Tất cả các xe cộ trên đường đều đi theo hướng ngược lại, hướng về Vatican. Dường như vùng đất thiêng này vừa trở thành địa điểm giải trí số một của Rome.
Langdon ngồi ở băng ghế sau, với vô số câu hỏi trong đầu, anh nghĩ đến hung thủ, không hiểu lần này có bắt được hắn không, liệu hắn có chịu khai ra những gì họ muốn biết hay không, hay là đã quá muộn mất rồi. Không hiểu Giáo chủ Thị thần đã công bố cho đám đông tụ tập trên quảng trưởng St. Peter biết hiểm hoạ này được bao lâu rồi. Sự kiện mới đây trong Nhà mái vòm bí mật vẫn ám ảnh tâm trí anh. Do sơ ý .
Không một lần đạp phanh, Olivetti cho xe lạng lách giữa dòng xe cộ, hướng về thánh đường Santa Maria Della Vittoria. Nếu là vào một thời điểm khác thì anh chắc hẳn đã sợ tái mặt. Nhưng lúc này, Langdon đã trở nên hoàn toàn vô cảm. Chỉ duy nhất cảm giác giật giật ở cánh tay nhắc anh nhớ đến thực tại.
Trên đầu họ, còi xe hú vang. Báo cho hắn biết ta đang đến thì còn nước non gì, Langdon thầm nghĩ. Nhưng quả là họ đang đi với tốc độ đáng kinh ngạc. Chắc là gần đến nơi thì Olivetti mới tắt còi đi.
Giờ đây, trong giây phút yên tĩnh, Langdon mới cảm thấy kinh ngạc về việc Giáo hoàng bị đầu độc. Không thể tin nổi, nhưng lại cũng rất hợp lôgíc. Nội gián trong lòng kẻ địch vốn là nền tảng sức mạnh của Illuminati - phá hoại từ bên trong. Và khó có thể kháng định chắc chắn rằng không bao giờ có chuyện Giáo hoàng bị sát hại. Đã từng có vô số tin đồn về những hành động phản trắc, dù không ai có thể khẳng định bất kỳ điều gì, vì không được phép khám nghiệm tử thi. Cho tới gần đây, các nhà khoa học đã được phép dùng tia X để xem xét lăng mộ của Giáo hoàng Celestine V. Theo lời đồn thì ngài đã chết trong tay người kế nhiệm quá sốt sắng của chính mình, Boniface VIII. Họ hi vọng những tấm phim chụp X quang sẽ cho thấy một vài dấu vết của sự bạo hành - chẳng hạn như một cái xương bị gãy. Nhưng rồi phim chụp lại cho thấy cả một cái đinh dài 20 cm đã bị đóng vào hộp sọ của Giáo hoàng, thật kinh hãi.
Langdon nhớ đến hàng loạt bài báo mà những sinh viên say mê đề tài Illuminati đã gửi cho anh. Lúc đầu anh nghĩ những bài báo đó chỉ là trò nghịch ngợm, nên đã vào kho lưu trữ của trường Harvard để xác minh lại. Thật đáng kinh ngạc, tất cả đều rất xác thực. Anh vẫn dán những bài báo đó trên bảng tin trong văn phòng của mình, để chứng minh rằng những hãng tin lớn dôi khi cũng hoang tưởng về Illuminati. Lúc này thì những nghi ngờ đó chẳng còn là hoang tưởng nữa rồi. Langdon vẫn nhớ rõ như in những bài báo ấy…
CÔNG TY PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH ANH QUỐC
Ngày 14 tháng 6 lăm 1998
Giáo hoàng John Paul I, tạ thế năm 1978, chính là nạn nhân của một chi nhánh của hội Tam Điểm có tên là P2… Hội kín này đã sát hại ngài khi John Paul I quyết định buộc Tổng Giám mục người Mỹ Paul Macrinkus thôi giữ chức Giám đốc Ngân hàng Vatican. Ngân hàng này bị cáo buộc có dính líu đến những hoạt động tài chính mờ ám của hội Tam Điểm.
THỜI BÁO NEW YORK
Ngày 24 tháng 8 trăm 1998
Tại sao cố Giáo hoàng John Paul I lại mặc áo sơ mi khi đi ngủ? Tại sao chiếc áo bị xé toạc? Chưa hết. Không có bất kỳ một cuộc điều tra nào. Hồng y Villot cấm chỉ việc khám nghiệm tử thi với lý do là luật thánh không cho phép khám nghiệm tử thi đối với Giáo hoàng. Và tất cả thuốc men của John Paul I đều bị lấy đi khỏi phòng ngủ của ngài, cả kính, dép lê, và di nguyện của ngài cũng vậy.
THƯ TÍN HÀNG NGÀY LONDON
Ngày 27 tháng 8 năm 1998
Một âm mưu. Cái vòi bạch tuộc của hội Tam Điểm hùng mạnh, dã man và bất hợp pháp đã vươn vào tận bên trong Vatican.
Điện thoại cầm tay của Vittoria chợt đổ chuông, giải thoát Langdon khỏi những ý tưởng đáng sợ.
Vittoria trả lời máy, cô gái có vẻ ngạc nhiên vì có người gọi cho mình vào lúc này. Từ xa, Langdon nhận ra ngay giọng nói lạnh lẽo của Maximilian Kohler.
- Vittoria à? Maximilian Kohler đây. Đã tìm được hộp phản vật chất chưa?
- Max à? Ông có khỏe không?
- Tôi đã xem tin tức trên truyền hình. Không ai nhắc gì đến CERN và hộp phản vật chất. Tốt lắm. Có chuyện gì thế?
- Chúng tôi vẫn chưa tìm thấy hộp phản vật chất. Tình hình rất phức tạp. Robert Langdon làm việc vô cùng hiệu quả. Chúng tôi đang lần theo tung tích của kẻ đã sát hại Hồng y Giáo chủ. Bây giờ chúng tôi đang đi đến…
- Cô Vetra. - Olivetti ngắt lời cô gái. - Nói thế thôi.
Vittoria lấy tay che ống nói, vẻ bực bội.
- Ông ấy là giám đốc của CERN. Ông ấy có quyền được biết…
- Nếu thế thì bảo ông ấy đến đây mà giải quyết vụ việc này đi -Olivetti lại chen ngang. - Cô đang sử dụng kênh liên lạc thông thường. Nói thế đủ rồi.
Vittoria hít một hơi thật sâu:
- Max?
- Tôi có thông tin cho cô đây. - Max nói - Liên quan đến cha cô hình như ông ấy đã tiết lộ thông tin về phản vật chất cho một người nào đó.
Vittoria buồn buồn:
- Max, cha tôi nói là ông ấy không hề kể với bất kỳ ai.
Vittoria này, tôi e là cha cô có kể đấy. Tôi phải kiểm tra lại các dữ liệu an ninh đã. Tôi sẽ sớm gọi lại cho cô.
Cuộc gọi bị ngắt.
Trông Vittoria bỗng xanh xao hẳn đi, cô gái cất điện thoại vào túi ao.
- Cô không sao chứ? - Langdon hỏi.
Vittoria gật đầu, nhưng những ngón tay đang run lên, chứng tỏ đó chỉ là lời nói dối.
- Nhà thờ này nằm ngay gần quảng trường Barberini. - Olivetti vừa nói vừa tắt còi hú và kiểm tra đồng hồ đeo tay. - Còn 9 phút nữa.
Lúc mới xác định được địa điểm thứ ba này, vị trí của thánh đường đã khiến anh phải suy nghĩ. Quảng trường Barberini. Cái tên này nghe quen quá… nhưng sao anh chẳng nhớ ra điều gì. Giờ thì Langdon đã hiểu ra. Người ta đã tranh cãi rất nhiều về việc xây dựng một nhà ga xe điện ngầm dưới quảng trường này. Cách đây 20 năm, các nhà sử học đã tỏ ra lo lắng rằng việc xây dựng nhà ga xe điện ngầm bên dưới quảng trường có thể khiến cho Kim tự tháp đá đặt giữa quảng trường bị đổ. Và các chuyên gia quy hoạch đô thị đã cho thay Kim tự tháp đó bằng một cái đài phun nước được đặt tên là Triton .
Vào thời của Bernini, quảng trường Barberini đã từng có một Kim tự tháp bằng đá nguyên khối , lúc này thì Langdon đã nhớ ra điều đó. Tất cả những băn khoăn trong lòng anh về địa điểm thứ ba này lập tức biến mất.
Cách quảng trường một toà nhà, Olivetti cho xe rẽ vào một lối nhỏ, rồi dừng phắt lại giữa phố. Ông ta bỏ áo khoác ra, xắn tay áo lên, kiểm tra lại vũ khí trên người.
- Chúng ta phải thận trọng đề phòng bị hắn nhận ra. - Ông ta nói - Các vị đã lộ diện trên truyền hình, nên bây giờ xin hãy vòng qua bên kia quảng trường cho kín đáo, và quan sát lối vào đằng trước. Tôi sẽ ra đằng sau. - Ông ta rút ra khẩu súng lục bán tự động lúc trước và đưa cho Langdon. - Chỉ để đế phòng thôi mà.
Langdon nhíu mày. Lần thứ hai trong ngày, anh lại phải cầm súng. Langdon tuồn khẩu súng vào túi áo khoác ngực, và chợt nhớ ra trang bản thảo của cuốn Diagramma vẫn còn trong túi áo.
Hoá ra anh đã quên không trả nó lại chỗ cũ. Chắc chắn người phụ trách phòng lưu trữ của Vatican sẽ tức điên người khi biết rằng một trang của cuốn sách vô giá ấy đã bị tha đi khắp thành Rome, chẳng khác gì một tấm bản đồ du lịch tầm thường. Rồi anh nghĩ đến đống đổ nát hoang làn trong Nhà mái vòm bí mật.
Người phụ trách còn có khối việc để mà bận tâm. Mà chắc gì Nhà mái vòm đã tồn tại được qua đêm nay…
Olivetti ra khỏi xe và chỉ tay xuống đầu phố.
- Quảng trường ở đằng kia. Các vị phải quan sát cho kỹ, đừng để hắn phát hiện được. - Ông ta đập đập vào chiếc máy bộ đàm gài ngang thắt lưng - Cô Vetra, kiểm tra lại một lần đã nào.
Vittoria rút điện thoại cầm tay trong túi ra và ấn nút gọi tự động đã cài sẵn lúc ở điện Pantheon. Máy bộ đàm trên thắt lưng của Olivetti lập tức rung.
Ông chỉ huy gật đầu:
- Tốt lắm. Nếu thấy bất kỳ hiện tượng gì thì báo cho tôi ngay. - Ông ta vung vẩy khẩu súng - Tôi sẽ đợi sẵn trong nhà thờ. Kẻ tà giáo này không thể thoát được.
Cũng đúng lúc ấy, ngay sát họ, một chiếc điện thoại cầm tay khác cũng đang đổ chuông Tên sát thủ nghe máy:
- Nói đi.
- Ta, Janus đây. - Một giọng nói vang lên.
Tên sát thủ mỉm cười:
- Xin chào chỉ huy.
- Anh có thể bị phát hiện. Có người đang đến đó để lùng tìm.
- Quá muộn mất rồi. Tôi đã chuẩn bị xong.
- Tốt lắm. Nhớ là phải thoát ra an toàn. Còn nhiều việc cần làm lắm.
- Kẻ nào dám cả gan cản đường tôi thì sẽ phải chết.
- Những kẻ đang cản đường anh đều rất hiểu biết đấy.
- Ngài muốn nói đến gã giảng viên đại học người Mỹ phải không?
- Anh biết ông ta à?
Tên sát thủ cười lớn.
- Điềm tĩnh, nhưng ngây ngô. Tôi đã nói chuyện với gã trên điện thoại rồi. Nhưng cô gái đi cùng với ông ta thì có vẻ ngược lại hoàn toàn. - Nghĩ đến tính cách sôi nổi của cô con gái nuôi của Leonardo Vetra, hắn chợt thấy tim đập mạnh.
Đường dây im lặng giây lát, và hình như tên sát thủ đã cảm nhận được sự do dự đầu tiên của người chỉ huy hội Illuminati.
Cuối cùng, Janus lên tiếng:
- Nếu cần thì phải loại bỏ cả hai.
Tên sát thủ cười mỉm:
- Chuyện đó coi như xong. - Chỉ nghĩ đến cảnh tượng đó, hắn đã thấy sung sướng vô cùng. Nhưng con bé kia thì ta sẽ giữ lại làm chiến lợi phẩm.
 
Một cuộc chiến đang nổ ra trên quảng trường St. Peter.
Quảng trường yên tĩnh bỗng chốc trở thành một bãi chiến trường. Xe hòm của các hãng tin kéo đến, y như những cỗ xe trên mặt trận đang đua nhau giành lấy những vị trí thuận lợi đằng sau công sự. Các phóng viên dọn đồ nghề từ trên thùng xe xuống, hệt như những người lính đang chuẩn bị súng ống đạn được. Quanh quảng trường, các hãng tin đua nhau xí chỗ để đặt loại vũ khí tối tân của họ trong cuộc chiến truyền thông này - các màn hình phẳng.
Màn hình phẳng được đặt trên nóc xe tải hoặc trên một giàn giáo di động. Chúng hiển thị lô-gô của hãng tin, và chủ yếu thực hiện chức năng quảng cáo cho hãng. Nếu chọn được vị trí đắc địa, ví dụ như ngay trước địa điểm xảy ra sự kiện chẳng hạn, thì các hãng tin khác sẽ bị buộc phải quảng bá cho đối thủ đang cạnh tranh với họ khi đưa tin về sự kiện đó.
Quảng trường nhanh chóng biến thành nơi tụ họp của các hãng tin, và của cả đám đông dân chúng. Những người hiểu kỳ từ khắp nơi nườm nượp đổ về. Trên quảng trường vốn rộng mênh mông này, chỗ trống nhanh chóng biến thành của quý. Người ta xúm đen xúm đỏ quanh các màn hình phẳng được đặt trên cao, háo hức xem các bản tin được phát đi trực tiếp.
Cách đó khoảng 100 mét, bên trong những bức tường đá của thánh đường St. Peter, bầu không khí vẫn hoàn toàn tĩnh mịch.
Thiếu uý Chartrand và ba người lính gác Thuỵ Sĩ khác đang di chuyển trong bóng tối. Tay cầm dụng cụ, mắt đeo kính hồng ngoại, họ vừa rà soát xong gian đại sảnh. Cho đến lúc này, nỗ lực rà soát các khu vực công cộng trong thành Vatican vẫn chưa mang lại kết quả.
- Đến đây thì tốt nhất là tháo kính ra. - Người chỉ huy của nhóm lên tiếng.
Chartrand lập tức làm theo. Họ đã tiến gần đến hốc Palliums - hốc lõm ở ngay giữa chính điện. Lúc nào cũng có 99 ngọn đèn dầu toả sáng trong hốc, và cặp kính khuếch đại ánh sáng này rất có thể thiêu cháy cặp mắt của họ.
Cảm thấy nhẹ nhõm sau khi gỡ bỏ cặp kính nặng nề, Chartrand vươn cổ mấy lần, rồi bước xuống và bắt đầu rà soát dưới hốc. Căn phòng quả là đẹp… lộng lẫy và toả sáng. Đây là lần đầu tiên anh có mặt ở căn phòng này.
Làm việc ở Vatican, dường như ngày nào anh cũng phát hiện thêm được một vài chi tiết bí ẩn. Những ngọn đèn này là một trong những chi tiết ấy. Lúc nào cũng có chính xác 99 ngọn đèn toả sáng. Đó là một truyền thống. Chúng luôn được tiếp dầu đầy đủ và không bao giờ tắt. Mọi người nói rằng những ngọn đèn này sẽ cháy đến tận cùng của thời gian.
Hay ít ra thì cũng đến nửa đêm hôm nay , Chartrand thầm nghĩ, cảm thấy miệng lại khô đắng.
Chartrand vung thiết bị rà soát lên trên những cây đèn. Không thấy gì. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, theo như hình ảnh trên màn hình an ninh thì cái hộp được đặt ở một cái hốc tối om.
Trong khi rà soát bên trong hốc Palliums, Chartrand tình cờ thấy một tấm vách ngăn đặt trên một cái hố lớn trên sàn. Cái hố này lại dẫn đến một cầu thang hẹp hướng thẳng xuống dưới. Anh đã nghe mọi người nói về cái hang này. May mắn là không cần phải xuống đó để rà soát. Mệnh lệnh của Rocher rất rõ ràng. Chỉ rà soát những nơi công cộng bỏ qua khu vực trắng.
- Mùi gì thế nhỉ? - Chartrand thắc mắc. Cái hốc này sực nức một mùi hương rất ngọt ngào.
- Từ những cây đèn kia toả ra đấy. - Một người lính trả lời.
Chartrand ngạc nhiên:
- Giống mùi nước hoa thế, chẳng giống mùi dầu hoả tí nào.
- Không phải dầu hoả đâu. Những cây đèn này ở rất gần bàn thờ Đức Thánh Cha, và một hỗn hợp gồm etanol, đường, butan và nước hoa được dùng thay cho dầu hoả.
- Butan à? - Chartrand nhìn những cây đèn đầy cảnh giác.
Người lính kia gật đầu.
- Đừng có làm đổ đèn nhé. Thơm thì thơm thật, nhưng rất dễ cháy đấy.
Rà soát xong hốc Palliums, toán lính gác Thuỵ Sĩ đang quay trở lên thì máy bộ đàm của họ nhận được tín hiệu.
Là những tin tức cập nhật về tình hình. Tất cả đều lắng nghe.
Rõ ràng là đã có những diễn biến mới phức tạp không thể nói trên máy bộ đàm được, nhưng Giáo chủ Thị thần đã quyết định phá vỡ truyền thống, ngài đã phát biểu trước Hồng y đoàn.
Trong lịch sử Giáo hội, chưa bao giờ có sự kiện nào giống thế này. Và cũng trong toàn bộ lịch sử tồn tại của Giáo hội, chưa bao giờ Vatican bị đe doạ bởi một thứ vũ khí tối tân như lúc này.
Biết rằng đã có Giáo chủ Thị thần lo lắng mọi việc nên Chartrand cảm thấy yên tâm. Trong toà thánh này, Giáo chủ Thị thần là người anh kính trọng nhất. Trong đội lính của anh, một số người cho rằng ngài thuộc kiểu người cuồng tín - kiểu người mà Chúa đối với họ là nỗi ám ảnh thay vì lòng kính yêu - nhưng tất cả đều phải thừa nhận rằng… nếu cần phải đấu tranh chống lại kẻ thù của Chúa, thì chắc chắn Giáo chủ Thị thần sẽ là chiến binh can trường nhất.
Tuần vừa rồi, những người lính Thuỵ Sĩ thấy Giáo chủ Thị thần xuất hiện khá nhiều, ngài phải chuẩn bị cho Mật nghị Hồng y và ai cũng thấy rằng vị thầy tu trẻ tuổi này dường như trở nên mạnh mẽ hơn, cái nhìn của ngài có vẻ quyết liệt hơn. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bọn họ bàn luận, vì ngài không chỉ chịu trách nhiệm lên kế hoạch cho Mật nghị Hồng y , mà còn phải tiến hành công việc thiêng liêng ấy ngay sau cái chết của đức Giáo hoàng mà ngài hằng tôn thờ.
Mới vào phụng sự tại toà thánh được mấy tháng Chartrand đã nghe kể rằng một quả bom đã lấy đi mạng sống của mẹ đẻ Giáo chủ Thị thần ngay trước mắt ngài, khi ngài mới là một cậu bé.
Một quả bom phát nổ trong nhà thờ… và giờ đây sắp có một quả bom nữa. Điều đáng buồn là nhà chức trách không bắt được thủ phạm của vụ đánh bom đó, người ta tin rằng chắc chắn đó là một nhóm bài Thiên Chúa nào đó. Dần dần vụ việc chìm vào quên lãng. Chả trách Giáo chủ Thị thần rất ghét sự thờ ơ.
Cách đây mấy tháng, vào một buổi chiều yên ả trong toà thánh, Chartrand đã tình cờ gặp Giáo chủ Thị thần trên đường đi.
Biết Chartrand là lính mới, ngài đã rủ anh đi tản bộ. Hai người nói chuyện, và ngay lập tức, Chartrand thấy viên Thị thần này thật gần gũi.
- Con hỏi cha một câu hơi lạ một chút được không ạ? - Chartrand nói.
Giáo chủ Thị thần mỉm cười:
- Được, nếu ta cũng có thể trả lời hơi lạ một chút.
Chartrand cười phá lên:
- Con đã hỏi tất cả những tu sĩ mà con biết, nhưng vẫn chưa thực sự hiểu thấu điều này.
- Con băn khoăn về điều gì? - Giáo chủ Thị thần đi trước Chartrand một bước. Những bước chân nhanh nhẹn, và chiếc áo thầy tu bị hất về phía trước theo những bước chân. Đôi giày đế kếp của ngài thật phù hợp, Chartrand thầm nhận xét, hơi cũ một chút, nó thể hiện bản chất của con người này… hiện đại mà khiêm nhường.
Chartrandhít một hơi thật sâu:
- Con không hiểu thế nào là sự tuyệt đối - nhân đức .
Giáo chủ Thị thần mỉm cười:
- Con vẫn chịu khó đọc Kinh thánh phải không?
- Vâng.
- Thấy khó hiểu khi Kinh thánh miêu tả Chúa là vị thánh tuyệt đối và nhân đức phải không?
- Đúng thế ạ.
- Tuyệt đối và nhân đức nghĩa là Chúa có quyền năng tuyệt đối và nhân đức, đơn giản thế thôi.
- Con hiểu khái niệm đó. Nhưng mà… con cảm thấy có sự mâu thuẫn.
- Đúng thế. Sự mâu thuẫn đó chính là nỗi đau. Loài người phải trải qua đói khát, chiến tranh, bệnh tật…
- Đúng thế đấy ạ. - Chartrand đã biết thế nào Giáo chủ Thị thần cũng sẽ hiểu anh. - Bao nhiêu điều kinh khủng xảy ra trên trái đất. Những bi kịch của con người dường như chứng minh rằng Chúa không thể nào vừa tuyệt đối vừa từ bi . Nếu Người yêu thương chúng ta và có quyền năng để thay đổi mọi thứ thì chắc chắn Người đã không để loài người phải chịu đau đớn, phải không ạ?
Giáo chủ Thị thần nhíu mày:
- Thật thế sao?
Chartrand hơi lúng túng. Hay là anh đã đi quá đà? Phải chăng anh đã hỏi một câu không nên hỏi?
- Ý con là… nếu Chúa yêu thương chúng ta thì Người phải bảo vệ chúng ta chứ. Có lẽ là Người tuyệt đối nhưng chẳng quan tâm, hoặc Người từ bi nhưng không đủ sức mạnh để cứu giúp loài người.
- Trung sĩ này, con đã có con chưa?
Chartrand bối rối:
- Thưa cha, chưa ạ.
- Chẳng hạn con có một đứa con trai 8 tuổi… liệu con có yêu thương thằng bé không?
- Dĩ nhiên là có chứ ạ.
- Liệu con có cho phép nó đi trượt pa-tanh không?
Chartrand suy nghĩ. Giáo chủ Thị thần có vẻ là một tu sĩ khá nhạy cảm.
- Vâng, chắc là có ạ. - Chartrand đáp. - Chắc chắn con sẽ cho phép nó, nhưng con sẽ dặn dò nó phải cẩn thận.
Tức là trên cương vị của một người cha, con sẽ bảo ban nó những điều căn bản, rồi để cho nó tự học lấy đúng không nào?
- Con sẽ không kè kè chạy theo nó từng bước một.
- Thế nếu thằng bé bị ngã trầy đầu gối thì sao?
- Thì nó sẽ tự học cách để không bị ngã nữa.
Giáo chủ Thị thần mỉm cười:
- Nghĩa là mặc dù con có khả năng can thiệp để bảo vệ cho thằng bé khỏi phải trải qua đau đớn, con vẫn muốn thể hiện tình yêu thương của mình bằng cách cho thằng bé tự mình học khôn phải không?
- Tất nhiên. Vì phải có đau đớn mới thành người được. Ai cũng phải trải qua điều đó.
Giáo chủ Thị thần gật đầu:
- Con nói đúng rồi đấy.
Từ một con phố nhỏ tối tăm ở phía Tây, Langdon và Vittoria quan sát quảng trường Barberini. Nhà thờ đã ở ngay trước mặt họ, chóp mái của nó lờ mờ nhô lên từ sau những ngôi nhà chen chúc quanh quảng trường. Đêm đã mang lại cho nơi này một bầu không khí mát dịu, và Langdon ngạc nhiên thấy quảng trường không một bóng người. Những màn hình ti-vi toả sáng từ những ô cửa sổ trên đầu nhắc anh nhớ tới địa điểm mà tất cả mọi người đang đổ về trong đêm nay.
"Vatican vẫn chưa đưa ra lời bình luận nào… Illuminati đã sát hại hai Hồng y Giáo chủ… quỷ dữ đang có mặt ở thành Rome… các nhà phân tích cho rằng chắc chắn có nội gián bên trong toà thánh…"
Tin tức lan nhanh chẳng kém gì ngọn lửa của bạo chúa Neo. Thành Rome kinh ngạc, và cả thế giới cũng vậy. Không hiểu họ có thể chặn đoàn tàu tốc hành này lại không. Trong khi chờ đợi, Langdon đưa mắt quan sát quảng trường, và nhận thấy nó vẫn giữ được hình e-líp nguyên thuỷ, dù một số công trình xung quanh đã lấn vào khá nhiều. Trên cao, một ngọn đèn nê-ông chiếu sáng một khách sạn hạng sang, trông như một cái bàn thờ hiện đại để tưởng nhớ những anh hùng thời quá khứ. Vittoria đưa tay chỉ. Biển hiệu của khách sạn này thích hợp đến mức kỳ dị.
KHÁCH SẠN BERNINI
10 giờ kém 5 phút. Vittoria vừa nói vừa đưa mắt nhìn khắp quảng trường. Đúng lúc ấy, cô túm chặt lấy cánh tay Langdon và lôi anh vào một góc khuất. Vittoria chỉ tay về phía trung tâm quảng trường.
Langdon nhìn theo hướng tay cô gái. Vừa trông thấy, cơ bắp trên người anh lập tức co cứng lại.
Hai bóng đen vừa xuất hiện, ngay dưới bóng đèn đường, trước mặt họ. Cả hai đều mặc áo khoác, đầu đội mũ trùm màu đen, loại mũ truyền thống của những goá phụ theo Cơ đốc giáo.
Langdon đoán rằng đây là hai người phụ nữ, nhưng tối thế này thì chẳng dám chắc bất cứ điều gì. Một người dường như đã có tuổi và đi lại một cách khó khăn, lưng còng xuống. Người kia to béo và ít tuổi hơn, đang dìu bà ta.
- Đưa súng cho tôi. - Vittoria nói.
- Không được…
Nhanh như cắt, Vittoria đã thò tay vào túi anh và tự lấy ra. Lúc này khẩu súng đang lóe sáng trên tay cô gái. Rồi Vittoria đi vòng ra sau hai người kia, không một tiếng động, như thể gót chân cô không hề giẫm lên mặt đường trải sỏi. Thấy Vittoria bắt đầu tiến đến để đón lõng hai người kia từ phía sau, Langdon đờ ra. Rồi lầm bầm tự nguyền rủa bản thân, anh vội vàng bám theo cô.
Hai người này đi rất chậm, và chỉ trong vòng nữa phút, Vittoria và Langdon đã ở sau lưng họ. Vittoria làm bộ khoanh tay trước ngực để giấu khẩu súng không lộ ra, nhưng chỉ một loáng là có thể sẵn sàng nhả đạn ngay được. Càng đến gần hai bóng đen kia, cô gái càng bước đi nhanh thoăn thoắt khiến Langdon phải vất vả lắm mới theo kịp. Anh đá phải một hòn sỏi làm nó văng tít ra xa, Vittoria liền quay sang, trừng mắt. Nhưng hai bóng đen kia dường như chẳng để ý gì cả. Họ đang nói chuyện.
Còn cách họ khoảng 10 mét, Langdon bắt đầu nghe thấy tiếng nói. Không nghe rõ được từng từ, chỉ là những lời thầm thì khe khẽ. Ngay cạnh anh, Vittoria đang sải bước mỗi lúc một nhanh hơn. Hai cánh tay khoanh trước ngực đã bắt đầu lơi ra, sẵn sàng chĩa súng ngay lập tức. 6 mét. Những tiếng nói đã rõ hơn - một người nói to hơn hẳn. Giọng giận dữ, khàn khàn. Langdon cố lắng tai nghe xem bà ta đang nói gì, nhưng một giọng nói khác vang lên, phá tan bầu không khí tĩnh mịch.
- Mi scusi!(1) - Giọng nói thân thiện của Vittoria như một ngọn đuốc xé tan màn đêm trên quảng trường.
Thần kinh Langdon căng ra khi hai người kia quay lại. Vittoria vẫn phăm phăm tiến lên phía trước, thậm chí còn nhanh hơn ban nãy, như thể muốn đâm thẳng vào họ. Chắc chắn hai người này sẽ không kịp phản ứng. Langdon thấy hai chân mình đã dừng bước. Từ đằng sau, anh thấy hai cánh tay Vittoria nới lỏng hẳn ra, khẩu súng đung đưa phía trước. Rồi nhìn qua vai cô gái, anh trông thấy một khuôn mặt hiện ra dưới ánh đèn đường. Kinh hãi, Langdon nhao lên phía trước:
- Vittoria, đừng!
Nhưng Vittoria đã nhanh hơn anh một tích tắc. Như thể vô tình, hai cánh tay Vittoria khoanh trước ngực, không trông thấy khẩu súng đâu nữa, cô gái co vai lại y như một thiếu phụ trong sương đêm lạnh giá. Langdon loạng choạng, suýt nữa thì vấp vào hai người mặc áo choàng đen trước mặt.
- Buona sera(2) , Vittoria giật mình thốt lên, lùi ngay lại.
Langdon thở phào nhẹ nhõm. Trước mặt họ, hai người phụ nữ đang quắc mắt nhìn. Một bà già đến nỗi gần như không đứng nổi. Bà thứ hai đang phải xốc nách bà ta. Cả hai đều cầm tràng hạt trên tay. Hình như Langdon và Vittoria đã làm họ bối rối.
Vittoria mỉm cười, dù vẫn chưa hết run.
- Nhà thờ Santa Maria Della Vittoria đâu ạ?
Hai người đàn bà cùng giơ tay chỉ về phía toà nhà đồ sộ cạnh con dốc trước mặt. - E la!(3)
- Glazie(4) - Langdon đáp lời. Anh đặt tay lên vai Vittoria và nhẹ nhàng kéo cô gái đi. Hoá ra họ vừa định tấn công hai bà già.
- Non Si puo entrare(5) - một trong hai bà già nói - Ha chiuso presto(6)
- Đóng cửa sớm ạ? - Vittoria ngạc nhiên. - Tại sao thế?
Cả hai người kia nhiệt tình giải thích mọi chuyện. Họ có vẻ giận dữ. Langdon chỉ hiểu bập bõm thứ tiếng Ý làu bàu của hai bà già này. Cách đây 15 phút, hai bà này đã đến nhà thờ để cầu nguyện cho Vatican, và một người đàn ông đến nói với họ rằng nhà thờ phải đóng cửa sớm.
- Hai bác có biết người đó không? - Vittoria hỏi với vẻ căng thẳng.
Cả hai cùng lắc đầu. Trông lạ hoắc, hắn đuổi hết mọi người ra ngoài, chẳng thèm để ý đến vị thầy tu trẻ và người gác nhà thờ doạ sẽ gọi cảnh sát đến. Hắn chỉ cười phá lên, lại còn dặn họ bảo cảnh sát nhớ mang máy quay phim đến.
- Máy quay à? Langdon băn khoăn.
Hai người phụ nữ tỏ vẻ giận dữ, họ gọi hắn là bar-àrabo . Rồi vẫn chưa hết làu bàu giận dữ, họ đi tiếp.
- Bar-àrabo ? - Langdon hỏi Vittoria. - Một kẻ vô giáo dục à?
Vittoria đột nhiên trở nên căng thẳng.
- Không hẳn. Đó là một lối chơi chữ thể hiện sự khinh thường. Có nghĩa là… Ả-rập.
Langdon rùng mình, anh đưa mắt quan sát thánh đường. Đúng lúc ấy anh lờ mờ trông thấy một hình ảnh từ sau khung cửa kính của nhà thờ. Langdon thấy lạnh xương sống.
- Vẫn chưa biết gì, - Vittoria rút điện thoại ra và nhấn nút gọi tự động. - Phải báo cho Olivetti biết.
Không nói nên lời, Langdon vươn tay ra, chạm vào cánh tay cô gái. Run run, anh chỉ về phía nhà thờ.
Vittoria há hốc mồm.
Trong thánh đường, lửa rừng rực cháy, những ô kính cửa sổ rực sáng, hệt như những con mắt của quỷ.

Chú thích:
(1) Mi scusi: Xin lỗi.
(2) Buona sera: Xin chào.
(3) E la: Đằng kia.
(4) Grazie: Cảm ơn.
(5) Non Si puo entrare: Nhưng không vào được.
(6) Ha chiuso presto: Nó đóng cửa rồi.
 
Langdon và Vittoria lao vào thánh đường Santa Maria Della Vittoria, cánh cổng bằng gỗ bị khoá. Vittoria rút khẩu súng bán tự động mà Olivetti đưa cho, và bắn ba phát vào cái then gỗ, cánh cổng bật mở.
Không có phòng chờ, nên toàn cảnh thánh đường lập tức hiện ra sau khi hai người mở tung cửa chính. Cảnh tượng bên trong thật bất ngờ và kỳ dị, đến nỗi Langdon phải nhắm mắt vào rồi lại mở mắt ra trong giây lát, để cho trí não có thời gian xử lý những hình ảnh vừa trông thấy.
Thánh đường này được trang trí theo trường phái ba-rốc, rất cầu kỳ… với bàn thờ chúa dát vàng. Ngay giữa thánh đường, thẳng mái vòm xuống, một đống ghế băng bị xếp chồng lên nhau cao ngất ngưởng đang cháy rừng rực như một giàn thiêu. Lửa bốc cao gần lên tới tận mái vòm. Langdon đưa mắt nhìn theo ngọn lửa, và anh trông thấy cảnh tượng khủng khiếp nhất.
Tít trên cao, những sợi dây cáp được kéo ra từ hai bên trần nhà, chúng vốn được dùng để lắc bình hương trên đầu những người đến đây hành lễ. Tuy nhiên, lúc này chẳng thấy có bình hương nào. Và cũng chẳng lắc lư. Những sợi dây lúc này đã được dùng với một mục đích khác…
Có một người bị treo trên đó. Quần áo bị lột sạch. Cồ tay và cổ chân bị buộc vào các đầu dây và bị kéo căng đến mức gần như sắp rách ra. Hai cánh tay bị kéo đang sang hai bên như thể bị đóng đinh vào một cây thập giá vô hình đang đu đưa trong chính ngôi nhà của Chúa.
Ngước nhìn lên, Langdon đờ người. Sau thoáng chốc, anh lại phát hiện thêm một chi tiết nữa. Người này vẫn còn sống, và đang ngóc đầu lên. Đôi mắt đờ đẫn hướng thẳng vào Langdon cầu cứu câm lặng. Trên ngực người này có một vết cháy xém. Nạn nhân đã bị đóng dấu sắt nung lên người. Không nhìn được rõ vết đóng dấu ấy, nhưng Langdon biết chắc chắn nó là cái gì. Lửa bốc cao thêm, bị lưỡi lửa táp vào chân, ông già rùng mình và thét lên đau dớn.
Như thể vừa nhận được một sức mạnh vô hình, Langdon bất giác lao nhanh về phía đám cháy rừng rực. Gần đến nơi, anh hít phải lớp khói dày đặc. Còn cách ngọn lửa 3 mét, đang chạy hết tốc lực, Langdon vấp phải một bức tường nhiệt nóng ran. Da mặt đau rát, anh ngã ngửa ra sau, người đập mạnh xuống sàn lát đá hoa cương. Anh loạng choạng đứng dậy và lại lao lên phía trước, hai tay giơ thẳng ra để tự vệ.
Và Langdon tức khắc nhận ra. Ngọn lửa nóng vô cùng.
Đành phải lùi lại, anh đưa mắt nhìn bốn bức tường. Một tấm thảm thật dày , Langdon thầm nghĩ. Biết đâu có thể dập tắt ngọn lửa … Nhưng anh biết không thể tìm thấy thảm. Nhà thờ này được xây dựng thao trường phái ba-rốc, Robert ạ, có phải là một thánh đường kiểu Đức đâu cơ chứ! Nghĩ đi! Langdon quay lại nhìn con người khốn khổ đang bị treo trên đống lửa.
Lửa và khói cuộn lên cao, gần đến tận mái vòm. Những sợi dây buộc cổ tay nạn nhân được dòng qua hai cái ròng rọc sát trên trần nhà, và đầu kia của hai sợi dây được cố định vào hai đầu cọc được bố trí hai bên thánh đường. Langdon đưa mắt nhìn đầu cọc. Nó khá cao nhưng nếu anh với được một đầu cọc và nhả cho sợi dây chùng xuống thì nạn nhân có thể tránh được ngọn lửa.
Đột nhiên, ngọn lửa bốc vụt lên, và Langdon nghe thấy tiếng kêu thét đầy đau đớn. Da chân của nạn nhân đã bắt đầu rộp. Hồng y Giáo chủ đang bị thiêu sống. Langdon chạy ngay đến bên cái cọc buộc dây.
Ở cuối thánh đường, Vittoria túm chặt lấy một cái ghế, cố lấy lại bình tĩnh. Những gì vừa trông thấy thật kinh hoàng. Cô cố gắng nhìn ra hướng khác. Phải làm gì đi chứ? Olivetti đâu rồi nhỉ? Ông ta đã trông thấy hung thủ chưa? Đã bắt được hắn chưa? Cả hai đang ở chỗ nào? Vittoria định tới giúp Langdon một tay, nhưng một tiếng động khiến cô chú ý.
Đúng lúc ấy, tiếng lửa cháy lách tách bỗng dưng lo hẳn lên, nhưng thứ tiếng động kia cũng rất rõ. Tiếng rung của kim loại. Rất gần. Tiếng rung liên hồi đó dường như vọng ra từ cuối hàng ghế, phía tay trái. Nghe như tiếng chuông điện thoại, rất gắt. Siết chặt khẩu súng, Vittoria tiến về phía cuối dãy ghế. Tiếng động ấy trở nên rõ ràng hơn. Dừng. Rồi lại rung. Lặp đi lặp lại.
Đến cuối dãy ghế, Vittoria cảm thấy tiếng động này phát ra tử trên mặt đất, đâu đó phía cuối một cái ghế băng dài. Tiếp tục tiến về phía trước, súng chĩa thẳng trước mặt, Vittoria nhận ra tay trái cô còn cầm một vật nữa - điện thoại cầm tay. Trong lúc hốt hoảng, cô quên rằng đã nhấn nút gọi tự động từ lúc ở ngoài cổng để báo động cho ông chỉ huy. Vittoria áp điện thoại vào tai.
Chuông vẫn đang đổ. Không thấy chỉ huy nghe máy. Đột nhiên, Vittoria kinh hãi nhận ra âm thanh mà cô đang nghe thấy. Run rẩy, cô gái tiến về phía trước.
Nhìn thấy hình hài bất động trên sàn, Vittoria cảm thấy đất dưới chân như sụt xuống. Không thấy vết máu chảy. Không có vết tích của ẩu đả. Chỉ duy nhất cái đầu của ông chỉ huy… bị vặn ngược ra sau, 180 độ, thật đáng sợ. Vittoria cố gạt khỏi tam trí hình ảnh người cha của cô nằm chết sóng soài trên sàn nhà.
Chiếc máy bộ đàm giắt ở thắt lưng của Olivetti đang nằm lên sàn đá. Vittoria tắt điện thoại trên tay, máy bộ đàm cũng lập tức ngừng đổ chuông. Trong yên tĩnh, Vittoria nghe thấy một âm thanh khác nữa. Tiếng thở, trong bóng tối, ngay sau lưng.
Cô gái lập tức xoay người lại, giương súng lên, nhưng đã quá muộn. Hung thủ đập mạnh khuỷu tay vào gáy cô gái, và Vittoria bị một luồng nhiệt truyền thẳng từ đỉnh đầu đến tận bàn chân.
- Giờ thì cô em là của ta. - Một giọng nói cất lên.
Sau đó chỉ còn một màn đêm thăm thẳm.
Sát bức tường đối diện, trong giáo đường, Langdon đang cố giữ thăng bằng trên lưng dựa của một cái ghế băng, cố vươn lên để với chiếc cọc. Cái cọc vẫn cao hơn đầu anh gần 2 mét. Trong các nhà thờ, những cái cọc kiểu này thường được bố trí khá cao để tránh va vào đầu mọi người. Các tu sĩ vẫn thường dùng một loại thang gỗ gọi là piuòli để trèo lên chỗ cái cọc. Chắc chắn hung thủ cũng phải dùng cái thang đó để treo nạn nhân lên cao thế kia. Khỉ thật, cái thang đó đâu rồi nhỉ? Langdon cúi xuống, nhìn quanh. Hình như anh vừa thoáng thấy cái thang ở đâu đây. Chỗ nào cơ chứ? Sau giây lát, tim anh chùng hẳn xuống. Langdon đã nhớ ra chỗ của cái thang. Anh quay lại nhìn ngọn lửa đang bốc cao. Kia rồi, cái thang ở tít trên chóp, đang cháy rừng rực.
Tuyệt vọng, Langdon đứng nguyên tại chỗ, đưa mắt quan sát khắp nhà thờ, hi vọng tìm được cái gì để với đến cái cọc. Lúc này, anh mới chợt nhận ra.
Vittoria đâu mất rồi ? Chẳng thấy cô đâu cả. Hay Vittoria đi gọi người tới giúp ? Langdon gọi tên cô gái thật to. Không có tiếng đáp lại. Còn Olivetti đâu?
Có một tiếng rú đau đớn trên cao, và Langdon biết anh chẳng còn kịp làm gì được nữa. Ngước nhìn lên, anh thấy nạn nhân đang bị thiêu sống từ từ. Và anh chỉ còn nghĩ ra được một thứ.
Nước. Thật nhiều nước để dập lửa. Ít ra thì cũng không cho nó bốc cao thêm nữa .
- Khỉ thật, mình phải đi lấy nước! - Langdon kêu to.
- Cái đó để sau! - Một giọng nói cất lên từ cuối thánh đường.
Langdon quay lại, và suýt nữa ngã nhào.
Một gã đàn ông đen đúa như quỷ đang thẳng tiến tới chỗ anh.
Trong ánh lửa bập bùng, Langdon đã kịp trông thấy cặp mắt trắng dã của hắn. Và khẩu súng hắn đang cầm trên tay chính là khẩu súng ban nãy còn ở trong túi áo của anh… khẩu súng mà Vittoria đã cầm.
Một loạt những cảm giác kinh hãi đồng thời dâng lên trong anh. Sợ hãi và lo lắng cho Vittoria. Đồ thú vật kia đã làm gì cô gái? Vittoria có bị đau không? Hay còn tồi tệ hơn thế . Cùng lúc ấy vị Hồng y đang bị treo trên cao cũng kêu thét lên. Ông ấy chết mất. Nhưng không thể làm gì vào lúc này. Rồi trông thấy hung thủ đang giương súng nhằm vào ngực mình, Langdon lại thấy lo sợ cho bản thân. Đúng lúc viên đạn bay ra khỏi nòng, theo bản năng, Langdon nhảy xuống khỏi lưng ghế, đang tay lao thẳng xuống dãy ghế băng trước mặt.
Ngã vào đống ghế, Langdon bị va mạnh, rồi ngã nhào xuống mặt sàn. Sàn đá cứng như thép. Tiếng bước chân đang tiến lại từ bên phải. Langdon quay người về phía trước, lồm cồm bò dưới những chiếc ghế băng để chạy trốn.
Bị treo ngược trên cao, Hồng y Guidera đang trải qua những giây phút đau đớn cuối cùng. Nhìn xuống, Đức cha thấy da chân mình đã rộp hẳn lên và bắt đầu bong rời ra. Ta đang ở trong địa ngục, Hồng y thầm nghĩ. Chúa ơi, sao Người lại đoạ đày con thế này ?
Hồng y biết mình đang ở trong địa ngục, vì ngài đang nhìn dấu sắt nung trên ngực ngược từ dưới lên… ấy thế mà thật kỳ dị, nó có ý nghĩa rất rõ ràng.
Ba lần bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.
Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Mortati đang cầu mong một phép nhiệm màu. Xin cho bốn người được lựa chọn xuất hiện!
Trì hoãn thế là lâu lắm rồi. Nếu chỉ thiếu một vị thôi, thì đức cha còn hiểu được. Nhưng cả bốn cùng một lúc? Chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế này thì chỉ có Chúa đích thân ra tay mới có được hai phần ba số phiếu cần thiết.
Khi then cửa nhà nguyện bắt đầu dịch chuyển, Hồng y Mortati và toàn thể Hồng y đoàn đều quay sang nhìn. Hành động mở dấu niêm phong thế này chỉ có thể có một ý nghĩa duy nhất.
Theo luật, cửa nhà nguyện chỉ được mở trong hai trường hợp - để đưa người bị ốm ra ngoài, và để đón các vị Hồng y đến muộn.
Bốn vị được lựa chọn đã quay trở lại !
Tim Hồng y Mortati đập rộn lên. Mật nghị Hồng y có cơ hội thành công rồi!
Khi hai cánh cửa mở ra, tất cả những ai có mặt trong nhà nguyện đều há hốc mồm, nhưng không phải vì vui sướng. Thấy người đó bước vào, đức cha kinh ngạc. Lần đầu tiên trong lịch sử Vatican, một Giáo chủ Thị thần dám cả gan phá dấu niêm phong trên cửa nhà nguyện Sistine sau khì đã đóng hai cánh cửa ấy lại.
Viên Thị thần này đang nghĩ gì không biết !
Giáo chủ Thị thần sải bước đến bên bàn thờ Chúa và bắt đầu phát biểu trước sự kinh ngạc tột cùng của toàn thể Hồng y đoàn.
- Thưa các ngài. - Anh ta nói - Tôi đã đợi quá lâu rồi. Chuyện này các ngài có quyền được biết.
Langdon chẳng cần biết sẽ đi đến đâu. Bản năng là phương tiện định hướng duy nhất để thoát khỏi hiểm nguy lúc này. Khuỷu tay và đầu gối đau rát vì phải bò lồm cồm dưới gầm ghế. Nhưng Langdon vẫn tiếp tục bò. Tâm trí mách bảo anh hãy di chuyển về bên trái. Nếu ra được đến lối đi giữa là có thể chạy thoát ra ngoài . Anh biết điều đó là không thể. Lối đi chính đã bị cả một bức tường lửa bịt mất rồi! Đầu Langdon căng ra để tìm đường thoát thân, trong khi tay và chân vẫn tiếp tục bò. Tiếng bước chân bên phải đã gần hơn.
Langdon hoàn toàn bị bất ngờ. Anh cứ tưởng còn khoảng 3 mét nữa thì sẽ đến cửa trước của thánh đường. Nhưng anh đã ước lượng sai. Bất ngờ, những chiếc ghế đang che chắn cho anh biến mất. Langdon sợ cứng người, người anh nhô hẳn ra ngoài, ngay phía trước thánh đường. Từ góc nhìn kỳ dị của anh lúc này, Langdon thấy một hình khối rất lớn hiện ra phía tay trái, chính là tác phẩm nghệ thuật đã dẫn dắt anh đến đây. Langdon đã quên hẳn tác phẩm điêu khắc này. Khoảnh khắc đê m.ê của thánh Teresa hiện ra, chẳng khác nào một vật phẩm khiêu dâm thời hiện đại… vị thánh trong tư thế nằm ngửa, cơ thể oằn oại trong hoan lạc, miệng hé mở như thể đang rên rỉ đê m.ê, và trên người nữ thánh, một thiên thần đang giương cao cây giáo lửa.
Một phát đạn nổ ngay trên hàng ghế băng, sượt qua đầu Langdon. Anh bất giác căng người lên như một vận động viên thể thao đang chạy nước rút. Lượng adrenaline trong máu tăng vọt, theo bản năng, anh chạy, đầu chúi xuống, chạy ngang qua thánh đường rộng lớn, hướng về phía tay phải. Lại có tiếng súng nổ sau lưng, một lần nữa Langdon chúi xuống thật thấp, rồi trượt chân, văng một đoạn dài trên sàn đá hoa cương, rồi ngã vật xuống ngay trước hàng lan can của một cái hốc tường bên tay phải.
Đúng lúc này, anh trông thấy cô gái đang nằm bất động phía cuối thánh đường. Vittoria ! Đôi chân trần của cô gái quặp lại, bất động, nhưng hình như vẫn còn thở. Langdon chẳng kịp làm gì để giúp Vittoria.
Ngay lập tức, tên sát thủ vòng qua những hàng ghế bên tay trái nhà thờ và bắt đầu sải bước về phía Langdon. Trong tích tắc, Langdon nhận ra, thế là hết. Hắn giương súng lên, và điều duy nhất Langdon có thể làm trong lúc này là lăng người, nhảy qua lan can vào trong hốc. Đúng lúc Langdon chạm chân xuống sàn đá bên trong hốc, hàng cột đá bao quanh hốc bị một loạt đạn phá tan tành.
Loạng choạng bò sâu thêm vào trong hốc, Langdon cảm thấy mình đã thật sự bị dồn vào chân tường trong cái hốc hình bán nguyệt này. Trước mắt anh, thứ duy nhất được đặt trong hốc hiện ra mới đúng lúc làm sao - một cái quách bằng đá. Có lẽ để dành riêng cho mình, anh thầm nghĩ. Đến cả kiểu dáng của nó cũng thích hợp một cách kỳ lạ. Đây là loại quan tài đá nhỏ, giản dị, không có các chi tiết trang trí cầu kỳ. Chứng tỏ gia tộc này không giàu có lắm. Chiếc quan tài được kê trên hai phiến đá hoa cương, Langdon quan sát khe hở giữa chiếc quan tài và sàn nhà, ước lượng xem có thể chui lọt xuống dưới không.
Tiếng bước chân vang lên ngay sau lưng.
Chẳng còn sự lựa chọn nào khác, Langdon dán chặt người xuống sàn, trườn vào bên dưới chiếc quan tài đá. Mỗi tay bám vào một phiến đá hoa cương, anh đẩy người vào trong, giống như một vận động viên bơi ếch, kéo thân mình vào bên dưới quan tài.
Súng nổ.
Cùng với tiếng súng là một cảm giác mà lần đầu tiên trong đời Langdon trải qua… một viên đạn sượt qua d.a thịt. Tiếng gió rít rồi như một cái roi da quất xuống thật mạnh, viên đạn sượt qua người anh, trúng vào tảng đá hoa cương và bụi bay tung tóe.
Tim đập thình thịch, Langdon đẩy tay thật mạnh, thu nốt người vào hẳn dưới gầm quan tài. Lồm cồm, anh chui qua chiếc quan tài đá sang phía bên kia.
Hết đường.
Lúc này Langdon đang đối diện với bức tường sau của mộ phần. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái góc chật hẹp này sẽ là nấm mồ của chính anh. Và rất mau lẹ , Langdon trông thấy nòng súng chĩa vào khe hở giữa quan tài đá và sàn nhà. Tên sát thủ hạ súng xuống song song với sàn nhà, chĩa thẳng vào người Langdon.
Không thể trượt được.
Bản năng tự vệ lúc này đã hoàn toàn chi phối đầu óc Langdon.
Anh xoay người nằm sấp xuống, song song với chiếc quan tài. úp mặt xuống, anh tì hai tay trên sàn, vết đứt do bị kính vỡ găm vào lúc ở trong Nhà mái vòm bí mật đau nhói lên. Mặc kệ, anh chống tay thật mạnh. Anh đẩy cho toàn thân cong lên trong một tư thế khá kỳ quặc, đúng lúc súng nổ. Đạn bay sượt qua dưới bụng Langdon, không khí rung lên, những phiến đá hoa cương lát sàn bị thủng lỗ chỗ. Mắt nhắm nghiền, cố chống lại cảm giác mệt mỏi đến kiệt quệ, anh cầu cho loạt đạn chấm dứt.
Mãi rồi nó cũng phải hết.
Tiếng băng đạn rỗng lách cách thay cho tiếng đạn nổ ầm ầm.
Langdon chậm chạp mở mắt ra, chỉ sợ hai mí mắt có thể gây ra tiếng động. Cố nén đau, anh giữ nguyên tư thế của mình, như một con mèo đang vươn vai. Không dám thở. Tai ù đi vì tiếng súng, nhưng Langdon vẫn cố lắng nghe xem kẻ giết người có dấu hiệu bỏ đi không. Yên lặng. Nghĩ đến Vittoria, anh thầm ước có thể làm gì đó để giúp cô gái.
Rồi một âm thanh khủng khiếp vang lên. Gần như không phải tiếng người mà là tiếng gầm gào lên gân lên cốt.
Chiếc quan tài đá bên cạnh Langdon bỗng nghiêng lên. Thấy khối đá hàng trăm cân sắp sửa đổ chụp xuống người, Langdon nằm bẹp xuống sàn. Trọng lực đã thắng lực ma sát, và nắp quan tài trượt xuống ngay bên cạnh anh. Tiếp đến là chiếc quan tài, nó trượt khỏi bệ đỡ, rồi úp xuống người Langdon.
Langdon biết hoặc là anh bị chụp vào bên trong cỗ quan tài, hoặc là sẽ bị nghiền nát dưới gô mép của nó. Thu đầu và chân lại hai tay ép chặt vào mạng sườn, Langdon nhắm mắt chờ đợi cỗ quan tài đá đổ sập xuống.
Rồi cỗ quan tài sập xuống, mặt đất rung lên. Mép trên của nó sập xuống chỉ cách đầu Langdon có vài li làm anh tê nhói đến tận chân răng. Cánh tay phải cứ tưởng sẽ bị nghiền nát, thế mà lại không hề hấn gì. Mở mắt ra, Langdon thấy một luồng sáng.
Cạnh bên phải của chiếc quan tài vẫn chưa trượt hẳn khỏi bệ đỡ và đang lơ lửng. Tuy nhiên, ngay trên đầu anh hiện ra khuôn mặt của thần chết, thần chết theo đúng nghĩa đen của nó.
Chủ nhân của mộ phần đang lơ lửng ngay trên đầu anh, những cái xác đã phân huỷ thường dính chặt vào đáy quan tài.
Bộ xương đung đưa như một người tình dịu dàng, rồi nghe có tiếng nứt gãy, nó đầu hàng trước trọng lực và đổ sụp xuống. Cái xác lao xuống, ôm ghì lấy Langdon, bộ xương mục đã mủn ra thành bột rơi như mưa vào mắt và miệng anh.
Langdon còn chưa kịp hoàn hồn thì đã thấy một bàn tay thò vào trong mép quan tài, lần mò, dò dẫm trên bộ xương mục, y như con trăn đói. Bàn tay ấy tiếp tục lần sờ cho đến khi chạm vào cổ Langdon, rồi siết chặt. Langdon cố sức chống cự lại những ngón tay cứng như thép đang siết chặt thanh quản của anh, nhưng tay áo bên trái của anh đã bị kẹp vào mép quan tài đá. Chỉ còn có tay phải được tự do, Langdon cuống quít chống chọi.
Langdon thu chân lên, tận dụng khoảng trống ít ỏi bên trong cỗ quan tài, cố đặt bàn chân lên đáy quan tài trên đầu. Đây rồi. Thu người, anh dận mạnh hai chân. Đúng lúc những ngón tay cứng như sắt bắt đầu siết mạnh hơn nữa vào cổ bọng, Langdon nhắm mắt, chống mạnh chân lên. Cỗ quan tài chuyển động rất ít, nhưng thế là đủ.
Có tiếng đá nghiến vào đá nghe lọng óc, rồi cỗ quan tài trượt hẳn khỏi bệ đỡ, và đổ hẳn xuống sàn. Mép quan tài nghiến vào bàn tay của hắn, kẻ giết người đau đớn kêu thét lên. Những ngón tay đang siết cổ Langdon rời ra, rồi biến mất trong bóng tối. Khi hắn rút được bàn tay ra, cỗ quan tài đổ phịch xuống, úp chặt xuống nền đá hoa cương.
Chỉ còn lại bóng tối mịt mùng.
Không một tiếng động.
Không thấy có tiếng đập phá cay cú trên cỗ quan tài đã bị lật úp Không có bàn tay nào cố lần mò sờ soạng. Chẳng thấy gì.
Nằm cạnh đống xương mục trong bóng tối, Langdon cố chống cự lại một thứ bóng tối khác đang muốn chụp lấy tâm trí, anh hướng ý nghĩ của mình về cô gái.
- Vittoria. Em còn sống hay không?
Nếu Langdon biết sự thật - cảm giác kinh hãi tột độ mà Vittoria sẽ phải trải qua khi hồi tỉnh lại - thì hẳn anh đã thương cô gái đến mức sẽ cầu cho Vittoria được chết đi.
 
Trong nhà nguyện Sistine, cùng với toàn thể Hồng y đoàn, Hồng y Mortati cố hiểu những gì vừa nghe được. Trước mắt đức cha, trong ánh sáng toả ra từ những cây nến, Giáo chủ Thị thần vừa mới nói về những mối cừu thù, về sự phản trắc, khiến cho đức cha thấy run lên. Giáo chủ Thị thần vừa kể về những vị Hồng y bị bắt cóc, bị đóng dấu sắt nung lên người và bị sát hại, về một hội kín cổ xưa có tên là Illuminati - chỉ riêng cái tên thôi cũng đã đủ gợi lại những lo lắng vốn đã chìm vào quên lãng. Illuminati vừa mới hồi sinh, và nguyền sẽ trả thù giáo hội. Với giọng nói đầy đau đớn, Giáo chủ Thị thần nói về cố Giáo hoàng… người đã bị Illuminati đầu độc. Rồi với giọng nói gần như thì thầm, vị thầy tu trẻ tuổi này nói về một thứ kỹ thuật mới thật đáng sợ, phản vật chất. Chưa đầy hai giờ nữa, nó sẽ tiêu huỷ toàn bộ Vatican.
Sau khi Giáo chủ Thị thần nói xong, toàn bộ dưỡng khí trong nhà nguyện tưởng như đã bị một con quỷ sa-tăng hút kiệt. Không một ai nhúc nhích. Những lời nói của Giáo chủ Thị thần như vẫn còn lơ lửng trong bóng đêm.
Tiếng động duy nhất mà Hồng y Mortati nghe thấy là tiếng sè sè của máy quay phim phát ra từ phía cuối nhà nguyện. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo hội, một thiết bị điện tử được đưa vào căn phòng này, do Giáo chủ Thị thần khăng khăng đòi như vậy.
Trước sự kinh ngạc của toàn thể Hồng y đoàn, viên thị thần này đã dẫn hai phóng viên BBC vào nhà nguyện - một nam, một nữ - và tuyên bố trịnh trọng rằng họ sẽ truyền hình trực tiếp cho cả thế giới được biết.
Lúc này, hướng thẳng vào ống kính máy quay, Giáo chủ Thị thần nói:
- Có một điều ta xin nói với hội Illuminati và với các nhà khoa học, - ngài hạ giọng xuống. - Các người đã chiến thắng.
Lúc này, sự im lặng tuyệt đối đã lan toả đến mọi ngóc ngách trong nhà nguyện. Mortati còn nghe được cả những nhịp đập tuyệt vọng trong lồng ngực mình.
- Bánh xe lịch sử đã bắt đầu lăn từ lâu lắm rồi. - Giáo chủ Thị thần nói - Chiến thắng của các người là hiển nhiên. Và giờ đây điều đó càng rõ ràng hơn bao giờ hết. Khoa học chính là đức Chúa mới.
Anh ta đang nói cái gì không biết! Hồng y Mortati thầm nghĩ. Hay là anh chàng này hoá điên mất rồi? Cả thế giới đang nghe cơ mà!
- Dược khoa, các phương tiện liên lạc hiện đại, du lịch trong không gian, biến đổi gene… chính là những phép màu nhiệm mà ngày nay chúng ta vẫn kể với con trẻ. Đó chính là nhung bằng chứng để tin rằng khoa học sẽ cho chúng ta những câu trả lời. Những huyền thoại cổ xưa về sự thụ thai trinh tiết, về những rừng cây bốc cháy, về những đại dương mới được hình thành không còn thích hợp nữa rồi. Chúa trời đã trở thành một khái niệm lỗi thời. Khoa học đã chiến thắng. Chúng ta thừa nhận điều đó.
Tiếng xì xầm kinh ngạc lan toả khắp nhà nguyện.
- Nhưng chiến thắng của khoa học, - Giáo chủ Thị thần nói tiếp, - đi kèm với một cái giá rất đắt. Cái giá mà tất cả chúng ta đều phải trả.
Im lặng.
- Khoa học có thể làm dịu những chỗ đau nhức trên cơ thể, giảm sự cực nhọc của con người, tạo ra những công cụ để giải trí, nhưng nó cũng khiến cho cuộc đời trở nên trần tục hơn nhiều. Hoàng hôn đã bị thay bằng những bước sóng và tần số. Sự kỳ diệu của vũ trụ bị chặt vụn ra thành những phương trình toán học. Thậm chí cả giá trị bản thân của mỗi chúng ta cũng bị huỷ hoại. Khoa học cho rằng trái đất và những sinh vật sống trên đó chẳng qua chỉ là những đốm nhỏ vô nghĩa trong vũ trụ bao la. Chỉ là một sự cố trong vũ trụ mà thôi. - Giáo chủ Thị thần ngừng giây lát:
- Thậm chí cả những kỹ thuật lúc đầu hứa hẹn khả năng kết nối chúng ta cuối cùng cũng khiến chúng ta bị chia rẽ. Mỗi chúng ta giờ đây được kết nối với thế giới bằng kỹ thuật điện tử, để rồi lại càng cảm thấy cô đơn hơn trước. Chúng ta phải chứng kiến biết bao cảnh bạo lực, sự chia rẽ, sự rạn nứt, và sự phản trắc. Thậm chí, giờ đây hoài nghi còn là một đức tính tốt. Sự nghi ngờ, sự đòi hỏi phải có bằng chứng giờ dây lại trở thành ý nghĩ thông thái. Phải chăng nhân loại đang cảm thấy tuyệt vọng và thất bại hơn bất kỳ một thời đại nào khác trong lịch sử? Khoa học có thể mang lại bất cứ thứ gì thiêng liêng không? Khoa học tìm câu trả lời bằng cách can thiệp vào những mầm sống chưa chào đời Khoa học còn dự định tái sắp xếp chuỗi ADN của chúng ta. Khoa học biến Chúa trời thành muôn vàn mảnh nhỏ nhằm khám phá bản chất của Người… nhưng rồi lại càng tìm thấy thêm nhiều câu hỏi khác nữa.
Hồng y Mortati kinh hãi quan sát. Lúc này Giáo chủ Thị thần gần như đã bị thôi miên. Chưa bao giờ đức cha thấy có ai nói một cách mạnh mẽ đến thế trước bàn thờ của Vatican.
Giọng nói của người tu sĩ này thấm đẫm cảm giác buồn bã và đau khổ.
- Cuộc chiến cổ xưa giữa tôn giáo và khoa học đã đi đến hồi kết. - Giáo chủ Thị thần nói - Các người đã thắng. Nhưng thắng lợi đó không hề công bằng chút nào. Chiến thắng này không phải là kết quả của những lời giải đáp. Các người đã chiến thắng áp đảo bằng cách biến những chân lý vốn được coi là linh thiêng trở nên không còn thích hợp nữa. Tôn giáo không thể theo kịp các người. Khoa học phát triển theo cấp số nhân. Nó tự nuôi lớn bản thân mình, y như những con virus. Mỗi bước đột phá lại mở đường cho những bước dột phá tiếp theo. Loài người phải mất hàng ngàn năm mới phát triển được cái bánh xe lên thành chiếc xe hơi. Nhưng chỉ sau đó vài thập kỷ, nhân loại đã có thể bay vào vũ trụ Giờ đây, sự phát triển của khoa học chỉ còn tính bằng tuần. Chúng ta đang lao rất nhanh,, đến mức không thể kìm giữ nổi. Sự rạn nứt giữa các cá thể đang lớn dần lên, tôn giáo thì đã bị bỏ lại đằng sau, loài người đối mặt với một khoảng trống trong tâm hồn. Chúng ta vật vã kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống. Và chúng ta đã bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Chúng ta trông thấy các vật thể bay không xác định (UFO), thử nghiệm thần giao cách cảm, tìm hiểu về những kinh nghiệm thoát xác… tất cả những thứ đó đều mang một lớp vỏ khoa học, nhưng thật ra đều vô nghĩa. Đó thực ra là những tiếng khóc tuyệt vọng của tâm hồn trong thời hiện đại, cô độc và bị giày vò, không thể tìm thấy ý nghĩa của bất kỳ hiện tượng nào nếu tách rời khoa học và kỹ thuật.
Hồng y Mortati nhoài người về phía trước. Cũng như ngài, toàn bộ Hồng y đoàn và tất cả mọi người trên trái đất đang lắng nghe từng từ một. Giáo chủ Thị thần không tỏ ra hùng biện, cũng chẳng đả kích. Không hề nhắc đến kinh thánh hay Chúa Giê-su.
Toàn những ngôn từ hiện dại, giản dị, không màu mè. Nghe như thể chính Chúa trời đang lên tiếng, và dùng một thứ ngôn ngữ rất hiện đại… để chuyển tải bức thông điệp cổ xưa của mình. Lúc này thì Hồng y Mortati đã hiểu vì sao cố Giáo hoàng lại ưu ái con người này đến vậy. Trong một thế giới đầy những hoài nghi, lãnh cảm và sự sùng bái khoa học kỹ thuật như thời nay, một người vừa rất thực tế, vừa có khả năng lay động hồn người như Giáo chủ Thị thần đúng là tương lai của giáo hội.
Lúc này, những lời nói của Giáo chủ Thị thần càng trở nên mạnh mẽ hơn.
- Các người nói rằng khoa học sẽ cứu rỗi chúng ta. Còn ta lại cho rằng chính khoa học sẽ tiêu diệt chúng ta. Từ thời Galileo, Giáo hội đã ra sức ngăn cản những bước tiến tàn nhẫn của khoa học, đôi khi bằng những phương thức sai lầm nhưng với một mục đích cao cả và từ bi. Bất chấp điều đó, sức cám dỗ của khoa học quá lớn, và con người không thể chiến thắng được nó. Các người hãy nhìn lại mà xem, khoa học có giữ lời hứa đâu. Hứa hẹn về sự đơn giản và hiệu quả, nhưng khoa học lại đẻ ra sự hỗn loạn và ô nhiễm. Chúng ta, một loài vật điên loạn và cô đơn, đang bước trên con đường tuyệt diệt.
Giáo chủ Thị thần ngừng lại giây lát, mắt hướng thẳng vào ống kính máy quay.
- Đức Chúa Khoa học này là thế nào? Chúa gì mà chỉ mang lại cho con người sức mạnh, nhưng không ban cho nhân loại một quy tắc đạo đức về cách thức sử dụng sức mạnh đó? Chúa nào mà đưa cho một đứa trẻ ngọn lửa để chơi, nhưng lại không cảnh báo nó về những nguy hiểm của trò chơi đó? Ngôn ngữ của khoa học không đề cập đến cái tốt và cái xấu. Những cuốn sách giáo khoa về khoa học tự nhiên dạy người ta cách chế tạo bom nguyên tử nhưng lại không có bất cứ chương nào bàn xem đặc tính của nó là tốt hay xấu.
Ta xin tuyên bố với giới khoa học rằng nhà thờ đã mệt mỏi rồi. Sau bao nhiêu nỗ lực để nhắc nhở về cái tốt và cái xấu, Giáo hội đã kiệt sức. Các nguồn lực của chúng ta đã cạn sau những chiến dịch để trở thành đối trọng cho những cố gắng của các người nhằm tạo ra những con chíp nhỏ hơn nữa, và những khoản lợi nhuận lớn hơn nữa. Chúng ta đã tự hỏi tại sao khoa học không thể tự kiềm chế bản thân nó, nhưng làm sao các người có thể làm được điều đó? Thế giới của các người tiến bộ nhanh đến nỗi nếu bất kỳ kẻ nào dừng lại để cân nhắc những hệ luỵ từ phát kiến của chính mình thì sẽ bị kẻ khác qua mặt ngay lập tức. Thế là các người cứ tiến về phía trước. Các người tạo ra những loại vũ khí giết người hàng loạt, để rồi chính Đức Thánh Cha phải đi khắp thế giới để khuyên nhủ các nhà lãnh đạo cố gắng kiềm chế.
Các người tạo ra các mầm sống trong ống nghiệm, để rồi nhà thờ lại phải nhắc các người về những tác động đạo đức của phát kiến ấy. Các người khuyến khích nhân loại liên lạc bằng điện thoại di động, máy tính, màn hình video, để rồi chỉ có nhà thờ mở rộng cửa và nhắc nhở các con chiên của mình hãy giao tiếp với nhau theo đúng cách mà đáng ra phải luôn luôn như thế. Các người thậm chí còn nhân danh y học để giết hại những mầm sống chưa chào đởi, để rồi Giáo hội lại phải chỉ ra tính nguỵ biện trong những luận cứ ấy.
Và các người cũng luôn cho rằng Giáo hội là dốt nát. Nhưng kẻ thực sự dốt nát là ai đây? Là người không thể định nghĩa được sấm chớp, hay là kẻ không biết kính trọng sức mạnh vĩ đại của hiện tượng ấy? Giáo hội luôn mở rộng lòng đối với các người, và với toàn nhân loại, thế nhưng chúng ta càng mở rộng lòng, thì các người càng đẩy chúng ta ra xa hơn nữa. Các người đòi hỏi phải có bằng chứng để chứng minh rằng có Chúa. Các người hãy dùng kính viễn vọng mà nhìn lên trời, chẳng thể thấy Chúa ở đó đâu! - Lúc này, hai mắt Giáo chủ Thị thần đã nhoà lệ. - Các người chất vấn là diện mạo của Chúa trông thế nào? Ta xin hỏi các người, câu hỏi đó xuất phát từ đâu? Câu trả lời chỉ có một mà thôi. Trong khoa học, các người không thấy Chúa đâu đúng không? Làm sao các người lại có thể không thấy Người cơ chứ! Các người tuyên bố rằng chỉ một thay đổi rất nhỏ của trọng lực hay trọng lượng một nguyên tử cũng có thể khiến cho toàn thể vũ trụ này biến thành một hoang mạc không sự sống, thay vì cả một thế giới vô cùng phong phú như chúng ta đang có hiện nay, chẳng lẽ các người không nhận ra rằng đó là nhờ bàn tay của Chúa sao? Như thế chẳng phải dễ dàng hơn nhiều so với cách giải thích rằng đó là một phần triệu xác suất may mắn hay sao? Chẳng lẽ tâm hồn các người đã trở nên cằn cỗi đến mức đặt trọn niềm tin vào một điều không thể xảy ra trên nguyên lý toán học thay vì tin vào một sức mạnh lớn lao hơn bản thân loài người?
- Bất kể các người có tin vào Chúa hay không, - Giáo chủ Thị thần hạ giọng từ tốn, - có một điều mà các người chắc chắn phải tin. Khi nhân loại từ bỏ niềm tin vào một thế lực lớn lao hơn bản thân chúng ta, thì chúng ta cũng đã từ bỏ ý thức tự chịu trách nhiệm. Đức tin… Tất cả mọi đức tin… đều răn dạy con người về một thế lực mà chúng ta không thể thấu hiểu, một thế lực luôn dõi theo từng hành động của chúng ta… Có đức tin, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm trước chính bản thân mình và trước một đấng tối linh cao cả. Có thể tôn giáo còn nhiều thiếu sót, nhưng chẳng qua đó là vì bản thân loài người cũng không thể hoàn thiện. Nếu các người cũng nhìn Giáo hội với con mắt giống như ta… không chấp nhặt những nghi lễ đằng sau những bức tường này… thì các người sẽ thấy có phép nhiệm màu ngay giữa thời hiện đại… một tập hợp những linh hồn giản dị và không hoàn thiện nhưng sẵn lòng cất lên tiếng nói vị tha và yêu thương giữa một thế giới đang trượt ra ngoài vòng kiểm soát của bản thân nhân loại.
Giáo chủ Thị thần đang tay chỉ Hồng y đoàn. Theo bản năng, người kỹ thuật viên hình ảnh của BBC cũng lia máy theo, quay toàn bộ những người đang có mặt trong nhà nguyện.
- Chúng ta có lỗi thời không? - Giáo chủ Thị thần đặt câu hỏi. Những vị ngồi đây có phải là loài khủng long hay không? Ta có phải là khủng long không? Liệu thế giới này có cần một tiếng nói bênh vực cho những kẻ nghèo hèn, yếu ớt, những kẻ bị áp bức, những sinh linh không được chào đời? Liệu thế giới này có cần những người như chúng ta, dù không phải lúc nào cũng hoàn thiện, nhưng sẵn lòng hiến dâng cả cuộc đời để nhắc nhở nhân loại hãy lắng nghe lương tâm mình, để đừng bị lạc lối?
Lúc này thì Hồng y Mortati đã nhận ra rằng, không biết vô tình hay hữu ý, Giáo chủ Thị thần đã đưa ra một quyết định xuất sắc. Bằng cách để các Hồng y xuất hiện, Giáo hội đã được nhân cách hoá. Thành Vatican không còn đơn thuần là một công trình, mà nó là những con người - giống như chính bản thân Giáo chủ Thị thần, người đã dành cả cuộc đời để phụng sự cái tốt.
- Đêm nay, chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, Giáo chủ Thị thần nói tiếp - Không một ai trong chúng ta có thể thờ ở trước tình huống này. Dù các người có gọi tên chúng là quỷ Sa-tăng, - sự đồi bại, hay sự vô đạo, thì những thế lực đen tối vẫn đang tồn tại và phát triển từng giờ từng phút. Đừng thờ ở với điều đó!
Giáo chủ Thị thần hạ thấp giọng, gần như là thì thầm, và người kỹ thuật viên hình ảnh tiến sát lên một chút:
- Thế lực này, dù rất mạnh, nhưng không phải là vô địch. Cái tốt sẽ chiến thắng. Hãy lắng nghe trái tim mình. Hãy lắng nghe giọng nói của Chúa. Hãy sát cánh bên nhau, chúng ta có thể tránh được vực thầm này.
Đến giờ thì Hồng y Mortati đã hiểu. Hoá ra đây chính là lý do Mật nghị Hồng y đã bị cắt ngang, nhưng đây đúng là cách duy nhất. Đây là lời cầu cứu tuyệt vọng và khẩn thiết. Giáo chủ Thị thần đang hướng tới cả kẻ thù lẫn bằng hữu. Vị thầy tu này đang khẩn khoản kêu gọi tất cả, cả bằng hữu lẫn kẻ thù, hãy nhận ra chân lý và dừng ngay hành động điên rồ này. Chắc chắn trong số những người đang xem truyền hình trực tiếp, sẽ có người hiểu ra và ra tay hành động.
Giáo chủ Thị thần quỳ trước bàn thờ chúa.
- Chúng ta hãy cùng cầu nguyện.
Toàn thể Hồng y đoàn cùng quỳ xuống và hướng về bàn thờ Chúa. Ngoài kia, trên quảng trường St. Peter, trên khắp địa cầu… toàn thể nhân loại đang quỳ xuống cùng với họ.
Đặt cô gái đang bất tỉnh nằm sóng soài ở sau xe hòm, tên sát thủ dành một chút thời gian để chiêm ngưỡng chiến lợi phẩm của mình. Không đẹp bằng những cô gái mà hắn vẫn dùng tiền để mua, nhưng cô gái này có một sức mạnh rất hoang dại, khiến hắn thấy vô cùng phấn khích. Nước da sáng, th.ân thể ướt đẫm mồ hôi. Có mùi thơm của xạ hương.
Mải chiêm ngưỡng phần thưởng của mình, tên sát thủ quên hẳn vết đau ở tay. Vết bầm dập do bị cỗ quan tài bằng đá chèn lên, dù rất đau, nhưng chẳng có gì đáng kể… phần thưởng này đã bù lại tất cả. Hắn tự an ủi bản thân rằng tay người Mỹ kia chắc giờ đã chết hẳn rồi.
Trân trân nhìn tù nhân của mình, tên sát thủ mường tượng những gì sẽ diễn ra. Hắn lùa tay vào dưới vạt áo sơ mi của cô gái. Bầu ngực quả là hoàn hảo. Hay lắm , hắn cười mỉm. Cô em đáng đồng tiền bát gạo lắm đây . Cố kiềm chế ý muốn chiếm đoạt cô gái ngay lập tức, hắn đóng thùng xe lại, nổ máy phóng vụt đi trong đêm tối.
Không cần phải báo cho cánh báo chí về vụ hành quyết này… ngọn lửa sẽ thay hắn làm việc đó.
***
Tại CERN, Sylvie sững sờ nghe những lời phát biểu của Giáo chủ Thị thần. Là một tín đồ Cơ đốc, chưa bao giờ chị thấy tự hào đến thế. Là nhân viên của CERN, cũng chưa bao giờ chị cảm thấy xấu hổ đến mức này. Rời khỏi khu giải trí, chị thấy tất cả các phòng đều chung một bầu không khí nặng nề và buồn bã. Sylvie quay lại văn phòng của Kohler, tất cả bảy máy điện thoại đều đang đổ chuông. Điện thoại của báo chí không bao giờ được nối máy tới văn phòng của Kohler, nên chắc chắn những cuộc gọi này là vì cùng một lý do.
Vì tiền.
Kỹ thuật phản vật chất đã có người mua.
***
Trong thành Vatican, Gunther Glick như đang đi trên mây. Anh đang theo Giáo chủ Thị thần ra khỏi nhà nguyện Sistine. Glick và Macri vừa làm một buổi truyền hình trực tiếp để đời. Quả là một chương trình tuyệt vời. Giáo chủ Thị thần quả là một nhà hùng biện tài ba.
Ra ngoài hành lang, Giáo chủ Thị thần quay sang bảo Glick và Macri:
- Ta đã yêu cầu lính gác Thuỵ Sĩ chuẩn bị sẵn ảnh cho anh - ảnh các vị Hồng y bị đóng dấu sắt nung, cả ảnh của Đức Thánh Cha đã tạ thế nữa. Ta phải báo trước cho anh biết là những bức ảnh này không được dễ chịu lắm đâu. Những dấu sắt nung trông rất khủng khiếp. Những cái lưỡi đen sì. Nhưng ta muốn nhờ anh phát những bức ảnh đó đi cho cả thế giới được thấy.
Glick cảm tưởng như ngày lễ Giáng sinh đang kéo dài vĩnh viễn trong thành Vatican. Giáo chủ Thị thần yêu cầu mình phát đi những bức ảnh độc quyền chụp cố Giáo hoàng thật sao?
- Cha thực sự muốn làm điều đó ạ? - Glick hỏi, cố không để lộ sự phấn khích trong lòng.
Giáo chủ Thị thần gật đầu:
- Lính gác Thuỵ Sĩ cũng sẽ cung cấp cho anh hình ảnh camera của hộp phản vật chất đang đếm ngược thời gian.
Glick trợn tròn mắt. Giáng sinh! Giáng sinh! Giáng sinh!
- Illuminati sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng chúng đã cường điệu hoá khả năng của bản thân. - Giáo chủ Thị thần tuyên bố.
Giống như điệp khúc của một bản giao hưởng hãi hùng, bóng tối ngột ngạt lại một lần nữa quay trở lại.
Không có ánh sáng. Không có dưỡng khí. Không có lối ra .
Nằm trong cỗ quan tài đá lộn ngược, Langdon thấy tâm trí mình đang ở sát mép vực thẳm. Để kéo những suy nghĩ trong đầu khỏi bầu không gian chật hẹp và ngột ngạt xung quanh, Langdon ép mình phải nghĩ về toán học, âm nhạc hay bất kỳ thứ gì. Nhưng những ý nghĩ an lành không thể nảy nở nổi. Mình không thở được! Mình không cử động được!
May mắn là bên tay áo bị kẹt đã tuột được ra khi cỗ quan tài đổ sập hẳn xuống, lúc này Langdon có thể sử dụng cả hai cánh tay. Tuy thế, khi Langdon lấy cả hai tay đẩy mạnh, cỗ quan tài vẫn không hề suy chuyển. Quả là kỳ quặc, lúc này anh ước gì cánh tay trái lại bị kẹt như lúc trước. Ít ra thì còn có không khí để mà thở.
Giơ hai tay định đẩy thêm một lần nữa, Langdon chợt trông thấy anh bạn chuột Mickey đang phát sáng. Khuôn mặt màu xanh của chú chuột trong phim hoạt hình như đang chế giễu anh.
Langdon nhìn kỹ khắp cỗ quan tài để xem có luồng sáng nào không nhưng mép đá phẳng lỳ ăn sát xuống sàn nhà. Chủ nghĩa toàn mỹ kiểu Ý chết tiệt, anh thầm nguyền rủa. Giờ đây, Langdon đang bị đẩy vào tình thế hiểm nghèo, chính bởi sự hoàn mỹ trong nghê thuật mà anh vẫn dạy sinh viên của mình phải kính nể… những bờ mép hoàn hảo, những đường thẳng song song tuyệt đối và dĩ nhiên, trên một chất liệu duy nhất: đá hoa cương Carnara liền khối loại cứng nhất.
Sự chuẩn xác đến chết người.
Nhấc cái thứ quỷ quái này lên! - Langdon nói thành tiếng, tay cố đẩy mạnh hơn nữa. Cỗ quan tài hơi di chuyển chút xíu.
Nghiến răng, anh lại dẩy một lần nữa. Nặng kinh khủng, nhưng lần này nó nhích lên được khoảng nửa phân. Một luồng sáng le lói xuất hiện quanh Langdon, rồi cái hộp đá lại nhanh chóng rơi phịch xuống. Trong bóng tối, Langdon nằm thở hổn hển. Anh thử dùng hai chân để đẩy lên, nhưng lúc này cỗ quan tài đã nằm ngang hẳn xuống, chẳng còn chỗ để co chân lên.
Rồi cảm giác sợ bị giam h.ãm bủa vây lấy anh, Langdon nghĩ đến cảnh cỗ quan tài đá thu nhỏ lại và vây kín lấy bản chân mình. Kinh hãi, Langdon ráng sức huy động toàn bộ lý trí để xua đi hình ảnh kinh hoàng đó.
"Cỗ quan tài đá". Langdon nói lên thành tiếng bằng tất cả sự dõng dạc và minh mẫn anh có thể huy động được. Nhưng hôm nay, cả đến học vấn cũng trở thành kẻ thù. Từ này bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp, nghĩa gốc của nó trong tiếng Hi Lạp là "cái hộp ăn thịt". Mình đang bị kẹt trong một "cái hộp ăn thịt".
Những mường tượng về cái hộp sẽ ăn hết thịt và để lại bộ khung xương khiến anh càng nhớ đến bộ khung xương đang nằm ngổn ngang quanh anh. lúc này. Nghĩ đến sự thật đó, Langdon thấy buồn nôn và kinh hãi. Nhưng nó cũng khiến anh nảy ra một ý tưởng.
Quờ quạng, mò mẫm trong cỗ quan tài, Langdon tìm được một mầu xương. Có phải xương sườn không nhỉ? Chẳng cần quan tâm. Anh đang cần một cái nêm. Nếu có nhấc được cái hộp đá này lên chút xíu, rồi chêm khúc xương này vào, thì sẽ có đủ không khí để…
Vòng tay qua người, xếp đầu nhọn của khúc xương vào đúng chỗ cái khe giữa quan tài và nền đá, Langdon dùng tay kia ra sức chống mạnh lên. Cỗ quan tài không suy chuyển chút nào. Anh cố thêm một lần nữa. Trong tích tắc, hình như cái hộp đá nhúc nhích chút xíu. nhưng tất cả chỉ có thế.
Thiếu khí ôxi, lại phải chịu đựng mùi hôi thối nồng nặc, Langdon biết anh chỉ còn đủ thời gian để cố thêm một lần nữa.
Và cần phải dùng cả hai tay.
Lần này, Langdon gài sẵn đầu nhọn của khúc xương vào chỗ cái khe, dịch người sát vào, dùng vai để đẩy khúc xương. Thận trọng để khúc xương khỏi văng đi mất, anh giơ cả hai tay lên. Bắt đầu thấy ngạt thở, Langdon chợt thấy sợ hãi. Lần thứ hai trong cùng một ngày, anh không có đủ dưỡng khí để thở. Hô to một tiếng, Langdon ráng hết sức đẩy hai tay thật mạnh. Cỗ quan tài bị đẩy cao lên trong một tích tắc. Nhưng thế là đã đủ. Anh đã dùng vai đẩy được khúc xương vào dưới mép đá. Khi cỗ quan tài rơi phịch xuống, mẩu xương vỡ vụn ra. Nhưng dù sao mép quan tài cũng đã bị chống lên chút xíu. Một luồng sáng yếu ớt chiếu xiên vào cạnh Langdon:
Kiệt sức, anh nằm vật ra. Hy vọng cảm giác nghèn nghẹt ở cổ họng sẽ hết dần, anh kiên nhẫn đợi. Nhưng mỗi lúc cảm giác khó chịu đó càng mạnh thêm. Dù không khí có thể lọt qua cái khe, nhưng vẫn là quá ít. Không hiểu lượng dưỡng khí ít ỏi này có thể giúp anh tồn tại được không? Nếu được thì sẽ là bao lâu? Nếu anh không sống được, liệu có ai biết anh nằm ở đây hay không?
Hai cánh tay nặng như chì, Langdon cố xem đồng hồ: 10 giờ 12 phút. Cố giữ cho ngón tay khỏi run, Langdon nỗ lực thêm một lần nữa. Anh xoay một núm, rồi nhấn một nút. Đầu óc bắt đầu mụ đi, những bức tường đá xung quanh như thu hẹp lại, Langdon lại trải qua cảm giác kinh hãi thuở còn bé.
Như bao lần trước, anh cố tưởng tượng rằng mình đang ở ngoài bãi trống. Hình ảnh ấy hiện ra trong óc, nhưng chẳng có tác dụng gì. Cơn ác mộng ám ảnh anh từ thuở bé bỗng chốc quay trở lại…
Hoa đẹp như tranh vẽ, cậu bé nghĩ thầm, vừa cười vừa chạy băng qua thảm cỏ. Cậu nghĩ giá có bố mẹ đi cùng thì thật là tuyệt nhưng bố mẹ còn đang bận cắm trại.
Con đừng đi xa quá đấy nhé! - Mẹ chú dặn.
Chú bé tảng lờ như không nghe thấy lời mẹ dặn..
Chạy qua thảm cỏ thần tiên, cậu bé đến bên một đống đá xếp chồng lên nhau. Chắc là của một trang trại cũ. Không nên đến gần chỗ đó. Chú biết thế. Vả lại ánh mắt chú bé đã bị hút vào một bông hoa đồng nội tuyệt đẹp - giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ở New Hampshire mà chú chỉ mới được thấy trong sách mà thôi.
Trong tâm trạng đầy phấn khích cậu bé đến gần cây hoa và quỳ xuống. Mặt đất xốp và mềm. Hoá ra cây hoa này đã chọn được một chỗ đẩt rất màu mỡ. Nó mọc lên giữa một đám cây mục.
Háo hức với ý tưởng được mang bông hoa đẹp này về nhà, chú bé chìa tay ra… những ngón tay bé nhỏ vươn ra để chạm vào thân cây.
Nhưng chú không thể nào lưới tới được.
Nghe có tiếng nứt gẫy răng rắc, đất thụt xuống.
Trong ba giây đồng hồ khủng khiếp, lúc bị ngã nhào xuống, chú biết mình sẽ phải chết. Bị ngã lộn nhào, cậu bé tưởng sẽ bị va đập mạnh đến gãy xương, nhưng hoá ra chẳng hề đau đớn chút nào. Chỉ có cảm giác mềm mại.
Và lạnh.
Chú ngã vục mặt xuống vũng chất lỏng lạnh giá và tối tăm đó. Cuộn mình, quẫy đạp lung tung, chú sờ thấy xung quanh chỗ nào cũng là tường dựng đứng. Theo bản năng, chú bé ngóc đầu lên.
Ánh sáng.
Rất yếu ớt. Từ trên toả xuống. Dường như từ cách xa hàng dặm.
Hai tay chú bé khua khua trong làn nước lạnh, cố tìm một cái gờ hay mấu nào đó để bám vào, nhưng chỉ thấy toàn đá trơn tuột. Hoá ra chú bé đã ngã xuống một cái giếng nước bỏ hoang. Chú gào to kêu cứu nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng dội từ trong lòng giếng sâu hun hút. Chú bé gọi mãi, gọi mãi. Trên cao, cái miệng giếng nham nhở tối dần.
Đêm xuống.
Trong bóng tối, thời gian như kéo dài vô tận. Lạnh quá, chú bé vẫn đạp chân để giữ cho người nổi lên, chú gào khóc và kêu cứu. Mường tượng cảnh những bức tường xung quanh đổ ụp xuống đầu, chôn sống mình, chú cảm thấy thật kinh hãi. Hai cánh tay mỏi nhừ. Mấy lần cảm tưởng như nghe thấy tiếng người, cậu bé gọi thật to, nhưng chỉ phát ra được những tiếng kêu tắc nghẹn… như trong một cơn ác mộng.
Đêm về khuya, cái giếng như càng sâu thêm. Những bức tường như tiến sát vào nhau. Cậu bé cố đẩy người ra xa bức tường. Kiệt sức! Suýt nữa cậu bé đã đầu hàng. Nhưng mặt nước như đang đỡ lấy chú, làm dịu đi cơn hoảng loạn điên cuồng, cho đến khi toàn thân chú bé lạnh cóng.
Khi đội cứu hộ đến, chú bé gần như đã bất tỉnh. Chú bé đã quẫy đạp trong nước liên tục 5 giờ đồng hồ. Hai ngày sau, tờ Boston Globe chạy trên trang nhất một hàng tít lớn: "Thần đồng bơi lội bé nhỏ và dũng cảm ".
 
Tên sát thủ mỉm cười đánh xe vào một toà nhà xây bằng đá trông ra dòng sông Tiber. Hắn mang cô gái lên cao… đi dọc theo một đường hầm xây bằng đá. May mà cô gái có vóc người mảnh khảnh.
Hắn đã đến bên cánh cửa.
Đền thờ ánh sáng , hắn lầm bầm. Phòng họp cổ xưa của hội Illuminati. Làm sao có thể ngờ được rằng nó ở ngay chỗ này cơ chứ .
Vào bên trong, hắn đặt cô gái lên một cái tràng kỷ bọc da sang trọng. Rất thành thục, hắn trói chặt hai tay cô gái ra sau lưng, rồi trói hai cổ chân lại. Những gì hắn thèm khát sẽ phải hoãn lại đến khi mọi việc được hoàn tất . Nước .
Nhưng hắn vẫn có thể tự dành cho mình chút xíu thời gian, tên sát thủ thầm nghĩ. Quỳ xuống bên cô gái, hắn vuốt ve cặp đùi thon dài và mềm mại. Bàn tay hắn lần lên cao hơn. Những ngón tay đen đúa lần lên trên gấu quần soóc. Cao hơn nữa.
Rồi hắn dừng phắt lại. Phải kiên nhẫn , chợt tỉnh ra, hắn tự nhắc nhở bản thân. Phải làm xong việc trước đã .
Hắn bước ra ngoài ban công mát rượi. Làn gió đêm nhanh chóng làm dịu đi cơn thèm khát man dại trong hắn. Tít dưới kia, sông Tiber vẫn đang chảy xiết. Hắn ngước nhìn mái vòm của Đại thánh đường St. Peter, cách hắn khoảng ba phần tư dặm, hiện ra rõ mồn một trong ánh sáng phát ra từ hàng trăm máy quay.
- Giờ khắc cuối cùng đã tới. - Hắn nói to thành tiếng, trong lòng nghĩ tới hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đã bị sát hại trong cuộc Thập tự chinh. - Đêm nay, các vị sẽ được đoàn tụ với Chúa của mình.
Sau lưng hắn, cô gái bắt đầu cựa quậy. Tên sát thủ quay lại. Hắn cân nhắc xem có nên để cô gái thức dậy hay không. Nỗi khiếp đảm trong ánh mắt của phụ nữ luôn là liều thuốc kích dục tuyệt vời nhất đối với hắn.
Nhưng hắn chọn giải pháp chắc chắn hơn. Tốt nhất là cứ để cho cô gái nằm bất tỉnh trong khi hắn đi vắng. Dù cô gái đã bị trói chặt và không thể nào trốn thoát được, nhưng hắn không muốn để cho con mồi của mình mệt lả đi vì giãy giụa quá nhiều. Ta muốn cô em khỏe mạnh… để ta còn thưởng thức .
Nhẹ nhàng nâng đầu cô gái lên, hắn lần ngón tay tìm chỗ hõm ngay dưới xương sọ. Hắn đã từng điểm vào huyệt đạo kiểu này nhiều lần rồi. Với sức mạnh của loài mãnh thú, hắn nhấn ngón tay vào lớp xương sụn mềm, rồi ấn mạnh xuống. Cô gái nằm vật ra ngay lập tức. 20 phút thôi mà , hắn thầm nghĩ. Con mồi này sẽ là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời. Sau khi thưởng thức cô gái, chứng kiến cô ta chết ngay trên tay mình, hắn sẽ bước ra ban công để thưởng ngoạn pháo hoa trên bầu trời Vatican.
Để con mồi nằm nguyên trên đi-văng, hắn xuống cầu thang, bước vào một căn phòng tối tăm, chỉ có một cây đuốc duy nhất toả sáng. Nhiệm vụ sau cùng. Hắn bước tới bên bàn, kính cần nhìn con dấu thiêng bằng sắt đã được để sẵn ở đó.
Nước . Con dấu sau cùng.
Như ba lần trước, hắn rút cây đuốc trên tường; nung cho con dấu nóng đỏ lên. Khi toàn bộ con dấu đã nóng đỏ, hắn bước vào trong ngục.
Một người đang đứng yên lặng: Già nua và cô độc.
- Này Hồng y Baggia. - Hắn rít lên - Ông đã cầu nguyện chưa đấy?
Đôi mắt của vị Hồng y già người Ý không chút sợ hãi:
- Ta đã cầu nguyện cho linh hồn của ngươi đấy!
Tên sát thủ mỉm cười đánh xe vào một toà nhà xây bằng đá trông ra dòng sông Tiber. Hắn mang cô gái lên cao… đi dọc theo một đường hầm xây bằng đá. May mà cô gái có vóc người mảnh khảnh.
Hắn đã đến bên cánh cửa.
Đền thờ ánh sáng , hắn lầm bầm. Phòng họp cổ xưa của hội Illuminati. Làm sao có thể ngờ được rằng nó ở ngay chỗ này cơ chứ .
Vào bên trong, hắn đặt cô gái lên một cái tràng kỷ bọc da sang trọng. Rất thành thục, hắn trói chặt hai tay cô gái ra sau lưng, rồi trói hai cổ chân lại. Những gì hắn thèm khát sẽ phải hoãn lại đến khi mọi việc được hoàn tất . Nước .
Nhưng hắn vẫn có thể tự dành cho mình chút xíu thời gian, tên sát thủ thầm nghĩ. Quỳ xuống bên cô gái, hắn vuốt ve cặp đùi thon dài và mềm mại. Bàn tay hắn lần lên cao hơn. Những ngón tay đen đúa lần lên trên gấu quần soóc. Cao hơn nữa.
Rồi hắn dừng phắt lại. Phải kiên nhẫn , chợt tỉnh ra, hắn tự nhắc nhở bản thân. Phải làm xong việc trước đã .
Hắn bước ra ngoài ban công mát rượi. Làn gió đêm nhanh chóng làm dịu đi cơn thèm khát man dại trong hắn. Tít dưới kia, sông Tiber vẫn đang chảy xiết. Hắn ngước nhìn mái vòm của Đại thánh đường St. Peter, cách hắn khoảng ba phần tư dặm, hiện ra rõ mồn một trong ánh sáng phát ra từ hàng trăm máy quay.
- Giờ khắc cuối cùng đã tới. - Hắn nói to thành tiếng, trong lòng nghĩ tới hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đã bị sát hại trong cuộc Thập tự chinh. - Đêm nay, các vị sẽ được đoàn tụ với Chúa của mình.
Sau lưng hắn, cô gái bắt đầu cựa quậy. Tên sát thủ quay lại. Hắn cân nhắc xem có nên để cô gái thức dậy hay không. Nỗi khiếp đảm trong ánh mắt của phụ nữ luôn là liều thuốc kích dục tuyệt vời nhất đối với hắn.
Nhưng hắn chọn giải pháp chắc chắn hơn. Tốt nhất là cứ để cho cô gái nằm bất tỉnh trong khi hắn đi vắng. Dù cô gái đã bị trói chặt và không thể nào trốn thoát được, nhưng hắn không muốn để cho con mồi của mình mệt lả đi vì giãy giụa quá nhiều. Ta muốn cô em khỏe mạnh… để ta còn thưởng thức .
Nhẹ nhàng nâng đầu cô gái lên, hắn lần ngón tay tìm chỗ hõm ngay dưới xương sọ. Hắn đã từng điểm vào huyệt đạo kiểu này nhiều lần rồi. Với sức mạnh của loài mãnh thú, hắn nhấn ngón tay vào lớp xương sụn mềm, rồi ấn mạnh xuống. Cô gái nằm vật ra ngay lập tức. 20 phút thôi mà , hắn thầm nghĩ. Con mồi này sẽ là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời. Sau khi thưởng thức cô gái, chứng kiến cô ta chết ngay trên tay mình, hắn sẽ bước ra ban công để thưởng ngoạn pháo hoa trên bầu trời Vatican.
Để con mồi nằm nguyên trên đi-văng, hắn xuống cầu thang, bước vào một căn phòng tối tăm, chỉ có một cây đuốc duy nhất toả sáng. Nhiệm vụ sau cùng. Hắn bước tới bên bàn, kính cần nhìn con dấu thiêng bằng sắt đã được để sẵn ở đó.
Nước . Con dấu sau cùng.
Như ba lần trước, hắn rút cây đuốc trên tường; nung cho con dấu nóng đỏ lên. Khi toàn bộ con dấu đã nóng đỏ, hắn bước vào trong ngục.
Một người đang đứng yên lặng: Già nua và cô độc.
- Này Hồng y Baggia. - Hắn rít lên - Ông đã cầu nguyện chưa đấy?
Đôi mắt của vị Hồng y già người Ý không chút sợ hãi:
- Ta đã cầu nguyện cho linh hồn của ngươi đấy!
Tên sát thủ mỉm cười đánh xe vào một toà nhà xây bằng đá trông ra dòng sông Tiber. Hắn mang cô gái lên cao… đi dọc theo một đường hầm xây bằng đá. May mà cô gái có vóc người mảnh khảnh.
Hắn đã đến bên cánh cửa.
Đền thờ ánh sáng , hắn lầm bầm. Phòng họp cổ xưa của hội Illuminati. Làm sao có thể ngờ được rằng nó ở ngay chỗ này cơ chứ .
Vào bên trong, hắn đặt cô gái lên một cái tràng kỷ bọc da sang trọng. Rất thành thục, hắn trói chặt hai tay cô gái ra sau lưng, rồi trói hai cổ chân lại. Những gì hắn thèm khát sẽ phải hoãn lại đến khi mọi việc được hoàn tất . Nước .
Nhưng hắn vẫn có thể tự dành cho mình chút xíu thời gian, tên sát thủ thầm nghĩ. Quỳ xuống bên cô gái, hắn vuốt ve cặp đùi thon dài và mềm mại. Bàn tay hắn lần lên cao hơn. Những ngón tay đen đúa lần lên trên gấu quần soóc. Cao hơn nữa.
Rồi hắn dừng phắt lại. Phải kiên nhẫn , chợt tỉnh ra, hắn tự nhắc nhở bản thân. Phải làm xong việc trước đã .
Hắn bước ra ngoài ban công mát rượi. Làn gió đêm nhanh chóng làm dịu đi cơn thèm khát man dại trong hắn. Tít dưới kia, sông Tiber vẫn đang chảy xiết. Hắn ngước nhìn mái vòm của Đại thánh đường St. Peter, cách hắn khoảng ba phần tư dặm, hiện ra rõ mồn một trong ánh sáng phát ra từ hàng trăm máy quay.
- Giờ khắc cuối cùng đã tới. - Hắn nói to thành tiếng, trong lòng nghĩ tới hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đã bị sát hại trong cuộc Thập tự chinh. - Đêm nay, các vị sẽ được đoàn tụ với Chúa của mình.
Sau lưng hắn, cô gái bắt đầu cựa quậy. Tên sát thủ quay lại. Hắn cân nhắc xem có nên để cô gái thức dậy hay không. Nỗi khiếp đảm trong ánh mắt của phụ nữ luôn là liều thuốc kích dục tuyệt vời nhất đối với hắn.
Nhưng hắn chọn giải pháp chắc chắn hơn. Tốt nhất là cứ để cho cô gái nằm bất tỉnh trong khi hắn đi vắng. Dù cô gái đã bị trói chặt và không thể nào trốn thoát được, nhưng hắn không muốn để cho con mồi của mình mệt lả đi vì giãy giụa quá nhiều. Ta muốn cô em khỏe mạnh… để ta còn thưởng thức .
Nhẹ nhàng nâng đầu cô gái lên, hắn lần ngón tay tìm chỗ hõm ngay dưới xương sọ. Hắn đã từng điểm vào huyệt đạo kiểu này nhiều lần rồi. Với sức mạnh của loài mãnh thú, hắn nhấn ngón tay vào lớp xương sụn mềm, rồi ấn mạnh xuống. Cô gái nằm vật ra ngay lập tức. 20 phút thôi mà , hắn thầm nghĩ. Con mồi này sẽ là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời. Sau khi thưởng thức cô gái, chứng kiến cô ta chết ngay trên tay mình, hắn sẽ bước ra ban công để thưởng ngoạn pháo hoa trên bầu trời Vatican.
Để con mồi nằm nguyên trên đi-văng, hắn xuống cầu thang, bước vào một căn phòng tối tăm, chỉ có một cây đuốc duy nhất toả sáng. Nhiệm vụ sau cùng. Hắn bước tới bên bàn, kính cần nhìn con dấu thiêng bằng sắt đã được để sẵn ở đó.
Nước . Con dấu sau cùng.
Như ba lần trước, hắn rút cây đuốc trên tường; nung cho con dấu nóng đỏ lên. Khi toàn bộ con dấu đã nóng đỏ, hắn bước vào trong ngục.
Một người đang đứng yên lặng: Già nua và cô độc.
- Này Hồng y Baggia. - Hắn rít lên - Ông đã cầu nguyện chưa đấy?
Đôi mắt của vị Hồng y già người Ý không chút sợ hãi:
- Ta đã cầu nguyện cho linh hồn của ngươi đấy!
Sáu người lính cứu hoả đã nhận được lệnh dùng khí Halon để dập tắt ngọn lửa bốc cao trong nhà thờ Santa Maria Della Vittoria. Dùng nước đỡ tốn kém hơn nhiều, nhưng sẽ làm tổn hại đến các bức bích hoạ trong nhà nguyện. Vatican đã trả lương rất hậu cho các đội cứu hoả ở Rome để bảo vệ các công trình do Vatican sở hữu.
Do đặc thù công việc của mình, những người lính cứu hoả này gần như ngày nào cũng phải chứng kiến các bi kịch, nhưng những gì xảy ra trong nhà thờ này sẽ ghi dấu ấn rất đậm trong tâm trí. họ. Quang cảnh trong nhà thờ như được dựng lại từ những cơn ác mộng, phần giống như giàn thiêu, phần giống như một cái giá treo, phần như bị thiêu sống.
Rủi thay, như mọi khi, cánh nhà báo đã nhanh chân hơn họ. Những người này đã quay phim chụp ảnh rất nhiều trước khi đội cứu hoả bắt tay vào hành động. Khi những người lính cứu hoả cắt được sợi dây thừng và hạ cái xác xuống mọi người nhận ra ngay lập tức đó là ai.
- Hồng y Guidera , - một người thì thào. - Phụ trách giáo xứ Barcelona.
Nạn nhân bị lột hết quần áo. Nửa dưới cơ thể bị cháy đen sì, máu rỉ ra từ hai vết rách toạc trên đùi. Xương ống chân lòi cả ra ngoài. Một người lính cứu hoả nôn mửa ngay tại chỗ. Một người khác phải chạy ra ngoài để hít thở khí trời.
Tuy nhiên, đáng sợ nhất vẫn là dấu khắc nung trên ngực nạn nhân. Kinh hoàng, người đội trưởng xoay cái thi thể đúng một vòng. Chắc chắn là bàn tay của quỷ Sa-tăng , anh ta lẩm bẩm, và lần đầu tiên trong đời, người đội trưởng làm dấu thánh.
- Un altro corpol ! - Một người kêu lên. Một người lính cứu hoả vừa phát hiện thêm một xác người nữa.
Nạn nhân thứ hai thì người đội trưởng nhận ra ngay. Người đội trưởng khắc khổ của đội lính gác Thuỵ Sĩ, vốn không được những quan chức trong ngành hành pháp ưa thích. Anh ta gọi điện đến toà thánh, nhưng tất cả các đường dây đều bận. Dù sao thì vài phút nữa tin này cũng sẽ được phát trên ti-vi, đội lính gác Thuỵ Sĩ sẽ biết ngay thôi.
Khi người đội trưởng đang đánh giá mức độ thiệt hại và cố mường tượng xem chuyện gì đã diễn ra trong thánh đường này, anh chợt nhìn thấy một cái hố chi chít vết đạn. Cỗ quan tài đá trong hốc đã bị lật khỏi bệ đỡ, rõ ràng là đã có một cuộc ẩu đả.
Mọi thứ tan hoang. Phần này thì để cảnh sát xử lý, người đội trưởng thầm nghĩ và định quay đì.
Đúng lúc ấy anh dừng ngay lại. Có một tiếng động phát ra từ trong cỗ quan tài lật úp. Thứ âm thanh mà những người lính cứu hoả không muốn nghe thấy chút nào.
- Bomba !(2) - Anh hét to. - Tutti fuori !(3)
Khi đội phá bom lật cỗ quan tài lên, họ phát hiện ra nguyên do của những tiếng bíp bíp ấy. Họ sững sờ, trợn tròn mắt.
- Gọi bác sĩ! - Cuối cùng một người kêu lên. - Gọi bác sĩ ngay !

Chú thích:
(1) Un altro copro: Một xác người nữa!
(2) Bomba: Bom
(3) Tutti fuori: Tất cả tránh ra.
 
- Có tin tức gì của Olivetti không? - Giáo chủ Thị thần hỏi. Khi hộ tống Giáo chủ Thị thần từ nhà nguyện Sistine về phòng làm việc của Giáo hoàng, đại tá Rocher thấy ngài có vẻ mệt mỏi.
- Không, thưa cha. Con sợ là chuyện tồi tệ nhất đã xảy ra rồi.
Về đến phòng làm việc của Giáo hoàng, giọng nói của Giáo chủ Thị thần có vẻ nặng nhọc:
- Ông đại tá này, tối nay ta chẳng còn làm thêm được gì nữa đâu. E rằng ta đã làm quá nhiều mất rồi. Ta sẽ cầu nguyện ở đây. Đừng làm phiền ta. Những gì còn lại xin phó thác nơi Chúa.
- Vâng, chưa cha.
- Muộn rồi đấy, ông đại tá ạ. Tiếp tục tìm cái hộp đi.
- Con vẫn đang tiến hành rà soát đấy ạ. - Rocher lưỡng lự. - Hình như cái hộp đó được giấu ở một nơi rất kín đáo.
Giáo chủ Thị thần chớp mắt, như thể ngài chưa hề nghĩ đến khả năng đó.
- Đúng thế. Đúng 11 giờ 15 phút, nếu vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm thì ông hãy sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn. Ta tin tường ở ông. Chỉ yêu cầu ông một điều: Hãy để cho họ ra khỏi Vatican trong danh dự. Hãy đưa họ ra quảng trường St. Peter và để họ đứng sát cánh với toàn thế giới. Ta không muốn hình ảnh cuối cùng của toà thánh là những ông già hốt hoảng chạy ra đằng cửa hậu.
- Vâng, thưa cha. Còn cha thì sao? Đến 11 giờ 15 phút con đến đón cha luôn nhé?
- Không cần đâu!
- Cha bảo sao ạ?
- Ta sẽ rời nơi này khi linh hồn đến gọi ta đi.
Có lẽ Giáo chủ Thị thần định sống chết với con thuyền sắp chìm , Rocher thầm nghĩ.
Giáo chủ Thị thần mở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng và bước vào trong.
- Thật ra thì… - ngài quay sang Rocher. - Còn một việc nữa. Đêm nay căn phòng này lạnh lẽo quá, ta đang run lên đây.
- Lò sưởi điện đã bị ngắt mất rồi. Để con nhóm lò sưởi cho cha.
Giáo chủ Thị thần cười mệt mỏi:
- Cảm ơn con. Cảm ơn con rất nhiều.
Rocher ra khỏi phòng làm việc của Giáo hoàng. Giáo chủ Thị thần đang cầu nguyện bên tượng Đức mẹ đồng trinh Maria, trước ngọn lửa. Một cảnh tượng kỳ dị. Một bóng đen đang quỳ bên một đốm sáng bập bùng. Rocher đi đến cuối hành lang thì thấy một người lính chạy đến. Trong ánh nến lờ mờ, ông ta nhận ra ngay thiếu uý Chartrand, trẻ măng, mặt tái mét, rất sốt sắng.
- Thưa đại tá. - Chartrand gọi lớn, chìa ra chiếc máy điện thoại. - Chắc là lời kêu gọi của Giáo chủ Thị thần đã có tác dụng rồi. Có một người gọi đến, nói rằng có thể giúp chúng ta. Người này gọi đến số máy nội bộ của toà thánh. Không hiểu thế nào mà ông ta lại có được số máy này.
Rocher dừng bước:
- Cái gì?
- Ông ta yêu cầu được nói chuyện với cấp chỉ huy.
- Có tin gì của Olivetti không?
- Không ạ.
Rocher cầm lấy điện thoại.
- Đại tá Rocher đây. Tôi hiện là cấp chỉ huy ở đây.
- Rocher, tôi sẽ tự giới thiệu về mình! - Đầu dây bên kia nói - Rồi tôi sẽ cho anh biết tiếp theo phải làm những gì.
Khi người ấy nói xong và cúp máy, Rocher kinh ngạc. Giờ thì viên đại tá đã hiểu ông ta đang nhận mệnh lệnh của ai.
***
Tại CERN, Sylvie Baudeloque đang ra sức ghi lại tất cả những tin nhắn được gửi đến số máy của Kohler về việc mua bản quyền phát minh. Đường dây cá nhân trên bàn bỗng đổ chuông, Sylvie giật nảy người. Không một ai có số máy này. Chị nhấc máy trả lời.
- Tôi nghe.
- Cô Baudeloque đấy à? Giám đốc Kohler đây. Hãy liên lạc với phi công của tôi. Bảo chuẩn bị máy bay riêng của tôi trong vòng 5 phút nhé.
Mở mắt ra, trông thấy mặt dưới của mái vòm nhà thờ được trang trí theo trường phái ba-rốc, Robert Langdon không biết anh đang ở đâu, và đã bất tỉnh trong bao lâu. Khói đang bốc lên. Miệng bị bịt. Hoá ra là mặt nạ ôxi. Langdon giật cái mặt nạ ra. Căn phòng này đặc quánh một thứ mùi khủng khiếp - như mùi thịt cháy.
Langdon nhăn mặt, đầu đau như búa bổ. Anh cố sức ngồi dậy.
Một người mặc bộ đồng phục màu trắng đang quỳ bên cạnh anh.
- Riposati !(1) - Anh ta vừa nói vừa đẩy Langdon nằm xuống.
Langdon phục tùng. Đầu óc choáng váng. Chuyện quái gì đã xảy ra nhỉ? Toàn thân anh đau nhức.
- Topo salvatore(2) , người nhân viên y tế nói - Chú chuột đã cứu mạng anh đấy.
Langdon càng không hiểu gì. Chuột cứu mạng?
Anh ta chỉ tay vào chiếc đồng hồ có hình chuột Mickey đeo trên cổ tay Langdon. Anh bắt đầu hiểu ra. Anh nhớ rằng mình đã đặt chế độ báo thức. Lơ đễnh, Langdon nhìn đồng hồ. 10 giờ 28 phút.
Anh ngồi bật dậy.
Thế rồi Langdon nhớ lại tất cả.
Langdon đứng cạnh bàn thờ chúa, cùng với người đội trưởng đội cứu hoả và một số nhân viên của anh ta. Họ đã hỏi anh khá nhiều, nhưng Langdon như không nghe thấy gì. Anh cũng có những câu hỏi của riêng mình. Toàn thân đau như dần, nhưng Langdon biết cần phải hành động ngay lập tức.
Một người lính cứu hoả tiến lại bên Langdon.
- Tôi đã kiểm tra lại rồi, chỉ thấy có thi thể của Hồng y Guidera và chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ. Không thấy có thi thể phụ nữ nào cả.
- Cảm ơn anh. - Langdon đáp, anh không hiểu nổi mình đang cảm thấy nhẹ nhõm hay lo lắng thêm. Chắc chắn anh trông thấy Vittoria nằm bất tỉnh trên sàn. Lúc này thì không thấy cô gái đâu nữa. Nguyên do duy nhất nảy ra trong đầu anh lúc này chẳng dễ chịu chút nào. Trên điện thoại, tên giết người tỏ ra chẳng chút gì gượng nhẹ. Cô có vẻ mạnh mẽ đấy. Tôi thích thế. Có thể lúc nào xong việc tôi sẽ đi tìm có em. Và lúc đó thì…
Langdon nhìn quanh.
- Đội lính gác Thuỵ Sĩ đâu rồi?
- Vẫn không liên lạc được. Tất cả các số máy của Vatican đều bận.
Langdon cảm thấy kiệt quệ và đơn độc. Olivetti đã chết. Vị Hồng y cũng đã từ trần. Vittoria thì bị mất tích. Loáng một cái, anh đã để mất nửa giờ quý giá trong đời.
Ngoài kia, cánh nhà báo đã ùn ùn kéo đến. Chắc những hình ảnh về vị Hồng y Giáo chủ bị sát hại sắp được phát trên sóng, nếu không nói là bây giờ đã lên sóng rồi. Hi vọng Giáo chủ Thị thần đã sớm lường tới tình huống xấu nhất và đã kịp thời hành động. Phải sơ tán toàn bộ Vatican! Đủ lắm rồi! Chúng ta đã thua!
Langdon chợt nhận: thấy tất cả những gì đã thúc đẩy anh phải nỗ lực suốt ngày hôm nay - nghĩa vụ giúp Vatican tìm hộp phản vật chất, cứu bốn vị Hồng y, đối diện với một hội kín mà anh đã bỏ công sức nghiên cứu về nó bao năm nay - tất cả những thứ ấy bỗng nhiên không còn tồn tại nữa. Họ đã thua. Anh cảm thấy trong tâm trí một sự thúc bách mới. Một nhiệm vụ đơn giản. Nhưng quan trọng hơn hết thảy.
Tìm Vittoria.
Langdon chợt cảm thấy trống trải. Anh đã từng nghe nói rằng những tình huống hiểm nghèo có thể gắn kết hai con người lại với nhau mà quãng thời gian hàng chục năm cũng chưa chắc đã làm nổi. Giờ thì anh bắt đầu tin rằng chuyện đó là có thật.
Không có Vittoria, Langdon chợt cảm thấy một thứ tình cảm từ nhiều năm nay anh chưa một lần trải nghiệm. Sự cô đơn. Nỗi đau bỗng khiến anh trở nên mạnh mẽ.
Gạt khỏi tâm trí tất cả mọi thứ khác, Langdon tập trung suy nghĩ. Cầu cho tên sát thủ sẽ tập trung làm cho xong việc của hắn trước khi nghĩ đến chuyện hưởng thụ. Nếu không thì lúc này đã là quá muộn. Không đâu, anh tự an ủi bản thân, mình vẫn còn thời gian. Hắn còn việc phải làm. Hắn còn phải xuất hiện thêm một lần cuối cùng nữa trước khi biến mất mãi mãi.
Bàn thờ khoa học cuối cùng , Langdon thầm nghĩ. Tên sát thủ còn phải tiến hành một vụ hành quyết nữa. Đất. Khí Lửa. Nước.
Langdon xem đồng hồ. 30 phút. Băng qua những người lính cứu hoả, anh lao đến bên Khoảnh khắc đê m.ê của thánh Teresa của Bernini và chăm chú quan sát. Lần này thì Langdon biết chắc chắn mình cần tìm cái gì.
Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả …
Thiên thần của Bernini đang bay lượn ngay bên trên vị thánh, trên nến một lưỡi lửa mạ vàng. Trên tay thiên thần là một lưỡi giáo lửa, Langdon đưa mắt theo hướng cây giáo được giương lên cao, chỉ về bên tay phải thánh đường. Mắt Langdon chạm phải bức tường. Anh nhìn kỹ một lượt nhưng không thấy gì. Dĩ nhiên là lưỡi giáo này hướng về một địa điểm nữa bên ngoài bức tường này, trong màn đêm, đâu đó phía bên kia thành Rome.
- Đây là hướng gì nhỉ? - Lòng tràn đầy quyết tâm! - Langdon quay sang hỏi người đội trưởng đội cứu hoả.
- Hướng à? Anh ta liếc nhìn về phía tay Langdon đang chỉ, vẻ hơi bối rối. - Không rõ lắm… chắc là hướng Tây!
- Ở phía ấy có nhà thờ nào không?
Người đội trưởng càng có vẻ bối rối hơn.
- Hàng chục nhà thờ. Để làm gì?
Langdon nhíu mày. Dĩ nhiên là phải đến hàng chục rồi .
- Tôi cắn một tấm bản đổ thành phố. Ngay lập tức.
Người đội trưởng yêu cầu một nhân viên chạy về xe lấy bản đồ Langdon quay lại quan sát bức tượng Đất… Khí… Lửa… VITTORIA.
Yếu tố cuối cùng là Nước , anh tự nhủ. Nước của Bernini. Trong một nhà thờ nào đó, đâu đây trong thành phố này. Như một cái kim giấu trong đống cỏ khô, Langdon điểm lại trong óc tất cả những tác phẩm của Bernini anh có thể nghĩ ra được lúc này. Cần tìm một tác phẩm liên quan đến Nước!
Anh chợt nghĩ đến bức tượng Triton của Bernini - tượng thần biển của người Hi Lạp. Rồi lại nhớ ra rằng tác phẩm đó được đặt ở quảng trường ngay trước mặt thánh đường này, nhưng lại hoàn toàn sai hướng. Langdon cố tập trung suy nghĩ. Bernini đã tạo ra tác phẩm nào để tôn vinh nước nhỉ? Thần biển hay thần mặt trời nhỉ? Rủi thay, bức tượng đó đang được trưng bày ở bảo tàng Victoria và Albert ở tận London.
- Thưa ông, bản đồ đây. - Một người lính cứu hoả mang lại cho Langdon tấm bản đồ thành phố.
Sau khi cảm ơn người lính cứu hoả, Langdon trải rộng tấm bản đồ Ngay lập tức, anh biết mình đã hỏi đúng người cần hỏi; bản đồ thành Rome của đội lính cứu hoả quả là chi tiết.
- Giờ chúng ta đang ở đâu?
Anh ta đưa tay chỉ.
- Gần quảng trường Barberini.
Langdon lại quay sang nhìn theo hướng ngọn giáo giương cao của thiên thần. ước lượng của người đội trưởng quả là chính xác.
Theo tấm bản đồ này thì ngọn giáo chỉ về hướng Tây. Gần như ngay lập tức, hi vọng của anh giảm hẳn đi. Dọc, theo vệt tay đi của Langdon, cứ một hai phân lại thấy có một công trình được đánh dấu bằng một chữ thập màu đen nhỏ xíu. Nhà thờ . Thành phố này dày đặc những nhà thờ. Hết vùng nội đô, ngón tay Langdon đi ra đến vùng ngoại thành. Thở hắt ra, anh xem lại một lần nữa. Khỉ thật!
Quan sát bao quát bản đồ, Langdon xác định lại vị trí ba nhà thờ mà các vị Hồng y đã bị sát hại. Nhà nguyện Chigi… Quảng trường St. Peter… và ở đây…
Xác định xong cả ba vị trí, Langdon cảm thấy những địa danh này có gì đó đặc biệt. Lúc đầu anh nghĩ những địa điểm này sẽ nằm rải rác trong thành Rome, nhưng rõ ràng không phải thế.
Thật kinh ngạc, ba thánh đường này được bố trí ở những khoảng cách đều nhau, tạo thành một hình tam giác lớn trải rộng khắp thành phố. Langdon kiểm tra lại một lần nữa. Không phải là anh tự tưởng tượng.
- Cho tôi cái bút. - Anh nói, không ngẩng mặt lên.
Ai đó đưa cho Langdon một cây bút.
Anh khoanh tròn ba nhà thờ. Tim đập thình thịch. Rồi kiểm tra lại một lần nữa. Hình tam giác đều !
Thoạt đầu Langdon nghĩ đến hình con dấu vĩ đại trên tờ bạc một đô la - một hình tam giác bao quanh con mắt nhìn thấu suốt. Nhưng như thế không có nghĩa. Anh mới đánh dấu được có ba điểm. Cần phải có bốn điểm mới đủ.
Nước ở chỗ nào nhỉ? Thêm một điểm nữa vào bất kỳ chỗ nào thì hình tam giác đều cũng sẽ bị phá vỡ. Điểm duy nhất có thể bảo toàn được sự cân đối là ở trong hình tam giác, đúng vào tâm điểm. - Anh nhìn vào điểm ấy trên bản đồ. Không có gì. Nhưng ý tưởng đó vẫn khiến anh phải suy nghĩ. Bốn nguyên tố của khoa học được coi là đồng đẳng . Nước không có gì đặc biệt; nước không thể được đặt ở giữa ba nguyên tố còn lại.
Thế nhưng bản năng vẫn mách bảo Langdon rằng hình tam giác đều này không thể là sự ngẫu nhiên. Mình vẫn chưa thấy hết toàn bộ bức tranh cơ mà ! Chỉ còn một lựa chọn nữa. Nếu bốn điểm không tạo ra hình tam giác thì phải là một hình khác nữ a.
Langdon lại nhìn bản đồ. Biết đâu lại là hình vuông ? Dù không hợp lý lắm, nhưng ít ra thì hình vuông còn có tính cân đối.
Langdon đặt ngón tay lên một điểm trên bản đồ để biến tam giác thành hình vuông. Anh lập tức nhận thấy rằng hình vuông là không hợp lý. Các thiên thần ở ba địa điểm này chỉ tay về những hướng chếch nhau, tạo ra một hình tứ giác rất méo mó.
Xem xét thêm một vài điểm nữa trên bản đồ, Langdon chợt phát hiện ra. Anh nhận thấy đường thẳng trước đó anh vừa vạch ra để chỉ theo hướng mũi giáo của thiên thần đi qua một trong những địa điểm anh phỏng đoán. Kinh ngạc. Langdon khoanh tròn điểm đó. Lúc này, anh quan sát bốn địa điểm được đánh dấu bằng bút bi, tạo thành viên kim cương hình cái diều khá kỳ dị.
Langdon nhíu mày. Kim cương cũng không phải là biểu tượng của Illuminati. Ngừng một lát. Thế nhưng …
Trong thoáng chốc, Langdon nhớ đến viên kim cương Illuminati nổi tiếng. Tuy nhiên, ý nghĩ này thật kỳ quặc. Bên cạnh đó, viên kim cương này trông như một cái điều - khó có thể là một ví dụ cho tính khuôn mẫu, đối xứng của viên kim cương Illuminati vốn rất được tôn sùng.
Cúi xuống để nhìn cho kỹ địa điểm vừa đánh dấu, Langdon ngạc nhiên thấy nó rơi đúng vào trung tâm quảng trường Navona nổi tiếng của thành Rome. Anh biết cạnh quảng trường này là một thánh đường, nhưng ban nãy Langdon đã đi ngón tay qua, và đã nghĩ đến nó rồi. Theo như anh biết thì trong đó không có tác phẩm nào của Bernini cả. Thánh đường này có tên là Nỗi đau của thánh Agnes . Thánh Agnes là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp, đã chấp nhận kiếp sống khổ nhục của một nô lệ t.ình d.ục chứ không chịu từ bỏ đức tin của mình.
Chắc chắn trong nhà thờ này phải có cái gì đó ! Langdon cố vắt óc mường tượng quang cảnh bên trong thánh đường. Anh chẳng nhớ ra tác phẩm nào của Bernini trong đó, liên quan đến nước thì lại càng không. Những sắp đặt hiện ra trên bản đồ cũng khiến Langdon băn khoăn. Hình viên kim cương. Đủ chính xác để không thể là ngẫu nhiên được, nhưng lại chưa đủ độ tuyệt đối để thể hiện bất kỳ ý nghĩa nào. Hay là cái diều ? Hay là Langdon đánh dấu không chính xác? Mình đá bỏ sót chi tiết nào rồi !
Mất thêm 30 giây nữa anh mới nghĩ ra câu trả lời khi đã có câu trả lời, anh thấy vô cùng phấn khởi, chưa một giây phút nào trong sự nghiệp khoa học của mình khiến anh phấn khởi đến thế.
Dường như thiên tài của Illuminati không bao giờ bỏ qua chi tiết nào.
Đây không phải là hình viên kim cương. Bốn điểm này tạo ra hình viên kim cương chỉ vì Langdon mới nối những điểm lân cận với nhau. Illuminati tôn thờ sự đối xứng ! Tay run run, Langdon nối hai cặp đỉnh đối diện. Trước mắt anh hiện ra hình cây thập tự khổng lồ. Là hình chữ thập ! Bốn nguyên tố đầu tiên của khoa học hiện ra trên tấm bản đồ… nằm rải rác khắp thành Rome, tạo thành một chữ thập lớn trải rộng khắp thành phố.
Tròn mắt kinh ngạc, Langdon nhớ lại dòng thơ ấy… như một người bạn cũ, nay bỗng dưng mang một khuôn mặt mới.
"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome…
"Khắp thành Rome…
Sương mù bắt đầu tan. Hoá ra câu trả lời đã ở ngay trước mắt anh từ lâu rồi! Bài thơ của hội Illuminati đã mách bảo anh cách thức các nguyên tố này được bố trí. Khắp .
"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome…
Quả là lối chơi chữ thông minh. Lúc đầu Langdon không để ý lắm đến từ "khắp". Anh tưởng sự lựa chọn từ này chỉ là để đáp ứng yêu cầu về nhịp phách của dòng thơ. Hoá ra không chỉ có thế?
Lại thêm một đầu mối nữa hiện ra.
Hoá ra hình chữ thập trên bản đồ thề hiện tính đối ngẫu tuyệt đối mà Illuminati tôn sùng. Nó là một biểu tượng tôn giáo, được tạo nên bởi bốn nguyên tố của khoa học. Con đường ánh sáng của Galileo tôn vinh cả khoa học lớn Chúa trời!
Phần còn lại của câu đố hóc búa hiện ra gần như tức thì.
Quảng trường Navona .
Chính giữa quảng trường Navona, trước mặt nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes , là một trong những tác phẩm trứ danh nhất của Bernini. Tất cả những ai đến thăm thành Rome đều muốn chiêm ngưỡng tác phẩm này.
Đài phun nước. Bốn dòng sông !
Một cách thức tuyệt hảo để tôn vinh nước. Đài phun, nước. Bốn dòng sông của Bernini ngợi ca bốn dòng sông lớn của cựu lục địa - sông Nile, Ganges, Danube và Rio Plata.
Nước , Langdon thầm nghĩ. Đầu mối cuối cùng . Thật hoàn hảo.
Thêm một chi tiết tuyệt vời nữa, như một trái sơ-ri ngọt ngào trên chiếc bánh ga-tô, chính là toà Kim tự tháp bằng đá ngay giữa đài phun nước này.
Đứng phắt dậy, mặc kệ những người lính cứu hoả còn đang ngơ ngác, Langdon chạy tới bên thi thể của Olivetti.
10 giờ 32 phút rồi, anh thầm nghĩ. Vẫn còn thiếu thời gian. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay, Langdon cảm thấy mình đi trước được một bước.
Quỳ xuống bên xác Olivetti, khuất sau mấy hàng ghế, Langdon kín đáo rút khẩu súng bán tự động và chiếc máy bộ đàm ở lưng ông ta. Anh phải gọi người ứng cứu, nhưng không phải ở đây.
Lúc này cần phải giữ bí mật về bàn thờ khoa học cuối cùng. Đám đông các nhà báo cùng với đội xe cảnh sát rú còi ầm ỹ lao về phía quảng trường Novona sẽ chẳng được tích sự gì.
Không nói không rằng, Langdon lẻn ra khỏi cửa, vòng ra sau lưng đám nhà báo lúc này đang lũ lượt kéo vào trong thánh đường.
Anh đi qua quảng trường Babernini, ra đến một góc tối, anh bật máy bộ đàm. Anh ra sức gọi nhưng chẳng thấy có tín hiệu. Một là anh đã ở ngoài vùng phủ sóng, hai là để sử dụng chiếc máy này cần biết một tần số đặc biệt nào đó. Langdon ra sức điều chỉnh những cái nút và cần gạt, nhưng chẳng tác dụng gì. Đột nhiên, anh nhận thấy kế hoạch gọi người đến trợ giúp không còn khả thi nữa. Langdon lập tức chạy đi tìm bốt điện thoại. Không có. Mà dù sao thì các đường dây của Vatican cũng đều bận hết rồi.
Đơn độc. Cảm giác tự tin lúc đầu nhanh chống biến mất. Langdon đứng lặng đi, nghĩ đến tình cảnh thảm hại của mình: người dính đầy vụn xương mục, bị thương, kiệt sức và đói.
Anh quay lại nhìn nhà thờ. Khói đen cuồn cuộn trên mái vòm sáng trưng dưới ánh đèn máy quay và xe cứu hoả. Anh phân vân không biết có nên quay vào đó nhờ người giúp đỡ hay không.
Nhưng bản năng mách bảo rằng sự trợ giúp của những người không có chuyên môn sẽ chi mang lại nhiều bất lợi. Nhỡ tên sát thủ trông thấy mọi người kéo đến… Anh nghĩ đến Vittoria, và biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để tóm được hung thủ.
Quảng trường Navona, anh nghĩ, thầm biết rằng còn đủ thời gian để đến đó và khoanh vùng địa điểm. Anh nhìn quanh tìm xe taxi, nhưng phố vắng tanh. Hình như cả cánh lái xe taxi cũng bỏ hết mọi thứ để ngồi trước màn hình ti-vi. Quảng trường Navona chỉ cách có một dặm nhưng Langdon không muốn phung phí sức lực bằng cách cuốc bộ đến đó. Anh lại nhìn nhà thờ, cân nhắc khả năng mượn xe của ai đó để đi.
Xe cứu hoả? Xe hòm của nhà báo? Phải cẩn thận .
Biết rằng càng do dự thì càng dễ để tuột mất cơ hội, Langdon nhanh chóng quyết định. Rút súng ra, anh hành động khác hẳn phong cách thường ngày của bản thân mình, khác đến mức Langdon nghĩ mình đã bắt đầu bị quỷ ám. Chạy đến bên một chiếc xe Citroen đang đỗ bên lề đường, Langdon chĩa súng vào người lái xe đang ngồi bên trong và hét lên:
- Fuori !(3)
Người lái xe run rẩy bước xuống.
Langdon nhảy ngay vào ngồi sau vô lăng và kéo cần ga.

Chú thích:
(1) Riposati: Nằm nghỉ đi.
(2) Topo salvatore: Chú chuột cứu mạng.
(3) Fouri: Ra ngoài!
 
Gunther Glick đang ngồi uống nước trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Anh đang cầu khấn tất cả các vị thần linh trên đời. Xin cho tối nay không phải là một giấc mơ. Glick đã đưa được một bản tin để đời. Bản tin mà mọi phóng viên đều ao ước.
Lúc này, tất cả các phóng viên trên khắp hành tinh đều mơ ước được ở vào địa vị của Glick. Mình đang tỉnh đấy chứ , anh ta tự nhủ. Và mình vừa trở thành một ngôi sao. Dan Rather lúc này sắp phát khóc lên rồi.
Macri ngồi ngay cạnh Glick, có vẻ kinh ngạc. Glick không trách gì cô ta hết. Ngoài việc truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, hai người đã cho cả thế giới xem những bức ảnh kinh hoàng về Giáo hoàng và các vị Hồng y - cái lưỡi của Người! Và cả hình ảnh trực tiếp về chiếc hộp chứa phản vật chất đang đếm ngược thời gian. Không thể tin nổi !
Dĩ nhiên là tất cả đều do mệnh lệnh của Giáo chủ Thị thần, cho nên lúc này hai người mới bị nhốt trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Đội lính gác không hài lòng về những thông tin ngoài lề mà Glick đã đưa thêm. Biết rằng mình không được phép nghe cuộc đàm thoại đó, nhưng đó là cơ hội ngàn năm có một. Một hành động phi thường nữa của Glick !
- Nhân vật bác ái lúc 11 giờ đêm là thế nào? - Macri rên rỉ, có vẻ không thích thú chút nào.
Glick mỉm cười:
- Ý tưởng thông minh đấy chứ?
- Thông minh cái con khỉ.
Cô ta đang ghen , Glick biết thế. Không bao lâu sau khi truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, Glick lại tình cờ có mặt đúng lúc và đúng chỗ. Anh nghe lỏm được những mệnh lệnh mới của Rocher. Rõ ràng là ông đại tá này đã nhận được một cú điện thoại của một nhân vật bí ẩn, người mà Rocher cho rằng có những thông tin có tính chất sống còn trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này. Nghe khẩu khí của Rocher thì người này có thể giúp họ, và ông ta ra lệnh chuẩn bị đón khách.
Dù thông tin này thuộc loại bí mật, nhưng Glick đã hành động như tất cả những phóng viên tận tâm khác - không đếm xỉa đến danh dự. Anh ta tìm một góc tối, bảo Macri bí mật bấm máy quay từ xa, và thông báo tin đó.
"Những tiến triển gây sốc bên trong thành phố của Chúa", Glick đã nói thế, anh ta lại còn nheo nheo mắt để tăng thêm độ biểu cảm. Sau đó anh ta thông báo rằng một vị khách bí ẩn sẽ đến cứu Vatican. Glick còn gọi người đó là nhân vật bác ái lúc 11 giờ khuya , cái tên thật thích hợp với một người giấu mặt xuất hiện vào phút chót, ra tay làm việc nghĩa. Tất cả các hệ thống phát thanh truyền hình khác lập tức chộp lấy tin đó, và lại một lần nữa Glick trở thành bất tử.
Mình quả là xuất sắc , Glick thầm nghĩ. Peter Jenning chắc phải ghen tị đến mức nhảy cầu tự vẫn mất thôi .
Dĩ nhiên là anh ta không chịu dừng ở đó. Nhân lúc cả thế giới đang chú ý đến mình, anh ta đã thêm mắm thêm muối vào cho mùi mẫn.
Xuất sắc! Vô cùng xuất sắc !
- Anh nói dối. - Macri nói - Đó hoàn toàn là điều bịa đặt.
- Cô nói cái gì thế Tôi cực kỳ thông minh chứ!
Macri trợn tròn mắt, tỏ vẻ không tin.
- Cựu tổng thống George Bush, ông ấy là thành viên của Illuminati thật sao?
Glick mỉm cười. Hiển nhiên đến thế còn gì nữa? Có vô số tài liệu về ông ta, Hội viên hội Tam Điểm, và là người đứng đầu CIA đúng vào thời gian cơ quan này quyết định dừng điều tra về Illuminati vì thiếu chứng cớ. Và những bài phát biểu về "một ngàn đốm sáng" và "một trật tự thế giới mới"… rõ ràng Bush là hội viên của Illuminati.
- Thế còn những chi tiết về CERN thì sao? - Macri nghiêm mặt. - Sáng mai anh sẽ phải đối mặt với hàng loạt luật sư đến kiện cáo đấy!
- CERN à? Thôi đi mà! Điều đó quá hiển nhiên rồi còn gì! Cô nghĩ mà xem! Illuminati biến mất vào những năm 1950, đúng vào thời điểm CERN được thành lập. Đó là nơi quy tụ những bộ óc sáng láng nhất hành tinh. Hàng núi tiền tài trợ từ các cá nhân. Họ tạo ra một thứ vũ khí có khả năng phá huỷ các thánh đường, và rồi đùng một cái… vũ khí đó bị mất cắp !
- Và anh muốn cả thế giới tin rằng CERN là trụ sở mới của Illuminati chứ gì?
- Dĩ nhiên! Các hội kín có bao giờ biến mất hoàn toàn đâu. Illuminati chắc chắn phải rút vào một địa điểm nào đó chứ. CERN là nơi ẩn náu lý tưởng cho họ. Biết đâu đó còn là hang ổ của hội Tam Điểm ấy chứ! Đa số các nhân viên bình thường thì có thể không biết gì, nhưng những cấp lãnh đạo thì…
- Anh đã bao giờ nghe nói tới tội vu khống chưa? Về các trách nhiệm pháp lý ấy.
- Thế cô đã bao giờ biết thế nào là nghề báo thực thụ chưa?
- Nghề báo cái gì? Anh đưa toàn những tin bịa đặt! Đáng ra lúc ấy tôi phải tắt ngay máy đi! Lại còn những điều lảm nhảm về lô-gò hợp nhất của CERN nữa chứ. Biểu tượng của quỷ là thế nào? Anh mất trí rồi hay sao đấy?
Glick mỉm cười. Rõ ràng là Macri đang ghen tị đây mà. Ý tưởng vế lô-gô của CERN hiển nhiên là ý tưởng thông minh nhất. Từ sau khi Giáo chủ Thị thần phát biểu trực tiếp, tất cả các kênh truyền hình đều nói về CERN và về phản vật chất. Một số kênh còn lấy luôn lô-gô của viện nghiên cứu đó làm phông nền. Thoạt nhìn thì biểu tượng đó trông khá chuẩn - hai hình tròn giao nhau tượng trưng cho hai máy gia tốc hạt, và năm đường tiếp tuyến tượng trưng cho các ống bắn hạt. Cả thế giới đang quan sát lô-gô đó, nhưng với tố chất của một nhà biểu tượng học, chính Glick là người luận ra được những biểu tượng của hội Illuminati ẩn trong đó.
- Anh đâu phải là nhà biểu tượng học. - Macri khiển trách - Anh chỉ là một gã phóng viên chết dẫm đang vớ bở. Đáng ra phải để câu chuyện về cái biểu tượng ấy cho anh chàng Harvard kia kìa.
- Anh ta có để ý đến nó đâu! - Glick đáp.
Ý nghĩa biểu tượng của hội Illuminati trên lô-gô đó quá rõ ràng rồi còn gì nữa !
Glick như mở cờ trong bụng. Dù CERN sở hữu rất nhiều máy gia tốc hạt, trên lô-gô chỉ có hai cái. Hai chính là con số chẵn được ưa chuộng của Illuminati. Mặc dù tất cả các máy gia tốc hạt chỉ có một ống bắn hạt mà thôi, trên lô-gô có những năm ống. Năm chính là con số tượng trưng cho ngôi sao năm cánh của Illuminati . Và thế là Glick đã táo bạo hành động - đó mới chính là điểm mấu chốt nhất. Glick chỉ ra rằng trên lô-gô có một con số 6 rất lớn - rõ ràng là một trong những vòng tròn và những đường thẳng đã tạo ra con số đó. Và khi xoay ngược lô-gô, lại một số 6 nữa hiện ra… đến số 6 thứ ba. Trên lô-gô có ba con số 6 tất cả! 666! Con số của quỷ!
Glick quả là thiên tài.
Macri có vẻ như đang muốn bóp chết anh.
Cảm giác ghen tị rồi sẽ hết thôi, Glick biết thế. Đầu óc anh lúc này đang mơ tưởng đến chuyện khác. Nếu CERN chính là đại bản doanh của Illuminati thật, thì không hiểu viên kim cương Illuminati được cất giấu ở chỗ nào? Glick đã từng đọc về viên kim cương đó trên mạng - một viên kim cương hoàn hảo, được tạo ra từ loại đá quý nguyên thuỷ, với sự chuẩn xác đến nỗi tất cả những ai được nhìn thấy nó đều phải trầm trồ thán phục .
Glick mơ màng, biết đâu tung tích của viên kim cương Illuminati là một bí ẩn nữa mà anh ta có thể khám phá trong đêm nay.
Quảng trường Navona. Đài phun nước Bốn dòng sông .
Đêm ở thành Rome giống như trên sa mạc, lạnh đến mức kỳ lạ dù sau một ngày nắng ấm. Langdon đang hối hả sải bước trên quảng trường, áo khoác quấn sát vào người. Ý như tiếng rầm rầm của xe cộ, tiếng lao xao của các bản tin được phát đi vang vọng khắp nơi. Anh xem đồng hồ. 15 phút. May mắn là còn vài phút để nghỉ ngơi.
Quảng trường vắng tanh. Đài phun nước, tuyệt tác của Bernini đang phun xì xì như có ma thuật. Đài phun nước tạo ra một đám sương, được chiếu sáng từ dưới bằng những ngọn đèn đặt ngầm dưới nước. Dường như một luồng điện lạnh lẽo nào đó đang bao trùm khắp không gian.
Đặc điểm được ca ngợi nhiều nhất của đài phun nước này chính là độ cao của nó. Chỉ riêng phần lõi của đài phun đã cao tới 7 mét - một tảng non bộ bằng đá cẩm thạch để thô, có vô số hốc nhỏ phun nước ra. Toàn bộ quả núi nhỏ này được trang trí bằng các hoạ tiết có tính ngoại đạo. Trên đỉnh núi là một Kim tự tháp cao 12 mét. Langdon ngước mắt nhìn lên. Trên đỉnh Kim tự tháp có một chú chim bồ câu lặng lẽ, đơn độc.
Hình chữ thập , Langdon thầm nghĩ, anh vẫn chưa hết kinh ngạc về cách thức bố trí các đầu mối của con đường trên khắp thành Rome. Đài phun nước Bốn dòng sông của Bernini chính là bàn thờ khoa học cuối cùng. Cách đây vài giờ đồng hố, Langdon còn đang đứng trong điện Pantheon, đinh ninh rằng con đường ánh sáng đã bị huỷ hoại, không ngờ giờ đây anh có thể đến được nơi này. Quả là một sai lầm ngớ ngẩn. Hoá ra toàn bộ con đường vẫn còn nguyên vẹn Đất, Khí, Lửa, Nước . Và Langdon đã lần theo dấu con đường này, từ đầu đến cuối.
Chưa hẳn là đến cuối , con đường này có năm điểm dừng, không phải là bốn. Đài phun nước thứ tư này sẽ chỉ ra cái đích sau cùng nới tụ họp bí mật của hội Illuminati. Đền thờ ánh sáng. Không hiểu địa điểm đó có còn tổn tại không? Không hiểu có phải tên sát thủ đã đưa Vittoria tới đó hay không?
Langdon quan sát kỹ đài phun nước, cố tìm một đầu mối nào đó dẫn tới điểm tụ họp bí mật kia. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả . Nhưng gần như ngay lập tức, anh nhận ra một điều không dễ chịu chút nào. Đài phun nước này không có thiên thần nào cả. Từ chỗ đứng hiện thời, Langdon không thấy thiên thần nào hết… và xưa nay anh cũng chưa bao giờ trông thấy. Đài phun nước Bốn dòng sông là một tác phẩm ngoại đạo. Tất cả những hình chạm khắc ở đây đều đậm nét trần tục - người, thú, thậm chí cả một con ta-tu thô kệch nữa. Nếu có thì thiên thần cũng sẽ rất cô độc ở nơi này.
Hay không phải là chỗ này? Langdon lại suy nghĩ về hình chữ thập với bốn Kim tự tháp đá ở bốn điểm. Anh siết chặt nắm đấm. Đài phun nước này quả là hoàn hảo.
10 giờ 46 phút, một chiếc xe hòm màu đen xuất hiện từ một con hẻm bên kia quảng trường: Langdon đã chẳng mảy may để ý đến nó, nếu như chiếc xe không bật đèn. Ý như một con cá mập đang tuần tiễu ở vùng vịnh sáng trăng, chiếc xe lượn một vòng quanh quảng trường.
Langdon khom người xuống, nép sát vào một góc tối dưới chân cầu thang nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes . Anh căng mắt nhìn ra quảng trường, tim đập mỗi lúc một nhanh hơn.
Sau khi lượn hai vòng, chiếc xe hướng vào đài phun nước của Bernini. Nó lượn sát vào, cho đến khi áp thật sát vào mép đài phun. Rồi chiếc xe dừng lại cánh cửa trượt bên hông xe chỉ cách mặt nước chưa đến một tấc.
Bọt nước vẫn bắn tung toé.
Langdon cảm thấy sự kiện này báo điềm gở. Hay là tên sát thủ đến sớm? Chẳng lẽ hắn đến bằng xe hòm? Anh những tưởng hắn sẽ đi bộ và dìu nạn nhân đến đây, y như lúc ở quảng trường St. Peter, như thế thì anh có thể ngắm bắn dễ dàng. Nhưng nếu hắn đi xe đến thì mọi thứ sẽ khác đi.
Bất thần, cánh cửa trượt bên hông thùng xe mở ra. Trên sàn xe, một người bị lột hết quần áo đang quằn quại đau đớn. Toàn thân người này quấn dây xích. Người đó đang cố quẫy ra, nhưng những mắt xích vừa to vừa nặng. Một mắt xích gang mồm nạn nhân, chắc để cho người này khỏi kêu cứu. Đúng lúc đó, Langdon trông thấy bóng một người nữa, trong bóng tối đang di chuyển phía sau nạn nhân, như thể đang chuẩn bị những chi tiết cuối cùng.
Langdon biết thời gian hành động của anh chỉ được tính bằng giây.
Súng cầm tay, anh thả áo xuống đất. Anh không muốn chiếc áo to nặng này cản bước, và cũng không muốn trang bản thảo của cuốn Diagramma bị đưa đến gần chỗ có nước. Trang tài liệu sẽ ở đây chỗ khô ráo và an toàn.
Langdon bò về bên phải. Vòng qua đài phun nước, anh hướng tới vị trí đối diện chiếc xe hòm. Hòn núi nhỏ giữa đài phun cản mất tầm nhìn. Đứng thẳng người dậy, anh chạy thẳng đến bên đài phun nước, hi vọng tiếng nước phun sẽ lấp đi tiếng chân chạy thình thịch. Đến dài phun, anh trèo qua mép tường, nhảy vào trong bể nước ngầu bọt.
Nước sâu đến ngang bụng và lạnh như băng. Langdon nghiến răng mà lội. Đáy bồn trơn nhẫy, đã thế lại phủ một lớp dày những đồng xu người ta ném xuống để cầu may. Langdon biết lúc này anh không chỉ cần đến sự may mắn. Bụi nước mù mịt khắp xung quanh, Langdon thầm băn khoăn, không hiểu vì lạnh hay vì sợ hãi mà khẩu súng lục trên tay anh run lên bần bật.
Vào đến gần giữa bồn nước, Langdon vòng qua bên trái. Anh cố lội thật nhanh, và luôn cố ẩn mình sau tảng núi đá nhỏ ở chính giữa đài phun nước. Nấp sau một chú ngựa đá ở trung tâm đài phun, Langdon nhìn ra quan sát. Chiếc xe hòm chỉ cách anh khoảng 5 mét. Tên sát thủ đang lom khom trên sàn xe, hai tay đặt lên người vị Hồng y đã bị trói chặt bằng dây xích, hắn sắp đẩy ngài qua cánh cửa trượt đã mở sẵn.
Trong bồn nước ngập đến ngang thắt lưng, Langdon giương súng, bước ra khỏi đám bụi nước mịt mù. Như thể anh chính là một chàng cao bối đang chọn điểm ngắm bắn.
- Đứng im.
Langdon hô to, giọng nói của anh nghe điềm tĩnh hơn bàn tay đang cầm khẩu súng.
Tên sát thủ ngước nhìn lên. Trong thoáng chốc, dường như hắn giật mình và không hiểu nổi những từ vừa nghe thấy. Rồi bĩu môi, hắn mỉm cười đầy xảo trá, giơ hai tay lên trời.
- Tay giơ rồi đây này.
- Ra khỏi xe mau.
- Ông bạn ướt hết rồi kìa.
- Mày đến hơi sớm.
- Vì tôi muốn sớm quay về với chiến lợi phẩm của tôi.
Langdon giương súng lên:
- Súng của tao không biết do dự đâu!
- Ông bạn đang do dự rồi đấy thôi.
Ngón tay Langdon siết chặt cò súng. Vị Hồng y Giáo chủ lúc này đang nằm bất động trên sàn xe. Trông ngài có vẻ đã kiệt sức, và dường như đang hấp hối.
- Cởi trói cho ông ấy mau.
- Quên ông ta đi, ông bạn đến để tìm con bé cơ mà. Đừng giả bộ làm gì?
Langdon phải cố kìm ý nghĩ muốn hạ thủ hắn ngay lúc này.
- Cô gái đâu?
- Ở một nơi an toàn, đợi tôi trớ về.
Vittoria còn sống . Langdon thấy có một tia hi vọng.
- Có phải trong Đền thờ ánh sáng không?
Kẻ giết người nhếch mép cười.
- Ông bạn làm sao mà tìm được!
Langdon thấy nghi ngờ. Hoá ra nơi gặp gỡ của họ vẫn còn tồn tại.
Anh chĩa súng vào người hắn.
- Ở đâu?
- Đó là một địa điểm bí mật từ nhiều thế kỷ nay. Thậm chí đến cả tôi cũng mới được biết chưa bao lâu. Có chết tôi cũng không tiết lộ bí mật đó.
- Không cần mày tao cũng tự tìm được.
- Ông bạn quá ngạo mạn.
Langdon hất đầu về phía đài phun nước:
- Tao đã đến được đây đấy thôi.
- Thì khối người khác cũng thế. Bước cuối cùng bao giờ cũng khó nhất.
Langdon tiến lại gần hơn, chân loạng choạng trong nước. Tên sát thủ có vẻ rất bình tĩnh, hắn đang ngồi xổm ở cuối xe, hai tay giơ lên. Chĩa súng vào ngực hắn, Langdon thầm băn khoăn có nên bắn một phát đạn để kết liễu đời hắn ngay lúc này hay không. Không nên. Hắn biết Vittoria ở chỗ nào. Hắn biết hộp phản vật chất giấu ở đâu. Mình thì đang cần thông tin.
Ngồi trong thùng xe tối tăm, tên sát thủ chăm chú nhìn kẻ uy hiếp hắn, và không nén nổi cảm giác vừa thương hại vừa khoái trá. Gã người Mỹ này thuộc loại dũng cảm, điều đó thì đã rõ.
Nhưng gã đúng là đồ gà mờ. Dũng cảm mà không có kỹ năng thì chẳng khác nào tự sát. Muốn tự vệ phải biết các quy tắc. Những quy tắc từ ngàn xưa. Và gã người Mỹ này đã vi phạm tất cả những quy tắc đó.
Ông bạn có một lợi thế - đó là yếu tố bất ngờ. Nhưng ông bạn đã lãng phí cái đó .
Gã người Mỹ này không quyết đoán… có lẽ gã đang đợi người đến hỗ trợ… hay đợi mình lỡ lời để lộ thông tin quan trọng nào đó.
Nếu chưa đánh bại được đối thủ thì chưa được phép tra khảo. Con mồi bị dồn vào chân tường chính là đối tượng nguy hiểm nhất .
Gã này lại nói tiếp, giọng dỗ dành.
Suýt nữa thì tên sát thủ cười phá lên. Đây đâu phải là một bộ phim tà giáo của Hollywood cơ chứ… chẳng ai đi tào lao mãi trong khi đang bị chĩa súng vào người. Thời điểm quyết định đã tới. Nào!
Vẫn nhìn thẳng vào mắt Langdon, tên sát thủ lần tay lên nóc xe cho đến khi hắn tìm thấy vật cần tìm. Vẫn chăm chăm nhìn thẳng về phía trước, hắn cắm vật đó gọn trong lòng bàn tay.
Rồi hắn bắt đầu hành động.
Hành động của hắn vô cùng bất ngờ. Trong một thoáng chốc, Langdon tưởng như tất cả các quy luật vật lý đều không còn tác dụng. Tên sát thủ đu người lên cao, hai chân hắn vươn dài ra, hất vị Hồng y đã bị trói bằng xích xuống nước. Nạn nhân của hắn rơi tõm xuống, nước bắn lên tung tóe.
Nước văng đầy lên mặt, Langdon nhận ra quá muộn màng. Kẻ giết người đã bám vào một thanh giằng trên nóc xe để đu người về phía trước. Trong bụi nước mịt mù, hắn lao thẳng vào người Langdon, chân choãi ra trước.
Langdon kéo cò, bộ phận giảm thanh kêu đánh cách một tiếng.
Viên dạn nổ đúng vào mũi giày bên trái của hắn. Nhưng ngay lập tức anh bị hai gót giày của hắn đá mạnh vào ngực, và bị hất về phía sau.
Hai người đàn ông ngã nhào xuống, nước lẫn máu bắn tung tóe.
Bị thứ chất lỏng lạnh kinh khủng ấy bao kín lấy toàn thân, cảm nhận đầu tiên của Langdon là đau. Bản năng sinh tốn trỗi dậy trước tiên. Anh nhận thấy khẩu súng không còn trên tay mình nữa. Nó đã bị đá văng đi. Lặn sâu xuống, Langdon mò mẫm quờ quạng dưới đáy bốn nước. Tay anh chạm vào kim loại. Hoá ra là một nắm tiền xu. Anh thả ra. Langdon mở mắt, quan sát đáy bốn. Làn nước lạnh buốt đang vây kín lấy anh.
Cố nhịn thở Langdon lặn xuống đáy bồn để khỏi bị tấn công. Không ngừng quẫy đạp. Không biết cú đánh tiếp theo sẽ từ hướng nào. Phải tìm cho được khẩu súng! Hai tay anh tuyệt vọng dò dẫm.
Mình đang có một lợi thế , anh tự khích lệ bản thân, mình đang ở trong môi trường của mình . Dù chiếc áo len sũng nước trở nên rất vướng víu, Langdon vẫn là một tay bơi nhanh nhẹn. Nước chính là môi trường của mình.
Tay sờ phải kim loại lần thứ hai, Langdon chắc mẩm vận rủi của mình đã kết thúc. Thứ anh cầm trong tay không còn là một nắm tiền xu nữa. Nắm thật chặt, lôi nó về phía mình, nhưng thay vì kéo được vật ấy, anh thấy mình bị kéo về đằng trước. Vật đó không hề xê dịch chút nào.
Còn chưa chạm vào th.ân thể đang quằn quại của đức Hồng y, Langdon đã nhận ra ngay, anh vừa nắm phải sợi dây xích đang kéo vị thầy tu này xuống dưới đáy nước. Trông thấy khuôn mặt đầy kinh hãi dưới đáy nước đang nhìn mình chằm chằm, Langdon đờ người, chùng chằng mất một khoảnh khắc.
Nhưng ngay khi thấy đôi mắt ấy vẫn ánh lên sự sống, Langdon lập tức hành động: Anh sục tay xuống, túm lấy sợi dây xích, rồi ra sức kéo ông già khốn khổ lên khỏi mặt nước.
th.ân thể của nạn nhân nổi lên rất chậm chạp, chẳng khác gì cái mỏ neo. Langdon kéo mạnh tay hơn. Khi mặt nhô được lên khỏi mặt nước, vị Hồng y già thở hổn hển một cách tuyệt vọng. Rồi bỗng dưng th.ân thể của ngài lăn mạnh, khiến cho sợi xích trơn tuột vuột ra khỏi tay Langdon. Như một tảng đá nặng, Hồng y Baggia rơi xuống nước, rồi chìm nghỉm dưới làn nước ngầu bọt.
Langdon lặn xuống, căng mắt ra để nhìn xuyên làn nước tối âm u. Anh tìm được đức Hồng y Giáo chủ. Nhưng lần này, khi Langdon chạm tay vào, sợi xích ngang ngực nạn nhân bị kéo lệch đi để lộ ra thêm một vết thương đau đớn trên cơ thể nạn nhân… một dấu sắt nung làm cháy sém d.a thịt.

Trong giây lát, hai chiếc giày hiện ra trong tầm mắt Langdon. Một chiếc đỏ lòm những máu.
 
Là vận động viên môn bóng Polo nước, Robert Langdon đã từng chịu rất nhiều đòn chơi xấu ngầm dưới mặt nước. Trong lòng nước, nơi mà trọng tài không thể trông thấy, cuộc ganh đua có thể trở nên quyết liệt và bạo lực chẳng kém gì một trận đấu vật. Langdon bị đá, bị cào, bị ghì chặt, thậm chí có lần còn bị một cầu thủ hậu vệ phát khùng cắn cho đau điếng vì anh ta không thể túm được anh.
Tuy nhiên, Langdon biết những trận đấu Polo ở trường Harward còn lâu mới bì được với những gì đang xảy ra trong bồn nước buốt giá lúc này. Anh đang phải tranh đấu, không phải để giải trí, mà để bảo vệ mạng sống của mình. Đây là lần thứ hai anh phải đối chọi với hắn. Ở đây không có trọng tài, cũng chẳng có hiệp đấu thứ hai. Hai bàn tay của hắn đang ghì chặt đầu anh và dúi xuống nước thật mạnh, chắc chắn là với mục đích giết người.
Theo bản năng, Langdon xoay người như một quả ngư lôi. Phải bẻ gãy gọng kìm này ! Nhưng hai bàn tay cứng ngắc xoay anh lại.
Kẻ đang tấn công Langdon có một lợi thế mà không một cầu thủ Polo nào có được - hai bàn chân vững chãi trên nền bồn nước.
Langdon vùng vẫy, cố chạm chân xuống đáy bồn. Dường như kẻ giết người này chỉ thích dùng một tay… nhưng bàn tay hắn cứng kinh khủng.
Lúc này, Langdon hiểu ra rằng anh sẽ không có cách gì để ngoi lên được. Thế là anh làm điều duy nhất có thể nghĩ ra được trong tình huống này. Anh không tìm cách ngoi lên nữa. Nếu không đi được về hướng Bắc thì hãy chuyển sang hướng Đông. Thu hết sức lực còn lại trong cơ bắp, Langdon co hai chân đạp thật mạnh rồi vươn hai tay xuống dưới, kiểu như một người đang tập bơi bướm. th.ân thể anh trôi về phía trước.
Sự chuyển hướng đột ngột của Langdon khiến tên sát thủ bị bất ngờ. Hai tay hắn chới với, hai chân lảo đảo. Bàn tay túm cổ ánh hơi lơi ra, Langdon đạp mạnh một cú nữa. Cảm giác như sợi dây néo của con thuyền đột ngột đứt phăng ra, Langdon được tự do.
Nhả hết khí thải trong phổi ra, Langdon ngoi lên mặt nước. Anh chỉ hít được một hơi duy nhất. Tên sát thủ này rất khỏe, và hắn lại đã đứng sát bên cạnh, hai tay chộp lấy vai Langdon, rồi dồn hết sức lực dúi anh xuống một lần nữa. Hai chân Langdon chới với tìm điểm tì, nhưng hắn choãi chân ra, đẩy mạnh anh xuống.
Langdon lại bị chìm dưới nước một lần nữa.
Cơ bắp đau nhức, nhưng anh vẫn quẫy thật mạnh. Lần này chẳng có tác dụng gì. Anh nhìn xuống đáy nước, cố tìm khẩu súng.
Tất cả đều mờ mịt. Nước ngầu bọt. Một luồng sáng chói loà chiếu thẳng vào mắt Langdon khi hắn dúi anh xuống sâu, thẳng xuống một bóng đèn điện chìm dưới đáy đài phun nước. Langdon với tay túm lấy hộp đèn. Nóng rẫy. Anh bám chặt, cố thoát khỏi tay tên sát thủ, nhưng cái hộp được gắn bản lề, nó xoay một vòng trong tay anh. Lập tức Langdon bị mất đà.
Kẻ giết người lại dúi anh xuống sâu thêm.
Đúng lúc này, Langdon trông thấy một vật hình trụ nhỏ, màu đen nhô lên giữa lớp tiền xu phủ kín đáy đài phun, ngay trước mắt anh. Bộ phận giảm thanh trên khẩu súng của Olivetti!
Langdon với tay ra, nhưng khi chạm tay vào, Langdon nhận ra nó không phải bằng kim loại, mà chỉ là đồ nhựa. Lúc anh rút lên, cái ống nhựa mỏng bập bềnh như một cỏn rắn nhỏ. Cái ống này dài hơn nữa mét, một đầu có gắn ống tạo bọt. Thứ anh vừa tìm được không phải là khẩu súng, mà chỉ là một cái ống tạo bọt vô hại… một trong vô số ống tương tự ở đài phun nước này.
Cách đó chỉ mấy thước, Hồng y Baggia cảm thấy linh hồn mình sắp rời khỏi thể xác. Dù cả đời đã chuẩn bị tinh thần cho giờ phút này, vị thầy tu già vẫn không ngờ kết cục lại thế này.
Phắn xác thịt của ngài đang đau đớn… bị nướng bằng sắt nung, bị bầm dập, và bị vật nặng kéo xuống đáy nước. Hồng y tự nhắc nhở bản thân rằng thế này vẫn chưa thấm tháp gì so với những khổ ải mà Giê-su đã phải chịu đựng.
Người đã hi sinh thân mình để chuộc lỗi cho chúng con …
Hồng y Baggia nghe rõ tiếng hai người vật lộn ngay sát bên ngài. Tên giết người này sắp sát hại thêm một người nữa… một người có đôi mắt hiền từ, người đã tìm cách cứu giúp ngài.
Cơn đau trở nên dữ dội hơn, Hồng y Baggia nằm ngửa ra, nhìn xuyên qua làn nước, trông lên bầu trời đen kịt trên cao. Trong thoáng chốc, vị Hồng y già tưởng như vừa trông thấy những vì sao.
Đã đến lúc rồi.
Bỏ qua tất thảy mọi sợ hãi và lo lắng, vị Hồng y Giáo chủ mở miệng, thở ra, ngài biết đây là hơi thở cuối cùng. Ngài nhìn linh hồn theo những bọt nước nổi dần lên. Rồi như một phản xạ tự nhiên, ngài ngáp. Nước ộc vào hai lá phổi, như những mũi dao găm. Cảm giác đau dớn chỉ kéo dài trong giây lát.
Sau đó là… sự bình an.
Mặc cho bàn chân đau như xé, tên sát thủ ra sức dìm người đàn ông Mỹ xuống dưới nước. Làm cho xong mọi chuyện . Hắn siết chặt bàn tay, biết chắc lần này thì Langdon không thể thoát chết. Đúng như hắn dự đoán, nạn nhân quẫy đạp mỗi lúc một yếu đi.
Đột nhiên toàn thân Langdon gồng cứng lên, rồi co giật dữ dội.
Hay lắm , tên sát thủ thầm nghĩ. Hắn giãy chết. Nước bắt đầu chảy vào phổi . Hắn biết cơn giãy chết sẽ kéo dài khoảng 5 giây.
6 giây sau Langdon mới thôi co giật.
Sau đó, đúng như dự đoán của tên sát thủ, toàn thân nạn nhân mềm nhũn ra. Như một quả bóng bị xì hơi, Langdon rũ ra. Thế là hết. Tên sát thủ tiếp tục dìm anh xuống thêm 30 giây nữa, để cho nước vào đầy hai lá phổi. Rồi hắn từ từ thả tay, để cho thi thể nạn nhân chìm dần xuống đáy. Cuối cùng hắn buông hẳn tay ra. Cánh nhà báo sẽ tha hồ mà kinh ngạc khi kéo đến Đài phun nước Bốn dòng sông.
- Tabban !(1)
Kẻ sát nhân chửi thế, loạng choạng ra khỏi bồn nước, rồi nhìn bàn chân bê bết máu. Mũi giày của hắn nát bét và đầu ngón chân cái đã bị bắn văng mất. Cáu tiết vì sự bất cẩn của bản thân, hắn xé ống quần, nhồi mảnh vải vào mũi giày. Cơn đau buốt lên tận cẳng chân Hắn nghiến răng nhét mảnh vải vào sâu thêm nữa. Máu chảy chậm dần, cuối cùng chỉ còn nhỏ giọt.
Quên cả đau đớn, tên sát thủ nghĩ tới chuyện hưởng thụ, và leo lên cabin xe. Nhiệm vụ của hắn ở Rome thế là đã hoàn tất.
Hắn biết rõ phải làm gì để xoa dịu vết đau ở chân. Vittoria Vetra, bị trói chặt, đang đợi hắn. Dù đang bị ướt sũng và lạnh cóng, tên sát thủ cảm thấy cơ thể hắn lập tức cương cứng lên.
Ta đã giành được một chiên lợi phẩm .
***
Ở đầu bên kia thành Rome, Vittoria tỉnh dậy, đau nhức khắp toàn thân. Toàn bộ cơ bắp nặng như chì. Cứng ngắc. Căng dừ. Hai cánh tay đau dữ đội. Khi cố gắng cử động, cô gái thấy vai nhức buốt. Một lúc sau Vittoria mới biết mình đã bị trói trật cánh khuỷu về phía sau. Cô gái cảm thấy bối rối. Mình đang ngủ mơ hay sao ? Nhưng khi bắt đầu ngẩng đầu lên, cảm giác đau buốt ở gáy nhắc nhở rằng cô đang tỉnh.
Từ bối rối chuyển sang sợ hãi, cô gái đưa mắt quan sát xung quanh. Vittoria đang ở trong một căn phòng xây bằng đá rộng rãi, có nhiều đồ đạc sang trọng, được thắp sáng bằng đuốc. Một kiểu phòng họp cổ xưa. Ngay gần đó là những chiếc ghế bành kiểu cổ xếp quây thành một vòng tròn.
Lúc này Vittoria mới nhận thấy một làn gió lạnh buốt đang thổi vào người ngay gạn chỗ cô nằm là một cánh cửa đôi mở rộng, trông ra ban công. Qua khe hở giữa các thanh lan can, Vittoria trông thấy Vatican.

Chú thích:
(1) Tabban: Câu chửi thề.
Robert Langdon nằm trên đống tiền xu phủ kín đáy bồn của Đài phun nước Bốn dòng sông . Miệng anh vẫn ngậm chật cái ống nhựa mỏng. Sau khi được bơm qua cái ống nhỏ này, luồng không khí vào đến phổi Langdon không còn tinh khiết nữa, khiến cố họng anh đau rát. Nhưng Langdon không mấy bận tâm. Anh đã giữ được mạng sống.
Langdon không dám chắc là màn đóng giả người chết đuối vừa rồi có giống thật lắm không, vốn ưa bơi lội, anh đã nghe kể rất nhiều chuyện. Langdon đã cố hết sức. Gần đến lúc cuối, anh còn thở hết không khí trong phổi ra và ngừng thở để cho toàn thân chìm dần xuống.
May mắn là hắn đã bị mắc lừa và buông tay ra.
Lúc này, nằm nghỉ xả hơi dưới đáy nước, Langdon cố đợi thật lâu Anh sắp sửa ngạt thở đến nơi. Không biết hung thủ có còn ở đó không, anh hít thêm một hơi thở nữa, thứ không khí đã trở thành cay xè sau khi chảy qua cái ống. Langdon vứt bỏ cái ống, anh bơi vào giữa đài phun nước, và dừng lại khi tìm thấy một chỗ đáy bồn dốc lên, sát tảng núi đá nhỏ ở chính giữa. Anh khẽ khàng trồi lên mặt nước, ở một góc khuất sau những hình khối trang trí được đẽo trên đá cẩm thạch.
Chiếc xe đã đi khỏi.
Langdon chỉ chờ có thế. Hít không khí tinh khiết vào đầy hai lá phổi, anh bơi lại chỗ Hồng y Baggia. Anh biết rằng lúc này thì chắc chắn vị thầy tu già đã bất tỉnh rồi, và cơ hội sống sót là rất mỏng manh, nhưng vẫn cần phải cố gắng hết sức. Khi tìm thấy nạn nhân, anh choãi rộng hai chân, khom lưng xuống, tay túm sợi xích sắt quấn quanh th.ân thể Hồng y. Rồi anh kéo mạnh lên. Đưa được vị thầy tu ra khỏi lòng nước, Langdon thấy hai mắt nạn nhân đã lồi ra và trợn ngược lên. Không phải là điềm lành. Không thấy có hơi thở, mạch cũng đã dừng.
Biết không thể nào nhấc được nạn nhân qua thành bồn nước, Langdon kéo vị thầy tu đến một chỗ nước nông gần trung tâm đài phun. Ở chỗ này đáy bồn hơi dốc lên, khá nông. Langdon ráng sức kéo th.ân thể Hồng y Baggia lên cao. Nhưng chẳng được bao xa.
Rồi anh bắt đầu hành động. Ấn mạnh ngực Hồng y đang bị quấn đầy xích, anh đẩy cho nước trong hai lá phổi chảy hết ra ngoài, rồi bắt đầu làm động tác hô hấp nhân tạo. Cẩn thận, từ tốn, từng thao tác một, cố không hà hơi nhanh và mạnh quá. Trong vòng 3 phút, Langdon làm tất cả để cấp cứu cho vị thầy tu già. Sau 5 phút, anh đành chấp nhận sự thật, không còn cơ hội nữa.
Người được ân sủng. Người đáng ra đã trở thành Giáo hoàng, giờ đã chết, ngay trước mắt Langdon.
Tuy nhiên, ngay cả vào giờ phút này, dù nằm sõng soài trên nền đài phun mờ tối, nước ngập ngang người, Hồng y Baggia vẫn toát ra một thứ uy lực nào đó. Nước vỗ nhè nhẹ lên ngực ngài, như thể muốn bày tỏ sự ân hận… như thể cầu xin được tha thứ vì đã huỷ hoại tấm thân của ngài… như thể muốn rửa sạch vết thương trên lồng ngực bị đóng dấu sắt nung…
Langdon vuốt nhẹ nhàng để đôi mắt của ngài khép lại. Đúng khoảnh khắc ấy anh thấy hai mắt mình nhoà lệ. Langdon ngạc nhiên. Rồi anh khóc, đã bao nhiêu năm nay anh chưa cảm thấy xúc động đến thế này.
Cơn xúc động dần qua đi, Langdon chậm chạp lội trở lại chỗ nước sâu, để thi thể của Hồng y Baggia nằm lại giữa đài nước.
Kiệt sức, cô độc, Langdon tưởng mình sắp đổ sụp. Thế mà một luồng năng lượng mới đã lại dâng lên trong anh. Mạnh mẽ. Không thể nào cưỡng lại nổi. Langdon thấy toàn bộ cơ bắp của anh chợt căng ra. Bất chấp cảm giác đau đớn trong lòng, tâm trí anh cũng đồng thời gạt quá khứ sang một bên, tập trung toàn bộ tinh lực vào một mục đích trước mắt.
Tìm điểm tụ họp của hội Illuminati. Cứu Vittoria .
Lại tập trung chú ý vào hòn núi nhỏ của Bernini giữa đài phun nước, Langdon thấy hi vọng lại nhen lên trong lòng. Anh bắt đầu tìm kiếm dấu hiệu chỉ đường cuối cùng của hội Illuminati. Đầu mối dẫn đến điểm tụ họp của họ nằm đâu đó trên tảng đá sần sùi này. Tuy nhiên, quan sát toàn bộ đài phun nước, tia hi vọng trong lòng anh nhanh chóng biến mất. Hai chữ đầu mối cử vang lên trong tâm trí như muốn trêu ngươi. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Langdon quan sát kỹ những hình trang trí khắc trên đá. Đài phun nước này hoàn toàn mang tính chất ngoại đạo! Chẳng thấy thiên thần nào cả!
Quan sát phần trung tâm đài phun xong, Langdon ngước mắt nhìn lên toà Kim tự tháp bằng đá nguyên khối cao ngất. Bốn đầu mối trải khắp thành Rome , anh thầm nghĩ, tạo thành một hình chữ thập khổng lồ .
Tiếp tục quan sát những hoạ tiết trang trí trên đài phun nước, Langdon nghĩ đến khả năng đầu mối anh cần tìm được thể hiện bằng các ký tự Ai Cập. Nhưng ngay lập tức, Langdon từ bỏ giả thuyết này vì lối viết tượng hình đó ra đời trước thời đại của Bernini những mấy thế kỷ, và mãi đến khi tìm được tảng đá Rosetta người ta mới phát hiện ra cách đọc loại chữ này. Langdon tiếp tục phỏng đoán. Biết đâu Bernini đã khắc thêm một ký hiệu nào đó lên hòn núi nhỏ này? Biết đâu ký tự đó nằm lẫn giữa những hoa văn trang trí dày đặc ở đây?
Cảm thấy có chút hi vọng, Langdon đi vòng quanh đài phun thêm một lần nữa, xem kỹ cả bốn mặt của Kim tự tháp. Mất 2 phút tất cả, và sau khi xem xong mặt cuối cùng cửa Kim tự tháp bằng đá, hi vọng lại tiêu tan. Không thấy có bất kỳ ký tự tượng hình nào cả. Còn thiên thần thì lại càng không thấy đâu.
Langdon xem đồng hồ. 11 giờ đúng. Chẳng biết thời gian đang trôi nhanh hay chậm nữa. Chân Langdon vẫn bước quanh đài phun nước, trong khi hình ảnh Vittoria và tên sát thủ cứ xoay đảo trong đầu. Cảm giác bực bội lại càng tăng thêm khi anh đi hết vòng thứ ba quanh đài phun mà vẫn chẳng tìm thấy gì. Kiệt quệ, thất thểu, Langdon như muốn đố sụp xuống. Anh ngửa cổ, mặt hướng lên trời cao và hét thật to.
Nhưng tiếng thét lập tức ngưng bặt trong cổ họng. Trên đỉnh Kim tự tháp có một thứ, lúc đầu anh đã trông thấy nó, nhưng rồi quên luôn. Đúng lúc này, nó lại bất ngờ hiện ra trước mắt.
Không phải là thiên thần. Một thứ hoàn toàn khác. Thậm chí lúc đầu anh còn tưởng đó không phải là một phần của công trình này. Anh cứ tưởng nó là một sinh vật sống, tường rằng một trong những con chim cô độc của thành phố đang đậu trên đó.
Một con chim cu .
Langdon nheo mắt nhìn lên, làn bụi nước dày quanh đài phun chặn tầm mắt. Có phải chim cu không nhỉ? Anh nhìn thấy rõ cái mỏ và cái đầu hiện lên giữa nền trời sao. Từ nãy đến giờ chú chim này không hề nhúc nhích, thậm chí cả lúc hai người vật lộn với nhau dưới nước. Lúc này con chim vẫn đậu nguyên đó, y như lúc anh mới đặt chân đến đây. Nó đậu trên đỉnh Kim tự tháp, bình thản nhìn về hướng Tây.
Langdon chăm chú nhìn con chim cu một hồi, rồi anh vục tay xuống nước, nhặt một nắm tiền xu, tung lên cao. Những đồng xu bay đến tận gần đỉnh Kim tự tháp. Con chim không nhúc nhích.
Langdon lại một lần nữa ném tiền xu lên. Lần này thì một đồng xu bay trúng đích. Có tiếng kim loại va vào kim loại.
Con chim cu quái quỷ này được làm bằng đồng.
Mình đang tìm thiên thần chứ có tìm chim cu đâu , Langdon nghe có lời nhắc nhở vang lên trong tâm trí. Nhưng đã quá muộn. Langdon vừa kịp nhớ ra. Anh nhận ra rằng đó không phải là chim cu.
Đó là một chú bồ câu.
Không chút do dự, Langdon lội ngay vào giữa bồn nước, rồi trèo lên hòn núi bằng đá hoa cương. Anh sải tay thật dài, đu người lên nhanh thoăn thoắt. Lên đến lưng chừng, vượt qua được đám bụi nước và bắt đầu nhìn rõ chú chim đậu trên đỉnh.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Chim bồ câu. Màu sẫm của chú chim này chẳng qua là do lớp gỉ đồng bám bên ngoài. Rồi ý nghĩa tượng trưng của biểu tượng hiện ra trong đầu Langdon. Chiều nay anh đã trông thấy hai chú chim câu trong điện Pantheon. Một đôi thì không mang ý nghĩa biểu tượng nào. Nhưng chú chim này thì đứng một mình.
Con chim bồ câu đơn độc là vật tượng trưng cho Thần Hoà bình.
Dường như phát hiện này đã đang tay nâng Langdon lên đến tận Kim tự tháp trên đỉnh ngọn núi đá hoa cương. Bernini đã chọn một biểu tượng ngoại đạo cho hình ảnh thiên thần để có thể đặt nó lên trên một cái đài phun nước đầy những hoạ tiết trang trí ngoại đạo. Thiên thầm dẫn lối trên hành trình cao cả. Chú chim câu này chính là thiên thần ! Chú đậu trên đỉnh Kim tự tháp cao chót vót, quả là không thể tìm được vị trí nào lý tưởng hơn thế.
Chú chim câu đang nhìn về hướng Tây. Langdon cũng quay nhìn theo hướng đó, nhưng bị các toà nhà cao tầng chắn mất tầm mắt. Anh leo lên cao hơn nữa. Một câu trích dẫn trong cuốn St. Gresory của Nyssa bỗng lóe lên trong óc Langdon. Khi một linh hồn được khai sáng… nó bắt đầu mang dáng dấp của chú chim câu xinh xắn.
Langdon leo thẳng. lên, nhìn theo hướng chú chim câu. Lúc này anh gần như đang bay. Lên đến đỉnh núi, tức là chân Kim tự tháp, anh dừng lại. Nhìn quanh một lượt, Langdon biết không cần thiết phải leo cao nữa làm gì. Toàn cảnh thành Rome đã hiện ra trong tầm mắt. Một quang cảnh thật kỳ vĩ.
Bên trái là những luồng sáng phát ra từ ánh đèn máy quay của cánh nhà báo đang tập trung ở quảng trường St. Peter. Bên phải là mái vòm cuồn cuộn khói của thánh đường Santa Maria Della Vittoria. Xa xa phía trước là quảng trường Del Popolo. Ngay dưới chân anh là điểm thứ tư và cũng là điểm cuối cùng. Một cây thánh giá khổng lồ được đánh dấu bằng những Kim tự tháp đá.
Langdon run run ngước lên nhìn chú chim bồ câu. Anh quay mặt về đúng hướng ấy, rồi dõi mắt ra xa.
Và anh trông thấy ngay lập túc.
Quá rõ ràng. Quá hiển nhiên. Vô cùng đơn giản.
Trợn tròn mắt, Langdon không thể tin rằng điểm gặp gỡ của hội Illuminati có thể bí mật được lâu đến vậy. Cảnh toàn thành phố như nhoà đi khi Langdon tập trung quan sát toà lâu đài xây bằng đá khổng lồ ngay bên kia sông. Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất thành Rome, toạ lạc ngay bên bờ sông Tiber, chéo góc với Vatican.
Hình khối của nó khá đơn giản - một toà lâu đài được thiết kế theo hình tròn, nằm lọt trong một pháo đài hình vuông, và một công viên hình ngôi sao năm cánh bao bọc cả lâu đài lẫn pháo đài.
Pháo đài cổ bằng đá này được chiếu sáng bằng các ngọn đèn đặt dưới chân tường. Trên đỉnh lâu đài là tượng một thiên thần cực lớn bằng đồng đỏ. Trong tay thiên thần là thanh kiếm chỉ thẳng xuống chính giữa lâu đài. Chưa hết, còn có cây cầu Thiên thần nổi tiếng dẫn tới cổng vào… cổng này được trang hoàng bởi 12 tượng thiên thần do chính tay Bernini tạc.
Thêm một chi tiết kỳ diệu nữa: Langdon nhận thấy hình chữ thập khổng lồ đánh dấu bằng Kim tự tháp của Bernini in đậm dấu ấn của hội Illuminati; tâm của hình chữ thập nằm đúng vào tâm điểm của cây cầu dẫn vào toà lâu đài chia cây cầu thành hai nửa bằng nhau.
Langdon nhặt áo khoác lên, cẩn thận giơ áo ra xa để khỏi chạm vào thân thề ướt sũng nước của mình. Sau đó anh nhảy vào chiếc xe tô vừa cướp được, dận mạnh cần số, lao vụt đi.
 
11 giờ ? phút.
Chiếc xe của Langdon lao vun vút trong bóng đêm. Chạy dọc con đường song song với bờ sông mang tên Tor Di Nona , Langdon bắt đầu trông thấy cái đích anh đang nhắm đến nhô lên cao vút như một dãy núi, ngay bên tay phải.
Castel Sant Angelo(1) . Lâu đài của Thiên thần.
Bất thình lình, anh thấy hiện ra trước mắt con đường nhỏ dẫn vào cầu Thiên thần - Ponte Sant Angelo. Dận mạnh cần phanh, Langdon cho xe rẽ ngoặt sang. Xe của anh ngoặt vừa kịp lúc, nhưng lối lên cầu đã bị cản lại. Chiếc xe trượt lên thêm khoảng 3 mét nữa, va mạnh vào dãy cột xi măng trước mắt. Rồi chiếc xe hộc lên, máy chết, Langdon bị xô hắn về đằng trước. Anh đã quên mất rằng nhằm mục đích bảo tồn, cầu Thiên thần giờ đã được biến thành khu vực dành cho người đi bộ.
Run lẩy bẩy, bước ra khỏi chiếc xe bẹp dúm, Langdon thầm ước giá như lúc nãy anh chọn lối đi khác. Bị ướt sũng từ khi rời khỏi đài phun nước, Langdon lạnh run lên. Anh khoác áo choàng ra ngoài chiếc sơ-mi sũng nước, thầm ơn chúa vì đã chọn mua loại áo Harris hai lớp lót này. Trang sách Diagramma sẽ không bị ướt. Bên kia cầu, pháo dài bằng đá: hiện ra trước mắt anh như một chỏm núi. Kiệt sức, đau đớn, Langdon lê chân chạy.
Hai bên đường hiện ra hai hàng tượng thiên thần, như một đoàn hộ tống, đang chào đón anh đến đích cuối cùng. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả . Càng đến gần, anh càng thấy đỉnh tháp của pháo đài cao thêm mãi, thậm chí còn gây ấn tượng hơn cả quảng trường St. Peter. Vừa thở hổn hển, anh vừa chạy nhanh về hướng ấy, mắt ngước lên nhìn mái vòm hình tròn của toà lâu đài nhô cao, trên đỉnh của nó là một bức tượng thiên thần khổng lồ tay cầm kiếm.
Toà lâu đài vắng tanh.
Langdon biết rằng suốt bao thế kỷ qua, Vatican đã dùng địa điểm này như một khu lăng mộ, pháo đài, nơi nghỉ dưỡng của Giáo hoàng, nhà tù để giam cầm những kẻ tà đạo; và làm viện bảo tàng. Dĩ nhiên là trong toà lâu đài này còn có thêm một nhóm người nữa - hội Illuminati. Quả là kỳ lạ. Dù toà lâu đài này thuộc sở hữu của toà thánh, nhưng nó chẳng mấy khi được dùng đến, và trong quãng thời gian của mình, Bernini đã nhiều lần bỏ công tôn tạo công trình này. Ngày nay, người ta vẫn đồn rằng trong toà nhà này chằng chịt những lối đi ngầm, cùng vô số các căn phòng và cửa ra vào bí mật. Chắc chắn những pho tượng thiên thần và công viên hình ngôi sao năm cánh bao quanh nơi này cũng là tác phẩm của Bernini.
Đến bên cánh cửa đôi đồ sộ, Langdon xô thật mạnh. Đúng như anh dự đoán, cửa không hề nhúc nhích. Treo ngang tầm mắt là hai cái búa gõ cửa bằng sắt, nhưng anh chẳng buồn bận tâm đến chúng. Langdon lùi lại một bước, ngửa cổ lên và quan sát bức tường cao ngất bao quanh lâu đài. Những bức tường kiên cố này đã chặn bước biết bao toán cướp, bao đội quân người Moor và người Berber. Chuyện đột nhập vào bên trong có vẻ không khả thi chút nào.
Vittoria , Langdon thầm nghĩ. Em có ở trong đó không ?
Langdon vội chạy quanh bức tường ngoài. Chắc phải có một lối vào khác?
Anh chạy về hướng Tây, và đến mảng tường thứ hai thì trông thấy bãi đỗ xe Lungoteve Castello. Có một lối vào nữa, nhưng nó là một cây cầu kéo bắc qua hào nước, lúc này đã bị kéo dựng hẳn lên bên bức tường bao cài khoá kỹ càng. Lại một lần nữa, Langdon ngước mắt nhìn lên cao.
Những bóng đèn duy nhất chiếu sáng cho toà lâu đài này được bố trí dưới chân mặt tiền, hắt ánh sáng lên cao. Tất cả các khung cửa sồ đều tối đen. Langdon ngước nhìn lên cao hơn nữa. Có một cái ban công chìa ra sát trên đỉnh toà tháp trung tâm, cách mặt đất khoảng 30 mét, thẳng dưới mũi kiếm của thiên thần. Hàng cột đá cẩm thạch ngoài lan can sáng mờ mờ, hình như có ánh đuốc.
Langdon dừng lại, toàn thân anh chợt run lên. Có phải là một bóng đen trên kia không nhỉ? Anh căng mắt ra để nhìn, vô cùng căng thẳng. Rồi bóng đen ấy hiện ra thêm một lần nữa. Langdon thấy lạnh sống lưng. Trên kia có người!
Không thể kìm lòng Langdon gọi lớn:
- Vittoria!
Nhưng dòng sông Tiber đang ào ạt chảy át mất tiếng gọi của anh. Langdon nhìn khắp xung quanh, băn khoăn không hiểu đội lính gác Thuỵ Sĩ đã biến mất đằng nào. Không hiểu họ đã nhận được tin nhắn của anh chưa?
Ở phía bên kia bãi đỗ xe, anh thấy có một chiếc xe hòm của báo chí. Langdon chạy tới đó. Trong ca-bin có một anh chàng bụng phệ, tai đeo ống nghe, tay đang điều chỉnh mấy cái cần.
Langdon đập thình thình vào cửa, khiến cho anh chàng giật nảy mình, ngẩng lên nhìn. Trông thấy bộ quần áo ướt rượt đang rỏ nước tong tong trên người Langdon, anh ta gạt ống nghe khỏi tai.
- Có chuyện gì thế anh bạn? - Anh ta nói giọng Úc.
- Cho tôi mượn điện thoại! - Langdon vội cuống cuồng.
Anh ta nhún vai:
- Không có tín hiệu đâu. Tôi cố gọi suốt từ tối có được đâu. Tất cả các đường dây đều bận.
Langdon chửi thề. Rồi anh đưa tay chỉ cây cầu:
- Anh có thấy ai vào kia không?
- Có đấy. Tôi thấy một chiếc xe hòm màu đen đi ra đi vào mấy lần rồi.
Ruột gan Langdon như lửa đốt.
- Thằng cha may mắn thật. - Anh chàng người Úc vừa bình phẩm vừa ngước lên nhìn toà tháp, rồi lại nhăn nhó nhìn vào màn hình máy quay trước mặt mình. - Đứng trên đó mà quay thì chắc chắn là được hình đẹp rồi. Quảng trường St. Peter đông quá nên tôi phải ra tận đây để bấm máy.
Langdon chẳng để tâm đến những lời kể lể ấy. Anh đang cân nhắc tìm giải pháp.
- Anh nghĩ thế nào? - Anh chàng người Úc hỏi. - Nhân vật từ tâm lúc 11 giờ khuya ấy.
Langdon quay lại:
- Cái gì cơ?
- Anh không biết à? Đội trưởng đội lính gác Thuỵ Sĩ nhận được một cú điện thoại. Có một người tuyên bố rằng anh ta có thông tin và sẽ bay đến Vatican ngay lập tức. Tôi chỉ biết là nếu ông ta cứu vãn được tình thế thì quả là… không thể mong gì hơn thế.
Anh ta cười.
Langdon chẳng hiểu gì. Một người hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ ư? Liệu người đó có biết hộp phản vật chất đang nằm ở chỗ nào không? Nếu biết thì sao không thông báo luôn cho đội lính gác Thuỵ Sĩ? Tại sao lại phải đích thân đến tận nơi? Nghe có vẻ rất kỳ quặc, nhưng Langdon không có thời gian để nghĩ đến chuyện này.
- Này ông bạn. - Anh chàng người Úc đột nhiên nhìn Langdon chằm chằm. - Có phải chính anh là người đã xuất hiện trên ti-vi không đấy? Có phải anh đã cấp cứu cho vị Hồng y ở quảng trường St. Peter không hả?
Langdon không trả lời. Đột nhiên anh trông thấy bộ phận máy lắp thêm vào trên nóc chiếc xe thùng - chảo thu tín hiệu về tinh gắn trên một cái cần đỡ có thể gấp lại. Langdon lại quay sang nhìn toà lâu đài. Bức tường bao bên ngoài cao những 15 mét. Và tháp pháo đài trong kia còn vươn cao hơn nữa. Một địa điểm cố thủ lý tưởng. Đứng từ đây mà nhìn thì thấy nó cao quá chừng, nhưng nếu như có thể vượt qua được bức tường này thì…
Langdon quay phắt lại hỏi anh chàng phóng viên:
- Cái cần đỡ này vươn cao được bao nhiêu mét?
- Hả? - Anh ta có vẻ bị bất ngờ. - 15 mét. Để làm gì?
- Cho xe xích lên đi. Đỗ cạnh tường ấy. Giúp tôi một tay.
- Anh bảo cái gì cơ?
Langdon giải thích ý định của mình.
Anh chàng người Úc trợn tròn mắt:
- Anh có điên không đấy? Cái máy quay tê-lê này trị giá những 200 ngàn đô la cơ đấy. Không phải thang để trèo đâu!
- Anh có muốn nổi tiếng không? Tôi có một thông tin sẽ khiến anh danh nổi như cồn ngay lập tức. - Langdon đã bắt đầu thấy tuyệt vọng.
- Thông tin ấy có bõ 200 ngàn đô la của tôi không?
Langdon nói cho anh ta biết thứ thông tin mà anh ta sẽ có được.
90 giây sau, nước từ người Langdon đã nhỏ tong tong lên cái cần đỡ đắt tiền đang lắc lư trọng gió cạnh bức tường cao ngất.
Nhoài người ra, anh túm lấy gờ bức tường bao quanh pháo đài, rồi đu người lên, sau đó nhảy sang pháo đài.
- Bây giờ thì thực hiện lời hứa của anh đi. - Anh chàng phóng viên người Úc gọi to. - Ông ấy ở đâu?
Langdon cảm thấy hơi tội lỗi vì phải tiết lộ thông tin này, nhưng thoả thuận là thoả thuận. Mà biết đâu tên sát thủ cũng đã báo cho cánh nhà báo rồi cũng nên.
- Quảng trường Navona. - Langdon hét to. - Trong đài phun nước ấy.
Anh chàng phóng viên hạ cần đỡ chảo thu tín hiệu vệ tinh xuống, rồi cho xe lao vút đi. Đây sẽ là bản tin sốt dẻo để đời trong sự nghiệp của anh ta.
Trên cao, trong căn phòng lát đá, tên sát thủ tháo bỏ đôi giày sũng nước và băng chặt ngón chân bị thương lại. Đau, nhưng không đến nỗi không thể tận hưởng chiến lợi phẩm hắn đang có trong tay.
Hắn quay lại bên con mồi của mình.
Cô gái đang nằm ngửa trên đi-văng, hai tay bị trói quặt ra sau, mồm bị nhét giẻ. Tên sát thủ tiến lại gần. Lúc này con mồi của hắn đã tỉnh lại. Điều này khiến hắn hài lòng. Nhưng thật ngạc nhiên, trong mắt cô gái ta ngọn lửa căm hờn, thay vì vẻ sợ hãi.
Rồi cô em sẽ biết sợ ngay thôi .

Chú thích:
(1) Castel Sant Angelo: Lâu đài St. Angelo.
 
Langdon chạy như bay quanh bức tường bao, thật may là người ta đã cho lắp những ngọn đèn chiếu sáng đặt dưới chân tường.
Anh thấy khoảng sân bên trong bức tường bao này giống hệt như một viện bảo tàng về các cuộc chiến thời xưa - nào súng cao su, đạn súng thần công, và la liệt những cỗ máy trông hết sức kỳ dị.
Một phần toà lâu đài được mở cửa cho khách du lịch vào tham quan, và chắc hẳn người ta đã cho phục chế lại khu này.
Langdon đưa mắt nhìn qua bên kia khoảng sân rộng, anh quan sát phần trung tâm. Pháo đài hình tròn này cao khoảng 35 mét, hướng thẳng lên pho tượng thiên thần trên đỉnh. Ban công trên cùng vẫn có ánh sáng từ trong hắt ra. Langdon chỉ muốn gọi to, nhưng anh biết đó là điều không nên làm. Giờ cần phải tìm dường vào trong đã.
Langdon giơ tay xem đồng hồ:
11 giờ 12 phút.
Chạy xồng xộc xuống những bậc đá sát bên trong bức tường, Langdon ra giữa khoảng sân rộng. Xuống đến mặt đất, anh chạy xuôi chiều kim đồng hồ quanh pháo đài, thấy có ba cái cổng, nhưng tất cả đều bị khoá chặt. Tên sát thủ làm thế nào ma vào được nhỉ? Langdon tiếp tục chạy. Anh trông thấy thêm hai cái cổng mới xây, nhưng cả hai đều bị khoá bên ngoài. Không phải lối này . Langdon lại chạy tiếp.
Chạy gần hết một vòng khép kín quanh pháo đài thì Langdon trông thấy một lối đi cắt ngang qua khoảng sân rộng trước mặt. Cuối lối đi này là một cái cầu kéo dẫn vào trong. Đầu kia của con đường biến mất sau cửa pháo đài. Hình như lối đi này dẫn vào một đường hầm nào đó - một đường hầm dẫn vào tận trung tâm pháo đài. Đây rồi. Langdon đã từng đọc về lối đi hình xoắn ốc hướng lên trên, nó cho phép các vị tướng lĩnh cùng với ngựa chiến của họ có thể phi từ dưới đất lên đến tầng cao nhất một cách nhanh chóng. Kẻ giết người đã đánh xe lên đây ! Cánh cổng dẫn vào lối đi ngầm này bỏ ngỏ, Langdon vào trong và hồ hởi chạy thẳng tới đầu đường hầm. Nhưng đến nơi, sự hào hùng trong lòng anh lập tức tan biến.
Con đường này dẫn xuống dưới .
Nhầm đường rồi. Chắc chắn đây là lối đi xuống khu nhà ngục, không phải lối lên trên.
Anh đang đứng trước miệng hầm tối om, đường hầm này có vẻ khá quanh co ngoắt ngoéo. Lưỡng lự, Langdon ngước lên nhìn bàn công trên cao một lần nữa. Rõ ràng anh nhìn thấy một bóng đen đang di chuyển. Quyết định đi! Không còn cách nào khác, Langdon lao xuống đường hầm tối om.
Tít trên cao, tên sát thủ đang đứng nhìn con mồi của mình. Hắn vuốt nhẹ một bên cánh tay để trần của cô gái. Làn da mịn như nhung. Nghĩ đến cảnh được thưởng thức tấm thân ngà ngọc trước mắt, hắn thấy sung sướng đến mê mụ cả người. Nên h.ãm hiếp cô nàng theo cách nào nhỉ?
Kẻ sát nhân biết rằng hắn đáng được hưởng cô gái này. Hắn đã phục vụ Janus vô cùng chu đáo. Đây chính là chiến lợi phẩm của hắn. Sau khi hành lạc trên đi văng, hắn sẽ lôi cô nàng xuống sàn, và bắt cô ta phải quỳ gối. Cô ta sẽ phải phục vụ hắn. Một lần cuối trong đời . Rồi sau đó, vào đúng giây phút ngây ngất đến tột đỉnh, hắn sẽ cắt cổ cô ta.
Niềm đê m.ê người ta vẫn nói thế. Niềm đê m.ê tột đỉnh .
Rồi tiếp đó, hắn sẽ đứng ra ngoài ban công để tận hưởng vinh quang, để thưởng thức thắng lợi to lớn này của hội Illuminati… một cuộc trả thù mà biết bao người đã chờ đợi từ lâu.
***
Đường hầm mỗi lúc một tối hơn. Langdon tiếp tục tiến sâu thêm vào bóng tối.
Sau khi vượt qua một khúc ngoặt sâu dưới lòng đất, anh không còn thấy có chút ánh sáng nào nữa. Lối đi có vẻ phẳng dần ra, Langdon bước chậm lại. Dựa vào tiếng vang của mỗi bước chân, anh đoán rằng đây là một căn phòng rộng. Trong vùng tối âm u trước mắt, hình như vừa thoáng hiện ra một tia sáng yếu ớt…
Langdon tiến về phía đó, hai tay giơ ra phía trước để lần đường và chạm phải một bề mặt trơn nhẵn. Nhôm và kính. Đó là một chiếc xe. Anh lần về phía mũi xe, mở cửa, vào trong.
Bóng đèn tròn trên mui xe đang toả sáng, và Langdon nhận ra chiếc xe hòm ngay lập tức. Ghê tởm, nhưng anh vẫn cố gắng quan sát bên trong, hi vọng tìm được thứ vũ khí nào đó để thay thế cho khẩu súng đã mất ở đài phun nước. Không có gì. Tuy nhiên, anh tìm được điện thoại cầm tay của Vittoria. Méo mó, vô dụng. Nhìn chiếc máy, anh chợt thấy lo sợ đến cháy lòng. Langdon thầm cầu nguyện rằng anh không đến quá muộn.
Anh nhoài người, bật đèn pha của chiếc xe hòm. Căn phòng lớn và giản dị lập tức tràn ngập ánh sáng. Cỏ lẽ trước kia đây là nơi nhốt ngựa và cất giữ khí giới. Đây cũng là một con đường cụt.
Không có lối ra. Mình chọn nhầm đường rồi!
Tuyệt vọng, Langdon nhảy ra khỏi xe và quan sát xung quanh. Không thấy cánh cửa nào hết. Cổng thì lại càng không. Không lẽ bức tượng thiên thần trên mái nhà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Không thể nào! Anh nhớ lại những lời nói của tên sát thủ lúc ở đài phun nước. Cô nàng đang ở trong Nhà thờ ánh sáng… đợi tao quay trở về . Không lẽ đã đến được tận đây mà còn phải chịu thua. Tim Langdon đập thình thịch. Cảm giác căm hận và bực bội bắt đầu lan toả khắp cơ thể.
Rồi anh trông thấy có vết máu trên sàn, và anh nghĩ ngay rằng đó là máu của Vittoria? Nhưng khi quan sát kỹ, anh nhận ra đó chính là những vết chân nhuốm máu. Những bước đi sải dài. Và máu chỉ chảy ra từ bên chân trái. Tên sát thủ !
Langdon lần theo vết máu, đến một góc phòng, bóng anh đồ dài trên sàn nhà. Càng đi lại càng thấy khó hiểu. Dường như những vết chân này dẫn thẳng đến một góc phòng rồi đột nhiên biến mất.
Bước đến tận góc tường ấy, Langdon không dám tin vào mắt mình. Những phiến đá granite lát sàn ở đây không có hình vuông như ở những chỗ khác. Anh tiếp tục quan sát. Những phiến đá xếp khít vào nhau, tạo thành một hình ngôi sao rất cân đối, một cánh sao chỉ vào chính góc tường này. Một cánh cửa thoát hiểm được giấu sau những bức tường đan chéo nhau một cánh rất tài tình. Langdon bước qua cánh cửa và trông thấy một lối đi. Có cả một thanh chắn bằng gỗ đã bị gạt sang một bên.
Có ánh sáng phía trước mặt.
Langdon ra sức chạy. Anh vượt qua thanh chắn bằng gỗ, rồi chạy thẳng về phía trước. Lối đi nhỏ nhanh chóng dẫn tới một căn phòng rộng rãi. Một ngọn đuốc cắm trên tường đang cháy bập bùng. Langdon đang ở trong khu vực không có điện của toà lâu đài này… khu vực mà không một khách du lịch nào được phép đặt chân tới. Có thể căn phòng này sẽ rất sống động khi có ánh sáng mặt trời, nhưng trong ánh đuốc bập bùng, anh thấy nó kỳ dị và ma quái.
Xà lim .
Có khoảng 12 gian xà lim nhỏ với những chấn song sắt đã mòn gần hết. Nhưng vẫn còn một gian xà lim nguyên vẹn, và những gì trông thấy trên sàn khiến tim Langdon như ngừng đập.
Dây thừng đen và những chiếc áo choàng đỏ. Đây chính là nơi hắn. giam cách vị Hồng y .
Gần nhà giam nhỏ này có một cánh cửa sắt. Cánh cửa bỏ ngỏ, và Langdon trông thấy một lối đi. Anh lao bổ về phía đó, nhưng chưa đến nơi anh đã dừng phắt lại. Không thấy có vết máu trên lối đi này. Trông thấy những chữ viết trên tường, anh hiểu ra ngay.
Il Passetto .(1)
Langdon kinh ngạc. Đã nhiều lần nghe nói tới lối đi này, nhưng anh không biết rõ tên gọi của nó là gì. Il Passetto - Lối đi nhỏ là một đoạn đường hầm nhỏ dài gần một dặm, nối lâu đài St. Angelo và Vatican. Nhiều giáo hoàng đã dùng còn đường này để chạy thoát ra ngoài khi Vatican bị vây h.ãm… và một số vị giáo hoàng tha hoá cũng dùng con đường này để đi gặp người tình bí mật của mình, hoặc để xem kẻ thù của mình bị tra khảo.
Nghe nói ngày nay con đường này đã bị khoá cả hai đầu, và chìa khoá được lưu giữ trong nhà mái vòm bí mật. Langdon chợt hiểu ra vì sao người của Illuminati có thể ra vào toà thánh dễ dàng đến thế. Không hiểu kẻ nào đã phản bội nhà thờ và trao chìa khoá vào tay lũ bất lương nhỉ? Olivetti ? Hay một người lính gác Thuỵ Sĩ nào đó? Nhưng đã đến nước này thì lả ai mà chả thế.
Vệt máu trên sàn nhà dẫn tới đầu kia của khu xà lim. Langdon lần thèo những vết chân ấy. Đến nơi, anh thấy một cánh cổng bằng gỗ treo đầy xích sắt. Khoá đã mở, và cánh cửa ở trạng thái khép hờ. Bên kia cánh cửa là những bậc thang hình xoắn ốc dẫn lên trên. Trên nền nhà cũng có những hình ngôi sao năm cánh.
Run rẩy, chăm chú quan sát, Langdon tự hỏi liệu có phải chính Bernini đã đích thân cầm đục để ghép những hình ngôi sao này hay không. Trên cao là hình ảnh những tiểu thiên sứ được chạm trổ rất cầu kỳ. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Vệt máu kéo lên trên gác.
Trước khi lên gác, Langdon nhìn quanh để tìm một vật gì đó dùng làm vũ khí, bất cứ thứ gì. Anh tìm được một thanh chấn song xà lim bằng sắt dài khoảng hơn 1 mét. Một đầu bị gãy, gồ ghề, sắc cạnh. Dù nó khá nặng, những anh chẳng thể tìm được thứ gì khác tốt hơn. Hi vọng là yếu tố bất ngờ, cộng với vết thương ở chân, hung thủ sẽ mang lại cho anh chút ít lợi thế. Và hi vọng là anh không đến quá muộn.
Những bậc thang xoắn ốc mòn gỉ dựng đứng rất khó đi. Langdon vừa leo lên vừa nghe ngóng. Không thấy gì. Càng lên cao, luồng sáng toả ra từ khu xà lim càng yếu dần. Anh bị bóng tối bao vây tứ phía, Vừa đi, Langdon vừa dùng một tay để lần đường. Cao thêm nữa. Trong bóng tối dày đặc, anh cám thấy như có bóng ma của Galileo cũng đang hăm hở leo lên những bậc thang này, háo hức muốn chia sẻ quan điểm của mình về thiên đường với các nhà khoa học khác.
Langdon vẫn chưa hết kinh ngạc về vị trí của địa điểm tụ họp này. Hội Illuminati hội họp ngay trong một toà lâu đài thuộc sở hữu của Vatican. Chả trách trong khi đội lính gác của toà thánh đang ra sức sục sạo các tầng hầm và nhà riêng của các nhà khoa học danh tiếng thì hội Illuminati tụ họp ở đây… ngay trước mũi toà thánh. Tất cả các chi tiết bất chợt trở nên ăn khớp đến kỳ lạ.
Bernini, với tư cách là kiến trúc sư trưởng phụ trách công tác cải tạo có toàn quyền ra vào khu vực này… và có thể thực hiện bất kỳ hạng mục công trình nào mà không bị thắc mắc. Liệu bậc thầy về kiến trúc này đã cho xây thêm bao nhiêu lối đi bí mật? Và cho đặt bao nhiêu dấu hiệu kín đáo để chỉ đường?
Nhà thờ ánh sáng . Langdon biết anh đã rất gần cái đích cuối cùng.
Cầu thang hẹp dần, không gian chật hẹp trở nên thật tù túng. Những hình bóng của lịch sử đang thì thầm trong đêm tối, nhưng Langdon vẫn bước tiếp. Trông thấy luồng sáng hắt ngang trước mắt, anh nhận thấy còn vài bậc thang nữa thì đến một chiếu nghỉ giữa cầu thang, ánh đuốc hắt ra từ sau một khung cửa. Langdon khẽ khàng tiến lại gần.
Langdon không thể biết chính xác lúc này anh đang có mặt ở khu vực nào của toà lâu đài, nhưng sau khi đã leo nhiều bậc cầu thang đến thế thì chắc chắn anh không còn xa đỉnh toà tháp là mấy. Langdon mường tượng bức tượng thiên thần khổng lố trên nóc lâu đài, có lẽ thanh kiếm trong tay tượng đang chỉ ngay trên đầu anh cũng nên.
Thiên thần ơi, nhớ phù hộ cho tôi nhé , vừa nghĩ, Langdon vừa siết chặt thanh sắt. Rồi thật khẽ khàng, anh bước tới bên cánh cửa.
***
Ngồi trên ghế đi-văng, Vittoria thấy hai cánh tay đau nhức.
Lúc mới tỉnh lại và thấy hai cánh tay mình bị trói quặt về phía sau. Cô tưởng sẽ có thời gian để nghỉ ngơi và tự giải thoát bản thân. Nhưng thời gian đã hết. Con quái vật đã quay trở lại. Lúc này hắn đang đứng ngay trước mặt cô, bộ ngực trần to bè, đầy những sẹo, đôi mắt đen ti hí trông như hai đường kẻ chỉ, hắn đang nhìn cô chòng chọc. Dường như hắn đang mường tượng trong đầu những gì sẽ làm để hành hạ cô. Rất chậm rãi, như thể muốn chọc tức Vittoria, hắn cởi bỏ chiếc thắt lưng sũng nước, rồi quăng xuống sàn nhà.
Vittoria cảm thấy vừa ghê tởm, vừa kinh sợ. Cô nhắm nghiền mắt lại. Lúc mở mắt ra, trên tay hắn đã có một con dao gập. Hắn dí sát con dao vào mặt cô, rồi bật lưỡi dao ra, tách một cái.
Vittoria trông thấy vẻ mặt đầy kinh hãi của mình phản chiếu trong lưỡi dao bằng thép.
Tên sát thủ quay lưỡi dao lên trên, rồi đưa sống dao lướt dọc xuống bụng Vittoria. Chất kim loại lạnh buốt khiến cô gái rùng mình. Ánh mắt đầy khinh bỉ, hắn lách lưỡi dao vào trong cạp quần soóc của Vittoria. Cô gái hít một hơi thật sâu. Hắn lật qua lật lại lưới dao, chậm rãi, đầy hăm doạ… và tiếp tục lia xuống sâu hơn nữa. Rồi hắn nhoài hẳn người về phía trước, hơi thở hầm hập của hắn phả vào mặt Vittoria.
- Chính lưỡi dao này đã khoét mắt cha cô em đấy.
Vittoria chỉ muốn nghiền nát hắn ngay lập tức.
Kẻ giết người lại xoay lưỡi dao xuống, rồi tiếp tục lia lia dưới lớp vải ka ki của chiếc quần soóc cô đang mạc. Đột nhiên hắn dừng phắt lại, rồi ngẩng lên nhìn. Có ai vừa vào phòng.
- Tránh xa cô ấy mau. Từ ngoài cửa, một chất giọng trầm, dứt khoát vang lên.
- Không nhìn thấy người đó, nhưng Vittoria biết ngay là ai. Robert! Anh vẫn còn sống !
Tên sát thủ như vừa trông thấy: ma quỷ hiện hình:
- Ông Langdon, chắc là ông được thiên thần hộ mệnh rồi.

Chú thích:
(1) Il passetto: Lối đi nhỏ
 
Trong chớp mắt, Langdon quan sát kỹ căn phòng, đây quả là một địa điểm thiêng liêng. Căn phòng hình ô-van, dù đã cũ kỹ, nhưng vẫn còn nguyên những chi tiết trang trí rất tinh tế, gồm những biểu tượng của Illuminati: gạch lát nền hình ngôi sao năm cánh, các bức bích hoạ vẽ hệ mặt trời, chim bồ câu và Kim tự tháp.
Nhà thờ ánh sáng. Đơn giản và thuần khiết. Anh đã đến được đích cuối cùng.
Ngay trước mặt Langdon, trên ban công, anh thấy rõ dáng đứng lừng lững của tên sát thủ. Ngực để trần, hắn đứng sát cạnh Vittoria, còn cô gái thì nằm trên đi-văng, bị trói, nhưng còn sống.
Trông thấy Vittoria, Langdon thở phào nhẹ nhõm. Trong tích tắc, ánh mắt hai người gặp nhau, trao gửi biết bao tình cảm - biết ơn, tuyệt vọng và sự thương cảm.
- Thế là chúng ta lại gặp nhau một lần nữa. - Tên sát thủ lên tiếng. Hắn nhìn thanh sắt trên tay Langdon rồi phá lên cười. - Và lần này ông bạn định dùng thứ đó để giết tôi đấy à?
- Cởi trói cho cô ấy mau.
Kẻ giết người dí dao vào cổ Vittoria:
- Tao sẽ giết con bé này.
Langdon biết hắn có thể làm như vậy ngay lập tức, không chút do dự. Anh cố tỏ ra điềm tĩnh:
- Tao cho rằng cô ấy sẽ thích thế… nếu so với những gì mày đang định làm.
Hắn mỉm cười trước lời xúc phạm đó.
- Ông nói đúng đấy. Cô nàng có rất nhiều thứ để mà dâng hiến. Giết ngay thì phí quá.
Langdon tiến lên một bước, hai tay siết chặt thanh sắt, hướng đầu sắt gẫy nham nhở về phía kẻ giết người. Vết thương trên tay anh buốt nhói.
- Thả cô ấy ra.
Trong thoáng chốc, dường như tên sát thủ cân nhắc yêu cầu của Langdon. Hắn thở dài, hai vai chùng xuống. Rõ ràng là đang nghĩ đến chuyện đầu hàng, nhưng cũng đúng vào lúc ấy, hai cánh tay của hắn bất thần vung lên. Những cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, rồi một lưỡi dao thình lình xé không khí, lao thẳng vào giữa ngực Langdon.
Không hiểu do quá mệt mỏi hay vì bản năng, hai đầu gối Langdon bỗng nặng như chì, không nhấc lên nổi, lưỡi dao sượt qua tai trái anh, rồi cắm xuống đất. Kẻ giết người không chút lúng túng. Hắn nhếch mép cười, nhìn Langdon vẫn hai tay nắm chặt song sắt, quỳ trên sàn nhà. Vênh vang như thể chính hắn là chúa tể sơn lâm, tên sát thủ rời Vittoria tiến lại bên Langdon.
Lồm cốm bò dậy, cố nhấc thanh sắt lên, Langdon chợt thấy bộ quần áo ướt sũng của anh mới vướng víu làm sao.. Mình trần, đối thủ của anh di chuyển nhanh nhẹn hơn hẳn, vết thương ở chân rõ ràng là không bõ bèn gì đối với hắn. Hình như đây là một kẻ vốn rất dạn dày sương gió. Lần đầu tiên trong đời, Langdon ước gì anh có một khẩu súng thật to trong tay.
Thật chậm rãi, như thể đang rất thích thú, kẻ giết người di chuyển dần đến chỗ con dao rơi trên sàn. Langdon chặn đường hắn.
Tên sát thủ lại tiến gần đến chỗ Vittoria. Langdon chặn hắn lại.
- Thời gian vẫn chưa hết. - Langdon đánh bạo lên tiếng. - Hãy nói đi, cái hộp đó bây giờ ở đâu? Vatican sẽ trả công mày hậu hĩnh hơn nhiều so với hội Illuminati.
- Ông bạn khờ khạo quá đấy.
Langdon thọc mạnh thanh sắt, hắn né tránh. Anh bước vòng quanh chiếc ghế dài, dồn đối thủ vào góc tường. Căn phòng hình ô-van này lấy đâu ra góc cơ chứ . Điều lạ lùng là hắn chẳng tỏ vẻ sốt sắng muốn tấn công hay chạy trốn. Hắn đang chơi trò mèo vờn chuột, chờ đợi một cách lạnh lùng.
Hắn đợi gì nhỉ? Kẻ giết người vẫn tiếp tục di chuyển vòng quanh một cách rất bài bản, y như một ván cờ kéo dài vô tận.
Langdon chợt thấy thanh chắn song bằng sắt trên tay anh nặng trình trịch, và hiểu ra đối thủ của anh đang chờ đợi điều gì.
Hắn muốn vờn cho mình mệt lử trước đã. Và mánh khóe của hắn quả là có tác dụng. Langdon chợt thấy mệt mỏi kiệt quệ, lượng hoóc-môn adrenaline trong máu không còn đủ để giúp anh tỉnh táo được nữa. Đã đến lúc phải hành động.
Dường như đọc được suy nghĩ của Langdon, tên sát thủ lại chuyển hướng di chuyển một lần nữa, như thể muốn dồn anh về phía cái bàn ở giữa phòng. Trên bàn có một vật gì đó đang phản chiếu ánh đuốc bập bùng. Hay là một thứ vũ khí? Langdon chăm chú nhìn kẻ giết người, đồng thời bước lại gần cái bàn hơn một chút. Khi hắn quay sang nhìn vật để trên bàn, Langdon cố nén sự tò mò trong lòng. Nhưng rồi bản năng vẫn chiến thắng. Anh liếc trộm về phía đó. Và thế đã là quá nhiều.
Không phải vũ khí. Vật đó khiến Langdon chú ý.
Trên bàn là một cái hộp bằng đồng thau đã gỉ ngoét. Cái hộp hình ngôi sao năm cánh. Nắp hộp đã mở sẵn. Trong năm cánh của ngôi sao là năm nhánh biểu tượng. Năm biểu tượng được rèn bằng sắt, có cán gỗ rất chắc chắn. Và anh biết chắc chắn chúng tượng trưng cho cái gì.
ILLUMINATI, ĐẤT, KHÍ, LỬA, NƯỚC.
Langdon quay phắt lại, sợ rằng tên sát thủ có thể lợi dụng cơ hội để tấn công. Nhưng không. Hắn vẫn đang chờ đợi, và dường như còn lấy làm thích thú vì trò chơi này. Langdon gắng tập trung tâm trí vào thanh chấn song bằng sắt đang cầm trên tay, nhưng hình ảnh cái hộp đồng hình ngôi sao cứ lởn vởn trong đầu Đó là những biểu tượng hết sức quyến rũ - những đồ tạo tác mà thậm chí chỉ một số ít học giả trong hội Illuminati dám tin là có thật. Nhưng Langdon bất giác nhận ra rằng đáng ra trong hộp còn phải có một vật nữa, và hình như đây chính là điềm gở. Tên sát thủ lại đổi hướng di chuyển, Langdon liếc sang cái hộp thêm một lần nữa.
Lạy chúa lòng lành !
Năm cánh của ngôi sao là năm ô chứa các biểu tượng, nhưng tâm của ngôi sao còn là một ô nữa. Ô này thấy bỏ trống, nhưng chắc chắn cũng là để chứa một biểu tượng to hơn hẳn so với năm vật tạo tác còn lại, và có hình vuông.
Đòn tấn công của hắn thật bất ngờ.
Tên sát thủ bất thần lao vào như một con chim săn đang vồ mồi. Bị mất tập trung, Langdon cố gắng để đáp trả, nhưng thanh sắt trong tay anh nặng như chì. Đòn phản công của anh quá chậm, và hắn né người tránh được. Lúc Langdon đang thu cây sắt về, hắn liền giang hai tay, lúm lấy vũ khí của anh. Hai cánh tay của hắn khỏe kinh khủng, và vết thương ở tay rõ ràng là chẳng bõ bèn gì. Hai người vật lộn quyết liệt. Langdon thấy cây gậy sắt trong tay bị rút mất, bàn tay đau như xé. Chỉ trong nháy mắt, anh đã thấy đầu bị gãy tòe sắc nhọn của cây gậy giương lên ngay sát mặt mình. Người đi săn bỗng chốc biến thành kẻ bị săn đuổi.
Langdon cảm thấy như mình đang bị cuốn vào một cơn lốc xoáy. Kẻ giết người lượn vòng, cười đắc thắng, dồn anh vào chân tường.
- Người Mỹ các ông thường nói thế nào ấy nhỉ? - Hắn mỉa mai - Cái gì liên quan đến con mèo và sự tò mò ấy?
Langdon không thể tập trung được tâm trí, anh thầm nguyền rủa sự bất cẩn của mình. Đối thủ vẫn tiếp tục áp sát vào. Chẳng hiểu ra thế nào cả. Biểu tượng thứ sáu của Illuminati nghĩa là thêm nào ? Bực quá, anh thốt lên:
- Tao chưa bao giờ thấy tài liệu nào viết về biểu tượng thứ sáu của Illuminati!
- Chắc chắn là ông bạn phải biết rồi chứ. - Kẻ giết người vừa cười khùng khục vừa dồn anh quanh phòng.
Langdon chẳng hiểu gì cả. Rõ ràng là anh chưa thấy tài liệu nào đề cập đến điều này. Illuminati chỉ có năm biểu tượng mà thôi. Anh lùi dần và đưa mắt quanh phòng tin thứ gì đó làm vũ khí.
- Nó là sự kết hợp hoàn hảo của các yếu tố nguyên thuỷ. - Tên sát thủ nói - Biểu tượng thứ sáu chính là nhánh đẹp nhất, nhưng e rằng ông bạn sẽ chẳng bao giờ được trông thấy nó.
Tự Langdon cũng có linh tính rằng anh sẽ chẳng còn cơ hội để nhìn thấy gì nữa. Anh vẫn đang phải lùi dần, vừa bước lùi vừa đưa mắt quan sát khắp phòng để tìm cách phản công:
- Thế mày đã trông thấy biểu tượng ấy chưa? - Anh cố kéo dài thời gian.
- Có thể là một ngày nào đó họ sẽ ban cho tôi vinh hạnh đó. Vì tôi đã chứng tỏ được bản thân. - Hắn thọc mạnh cây gậy sắt vào người Langdon, vẻ khoái trá.
Langdon lại tiếp tục bước lùi. Hình như hắn đang cố tình dồn anh quanh phòng để đến một cái đích đã chọn sẵn trong đầu. Chỗ nào nhỉ? Nhưng anh không thể quay lại mà nhìn đằng sau.
Langdon hỏi tiếp:
- Thế biểu tượng đó giờ ở đâu?
- Không ở đây. Chắc chắn là trong tay Janus.
- Janus à? - Langdon thấy cái tên này lạ hoắc.
- Người đứng đầu của Illuminati. Ông ấy sắp đến đây.
- Người đứng đầu hội Illuminati sắp đến đây thật sao?
- Để đóng dấu sắt nung cuối cùng.
Langdon lo lắng nhìn sang phía Vittoria. Điềm tĩnh một cách kỷ lạ, cô gái đang quan sát mọi thứ xung quanh, lồng ngực phập phồng đều đặn… hơi thở nhẹ và sâu. Chẳng lẽ Vittoria sẽ là nạn nhân cuối cùng? Hay chính là bản thân anh?
- Ngạo mạn quá đấy ông bạn. - Tên sát thủ nhìn theo ánh mắt Langdon, cười khẩy. - Các người chẳng có nghĩa gì hết. Các người đều phải chết, cái đó thì rõ rồi. Nhưng người cuối cùng phải chết là một đối thủ rất nguy hiểm của Illuminati.
Langdon không hiểu nổi. Một đối thủ nguy hiểm? Tất cả những vị Hồng y đáng kính nhất đều đã bị sát hại. Giáo hoàng thì đã tạ thế. Tất cả đều do hội Illuminati sát hại. Nhìn vào đôi mắt vô cảm của kẻ sát nhân, Langdon đọc thấy câu trả lời.
Giáo chủ Thị thần .
Giáo chủ Thị thần Ventresca đã mang lại niềm hi vọng lớn lao cho toàn thế giới trong giờ phút nguy khốn này. Chỉ trong một đêm, ngài đã khiến cho hình ảnh của Illuminati trở nên xấu xí hơn bội lần gõ ràng là ngài sẽ phải trả giá. Ngài chính là mục tiêu cuối cùng của Illuminati.
- Mày sẽ không thể làm gì được ngài. - Langdon nói với vẻ đầy thách thức.
- Không phải tôi. - Hắn trả lời, và tiếp tục dồn cho Langdon phải lùi lại phía sau. - Niềm vinh dự đó được dành cho chính Janus.
- Đích thân người đứng đầu của Illuminati định sát hại Giáo chủ Thị thần à?
- Đặc quyền phải đi đôi với đặc lợi chứ.
- Nhưng lúc này không ai có thể vào trong toà thánh!
Mặt tên sát thủ vênh lên đầy đắc ý:
- Trừ trường hợp người đó đã hẹn trước.
Langdon càng không hiểu ra thế nào. Người duy nhất đã hẹn đến toà thánh lúc này được giới báo chí gọi là Người từ tâm lúc 11 giờ đêm - chính là người mà Rocher cho rằng có những thông tin quan trọng có thể cứu được toà thánh.
Langdon dừng phắt lại:
- Chúa ơi!
Kẻ giết người cười đắc chí, lấy làm thích thú vì những lo lắng trong tâm trí Langdon.
- Ông bạn biết không, chính tôi cũng băn khoăn không hiểu Janus sẽ làm cách nào để lọt được vào trong toà thánh. Nhưng lúc ở trên xe, tôi nghe đài nói về nhân vật từ tâm lúc 11 giờ khuya. - Hắn nhếch mép cười - Toà thánh sẽ mở rộng cửa và nồng nhiệt đón chào Janus.
Langdon suýt ngã. Janus chính là Người từ tâm lúc 11 giờ khuya ! Thật xảo trá! Người đứng đầu Illuminati sẽ đường hoàng tiến vào phòng làm việc của Giáo chủ Thị thần. Nhưng làm thế nào mà Ianus qua mặt được Rocher nhỉ? Hay chính Rocher cũng có dính líu đến việc này? Langdon thấy lạnh xương sống. Sau cú chết hụt trong nhà vòm bí mật, anh cảm thấy không thể tin được con người này.
Hắn bất thần xiên mạnh một nhát, cây gậy thọc trúng vào mạng sườn Langdon.
Langdon nhảy về phía sau và thốt lên:
- Nếu thế thì Janus sẽ không thể thoát ra ngoài được!
Kẻ giết người nhún vai:
- Được hi sinh vì lý tưởng là một vinh dự.
Có lẽ hắn nói nghiêm túc. Không lẽ Janus đến Vatican để hành động bất chấp tính mạng bản thân? Vinh dự? Trong thoáng chốc, Langdon điểm lại trong đầu toàn bộ mưu đồ khủng khiếp của hội Illuminati. Họ đã hoàn tất toàn bộ kế hoạch đề ra. Vị tu sĩ trẻ tuổi đã vô tình tiếp tay cho họ sát hại giáo hoàng bất ngờ trở thành một đối thủ lợi hại. Để đối phó lại, người đứng đầu của Illuminati sẽ đích thân xuống tay với con người tội nghiệp đó.
Đột nhiên Langdon không thấy bức tường sau lưng anh đâu nữa. Một luồng gió đêm mát lạnh ùa vào phòng, bước thụt lùi tiếp theo đưa anh ra tận ngoài trời đêm. Ban công! Giờ thì anh đã hiểu mục đích của hắn.
Langdon ngay lập tức mường tượng phía sau, ban công nhô ra ngoài, cách mặt đất hơn 30 mét. Trên đường vào, anh đã kịp quan sát kỹ. Tên sát thủ lão luyện này không bỏ phí chút thời gian nào.
Hắn tấn công ngay tức thì. Đầu gậy nham nhở đang lao thẳng vào bụng Langdon, anh nhảy lùi ra sau, đầu gậy đâm vào vạt áo. Ngay lập tức cây gậy lại nhằm thẳng vào đầu anh. Langdon tiếp tục lùi ra sau, đến sát hàng lan can. Chắc chắn Langdon sẽ không thể thoát được đòn tấn công tiếp theo, bởi anh đã ở thế cùng. Anh xoay người, nhoài ra, túm lấy cây gậy. Bàn tay bị thương đau như xé nhưng mặc, anh vẫn siết chặt tay.
Tên sát thủ không chút lúng túng. Hai đối thủ cùng lên gân lên cốt mặt đối mặt, hơi thở hôi hám của hắn phả thẳng vào mặt Langdon. Thanh sắc bắt đầu trượt xuống. Đối thủ của anh quá to khoẻ. Tuyệt vọng, Langdon liều lĩnh soài chân, chấp nhận mất thế cân bằng, định đạp vào bàn chân bị thương của hắn. Nhưng tên này quả là một sát thủ lão luyện hắn tránh đòn một cách dễ dàng.
Langdon đã chơi hết quân bài cuối cùng, và anh đã thua.
Tên sát thủ vung cao cánh tay, đẩy Langdon ra sau. Hàng lan can chỉ thấp đến bắp đùi Langdon, và tít bên dưới, cách khoảng 30 mét là khoảng sân rộng của toà lậu đài. Kẻ giết người vặn thanh sắt, dồn đầu gậy thẳng vào giữa ngực Langdon. Anh ngửa người ra sau để tránh, lưng uốn cong trên hàng lan can ngăn cách anh với vực thẳm chết chóc bên dưới.
- Tạm biệt ông bạn, - tên sát thủ cười khẩy.
Ánh mắt lóe lên hiểm ác, kẻ giết người ra đòn lần cuối. Mất điểm tựa, hai chân Langdon không còn trụ vững được nữa, anh chới với rồi ngã nhào. Langdon chìa tay túm lấy tay vịn, nhưng tay trái bị lỡ trớn, chỉ có tay phải bám được vào một thanh trụ đá. Kết quả là anh bị treo lơ lửng ở tư thế lộn ngược, một tay và một chân vẫn cố níu lấy tia hi vọng cuối cùng.
Đứng lù lù ngay sát anh, tên sát thủ vung cao cây gậy, sắp sửa xuống tay. Đúng lúc thanh chấn song bằng sắt chuẩn bị giáng mạnh xuống, Langdon bất thần trông thấy… Có thể đấy chỉ là một linh tính hay ảo giác gì đó trong lúc cận kề cái chết, nhưng anh chợt thấy một vầng sáng bao quanh kẻ giết người. Sau lưng hắn chợt xuất hiện quầng sáng chói loà… hệt như một quả cầu lửa.
Đang ra sức giáng mạnh cây gậy sắt, tên sát thủ đột ngột buông tay ra, miệng rú lên đau đớn. Cây gậy sắt sượt qua người Langdon, rơi xuống dưới. Kẻ giết người lập tức quay lưng lại, vừa đủ để anh nhìn thấy ngọn đuốc đang cháy trên lưng hắn. Đu người trèo lên lan can, Langdon thấy Vittoria đang mặt đối mặt với hung thủ, mắt rực lửa căm thù.
Cô gái đang cầm ngọn đuốc trên tay, lửa đuốc bập bùng soi sáng khuôn mặt đầy nộ khí. Giờ không phải là lúc hỏi xem cô gái đã tự giải thoát bằng cách nào. Langdon đu người qua tay vịn.
Cuộc vật lộn chẳng kéo dài lâu, Vittoria không thể chống chọi được với gã đàn ông lực lưỡng này. Hắn gầm lên tức tối, lao thẳng vào cô gái. Vittoria kháng cự, nhưng bị hắn hất ngã gần như ngay lập tức. Hắn đang cố giằng lấy ngọn đuốc. Không bỏ phí một giây, Langdon nhảy ngay vào, giơ cao nắm đấm, thụi thật mạnh vào đúng vết bỏng trên lưng hắn.
Tiếng rú của hắn vang tận sang Vatican.
Tên sát thủ đờ ra mất một lúc vì đau đớn, bàn tay cầm đuốc rời ra. Ngay lập tức, Vittoria lia thẳng ngọn đuốc vào mặt hắn.
Có tiếng thịt cháy xèo xèo, hình như bên mắt trái của hắn đã bị bỏng. Hắn lại rú lên lan nữa, đưa tay lên che mặt.
- Mắt đổi mắt. - Vittoria gằn giọng.
Lần này cô gái quật mạnh cây đuốc khiến cho hắn ngã dụi xuống ngay sát hàng lan can bằng đá. Cả Vittoria lẫn Langdon cùng đồng thời xông vào, ráng sức đẩy thật mạnh. Thân hình to lớn của kẻ giết người lăn qua hàng lan can, rơi vào khoảng không tối đen sâu hun hút bên ngoài. Không thấy có tiếng thét kinh hoàng. Chỉ nghe tiếng xương sống. gãy đánh rắc một cái khi hắn rơi đúng vào đống đạn súng thần công bên dưới.
Langdon bàng hoàng, quay sang nhìn Vittoria. Sợi dây trói vẫn còn mắc trên người và trên cánh tay, hai mắt cô gái rực lên giận dữ.
- Houdini có tập Yoga.
 
Cùng lúc ấy, tại quảng trường St. Peter, những người lính gác Thuỵ Sĩ đang ra sức gào thét để dầy đám đông lui về phía sau, đến một cự ly an toàn hơn. Nhưng chẳng tác dụng gì.
Người tập trung quá đông, và sự hiểu kỳ của đám đông đã hoàn toàn át hẳn những lo lắng cho sự an toàn của bản thân họ. Những màn hình rộng cao ngất ngưởng của các hãng tin lúc này đang phát đi cảnh chiếc đồng hồ đếm ngược gắn trên hộp phản vật chất - hình ảnh được truyền đi trực tiếp từ phòng điều phối an ninh của đội lính gác Thuỵ Sĩ, theo lệnh của Giáo chủ Thị thần. Rủi thay, những hình ảnh này không đủ sức khiến cho đám đông tản đi. Chắc hẳn những người có mặt trên quảng trường cho. rằng giọt chất lỏng có vẻ vô thưởng vô phạt trong cái hộp kia không đáng sợ như những gì người ta thông báo với họ. Vả lại họ cũng có thể đọc được các chữ số hiện lên trên mặt chiếc đồng hồ đếm ngược - gần 45 phút nữa mới đến giờ phát nổ. Vẫn còn khối thời gian.
Tuy nhiên, các thành viên của đội lính gác Thuỵ Sĩ đều nhất trí với nhau rằng quyết định đầy táo bạo của Giáo chủ Thị thần - cho cả thế giới biết sự thật, sau đó còn cung cấp những hình ảnh về hành động phản trắc của Illuminati cho các hãng truyền hình là một động thái rất khôn ngoan. Có lẽ hội Illuminati tưởng rằng như thường lệ, Vatican sẽ hành xử một cách lặng lẽ và kín đáo trong những giây phút cam go kiểu này. Nhưng không. Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã tỏ ra là một đối thủ đáng gờm của hội kín đáng ghét này.
Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Giáo chủ Mortati mỗi lúc một bồn chồn hơn. Đã 11 giờ 15 phút. Nhiều vị Hồng y vẫn tiếp tục cầu nguyện, nhưng một số đã xúm lại bên cửa thoát hiểm, vẻ bất an. Một số vị thậm chí còn bắt đầu đấm cửa thình thình.
Đang đứng gác bên ngoài cánh cửa nhà nguyện, trung uý Chartrand nghe tiếng đấm cửa, chẳng biết phải xử sự thế nào.
Anh xem đồng hồ. Đã đến giờ rồi. Đại tá Rocher đã hạ lệnh là phải có lệnh trực tiếp của ông ấy thì mới được đưa các vị Hồng y ra ngoài. Tiếng đấm cửa càng lúc càng thúc bách hơn, khiến Chartrand thấy lo lắng. Kề từ khi nhận được cú điện thoại bí hiểm kia, chỉ huy hành xử khá thất thường.
Thế là Chartrand rút máy bộ đàm ra:
- Thưa đại tá, tôi là Chartrand. Đã quá giờ rồi. Chúng ta mở cửa nhà nguyện Sistine chứ?
- Nhất quyết không được mở! Tôi đã chỉ thị thế cơ mà?
- Vâng, thưa đại tá, nhưng mà…
- Vị khách của chúng ta sắp đến rồi. Anh cũng vài người nữa lên gác ở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng cho tôi. Không để cho Giáo chủ Thị thần được đi bất kỳ đâu .
- Cái gì ạ?
- Nói rõ thế còn thế nào nữa hả, đại uý?
- Báo cáo, không có gì. Tôi xin thi hành ngay.
Trên gác, trong phòng làm việc của Giáo hoàng, Giáo chủ Thị thần đang ngồi trầm ngâm bên lò sưởi. Xin Chúa hãy ban cho con sức mạnh. Xin Người hãy ban cho chúng con một phép nhiệm màu. Đưa tay gạt những thanh củi trong lò, vị thầy tu trẻ tự hỏi lòng không hiểu ngài có thể sống sót qua một đêm thế này không.
11 giờ 23 phút.
Vittoria đang đứng lên ban công của lâu đài St. Angelo, run rẩy, ánh mắt nhoà lệ hướng sang phía bên kia thành Rome. Cô muốn được ghì chặt Robert Langdon trong vòng tay nhưng không thể. Toàn thân tê dại, cô gái cần thời gian để thích ứng, để huy động năng lượng dự trữ trong cơ thể. Kẻ đã sát hại cha có giờ đang nằm sóng soài tít dưới kia. Hắn đã chết. Và suýt nữa chính cô cũng trở thành nạn nhân của hắn.
Nhưng khi Langdon vừa chạm vào bờ vai, cô gái thấy một luồng hơi ấm kỳ diệu lan toả khắp cơ thể, băng giá tiêu tan hết. Vittoria run lên, lập tức cảm thấy sinh lực dâng đầy trong cơ thể.
Sương mù tan hết, cô gái quay sang nhìn Robert. Trông anh mệt mỏi quá, ướt sũng, rã rời, có lẽ anh đã phải khổ sở, vất vả lắm mới cứu được cô.
- Cảm ơn anh… - cô gái thì thầm.
Langdon mỉm cười nhìn cô gái, mệt mỏi, và nhắc Vittoria rằng chính cô mới là người đã tự giải thoát kịp thời và cứu nguy cho cả hai. Vittoria lau nước mắt vẫn giàn giụa trên mặt. Giá như hai người có thể đứng ở đây mãi mãi, nhưng họ còn có biết bao việc phải làm.
- Chúng ta phải ra khỏi chỗ này ngay. - Langdon nói.
Sự chú ý của Vittoria cũng đã chuyển sang một địa điểm khác. Cô gái đưa mắt nhìn sang toà thánh. Giáo quốc nhỏ bé ấy lúc này sáng trưng dưới ánh đèn máy quay, trông thật gần. Thật đáng kinh ngạc, quảng trường St. Peter vẫn chật cứng người! Rõ ràng là đội lính gác Thuỵ Sĩ đã cố hết sức nhưng cũng chỉ dẩy được đám đông lùi lại khoảng 50 mét - chưa được một phần ba quảng trường, ngay trước mặt thánh đường rộng lớn. Đám đông lớn đang vây kín thánh đường những người ở ngoài thì chen lấn xô đẩy để vào được gần hơn, còn những người ở trong thì không thể thoát ra nổi. Họ đứng gần quá! Vittoria thầm nghĩ. Thế thì quá gần!
- Anh sẽ quay lại đó. - Langdon điềm tĩnh nói.
Vittoria quay lại, ngạc nhiên:
- Vào trong thành Vatican ư?
Langdon kể cho cô gái nghe những gì anh biết về nhân vật được gọi là Người từ tâm lúc 11 giờ khuya , và về âm mưu của Illuminati. Người đứng đầu hội kín này, một người đàn ông có tên là Janus, sẽ đích thân đến đây để sát hại và đóng dấu sắt nung lên người Giáo chủ Thị thần. Bước cuối cùng trong âm mưu của hội Illuminati.
- Trong toà thánh không ai biết điều đó. - Langdon nói tiếp.
- Không thể nào liên lạc được với họ, còn nhân vật kia thì sắp đến nơi. Cần phải vào để báo cho đội lính gác biết trước.
- Nhưng làm sao mà vượt qua được đám đông này?
Langdon đầy vẻ tự tin:
- Có cách chứ. Cứ tin anh.
Thêm một lần nữa, Vittoria linh cảm rằng anh chàng chuyên gia sử học này lại biết điều bí mật nào đó.
- Cho em đi theo.
- Đừng, Tại sao lại phải liều mạng cả hai. Trong khi…
- Em cũng phải tìm cách giải tán đám đông kia chứ. Họ đang gặp nguy…
Đúng lúc ấy, cả toà lâu đài rung chuyển. Có tiếng sấm rền vang. Rồi một luồng sáng chói loà từ quảng trường St. Peter hắt sang chiếu thẳng vào mắt họ. Trong đầu Vittoria chỉ có một cách giải thích duy nhất. Chúa ơi! Giọt phản luật chất phát nổ sớm mất rồi!
Nhưng thay vì tiếng nổ vang rền, họ nghe thấy tiếng đám đông reo hò vang dậy. Vittoria nhìn về phía ánh sáng. Hình như toàn bộ đèn máy quay ở quảng trường đều đang chĩa thẳng về phía họ. Tất cả mọi người cũng quay lại, miệng hò reo, tay chỉ trỏ. Tiếng hò reo tiếp tục vang lên. Toàn bộ quảng trường bỗng dưng bao phủ một bầu không khí hồ hởi đầy lạc quan.
Langdon không hiểu nổi:
- Cái quái quỷ gì thế nhỉ?
Lại thêm một tiếng sấm rền từ trên trời vọng xuống.
Chiếc phi cơ của Đức Thánh Cha bất ngờ xuất hiện từ sau đỉnh tháp, tiếng sấm rền cách đám đông chừng 15 mét, ầm ầm, nó lao thẳng hướng toà thánh. Trong ánh sáng chói loà phát ra từ đèn máy quay, cả toà lâu đài rung chuyển. Tất cả các ánh đèn đều dõi theo chiếc phi cơ, và chỉ sau chốc lát, Langdon và Vittoria lại đứng trong bóng tối.
Nhìn chiếc phi cơ đồ sộ hạ cánh xuống quảng trường St. Peter, Vittoria chợt linh cảm rằng thời điểm để hành động đã qua mất rồi. Chiếc máy bay phản lực hạ cánh xuống khoảng trống ngay sát những bậc thang dẫn lên thánh đường St. Peter, hất lên một đám bụi khổng lồ.
- Xem nghi lễ đón tiếp nào đây. - Vittoria nói.
Một người trông y như một cái chấm nhỏ trên nền đá cẩm thạch màu trắng từ toà thánh bước ra, tiến đến bên chiếc phi cơ. Nếu không có chiếc mũ bê-rê đỏ thì cô gái đã không thể nhận ra ông ta.
- Trải thảm đỏ chào đón người từ tâm đây. Không ai khác, ngài Rocher.
Langdon đấm mạnh tay xuống hàng lan can trước mặt:
- Cần phải cảnh báo họ ngay lập tức. - Anh rảo bước quay đi.
Vittoria túm tay Robert.
- Khoan đã nào! - Cô vừa nhìn thấy thêm một chi tiết nữa, nhưng vẫn chưa dám tin vào mắt mình.
Tay run run, cô gái chỉ về phía chiếc máy bay trực thăng. Một bóng người nữa xuất hiện trên ván lên xuống… dáng dấp đặc biệt có một không hai đang di chuyển rất nhanh, dù từ xa cũng không thể nhầm. Trong tư thế ngồi, người này tăng tốc di chuyển qua khoảng trống một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng đến mức đáng kinh ngạc.
- Một vị vua trên chiếc ngai điện tử.
Đó chính là Maximilian Kohler.
Sự sang trọng trong hành lang Belvedere khiến Kohler thấy mệt mỏi. Chỉ riêng tấm vàng lá dát trên trần cũng đủ để trang trải cho cả một năm nghiên cứu về bệnh ung thư. Rocher dẫn nhà khoa học ngồi xe lăn đi theo một con đường dốc dành riêng cho người tàn tật, đi theo dường vòng để vào cung điện Apostolic.
- Không có thang máy à? - Kohler hỏi.
- Không có điện. - Rocher đưa tay chỉ những cây nến đang cháy đặt rải rác khắp nơi. - Một phần trong nỗ lực tìm kiếm của chúng tôi đấy.
- Những nỗ lực chắc chắn không đem lại kết quả.
Rocher gật đầu…
Kohler lại chịu thêm một cơn ho nữa. Rất có thể đây sẽ là một trong những cơn ho cuối cùng trong đời ông ta. Dù sao thì Kohler cũng chẳng muốn thế chút nào.
Khi hai người lên đến tầng trên cùng và sắp sửa rẽ vào hành lang dẫn tới phòng làm việc của Giáo hoàng thì bốn người lính gác Thuỵ Sĩ hớt hải chạy đến:
- Thưa đại tá, ngài đang làm gì vậy? Chúng tôi tưởng là người này có thông tin về…
- Ông ấy yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với Giáo chủ Thị thần.
Những người lính lùi lại, vẻ hoài nghi.
- Vào báo với Giáo chủ Thị thần ngay. - Rocher ra lệnh. - Giám đốc của CERN, ông Maximilian Kohler đã có mặt ở đây, và muốn gặp ngài ngay lập tức.
- Tuân lệnh. - Một người lính nhận lệnh, và lập tức chạy lên trước.
Những người lính còn lại vẫn đứng im. Họ chằm chằm nhìn Rocher, vẻ không hài lòng.
- Từ từ đã, thưa chỉ huy. Việc thông báo có khách vào tiếp kiến Giáo chủ Thị thần là của chúng tôi chứ.
Kohler không thèm dừng lại ông bấm nút, cho xe ngoặt hẳn sang một bên, tránh mấy người lính gác.
Mấy người cũng quay phắt lại và chạy theo chiếc xe lăn.
- Dừng lại đã, thưa ông!
Kohler chẳng ưa gì bọn họ. Thậm chí những người lính gác ưu tú nhất cũng không tránh khỏi cảm giác thương hại thông thường đối với những kẻ không may bị tàn tật. Nếu Kohler là người bình thường thì hẳn sẽ bị bọn họ tấn công ngay lập tức. Đã tàn tật thì còn được tích sự gì nữa , Kohler thầm nghĩ. Hay đúng hơn là người đời vẫn nghĩ thế .
Kohler biết thời gian không còn nhiều, và ông cần phải hoàn thành sứ mệnh của mình. Rất có thể đêm nay ông sẽ phải chết ở đây nhưng chẳng có gì đáng kể. Ông sẵn sàng trả giá bằng chính mạng sống của mình. Cả đời ông đã phải chịu đựng quá nhiều, và một người như Giáo chủ Thị thần Ventresca không được phép làm hỏng thành quả của ông.
- Thưa ông ! - Những người lính chạy vượt lên trước. rồi đứng thành hàng ngang chắn trước chiếc xe lăn. - Ông phải dừng lại ngay ! - Một người lính rút súng chĩa thẳng vào người Kohler.
Kohler dừng lại.
Rocher bước lên, vẻ hối lỗi:
- Xin lỗi ông Kohler. Chỉ chốc lát thôi ạ Không ai được phép vào phòng làm việc của Giáo hoàng mà không thông báo trước.
Nhìn sâu vào mắt viên đại tá, Kohler biết là không còn cách nào khác. Tốt thôi , ông thầm nghĩ. Chúng ta cùng đợi vậy .
Như thể những người lính này đã cố tình bắt Kohler phải dừng lại trước một cái gương lớn choán cả một mảng tường. Nhìn thấy hình ảnh méo mó dị dạng của mình, Kohler bất giác lùi lại.
Rồi ngay tức thì, cảm giác căm phẫn dồn nén bao lâu lại bừng bừng dâng lên, khiến ông thấy tràn đầy sức mạnh đối với kẻ thù của chính mình. Chính những kẻ này đã tước mất của ông sự uy nghiêm của một con người. Chính vì những kẻ này mà cả đời ông không một lần được gần gũi phụ nữ… và cũng chẳng một lần có thể đứng thẳng dậy để nhận những giải thưởng được trao tặng. Chân lý của các người là gì nào? Bằng chứng đâu? Một cuốn sách chỉ toàn những câu chuyện ngụ ngôn cổ lỗ sĩ ư? Những lời hứa hão về Phép màu nhiệm ư? Trong khi khoa học đang từng ngày mang lại biết bao điều kỳ diệu!
Kohler nhìn vào đôi mắt lạnh lẽo của chính bản thân mình. Đêm nay ta có thể chết trong bàn tay của tôn giáo, ông thầm nghĩ. Nhưng đây đâu phải là lần đầu.
Trong thoáng chốc, Kohler lại thấy mình là cậu bé 11 tuổi, nằm trên gi.ường, trong biệt thự của cha mẹ tại Frankfurt. Tấm đệm trải gi.ường hảo hạng nhất châu Âu dưới lưng cậu bé ướt sũng mồ hôi. Chú bé Max cảm giác như đang bị thiêu đốt, toàn thân đau như xé. Suốt hai ngày nay, cha mẹ vẫn quỳ bên gi.ường và ra sức cầu nguyện. Trong góc phòng là ba người thầy thuốc giỏi nhất thành phố Frankfurt.
- Tôi khẩn thiết yêu cầu các vị suy nghĩ cho kỹ càng! - Một người lên tiếng. - Trông thằng bé kìa! Sốt cao thế kia cơ mà. Nó đang phải chịu đau đấy. Nguy cấp lắm rồi!
Chưa cần mẹ phải lên tiếng Max đã biết bà sẽ nói gì.
- Chúa sẽ che chở cho thằng bé!
Đúng thế , Max thầm nghĩ. Chúa sẽ che chở cho mình . Niềm tin mạnh mẽ của mẹ khiến chú thấy vững tâm. Chúa sẽ che chở cho mình.
Một giờ sau, Max cảm thấy như toàn thân đang bị nghiền nát, không còn đủ sức để khóc lóc, để hít thở nữa.
- Con ông bà bị đau quá. - Một vị thầy thuốc nói - Hãy để tôi làm dịu cơn đau cho thằng bé. Chỉ cần tiêm một mũi là sẽ…
- Không cần ! - Thậm chí chẳng thèm ngước mắt lên, cha của Kohler gạt phắt, rồi lại tiếp tục cầu nguyện.
- Cha ơi, con xin cha! - Max muốn thét lên, - cha hãy đồng ý đi!
Nhưng tiếng kêu của cậu, bị một cơn ho dữ dội át đi. Một giờ sau, cơn đau càng tồi tệ hơn.
- Con trai ông bà có thể bị bại liệt đấy. - Một người thầy thuốc tỏ ra cáu kỉnh. - Thậm chí còn mất mạng ấy chứ! Thuốc thì có sẵn đây rồi!
Frau và Herr Kohler nhất định không đồng ý. Họ không tin vào y học. Các bác sĩ là ai mà dám can thiệp vào công việc của Chúa cơ chứ? Và hai người cứ ra sức cầu nguyện. Chúa đã ban cho họ thằng bé, hà cớ gì lại cướp nó đi cơ chứ? Mẹ của Max thì thầm vào tai chú, khuyên chú hãy can đảm. Bà nói rằng Người đang thử thách Max… giống như đã thử thách Abraham trong kinh thánh… để xem đức tin của cậu có mạnh mẽ không.
Max cố giữ niềm tin, nhưng cơn đau mỗi lúc một dữ dội thêm.
- Tôi không thể đứng nhìn cảnh này được nữa! - Cuối cùng một bác sĩ vừa nói vừa chạy khỏi phòng.
Đến bình minh, Max gần như đã bất tỉnh, toàn thân đau đớn.
Chúa Giê-su đâu rồi? Chú bé tự hỏi. Chúa không rủ lòng thương đối với mình sao ? Dường như sự sống đang từ từ rút khỏi cơ thể bé nhỏ của cậu.
Mẹ đã ngủ thiếp đi, tay vẫn nắm chặt bàn tay cậu bé. Còn cha thì đứng bên cửa sổ, mắt trân trân nhìn lên trời, như thể đã bị thôi miên. Cha vẫn đang đọc kinh cầu nguyện.
Max thấy một bóng người tiến lại gần. Có phải là thiên thần không ? Cậu bé gần như không còn nhìn thấy gì nữa, vì hai mắt đã sưng húp lên. Tai chú nghe thấy những lời thì thầm, của người, không phải của thiên thần. Giọng của một vị thầy thuốc… người đã có mặt trong phòng suốt hai ngày nay, đã ra sức thuyết phục cha mẹ cho Max dùng loại thuốc mới nhập về từ Anh quốc.
- Nếu không làm thế này thì ta sẽ không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân mình. - Người thầy thuốc nói khẽ, rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay gầy guộc của Max. - Đáng ra ta phải làm thế này từ lâu rồi.
Max cảm thấy một mũi kim xuyên vào d.a thịt - chẳng thấm tháp vào đâu so với những đau đớn khủng khiếp chú đang phải trải qua.
Rồi vị thầy thuốc gói ghém dụng cụ. Trước khi ra về, ông còn đặt một bàn tay lên trán cậu bé.
- Liều thuốc này sẽ cứu được mạng sống của cháu. Ta tin vào sức mạnh của y học.
Chỉ mấy phút sau, Max cảm thấy một luồng hơi ấm kỳ diệu chạy khắp các huyết mạch, xoa dịu cảm giác đau đớn. Chú bé ngủ thiếp đi, giấc ngủ đầu tiên sau mấy ngày vật vã.
Khi Kohler dứt cơn sốt, cha mẹ sung sướng khẳng định rằng đó chính là phép màu nhiệm của Chúa, để rồi lại phải thất vọng khi nhận ra cậu bé đã trở thành tàn tật. Kohler được đặt lên xe lăn, đưa đến nhà thờ.
- Nhờ có phép màu của Chúa nên cậu bé này mới có thể vượt qua được cái chết. - Linh mục nói.
Max chỉ lắng nghe, không nói gì.
- Nhưng con của chúng con không đi lại được nữa rồi! - Frau Kohler chảy nước mắt nói.
Linh mục buồn bã gật đầu đáp:
- Phải. Có lẽ Người đã trừng phạt thằng bé này vì thiếu đức tin.
- Thưa ông Kohler. - Người lính gác ban nãy chạy vượt lên đã quay lại. - Giáo chủ Thị thần đã đồng ý tiếp ông.
Miệng làu bàu, Kohler lập tức di chuyển dọc hành lang.
- Ngài tỏ ra ngạc nhiên về cuộc viếng thăm của ông. - Người lính nói.
- Rõ rồi. - Kohler đáp. - Tôi muốn được gặp riêng ngài.
- Không được đâu. Người lính gác trả lời. - Không ai được phép…
- Trung uý! - Rocher lập tức ngắt lời - Cuộc gặp sẽ như ý ông Kohler.
Người lính tròn mắt nhìn chỉ huy, vẻ đầy hoài nghi.
Trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng, Rocher đồng ý cho những người lính gác làm thủ tục an ninh trước khi Kohler vào trong phòng. Thiết bị dò kim loại trên tay họ gần như bị vô hiệu hoá hoàn toàn bởi những thiết bị điện tử gắn nhằng nhịt trên xe lăn của Kohler. Những người lính cũng bật máy lên, nhưng vì thương hại thân hình què quặt cửa ông nên chỉ rà soát chiếu lệ.
Họ không phát hiện được khẩu súng lục giấu dưới ghế ngồi, cũng chẳng tìm thấy vật kia… Thứ sẽ đóng dấu chấm hết một cách hoàn hảo cho chuỗi sự kiện dày đặc trong buổi tối nay.
Khi Kohler vào phòng, Giáo chú Thị thần đang quỳ bên lò sưởi để cầu nguyện. Ngài không quay sang nhìn ông.
- Ông Kohler đấy à? - Giáo chủ Thị thần nói - Ông đến đây để biến ta thành một con chiên tử vì đạo phải không?
 
Trong lúc ấy, con đường hẻm chật hẹp mang tên Il Passetto vẫn đang trải dài ra trước mặt Langdon và Vittoria khi cả hai đang hối hả lao về phía toà thánh. Cây đuốc trên tay Langdon chỉ có thể toả sáng một cách yếu ớt. Lối đi rất thấp và hẹp.
Không khí âm u ẩm ướt. Langdon cứ thế lao thẳng vào vùng tối trước mặt, còn Vittoria thì theo sát gót anh.
Ra khỏi lâu đài St. Angelo, con đường bắt đầu hướng lên cao, hai người đi qua tầng hầm của một thành luỹ bằng đá na ná giống một cái cống dẫn nước thời La Mã. Sau đó, con đường lại thoải ra, bắt đầu dẫn họ vào bên trong toà thánh.
Vừa chạy, đầu Langdon vừa ong lên vì biết bao khuôn mặt cứ hiện ra, xoay đảo: Kohler, Janus, tên sát thủ, Rocher… lại còn biểu tượng thứ sáu nữa chứ! Chắc ông bạn chưa bao giờ nghe nhắc tới biểu tượng thứ sáu này chứ gì? Tên sát thủ đã nói với anh thế. Đó chính là biểu tượng tuyệt hảo nhất . Rõ ràng là Langdon chưa bao giở nghe nói đến nó. Thậm chí cả trong những tài liệu về các âm mưu bí mật của Illuminati, anh cũng chưa bao giờ đọc được bất kỳ thông tin gì về nó. Không hiểu là thật hay chỉ là huyễn hoặc, nhưng những lời đồn về một nén vàng khối hoàn hảo và viên kim cương Illuminati không một vết xước thì có tồn tại, còn về biểu tượng thứ sáu thì chưa một tài liệu nào nhắc đến.
- Kohler không thể là Janus! - Vittoria vừa chạy vừa tuyên bố. -Không thể có chuyện đó!
"Không thể" là từ mà tối nay Langdon đã tạm thời loại khỏi vốn từ vựng của mình.
- Chẳng biết nữa. - Langdon cũng vừa chạy vừa đáp - Kohler vốn rất ghét tôn giáo, và ảnh hưởng của ông ta cũng rất lớn.
- Cuộc khủng hoảng này khiến cho CERN trở thành quỷ dữ trong con mắt của công chúng. Mà Max thì không đời nào làm bất kỳ điều gì có thể gây tổn hại đến danh tiếng của CERN!
Ở một khía cạnh nào đó thì đúng là tối nay danh tiếng của CERN đã bị tổn hại nặng nề, tất cả là vì Illuminati cứ nhất mực muốn cho câu chuyện trở nên ầm ỹ. Tuy nhiên, cũng cần phải cân nhắc xem thực ra CERN đã bị tổn hại đến mức độ nào. Sự chỉ trích của nhà thờ vốn chẳng có gì là mới lạ đối với CERN. Càng nghĩ, Langdon càng phải thừa nhận rằng thật ra sự kiện này có thể đã mang lại lợi ích rất to lớn cho CERN. Đây đúng là một màn quảng cáo độc chiêu, và trong đêm nay, phản vật chất chính là một món hời cực lớn. Cả thế giới đang nói về nó.
- Em còn nhớ người sáng lập CERN, ông P. T. Barnum đã nói gì không? - Langdon vừa chạy vừa ngoái đầu lại hỏi. - "Tôi không cần biết các vị nói gì về tôi, điều quan trọng là lúc này cả thế giới đã biết đến tên tuổi của tôi!" Anh cá là lúc này khối người đang xếp hàng chờ mua bản quyền của công nghệ phản vật chất rồi đấy. Nhất là sau khi được tận mắt chứng kiến sức mạnh của nó vào lúc nửa đêm hôm nay.
- Không hợp lý. - Vittoria đáp. - Thể hiện sức mạnh huỷ diệt kiểu này đâu phải là cách thích hợp cho việc công bố một phát kiến có tính đột phá trong khoa học! Việc này sẽ rất có hại cho phản vật chất đấy!
Cây đuốc trên tày Langdon đang lụi dần.
- Nhỡ đâu mọi việc đơn giản hơn chúng ta tưởng. Nhỡ đâu Kohler lầm tưởng rằng Vatican sẽ giữ kín câu chuyện về hộp phản vật chất, rằng họ không muốn công khai mọi chuyện, vì làm thế có nghĩa là khẳng định với công chúng rằng Illuminati quả thực tồn tại và có một sức mạnh đáng gờm. Kohler đã lầm tưởng rằng Vatican sẽ giữ thói quen im lặng như mọi khi, nhưng không ngờ Giáo chủ Thị thần đã không làm thế.
Vẫn tiếp tục sải bước, Vittoria không nói gì.
Langdon chợt nghĩ ra.
- Đúng rồi! Kohler không thể ngờ Giáo chủ Thị thần sẽ phản ứng theo kiểu này. Ngài đã phá vỡ thông lệ của toà thánh, và nói toàn bộ sự thật cho công chúng được biết. Vì Chúa, Ngài lại còn cho truyền hình ảnh cái hộp phản vật chất trên ti-vi. Đó là một nước cờ tuyệt vời, và Kohler không thể ngờ được. Illuminati bị một vố gậy ông đập lưng ông, đã thế toàn bộ sự việc lại còn khiến cho Giáo chủ Thị thần bộc lộ tố chất tiềm ẩn của một vị thánh trong bản thân ngài. Thế là Kohler đến tận nơi để sát hại ngài!
- Max là đồ đểu giả. - Vittoria tuyên bố, - nhưng không thể là kẻ giết người. Và ông ta không thể nào dính líu vào âm mưu sát hại cha em.
Câu trả lời của Kohler vang lên rành rọt trong tâm trí Langdon. Nhiều nhà khoa học khác ở CERN cũng đồng ý rằng Leonardo là một thành phần nguy hiểm. Kết tội khoa học và Chúa trời là điều cấm kỵ về mặt khoa học.
- Biết đâu mãi gần đây Kohler mới biết sự thật về phản vật chất và không thích những hàm ý về tôn giáo của dự án này.
- Vì thế mà ông ấy cho người giết cha của em à? Lố bịch! Mà Kohler cũng không thể nào biết đến dự án của cha con em.
- Biết đâu trong lúc em không có nhà thì chính cha em đã phá vỡ quy ước và đến xin lời khuyên của Kohler. Chính em đã kể rằng ông rất băn khoăn về ý nghĩa đạo đức của phát kiến vĩ đại này.
- Xin lời khuyên của Kohler ư? - Vittoria khịt mũi. - Em không tin có chuyện đó!
Đường hầm bắt đầu. chạy chếch về hướng Tây. Họ phải ráng sức chạy thật nhanh, vì cây đuốc đang lụi dần đi. Không hiểu sau khi lửa tắt thì mọi thứ sẽ thế nào. Tối thui.
- Đã thế sáng nay Kohler còn mất công gọi điện cho anh nhờ giúp đỡ làm gì? - Vittoria nói tiếp, - nếu chính ông ta là người chủ mưu?
Langdon đã nghĩ đến điều này.
- Gọi cho anh là cách để ông ta che giấu hành động của mình. Ông ta không muốn bị buộc tội là tỏ ra bàng quan không hành động gì hết. Có thể là ông ta không ngờ chúng ta lại tiến được xa đến thế này.
Nghĩ đến khả năng mình bị lợi dụng một cách chủ tâm khiến Langdon cảm thấy đôi chút hãnh diện. Sự góp mặt của anh trong màn kịch này đã khiến cho thanh danh của Illuminati được tôn thêm đáng kể. Suốt cả buổi tối nay, bao nhiêu đài truyền hình thi nhau kề ra những công trình nghiên cứu và các sách xuất bản của cá nhân anh. Kể cũng buồn cười, sự hiện diện của một vị giáo sư đại học Harvard tại thành Vatican đã khiến cho những người hay hoài nghi cũng buộc phải tin rằng Illuminati không chỉ là một cái tên trong lịch sử, một sản phầm của những bộ óc hoang tưởng, mà là một thế lực thực sự tồn tại trong cuộc đời thật, một thế lực không thể xem nhẹ.
- Anh chàng phóng viên của đài BBC tin rằng CERN chính là sào huyệt thời hiện đại của Illuminati. - Langdon bảo Vittoria.
- Sao? - Vittoria vấp ngã. Cô gái lồm cồm bò dậy rồi chạy theo anh. - Anh ta nói thế thật sao?
- Trên làn sóng điện, anh ta so sánh CERN với đại bản doanh của hội Tam Điểm - một tổ chức đã từ lâu chứa hội Illuminati trong nội bộ mà không hề biết.
- Chúa ơi, thế này thì CERN sụp đổ đến nơi rồi!
Langdon không dám chắc như vậy. Nhưng dù sao thì giả thuyết đó cũng không còn quá hoang tưởng nữa. CERN chính là thiên đường của khoa học. Nó đã trở thành ngôi nhà chung của các nhà khoa học từ hơn một chục quốc gia trên thế giới, với những nguồn tài trợ bất tận từ khu vực tư nhàn. Mà Maximilian Kohler lại là người giữ chiếc ghế giám đốc.
Kohler chính là Janus.
- Nếu Kohler không liên can thì ông ta đến đây để làm gì? Langdon nói với vẻ thách thức. - Rất có thể chỉ để giúp một tay. Đề góp phần giải quyết khủng hoảng. Rất có thể ông ta chính là người Từ tâm thật sự ! Biết đâu ông ấy đã biết sự thật về dự án phản vật chất và muốn chia sẻ thông tin…
- Tên sát thủ nói rằng ông ta đến để đóng dấu sắt nung lên người Giáo chủ Thị thần.
- Quá kỳ quặc! Đó sẽ là một hành động tự sát. Kohler không thể toàn mạng ra khỏi toà thánh được!
Langdon cân nhắc. Cũng có thể đây chính là mấu chốt của vấn đề.
Phía trước lờ mờ hiện ra một cánh cửa bằng thép chặn ngang lối đi xuống đường hầm. Tim Langdon gần như ngừng đập. Tuy nhiên, khi đến gần, hai người phát hiện ra khoá cửa đã được mở.
Cổng để ngỏ.
Langdon thở phào nhẹ nhõm. Anh đã phán đoán chính xác, đường hầm cổ xưa này vẫn còn được sử dụng. Cho đến tận gần đây, đặc biệt là trong ngày hôm nay. Lúc này anh gần như khẳng định chắc chắn rằng trước đó bốn vị Hồng y Giáo chủ đã bị đưa ra ngoài bằng lối này.
Họ tiếp tục chạy. Tiếng huyên náo trên quảng trường St. Peter vang vào đến tận dây. Họ đã đến rất gần nơi đó.
Lại có cánh cửa thứ hai, nặng hơn cái trước. Khoá cũng đã được mở sẵn. Lúc này tiếng ầm ỹ trên quảng trường St. Peter chỉ còn vọng vào một cách yếu ớt, Langdon đoán chừng họ đã vượt qua bức tường bao quanh toà thánh. Không hiểu con đường này sẽ dẫn đến địa điểm nào trong thành Vatican. Đến vườn chăng? Hay vào trong Đại thánh đường? Hay đến tận phòng của Đức Thánh Cha?
Thế rồi, bất thình lình, lối đi ngầm chấm dứt.
Hai cánh cửa chặn trước mặt Langdon và Vittoria trông chẳng khác gì một bức tường thép dày đặc những đinh tán. Trước khi ngọn đuốc tắt ngấm, Langdon còn kịp nhận thấy đây là loại cửa cực kỳ chắc chắn - không có tay cầm không quả đấm, không lỗ tra chìa khoá, không bản lề. Không cách gì mở ra được. Anh cảm thấy hốt hoảng. Theo cách nói của giới kiến trúc sư thì đây là loại cửa senza chiave - cửa mở một chiều, chỉ có thể mở được tử một bên - bên kia. Hi vọng của Langdon tắt ngấm, cùng lúc với ngọn đuốc trên tay anh.
Langdon giơ tay nhìn đồng hồ. Chú chuột Mickey vẫn đang sáng lấp loáng.
11 giờ 29 phúti.
Gào lên đầy bực tức, Langdon quăng cây đuốc, và bắt đầu đấm thình thình vào cánh cửa.
- Có điều gì đó không ổn.
Đứng gác trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng, trung uý Chartrand quan sát dáng vẻ bất an của người đồng đội đang đứng gác với mình. Cả hai đều cảm thấy có điều gì đó bất thường. Rocher đã nói rằng cuộc gặp rất riêng tư này có thể cứu nguy cho Vatican. Thế mà không hiểu sao linh tính cứ khiến Chartrand cảm thấy bồn chồn lo lắng. Mà tại sao Rocher lại hành xử lạ lùng đến thế không biết.
Rõ ràng là có gì đó không ổn.
Đại tá Rocher đứng bên phải Chartrand, mắt nhìn thẳng về phía trước, ánh mắt xa xăm một cách dị thường. Chartrand gần như không nhận ra người chỉ huy của mình nữa. Trong một giờ đồng hồ vừa qua, Rocher bỗng thay đổi hẳn. Tất cả những quyết định ông ta đưa ra đều hết sức vô lý.
Đáng ra phải có người vào trong mà gác mới đúng chứ! Chartrand thầm nghĩ. Anh nghe tiếng cài then cửa ngay sau khi Maximilian Kohler vào trong phòng. Tại sao Rocher lại cho phép điều này xảy ra cơ chứ?
Nhưng một chuyện khác còn làm cho Chartrand lo lắng nhiều hơn. Các vị Hồng y . Họ vẫn bị khoá trái trong nhà nguyện Sistine.
Đúng là điên rồ . Giáo chủ Thị thần đã ra lệnh sơ tán các vị ấy từ cách đây 15 phút. Nhưng Rocher không thi hành mệnh lệnh, cũng không hề báo cáo lại với Giáo chủ Thị thần. Và Chartrand đã suýt mất mạng vì dám đề cập đến chuyện đó. Theo điều lệnh của đội lính gác Thuỵ Sĩ, bất tuân thượng lệnh là điều bị cấm ngặt. Mà lúc này thì Rocher là người chỉ huy ở cấp cao nhất.
Nửa giờ nữa , Rocher thầm nghĩ, mắt kín đáo liếc nhìn chiếc đồng hồ đếm ngược đang đeo ở cổ tay. Làm ơn nhanh lên đi.
Chartrand ao ước giá anh có thể nghe được những gì đang xảy ra đằng sau cánh cửa này. Tuy nhiên, anh tin chắc rằng Giáo chủ Thị thần sẽ biết cách đối phó với mọi tình huống. Đêm nay, dù đã bị đặt vào một tình huống thật khó khăn, song ngài vẫn không hề nao núng. Ngài đã ngẩng cao đầu đối mặt với thử thách, đã phản ứng một cách bộc trực, chân thật, và đã toả sáng tuyệt vời. Chartrand cảm thấy tự hào được làm một con chiên của Chúa. Illuminati quả là đã sai lầm khi dám đối đầu với một người như Giáo chủ Thị thần Ventresca.
Nhưng rồi dòng suy nghĩ của Chartrand bị cắt ngang bởi những tiếng động rất bất thường. Tiếng đập cửa vang lên từ phía cuối hành lang. Những âm thanh vọng lại từ rất xa, nhưng liên tục không ngừng nghỉ. Rocher ngước nhìn lên. Ông ta quay sang ra hiệu cho Chartrand. Người trung uý trẻ hiểu ngay. Anh bật đèn pin và tiến về phía đó.
Tiếng đập cửa càng trở nên gấp gáp hơn. Chạy dọc theo hành lang được khoảng 10 mét thì Chartrand đến một chỗ ngoặt. Hình như tiếng động vọng ra từ một góc khuất, đằng sau Sala Clementina. Chartrand bối rối. Phía đằng ấy chỉ có một căn phòng duy nhất - thư viện riêng của Đức Thánh Cha. Căn phòng vẫn khoá im ỉm từ sau khi người tạ thế. Làm sao có thể có người trong ấy được!
Chartrand hối hả tiến đến bên hành lang thứ hai, rẽ ngoặt ở một góc, rồi lao vào cửa thư viện. Cánh cửa hẹp bằng gỗ đứng im lìm trong bóng tối, y như một người lính gác cần mẫn. Tiếng đập cửa vang lên từ đâu đó đằng sau cánh cửa gỗ này. Chartrand do dự. Giống như đa số mọi người trong toà thánh, anh chưa bao giờ vào trong thư phòng riêng của Đức Thánh Cha. Nếu không được đích thân Đức Thánh Cha dẫn vào thì không một ai được vào đây!
Ngập ngừng, Chartrand giơ tay cầm quả đấm cửa và xoay.
Đúng như dự đoán, cửa khoá. Anh áp tai vào cánh cửa. Tiếng đập thình thình nghe rõ hơn hẳn. Rồi còn có cả tiếng gì đó nữa. Tiếng người! Có người đang gọi!
Chartrand không nghe nổi từng lời, nhưng rõ ràng là những người này đang rất sợ hãi. Hay có người bị mắc kẹt trong thư viện? Hay là tại đội lính gác Thuỵ Sĩ sơ tán người không hết? Chartrand do dự, nghĩ đến khả năng quay lại báo cáo với Rocher. Gã chỉ huy chết tiệt. Người ta đã được huấn luyện để tự đưa ra quyết định, và giờ là lúc làm điều đó. Người trung uý trẻ tuổi rút cây súng đeo bên mình, bắn một phát vào then cửa. Mảnh gỗ văng tung tóe, cửa mở bung ra.
Bên trong tối om, chẳng trông thấy gì. Chartrand bật đèn pin. Căn phòng này hình chữ nhật, trải những tấm thảm phương Đông, hàng kệ đóng bằng gỗ sồi cao ngất chất nặng những sách, một chiếc gi.ường bọc da, và một bệ lò sưởi lát đá cẩm thạch. Đã có vô số câu chuyện về căn phòng này được người ta truyền tai nhau - 3000 cuốn sách cổ cùng với hàng trăm loại tạp chí khoa học hiện đại, tất cả những gì Đức Thánh Cha yêu cầu. Trên bàn trà bày la liệt những tạp chí định kỳ chuyên về khoa học và chính trị.
Tiếng đập cửa lúc này đã nghe rõ hơn. Chartrand lia đèn về phía phát ra tiếng động. Từ mảng tường phía xa, đằng sau dãy ghế, là một cánh cửa sắt rất to trông hệt như một lô cốt, những bốn ổ khoá to tướng. Chính giữa cánh cửa là một hàng chữ nhỏ khắc bằng axít, những con chữ khiến Chartrand ngập thở.
IL PASSETTO
Chartrand trợn tròn mắt. Đường hầm thoát hiểm bí mật của Giáo hoàng! Anh đã nghe kể về đường hầm này, nhưng nó đã bị lãng quên từ mấy thế kỷ nay cơ mà! Ai có thể đứng ở bên kia cánh cửa mà đập cơ chứ?
Chartrand gõ gõ cây đèn pin lên cánh cửa. Những người bên kia có vẻ rất mừng rỡ. Tiếng đập thình thình ngừng lại, và tiếng người nói nghe rõ hơn. Cánh cửa sắt dày gắn như bóp méo tất cả mọi âm thanh.
- Kohler… nói dối… Giáo chủ Thị thần…
- Ai đấy? - Chartrand hỏi sang.
- Robert Langdon… Vittoria Ve…
Chartrand chẳng hiểu gì. Mình tưởng hai người này chết rồi cơ mà!
- Cửa… mở ra…!
Nhìn cánh cửa đồ sộ bằng sắt, Chartrand biết phải dùng đến thuốc nổ thì mới hi vọng phá được.
- Không được đâu! - Anh trả lời. Dày lắm!
- Cuộc gặp… chặn… thị thần… nguy hiểm…
Dù đã được tôi luyện qua nhiều tình huống hiểm nghèo, Chartrand vẫn sợ run lên khi nghe được những lời sau cùng. Mình có nghe nhầm không đây? Tim đập thình thịch, anh quay người định chạy về phòng làm việc của Giáo hoàng, rồi lại dừng lại ngay lập tức. Anh vừa nhìn thấy trên cánh cửa, một thứ còn đáng sợ hơn cả thông tin vừa nghe được. Chìa khoá cắm ở tất cả các ổ khoá trên cánh cửa. Chartrand trợn tròn mắt. Chìa khoá ở đây sao? Anh không dám tin vào mắt mình. Những chiếc chìa này đáng ra phải được cất giữ trong nhà vòm bí mật! Lối đi này có ai dùng bao giờ đâu! Từ mấy thế kỷ nay cơ mà!
Chartrand đặt đèn pin xuống đất. Anh xoay chiếc chìa thứ nhất. Ổ khoá đã gỉ, hơi rít, nhưng vẫn hoạt động. Có người vừa mới mở cánh cửa này. Chartrand xoay chiếc chìa thứ hai. Rồi chìa tiếp theo.
Khi cái then cuối cùng đã bật ra, anh đầy mạnh. Cánh cửa nặng nề xoay. Chartrand nhặt đèn lên, soi vào trong đường hầm.
Loạng choạng bước vào thư phòng, Robert Langdon và Vittoria Vetra trông chẳng khác gì hai con ma hiện hình. Mệt mỏi, tả tơi, nhưng còn sống.
- Thế này nghĩa là sao? - Chartrand hỏi. - Có chuyện gì thế Sao hai người lại ở đây?
- Max Kohler đâu rồi? - Langdon hỏi ngay.
Chartrand giơ tay chỉ.
- Ông ta đang gặp riêng Giáo chủ…
Langdon và Vittoria lao ngay ra ngoài hành lang. Chartrand quay phắt lại, theo bản năng anh ta chĩa súng vào lưng họ, để rồi lại hạ súng xuống và chạy theo. Chắc chắn là Rocher đã nghe tiếng chân chạy, nên khi họ vừa xuất hiện trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng thì ông ta đã đứng sẵn sàng, chân choãi ra, súng giương sẵn:
- Đứng lại!
- Giáo chủ Thị thần đang gặp nguy hiểm! - Langdon dừng phắt lại, giơ tay lên trời, miệng la lớn. - Mở cửa ra đi! Max Kohler sắp sát hại Giáo chủ Thị thần!
Rocher có vẻ rất bực bội.
- Mở cửa ra! - Vittoria kêu lên. - Ngay lập tức!
Nhưng đã quá muộn.
Một tiếng thét kinh hoàng vọng ra từ phòng làm việc của Giáo hoàng. Đó là giọng của Giáo chủ Thị thần.
 
Cuộc đối đầu chỉ kéo dài vài giây đồng hồ.
Khi tiếng thét kinh hoàng của Giáo chủ Thị thần còn chưa kịp dứt thì trung uý Chartrand đã bước qua Rocher, dùng súng bắn tung then cửa. Những người lính gác nhất loạt lao vào trong.
Langdon và Vittoria chạy theo sau.
Cảnh tượng bày ra trước mặt họ thật kinh hoàng.
Căn phòng hiện ra mờ ảo trong ánh nến và ánh lửa yếu ớt của lò sưởi đang lụi dần. Kohler đang đứng ngay trước chiếc xe lăn của ông ta ở gần lò sưởi, dáng vẻ vụng về, tay chĩa khẩu súng về phía Giáo chủ Thị thần. Còn vị thầy tu trẻ tuổi thì đang quằn quại đau đớn ngay dưới chân ông ta. Chiếc áo thầy tu của ngài bị xé toạc, và bộ ngực trần của ngài bị đóng dấu sắt nung, đen sì.
Từ xa, Langdon chưa thể nhận ra biểu tượng đó, nhưng một vật to lớn, hình vuông đang nằm chỏng trơ trên sàn, ngay sát chân Kohler. Sắt vẫn còn đỏ nguyên chưa kịp nguội hết.
Hai người lính gác hành động ngay tức thì. Họ khai hoả. Đạn găm đầy ngực Kohler, khiến ông ta bật ngửa ra sau rồi ngã vật xuống xe lăn. Khẩu súng trên tay văng xuống sàn.
Langdon sững sờ, đứng như trời trồng ở cửa ra vào.
Vittoria dường như cũng đờ người ra.
- Max… - cô thì thào.
Vẫn trong tư thế nằm, trên sàn, Giáo chủ Thị thần quay sang Rocher, ánh mắt đầy khiếp hãi, chẳng khác gì những tu sĩ thời Trung cổ vừa vạch mặt một mụ phù thuỷ độc ác. Ngài chỉ thẳng tay vào mặt Rocher, hét lên:
- Illuminati!
- Đồ súc sinh! - Rocher đốp lại, - Đồ đạo đức giả dối…
Lần này thì Chartrand đã hành động theo bản năng, anh bắn ba phát vào giữa lưng Rocher. Viên đại tá ngã sấp mặt xuống sàn, và trượt một đoạn khá dài trên vũng máu tuôn ra từ chính th.ân thể của ông ta. Cùng những người lính khác, Chartrand chạy tới bên Giáo chủ Thị thần đang quằn quại đau đớn.
Cả mấy người lính đều thét lên kinh hãi khi trông thấy vết bỏng sạm đen trên ngực vị thầy tu trẻ tuổi. Người lính thứ hai nhìn thấy vết thương ngược từ dưới lên, và khiếp hãi đến mức phải lùi phắt lại phía sau. Cũng cảm thấy vô cùng khiếp đảm, Chartrand kéo vạt áo của ngài lên, che kín vết thương.
Chân bước vào trong phòng, đầu óc Langdon như mê mụ đi. Anh không lý giải nổi những bạo lực và cuống tín đang bày ra trước mắt. Làm sao một nhà khoa học tàn tật có thể bay đến tận Vatican để đóng dấu sắt nung lên ngực quan chức cao cấp nhất của toà thánh. Có những thứ đáng để ta xả thân, tên sát thủ đã nói thế. Không hiểu bằng cách nào mà một người tàn phế như Max có thể đánh bại được Giáo chủ Thị thần. Đã thế Kohler lại còn mang được súng vào tận đây. Bằng cách nào không quan trọng! Kohler đã hoàn thành sứ mạng của ông ta!
Langdon tiến lại gần. Đã có những người lính chăm sóc cho Giáo chủ Thị thần, và anh cảm thấy tò mò về biểu tượng vẫn còn đang bốc khói trên sàn ngay dưới xe lăn của Kohler. Biểu tượng thứ sáu thật sao? Càng đến gần, Langdon càng thấy khó hiểu. Biểu tượng này hình vuông, khá lớn, rõ ràng là đã được cất giữ trong ngăn giữa của chiếc hòm ở đại bản doanh của Illuminati. Biểu tượng thứ sáu, biểu tượng cuối cùng , tên sát thủ đã nói thế. Biểu tượng tuyệt vời nhất .
Quỳ xuống, Langdon chạm tay vào biểu tượng. Hơi nóng vẫn còn chưa tan hết trên bề mặt kim loại. Langdon cầm cái cán bằng gỗ nhấc lên. Dù không có chút ý niệm nào về những gì sẽ trông thấy nhưng anh vẫn hoàn toàn bị bất ngờ.

Sững sờ, Langdon nhìn chăm chăm. Không thể hiểu nổi. Tại sao người lính gác kia lại kêu thét lên kinh hãi đến thế khi trông thấy biểu tượng này? Vật thể hình vuông bằng kìm loại này chẳng có nghĩa gì cả. Biểu tượng tuyệt vời nhất? Có những chi tiết đối xứng, xoay biểu tượng một cái là thấy ngay, nhưng chẳng có ý nghĩa gì hết.
Thấy có người đặt tay lên vai, Langdon ngước nhìn lên, tưởng là Vittoria. Nhưng đó là một bàn tay bê bết máu. Là tay của Maximilian Kohler, nhoài ra từ chiếc xe lăn.
Langdon đánh rơi biểu tượng đang cầm trên tay, lảo đảo đứng dậy. Kohler vẫn chưa chết!
Đổ sụp trên xe lăn, ông ta vẫn còn thở, dù chỉ là thoi thóp. Ánh mắt hai người gặp nhau, vẫn là đôi mắt lạnh lẽo đã đón chào anh sáng sớm hôm nay tại CERN. Cận kề cái chết, khi đã bộc lộ hết những căm thù chất chứa, trông đôi mắt ấy lại càng đáng sợ. Toàn thân ông ta co quắp lại, Langdon đoán chừng con người này muốn làm gì đó. Tất cả mọi người đều đang lo lắng cho Giáo chủ Thị thần, Langdon muốn hô to lên, nhưng lại không thốt ra được lởi nào. Anh sững sờ trước xúc cảm mãnh liệt trong những giây phút cuối đởi của con người này. Run rẩy, ông giám đốc tàn tật cố sức tháo một thiết bị to bằng bao diêm gần ở tay vịn xe lãn. Ông ta chìa vật ấy về phía Langdon.
Thoạt đầu Langdon tưởng đó là vũ khí, nhưng không phải.
- Đ... đưa cho… - những lời cuối cùng của Kohler nghe thật yếu ớt - Đ… đưa cái này… cho b… báo chí. - Rồi Kohler ngã vật ra, thiết bị trên tay rơi xuống.
Kinh ngạc, Langdon chăm chăm nhìn chiếc hộp. Hoá ra là một thiết bị điện tử. Mặt trên ghi dòng chữ SONY RUVI. Hoá ra là loại thiết bị quay phim siêu nhỏ mới. Ông ta đã tính trước hết rồi?
- Chắc là Kohler đã ghi lại những hành động của mình và muốn giới truyền thông phát tán những thước phim này. Chắc lại là một thông điệp về tầm quan trọng của khoa học và sự đổi bại của tôn giáo. Nhưng đêm nay, Langdon giúp ông ta thế là đã nhiều và đã quá đủ. Không muốn để Chartrand trông thấy, Langdon bỏ ngay chiếc máy quay vào tay áo. Thông điệp cuối cùng của Kohler sẽ mục nát trong địa ngục!
Giáo chủ Thị thần lên tiếng, phá tan yên lặng. Ngài vừa nói vừa gượng ngồi dậy:
- Các vị Hồng y… - Ngài hổn hển nói với Chartrand.
- Vẫn ở trong nhà nguyện Sistine, thưa cha. - Chartrand báo cáo ngay. - Đại tá Rocher đã ra lệnh…
- Sơ tán họ ngay. Tất cả.
Chartrand ngay lập tức cử một người lính đi lo việc đó.
Giáo chủ Thị thần nhăn nhó vì đau:
- Trực thăng… ở dằng trước đưa ta đến bệnh viện.
Trên quảng trường St. Peter, người phi công thuộc đội lính gác Thuỵ Sĩ đang ngồi trong cabin máy bay trực thăng, hai tay day day thái dương. Quảng trường huyên náo đến nỗi anh không thể nghe được tiếng động cơ máy bay đang nổ đều. Thế này sao có thể gọi là buổi cầu nguyện đêm. Mà lại vẫn chưa có vụ bạo động nào nổ ra mới lạ chứ.
Chỉ còn chưa đầy 25 phút nữa là đến nửa đêm, thế mà quảng trường vẫn chật cứng. Người thì cầu nguyện, người thì khóc, một số kẻ thì đang la ó những câu chửi rủa bậy bạ rằng đây chính là kết cục mà toà thánh phải gánh chịu, trong khi những người khác thì đang dọc những vần thơ khải huyền trích trong kinh thánh.
Trong ánh sáng chói loà phát ra từ những ngọn đèn cực mạnh của giới truyền thông, người phi công thấy não bộ như bị lộn tung lên. Anh liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Thậm chí còn có cả khẩu hiệu.
PHẢN VẬT CHẤT CHÍNH LÀ PHẢN CHÚA
KHOA HỌC LÀ QUỶ SA-TĂNG
CHÚA Ở ĐÂU?
Người phi công muốn rên lên, cảm giác nhói buôt mỗi lúc một gia tăng, anh định kéo tấm kính mờ lên để khỏi phải nhìn, nhưng rồi lại thôi. Trung uý Chartrand vừa báo rằng mấy phút nữa sẽ phải cất cánh ngay. Giáo chủ Thị thần đã bị Maximilian Kohler tấn công và bị thương nặng. Cùng với người đàn ông Mỹ và cô gái, Chartrand sẽ khiêng ngài ra máy bay để chở đến bệnh viện.
Anh cảm thấy bản thân mình phải chịu một phần trách nhiệm về sự kiện không hay này. Nếu lúc ấy anh xử sự theo bản năng, thì đã chẳng có kết cục thế này. Lúc đến đón Kohler ở sân bay, anh đã cảm nhận một điều gì đó rất khác thường trong đôi mắt chết chóc của ông ta. Không hiểu vì sao, nhưng anh cảm thấy không thích ông ta chút nào. Nhưng cũng chẳng thay đổi được gì.
Rocher lúc ấy là cấp chỉ huy cao nhất, và ông ta khăng khăng rằng Kohler chính là người mà toà thánh đang cần. Rõ ràng là ông đại tá đã nhầm to.
Một loạt những tiếng reo hò vang lên từ phía đám đông, người phi công ngước nhìn lên, thấy các Hồng y Giáo chủ đang uy nghiêm tiến ra khỏi toà thánh, hướng về phía quảng trường St. Peter. Cảm giác nhẹ nhõm được thoát ra khỏi nhà nguyện Sistine đã nhanh chóng qua đi, các Hồng y đều bối rối ngỡ ngàng khi thấy quảng trường đầy chật những người.
Tiếng la ó của đám đông lại một lần nữa dậy lên. Não bộ của người phi công như bị khoan thủng. Cần phải tìm một viên aspirin. Có lẽ phải ba viên mới đủ. Thường thì anh không thích dùng bất kỳ loại thuốc nào trong khi đang bay, nhưng đau đầu đến thế này thì chẳng thể nào đừng được. Anh cúi xuống tìm túi thuốc để trong khoảng chứa đồ giữa hai ghế trước, cạnh chỗ để bản đồ và dụng cụ. Nhưng khoang chứa đồ đã bị khoá. Loay hoay tìm chìa khoá một hồi lâu, anh đành phải bỏ cuộc. Đêm nay quả là đen đủi. Người phi công lại tiếp tục day hai bên thái dương.
Trong Đại thánh đường tối om, Langdon và Vittoria cùng hai người lính canh Thuỵ Sĩ đang lần từng bước tới cửa ra vào. Không tìm được gì khác, họ đành đật Giáo chủ Thị thần lên một cái bàn hẹp để khiêng ra ngoài. Ra đến hành lang, họ bắt đầu nghe tiếng ầm ỹ từ ngoài quảng trường vọng vào. Giáo chủ Thị thần đang sắp ngất đi.
Thời gian đã sắp hết .
11 giờ 39 phút, cùng những người khác, Langdon bước ra khỏi Đại thánh đường St. Peter. Luồng ánh sáng chói loà khiến anh loá mắt. Những ngọn đèn của giới truyền thông chiếu sáng từng tấm đá cẩm thạch trắng lát trên quảng trường, như ánh mặt trời chiếu rọi xuống vùng lãnh nguyên tuyết phủ. Chói mắt, Langdon muốn nấp vào sau những cây cột khổng lồ, nhưng bị những luồng sáng rọi vào từ mọi phía. Trước mặt anh là cả một rừng những màn hình khổng lồ.
Đứng trên bậc cầu thang cao nhất nhìn xuống quảng trường, Langdon thấy mình chẳng khác gì một diễn viên bất đắc dĩ phải xuất hiện trên sân khấu. Ở đâu đó phía sau những ánh đèn chói mắt, Langdon nghe có tiếng động cơ máy bay nổ đều đều, hoà lẫn vào hàng trăm ngàn tiếng la hét. Bên tay trái, các vị Hồng y vẫn đang di chuyển thành hàng một ra quảng trường. Tất thảy vừa nhất loạt dừng. lại, nhìn lên bậc thang cao nhất dẫn vào Đại thánh đường.
- Cẩn thận nhé. - Chartrand nhắc nhở. Cả nhóm bắt đầu bước xuống cầu thang tiến về phía chiếc máy bay trực thăng.
Langdon cảm giác như anh sắp chết chìm đến nơi. Tay mỏi nhừ vì sức nặng cửa cái bàn và Giáo chủ Thị thần, anh tự hỏi liệu khoảnh khắc này còn có thể tồi tệ hơn được nữa hay không.
Ngay lập tức đã có câu trả lời. Hai phóng viên của BBC đang trên đường trở ra khu báo chí đã lập tức quay trở lại khi thấy đám đông rộ lên. Glick và Macri đang hối hả chạy lại. Chiếc máy quay trên tay Macri đang hoạt động. Lũ kền kền đã đến rồi đây , Langdon thầm nghĩ.
- Dừng lại! Lui ra! - Chartrand hét lên.
Nhưng hai phóng viên kia vẫn cứ chạy lại. Langdon đoán rằng chỉ sau 6 giây thì tất cả các hãng truyền thông khác sẽ chuyển tiếp tín hiệu của đài BBC. Sai toét. Chỉ sau có hai giây. Như thể được nối mạng bằng một loại thiết bị cảm biến toàn cầu, tất cả các đài truyền hình khác cùng đồng loạt cắt hình ảnh chiếc đồng hồ đếm ngược gắn trên hộp phản vật chất để truyền đi một hình ảnh duy nhất - bốn người đang chập choạng khiêng một cái bàn xuống cầu thang ở mặt tiền Đại thánh đường. Lúc này, quay hướng nào cũng trông thấy rõ mồn một hình ảnh Giáo chủ Thị thần đang đau đớn kiệt quệ.
Thật là quá quắt! Langdon thầm nghĩ. Anh muốn chạy xuống, bắt bọn họ phải dừng lại, nhưng điều đó là không thể. Sẽ chẳng tác dụng gì. Không hiểu vì tiếng la ó dữ dội của đám đông, hay vì tác động của bầu không khí mát lạnh, mà một điều hoàn toàn bất ngờ đã xảy ra.
Như vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng, Giáo chủ Thị thần mở choàng mắt, rồi ngồi phắt dậy. Bị bất ngờ, mọi người loạng choạng, một góc bàn chúc hẳn xuống, và Giáo chủ Thị thần bắt đầu trượt về phía đó. Mọi người cố lấy lại thăng bằng, nhưng đã quá muộn. Giáo chủ Thị thần bị trôi hẳn xuống phía trước, may mà không bị ngã. Hai chân vừa chạm xuống mặt đất, ngài đã nhổm ngay dậy. Mất phương hướng, ngài đứng im một lúc, rồi chạy thẳng về phía Macri. Không ai kịp cản vị thầy tu trẻ tuổi.
- Không! - Langdon hét lên.
Chartrand lao vụt lên, định kéo Giáo chủ Thị thần lại. Nhưng vị thầy tu này quay lại, quắc mắt bảo anh ta:
- Để mặc ta!
Chartrand chết sững.
Cảnh tượng càng trở nên tồi tệ hơn. Chiếc áo thầy tu rách tả tơi ban nãy Chartrand đậy lên ngực Giáo chủ Thị thần bắt đầu tuột xuống. Trong thoáng chốc, Langdon những tưởng nó chỉ để hở ra chút xíu. Nhưng không. Chiếc áo cứ từ từ tuột từ vai xuống đến tận thắt lưng.
Dường như chỉ trong một tích tắc, tiếng thở dốc của đám đông trên quảng trường đã vang ra khắp địa cầu và vọng trở lại nơi này. Các máy quay lập tức chĩa thẳng vào, đèn flash chớp lia lịa.
Hình ảnh bộ ngực bị đóng dấu sắt nung của Giáo chủ Thị thần hiện lên trên mọi màn hình, rõ nét đến rợn người. Một số đài truyền hình còn kịp cho dừng hình, rồi cho lộn ngược lên.
Chiến thắng tối thượng của Illuminati .
Langdon trân trối nhìn dấu sắt nung trên màn hình. Dù đã từng cầm con dấu đó trên tay, nhưng đến tận lúc này anh mới hiểu ra ý nghĩa của biểu tượng. Bất thần, sức mạnh khủng khiếp của dấu sắt nung tác động mạnh lên tâm trí của vị giáo sư đại học.
Hướng nhìn. Langdon đã quên hẳn quy tắc cơ bản nhất của biểu tượng học. Khi nào một hình vuông không còn là một hình vuông nữa ? Anh đã quên mất là dấu sắt này cũng giống như những con dấu bằng cao su khác, trông rất khác dấu khắc do chính nó tạo ra. Chúng là những vật thể nhìn ngược, và Langdon đã nhìn thấy âm bản của con dấu!

Trong tiếng ầm khủng khiếp của đám đông, anh thấy vang lên một câu trích dẫn cổ của hội Illuminati, với một ý nghĩa hoàn toàn mới: Một viên kim cương hoàn hảo, được sản sinh ra từ những yếu tố nguyên thuỷ, hoàn hảo đến mức tất cả những ai được chiêm ngưỡng nó đều phải kinh ngạc.
Giờ thì Langdon biết rằng truyền thuyết đó là thật.
Đất Khí, Lửa, Nước…
Viên kim cương Illuminati .
 
Robert Langdon tin chắc rằng cảnh hỗn loạn trên quảng trường St. Peter lúc này đã vượt xa tất cả những sự kiện mà ngọn đồi Vatican đã từng chứng kiến trong suốt quá trình lịch sử. Không có chiến trận, không có cây thập ác, không có đoàn người hành hương, không có những hình ảnh huyền bí… nhưng không một sự kiện nào khác trong suốt chiếu dài lịch sử 2000 năm của vùng đất thánh này có sức tác động mạnh mẽ và kịch tính như giây phút này.
Trước tấn bi kịch diễn ra ngay trước mắt, Langdon cảm thấy xa cách đến kỳ lạ, như thể anh và Vittoria đang bay lượn trên trời cao và vô tình thấy cảnh tượng này. Những sự kiện quá đỗi kỳ quặc như thế đã xảy ra một sự sai lệch thời gian khủng khiếp…
Giáo chủ Thị thần bị đóng dấu sắt nung lên ngực… ra sức gào thật to để cả thế giới trông thấy…
Viên kim cương Illuminati… xuất hiện trong một tình huống quỷ quái
Chiếc đồng hồ đêm ngược đang đêm nốt 20 phút cuối cùng trong lịch sử tồn tại của Vatican :
Tuy nhiên, tấn kịch mới chỉ bắt đầu mà thôi.
Như thể bất ngờ rơi vào trạng thái mộng du sau chấn thương, Giáo chủ Thị thần bỗng chốc trở nên khỏe mạnh xử sự như bị quỷ ám. Vị thầy tu này bắt đầu nói lảm nhảm, rồi ngửa mặt lên trời, hai tay đang ra lầm rầm khấn gọi những linh hồn vô hình nào đó.
- Hãy nói đi! - Giáo chủ Thị thần hướng lên trời cao, miệng thét to -Vâng, con đã nghe thấy Người!
Lúc này thì Langdon đã hiểu ra. Tim anh bỗng nặng trĩu như đeo đá.
Rõ ràng là Vittoria cũng đã hiểu ra sự việc, mặt cô gái bỗng chốc tái xanh.
- Cha bị sức nặng quá. - Cô nhận định. - Đức cha bị ảo giác mất rồi. Ngài tưởng đang nói chuyện được với Chúa.
Phải dừng ngay việc này , Langdon thầm nghĩ. Kết cục này thật là tồi tệ. Phải đưa con người khốn khổ này đến bệnh viện ngay!
Trên cầu thang, Chinita Macri đã chọn được một góc quay tốt, và vẫn tiếp tục ghi hình. Những hình ảnh từ máy quay của nữ phóng viên này lập tức được truyền lên các màn hình lớn khắp quảng trường… hệt như một loạt những rạp chiếu phim ngoài trời đang đồng loạt chiếu một bộ phận duy nhất.
Cảnh tượng trước mặt Langdon thật kỳ lạ. Ngực cháy sém, áo rách tả tơi, trông Giáo chủ Thị thần hệt như một nhà vô địch vừa vượt qua vô vàn thử thách chết người dưới chín tầng địa ngục để có được giây phút hoá thân quý giá này. Vị thầy tu trẻ ngửa mặt lên trời hô to:
- Chúa ơi, con đã nghe thấy Người!
Chartrand lùi lại, vẻ mặt đầy khiếp sợ.
Ngay lập tức, đám đông trên quảng trường im phăng phắc.
Trong chớp mắt, như thể toàn bộ hành tinh đều im lặng… tất cả những ai đang ngồi trước máy thu hình đều bất giác nín thở.
Đứng trên bậc cầu thang, trước sự chú ý của toàn nhân loại, Giáo chủ Thị thần giơ hai tay lên cao. Với bộ ngực trần đầy thương tích, trông vị thầy tu trẻ này có nét gì đó na ná giống chúa Giê-su. Hai tay đang rộng, mặt ngửa lên trời, Giáo chủ Thị thần thốt lên:
- Tạ ơn Người. Con tạ ơn Người!
Đám đông lặng như tờ.
- Con tạ ơn Người, hỡi đức Chúa trời! - Giáo chủ Thị thần lại gào lên. Như ánh dương xuất hiện trên bầu trời giông bão, một niềm vui lan toả trên khuôn mặt Giáo chủ Thị thần. - Con tạ ơn Người!
Tạ ơn Chúa sao? Langdon tròn mắt ngạc nhiên.
Lúc này Giáo chủ Thị thần trông vô cùng khác lạ. Mắt ngời sáng, ngài ngước lên trời cao, và gật đầu liên tục, cuồng loạn. Rồi vị thầy tu trẻ bỗng thét lớn:
- Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ!
Langdon biết câu nói này, nhưng không thể hiểu nổi vì lý do gì mà Giáo chủ Thị thần lại trích dẫn câu kinh thánh ấy vào lúc này.
Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn đám đông rồi lại ngửa mặt lên trời mà thét to:
- Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ! - Rồi ngài đang rộng hai tay, cười ha hả: - Tạ ơn Người, hỡi Chúa trời! Tạ ơn Người!
Vị thầy tu này phát điên mất rồi.
Cả thế giới bị mê hoặc.
Thế rồi, một sự kiện xảy ra mà không ai ngờ tới.
Với vẻ mặt vô cùng hân hoan và sung sướng, Giáo chủ Thị thần quay phắt lại, lao vào trong Đại thánh đường St. Peter.
11 giờ 42 phút.
Langdon không hề ngờ rằng chính anh sẽ là thành viên của đoàn hộ tống náo loạn chạy theo sau Giáo chủ Thị thần… thậm chí còn đẫn đầu đoàn. Nhưng lúc đó anh là người đứng gần cửa ra vào nhất, và Langdon đã hành động theo bản năng.
- Không khéo Giáo chủ Thị thần chết mất! Langdon thầm nghĩ.
Trong Đại thánh đường tối đen như mực, anh gắng sức chạy thật nhanh:
- Giáo chủ Thị thần, đừng chạy nữa!
Tối kinh khủng. Hai mắt vẫn chưa kịp điều tiết sau khi phải chịu đựng những luồng sáng chói loà ngoài quảng trường, tầm nhìn của Langdon lúc này không vượt quá 1 mét, buộc anh phải dừng lại. Trong bóng tối dày đặc, Langdon nghe rõ tiếng chiếc áo thầy tu sột soạt khi Giáo chủ Thị thần đang chạy thục mạng.
Vittoria và những người lính gác cũng nhanh chóng có mặt. Mọi người bật đèn pin lên, nhưng những luồng sáng quá yếu không thể chạm đến mọi ngóc ngách của Thánh đường.
Những luồng sáng lia qua lia lại, rọi vào những cây cột đá, rọi xuống sàn nhà. Chẳng thấy Giáo chủ Thị thần đâu cả.
- Giáo chủ Thị thần! - Chartrand gọi to, giọng hoảng hốt. - Thưa cha!
Nghe tiếng động ở cánh cửa sau lưng, tất cả mọi người cùng quay lại. Máy quay phim chuyên dụng của Chinita Macri hiện ra ở cửa ra vào. Nữ phóng viên này đang vác máy trên vai, và chấm đỏ sáng lập lòe trên máy cho thấy cô ta vẫn đang truyền trực tiếp mọi hình ảnh về đại bản doanh của BBC. - Glick lạch bạch đằng sau, tay cầm micro, hổn hển bảo Macri đừng chạy nhanh quá.
Không hiểu hai kẻ này là loại người gì. Bây giờ đâu phải lúc !
- Ra ngoài ngay! - Chartrand quát. - Các người không được phép làm thế?
Nhưng Macri và Glick vẫn tiến tới.
- Chinita! - Giọng Glick lúc này đầy vẻ lo lắng. - Làm thế là tự sát! Tôi không vào đâu!
Macri không thèm để ý. Chị ta đưa tay ấn nút. Đèn máy quay lập tức phát sáng, sáng đến loá cả mắt.
Langdon đưa tay lên che mắt, bực bội quay đi. Quỷ thật! Tuy nhiên, khi ngước nhìn lên, anh nhận thấy luồng sáng phát ra từ bóng đèn kéo dài đến hơn chục mét.
Đúng lúc ấy, từ tít đằng xa vang lên giọng nói của Giáo chủ Thị thần: Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ!
Macri hướng máy quay về phía có tiếng nói. Tít xa, tận chỗ mà luồng ánh sáng rực rỡ của đèn máy quay chỉ còn là một vùng xám nhạt, thấp thoáng bóng áo thầy tu, và một vóc dáng quen thuộc đang chạy dọc lối đi chính giữa thánh đường.
Thoạt đầu tất cả mọi người đều do dự, nhưng rồi Chartrand đẩy Langdon và lao vọt lên phía trước, chạy theo Giáo chủ Thị thần. Langdon chạy theo sau, rồi đến hai người lính gác và Vittoria.
Macri chạy sau cùng, chiếu sáng thánh đường bằng đèn máy quay, đồng thời truyền trực tiếp hình ảnh về cuộc rượt đuổi cho cả thế giới cùng xem. Glick đành phải chạy theo, miệng lầm bầm chửi rủa, chốc chốc lại bật micro để bình luận tình hình.
Đã có lần trung uý Chartrand ước tính rằng lối đi chính trong Đại thánh đường St. Peter có chiều dài bằng cả một sân bóng đá.
Nhưng đêm nay, anh cảm thấy nó còn dài gấp đôi. Vừa lao theo Giáo chủ Thị thần, anh vừa tự hỏi không biết vị thầy tu này định đến chỗ nào. Rõ ràng là Giáo chủ Thị thần bị sốc quá mạnh sau khi phải chứng kiến toàn bộ tấn bi kịch và trông thấy quá nhiều xác chết trong phòng làm việc của Đức Thánh Cha.
Đâu đó phía trước, xa đến nỗi đèn chiếu của hãng BBC không thể soi sáng nổi, giọng nói của Giáo chủ Thị thần tiếp tục vang lên đầy hoan hỉ: Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ! Chartrand biết vị thầy tu này đang trích dẫn kinh thánh - Kinh Matthew 16:18, nếu anh nhớ không nhầm. Trên chính tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Trích dẫn như thế vào lúc này thật chẳng thích hợp chút nào, thậm chí còn có vẻ ác độc - nhà thờ sắp sửa sụp đổ đến nơi. Giáo chủ Thị thần bị điên thật rồi.
Hay là chính Chartrand đã phát điên?
Trong thoáng chốc, Chartrand thấy đầu óc quay cuồng. Anh vẫn luôn tin rằng những thông điệp linh thiêng, những sự kiện Chúa hiện hình chẳng qua chỉ là ảo giác, do tự kỷ ám thị nên người ta bất chợt nghe thấy những gì họ muốn nghe - Chúa trời đâu có trực tiếp tiếp xúc với con người theo kiểu đó!
Thế mà ngay sau đó, như thể đích thân Chúa đã hiển linh để chứng minh cho Chartrand thấy sức mạnh của ngài. Chartrand đã trông thấy một cảnh tượng phi thường.
Phía trước, cách khoảng 15 mét, ở chính giữa Đại thánh đường, xuất hiện một bóng ma… trong, và toả sáng. Đó là hình ảnh Giáo chủ Thị thần, ngực để trần. Bóng ma này dường như trong suốt, và toả sáng. Chartrand ngừng chạy, ngực bỗng thấy quặn thắt. Giáo chủ Thị thần đang toả sáng ! Ánh sáng toả ra mỗi lúc một mạnh hơn. Rồi bóng ma bắt đầu, chìm dần, chìm dần, cho đến khi biến mất hoàn toàn trong Đại thánh đường tối như bưng.
Langdon cũng chứng kiến cảnh tượng ấy. Và anh cũng tưởng đó là ma hiện hình. Nhưng sau khi chạy vượt qua Chartrand, đến chỗ Giáo chủ Thị thần biến mất, anh hiểu ra ngay. - Giáo chủ Thị thần đã chạy xuống hốc Palliums - căn phòng trũng được thắp sáng bởi 99 ngọn đèn dầu. Ánh sáng từ dưới hốc hắt lên trên, làm cho mọi người tưởng là Giáo chủ Thị thần toả sáng. Và khi vị thầy tu bước xuống cầu thang, họ lại tưởng là ngài biến mất xuống lòng đất.
Langdon chạy hổn hển đến bên bờ mép của căn phòng chìm và anh cúi xuống quan sát. Dưới kia, trong thứ ánh sáng vàng rực toả ra từ các ngọn đèn dầu, Giáo chủ Thị thần đang lao tới những cánh cửa kính dẫn sang căn phòng đặt chiếc hòm vàng nổi tiếng.
Thế này là thế nào nhỉ? Langdon băn khoăn. Lẽ nào Giáo chú Thị thần tin rằng cái hòm vàng ấy chứa...
Giáo chủ Thị thần mở toang cánh cửa, lao vào trong phòng. Nhưng lạ thay, vị thầy tu trẻ tuổi này lại bỏ qua chiếc hòm vàng.
Cách chiếc hòm khoảng gần 2 mét, Giáo chủ Thị thần quỳ xuống, loay hoay kéo tấm lưới sắt gắn trên sàn.
Kinh hãi, Langdon lúc này đã hiểu vị thầy tu trẻ tuổi này định đi đâu. Lậy chúa tôi, xin đừng! Anh lao như tên bắn tới bên Giáo chủ Thị thần:
- Thưa cha! Xin đừng làm thế!
Lúc Langdon còn chưa kịp vượt qua lớp cửa kính thì đã thấy Giáo chủ Thị thần đang ra sức kéo tấm lưới lên. Tiếng sắt va vào nhau loảng xoảng, và tấm lưới sắt nặng nề mở ra, để lộ một cầu thang hẹp dốc đứng dẫn thẳng xuống bóng đêm đen kịt bên dưới. Thấy Giáo chủ Thị thần định chui xuống dưới, Langdon túm vai vị Hồng y trẻ tuổi và kéo lại. Ướt sũng toàn mồ hôi, hai vai của Giáo chủ Thị thần Ventresca trơn nhẫy, nhưng Langdon vẫn cố túm thật chặt.
Giật mình, Giáo chủ Thị thần quay phắt lại:
- Anh làm gì thế?
Khi ánh mắt hai người giao nhau, Langdon vô cùng ngạc nhiên.
Đôi mắt của Giáo chủ Thị thần không còn đờ đẫn như trong cơn mộng du nữa. Hai con mắt của ngài lúc này rực sáng, tinh anh và cương nghị. Vết bỏng trên ngực ngài trông thật đáng sợ.
- Thưa cha, không thể xuống dưới đó được. - Langdon can ngăn. - Chúng ta phải sơ tán thôi.
- Con biết không, ta vừa nhận được một thông điệp. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần điềm tĩnh đến kỳ lạ. - Ta biết rằng…
- Giáo chủ Thị thần! - Chartrand và những người khác cũng vừa đến nơi. Được chiếu sáng bằng đèn máy quay của Macri, tất cả chạy xuống cầu thang.
Trông thấy tấm lưới sắt trên sàn bị lật lên, Chartrand tỏ ra sợ hãi. Anh làm dấu thánh, rồi đưa mắt nhìn Langdon đầy biết ơn vì anh đã ngăn không cho Giáo chủ Thị thần xuống dưới.
Langdon hiểu, anh đã đọc rất nhiều về kiến trúc của Vatican, nên biết rõ những gì nằm dưới tấm lưới sắt này. Đó là địa điểm linh thiêng bậc nhất đối với Thiên Chúa giáo. Terra Santa . Đất Thánh . Một số người còn gọi nó là Thành phố của người chết , những người khác gọi nó là Hầm mộ. Theo lời kể của một số ít tu sĩ được phép xuống đó sau khi vượt qua những kỳ tuyển chọn gắt gao, thì Thành phố của người chết là một mê cung gồm rất nhiều lăng mộ ngầm trong lòng đất, và nếu bị lạc đường thì không một du khách nào có cơ hội thoát ra được. Và không ai muốn phải đuổi theo Giáo chủ Thị thần xuống tận dưới đó.
- Thưa cha, cha bị chấn động quá mạnh đấy mà. - Chartrand van nài. - Chúng ta phải rời khỏi nơi này ngay lập tức. Xuống đó tức là tự sát!
Giáo chủ Thị thần bỗng tỏ ra nhẫn nại. Ngài đặt tay lên vai Chartrand:
- Cám ơn con đã lo lắng cho ta. Ta không biết giải thích thế nào. Ta không biết bằng cách nào mà ta bỗng dưng hiểu được Nhưng ta đã được linh báo. Ta biết phản vật chất ở đâu.
Tất cả đều trợn tròn mắt ngạc nhiên.
Giáo chủ Thị thần quay sang nói với tất cả mọi người:
- Chính trên tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Thông điệp là thế đó. Ý nghĩa của nó đã quá rõ ràng.
Langdon vẫn chưa hiểu làm thế nào mà Giáo chủ Thị thần lại giao tiếp được với Chúa trời, và lại càng không thể hiểu nổi ý nghĩa của thông điệp này. Chính trên tảng đá này ta sẽ xây dựng nhà thờ. Đó là câu nói của chúa Giê-su khi người chọn Peter làm vị tông đồ đầu tiên của mình. Những lời lẽ đó thì có liên quan gì cơ chứ?
Macri tiến lại gần thêm để quay cận cảnh, còn Glick thì câm như hến.
Lúc này Giáo chủ Thị thần nói một cách gấp gáp:
- Người của Illuminati đã để hộp phản vật chất tại đúng tảng đá đặt nền móng cho thánh đường này. - Ngài chỉ tay xuống cầu thang tối om bên dưới. - Ngay trên tảng đá được chọn làm nền tảng của thánh đường. Và ta biết tảng đá đó ở chỗ nào.
Langdon cho rằng đã đến lúc phải tạm quên đi uy quyền của vị thầy tu này và đưa ngài ra ngoài ngay lập tức. Dù bề ngoài có vẻ minh mẫn, nhưng Giáo chủ Thị thần đang nói những lời vô nghĩa. Một tảng đá? Nền tảng của toàn bộ thánh đường? Cầu thang này đâu có dẫn xuống nến móng của toà nhà, nó dẫn xuống khu hầm mộ đấy chứ!
- Câu trích dẫn đó mang nghĩa bóng, thưa cha! Làm gì có tảng đá thật!
Giáo chủ Thị thần chợt buồn bã lạ kỳ:
- Có một tảng đá đấy, con ạ. - Ngài chỉ tay xuống dưới - Peter chính là một tảng đá.
Langdon ngớ người. Nhưng rồi anh hiểu ra ngay tức khắc.
Đơn giản quá chừng! Cùng mọi người đứng bên cầu thang, cùng nhìn xuống, anh chợt hiểu ra rằng quả thực có một tảng đá được chôn dưới tầng hầm của Đại thánh đường vĩ đại này.
Peter chính là một tảng đá .
Đức tin của Peter đối với Chúa vững vàng đến nỗi Giê-su đã gọi ngài là tảng đá - đôi vai vững chắc của vị tông đồ không bao giờ dao động này sẽ là điểm tựa cho giáo hội. Chính tại nơi này - trên ngọn dồi Vatican - Peter đã bị hành hình, và được chôn cất. Những tín đồ Thiên Chúa thời đó đã xây một đền thờ nhỏ ngay trên mộ phần của ngài. Theo thời gian, Thiên Chúa giáo lớn mạnh dần lên, đền thờ cũng được xây to thêm, lớp sau tựa trên nền của lớp trước, cho đến khi Đại thánh đường St. Peter ngày nay được hoàn thành. Và sự thật là toàn bộ nền tảng của Thiên Chúa giáo đều bắt nguồn từ thánh Peter. Tảng đá.
- Hộp phản vật chất được đặt ở lăng mộ của thánh Peter. - Giáo chủ Thị thần tuyên bố, giọng rất mạch lạc.
Cho dù thông tin này bắt nguồn từ một sự kiện quá siêu phàm, nhưng Langdon cảm thấy nó không hề vô lý. Đặt hộp phản vật chất tại lăng mộ của thánh Peter là một nước cờ có lý. Với mục đích tạo ra một tác động tâm lý mạnh mẽ, hội Illuminati đã đặt hộp phản vật chất tại chính điểm cốt lõi của Giáo hội Cơ đốc giáo, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để chứng tỏ khả năng cài người tuyệt hảo của họ.
- Và nếu các người cần một bằng chứng có tính trần tục, thì đây. - Lúc này Giáo chủ Thị thần đã bắt đầu tỏ ra nôn nóng - Ta thấy khoá của tấm lưới sắt này đã mở sẵn. - Vị thầy tu đưa tay chỉ cái lỗ đen ngòm trên nền nhà - Lối đi này lúc nào cũng bị khoá kỹ. Có kẻ đã xuống dưới đó… chưa lâu đâu.
Tất cả mọi người cùng cúi xuống nhìn.
Ngay sau đó, với một sự nhanh nhẹn kỳ lạ, Giáo chủ Thị thần quay người, chộp lấy một cây đèn và lao xuống cầu thang.
Những bậc đá dốc đứng, dẫn thẳng xuống lòng đất.
Không chừng mình chết tại nơi này mất thôi , Vittoria thầm nghĩ.
Tay bám vào sợi dây thừng dùng làm tay vịn cầu thang, cô gái cũng sắp sửa theo mọi người xuống dưới. Langdon tiến lên một bước, định khuyên Giáo chủ Thị thần dừng xuống, nhưng Chartrand lại can thiệp, anh ta túm vai Langdon kéo lại. Rõ ràng là lúc này thì anh chàng trung uý cũng bắt đầu tin rằng Giáo chủ Thị thần làm thế là đúng.
Giằng co nhau mất một lúc, rồi Langdon cũng giằng được tay anh ta ra và đuổi theo Giáo chủ Thị thần, còn Chartrand thì theo sát gót anh. Theo bản năng, Vittoria cũng chạy theo.
Giờ đây cô gái đang bước chân trên một cầu thang dốc đứng cheo leo, chỉ cần một lần bước hụt cũng đủ để mất mạng. Bóng đèn trên tay Giáo chủ Thị thần đang lấp loá tít phía dưới. Hai phóng viên BBC cũng đang cố sức chạy theo cả nhóm. Ánh đèn máy quay chiếu thẳng ra phía trước, rọi vào lưng Chartrand và Langdon, tạo thành những bóng đen kỳ quặc đổ dài trên mặt đất.
Thật khó mà tin nổi, cả thế giới đang dõi theo những sự kiện điên điên khùng khùng này.
- Tắt cái máy quay chết tiệt đi chứ!
Nhưng cô gái cũng biết rằng ánh đèn máy quay chính là phương tiện chiếu sáng duy nhất mà họ có lúc này.
Trong khi cuộc rượt đuổi kỳ quái vẫn đang tiếp diễn, bao ý nghĩ lo lắng quất thẳng vào tâm trí Vittoria. Xuống đến nơi thì Giáo chủ Thị thần có thể làm được gì? Giả sử có tìm được hộp Phản vật chất thì cũng làm gì còn thời gian nữa?
Vittoria ngạc nhiên thấy linh tính của chính cô mách bảo rằng Giáo chủ Thị thần có thể đúng. Đặt hộp phản vật chất ở vị trí cách mặt đất những ba tầng nhà kiểu này là lựa chọn khôn ngoan và cao thượng nhất. Sâu tít dưới lòng đất thế này - giống y như phòng thí nghiệm Z - tác động từ vụ nổ phản vật chất sẽ giảm đi đáng kể. Sẽ không có luồng nhiệt năng bỏng rát, không có những mảnh bom bay lên làm ảnh hưởng đến những kẻ hiếu kỳ đang tập trung ở quảng trường, sẽ chỉ có một cái hố sâu hoắm, rộng hoác, và toàn bộ thánh đường đồ sộ biến thành đống đổ nát.
Phải chăng đây là sự tử tế của Kohler? Muốn hạn chế thương vong? Vittoria vẫn không thể biết được ông giám đốc của mình có liên quan đến mức độ nào. Sự thù ghét của ông ta đối với tôn giáo thì cô công nhận… nhưng cả một âm mưu đáng sợ thế này chắc hẳn vượt quá khả năng của con người này. Không lẽ lòng thù hận của Kohler sâu sắc đến thế sao? Căm giận đến mức muốn. huỷ diệt toàn bộ Vatican hay sao? Lại còn thuê hẳn một sát thủ chuyên nghiệp nữa ư? Rồi ra tay sát hại cha nuôi của cô, Giáo hoàng, và cả bốn vị Hồng y Giáo chủ nữa? Không thể nào.
Làm cách nào mà Kohler làm được tất cả những việc ấy trong lòng toà thánh? Rocher chính là tay trong của ông ta, cô gái tự nhắc mình. Rocher chính là người của Illuminati . Chả trách ông ta có chìa khoá của tất cả mọi nơi - phòng ngủ của Giáo hoàng, đường hầm bí mật, Thành phố của người chết, lăng mộ của thánh Peter, không thiếu một chỗ nào. Có thể chính ông ta đã tự tay đặt hộp phản vật chất tại lăng mộ của thánh Peter - một địa điểm rất ít người được phép đặt chân đến - rồi ra lệnh cho lính của mình không cần phải lãng phí thời gian rà soát các khu vực cấm trong toà thánh. Rocher biết rằng không một ai có thể tìm thấy hộp phản vật chất.
Nhưng Rocher không thể ngờ rằng Giáo chủ Thị thần có thể được Chúa mách bảo.
Thông điệp của Chúa. Vittoria vẫn chưa hoàn toàn tin rằng điều này là có thể. Có đúng là đích thân Chúa đã giao tiếp với Giáo chủ Thị thần? Tận đáy lòng, cô gái không tin, thế nhưng chuyên ngành nghiên cứu của cô lại là siêu vật lý - chuyên nghiên cứu những cách giao tiếp. Cô gái đã chứng kiến nhiều cách thức giao tiếp đầy thần kỳ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày - hai quả trứng của cùng một con rùa biển mẹ được đặt trong những phòng thí nghiệm cách nhau hàng ngàn dặm vẫn nở cùng một thời điểm… trên vùng nước rộng hàng héc-ta, những con sứa nhảy đều tăm tắp như thể được điều khiển bởi một bộ óc duy nhất. Đâu đâu cũng thấy có những kênh liên lạc vô hình, cô gái thầm nghĩ.
Nhưng còn giữa người với Chúa thì sao?
Ước gì lúc này cha nuôi của cô có mặt ở đây, ông sẽ mang đến cho cô niềm tin. Đã có một lần ông giải thích về hiện tượng giao tiếp siêu nhiên bằng những suy luận rất khoa học, và điều đó đã thuyết phục được cô. Vittoria vẫn nhớ lần cô trông thấy cha cầu nguyện và hỏi:
- Cha mất công làm thế để làm gì? Chúa đâu có thể trả lời được.
Với một nụ cười đầy bao dung, Leonardo Vetra ngẩng lên:
- Con gái ta hay hoài nghi thật. Con không tin là Chúa có thể nói chuyện với chúng ta được sao? Để cha giải thích cho con nghe nhé. - Ông lấy một mô hình não bộ người trên giá xuống, đặt trước mặt Vittoria. - Như con đã biết, con người thường chỉ sử dụng một phần rất nhỏ não bộ của mình. Nhưng nếu con ở vào tình trạng xúc động rất mạnh - ví dụ như một cơn chấn động về tâm lý, cảm giác vui sướng hay sợ hãi đến tột độ, hay trong trạng thái thiền định sâu sắc - toàn bộ các tế bào thần kinh trong não bộ bắt đầu hoạt động mạnh, khiến cho chúng ta cảm thấy vô cùng mẫn tiệp!
- Thế thì sao? - Vittoria hỏi lại. - Chỉ suy nghĩ một cách minh mẫn thì đâu đã có thể giao tiếp với Chúa được?
- Chà chà! - Vetra thốt lên. - Giải pháp cho những vẫn đề hóc búa đến mức tưởng như không vượt qua được vẫn thường xuất hiện vào những giây phút như thế đấy. Đó chính là trạng thái mà các vị lãnh đạo tinh thần Hiệu gọi là thiền định; các nhà sinh học gọi là trạng thái thay thế, còn các nhà tâm lý học thì gọi là siêu tri giác. - Ông ngừng lại giây lát. - Còn những người theo đạo Thiên Chúa thì gọi đó là những lời cầu nguyện linh ứng.
Mỉm cười thật tươi, ông nói thêm:
- Đôi khi những lời mách bảo của bề trên đơn giản chỉ là cách thức điều chỉnh bộ óc để người ta có thể nghe được những điều trái tim đã tự nó biết từ trước.
Giờ đây, chạy xuống cầu thang tối om, Vittoria cảm giác rằng rất có thể cha cô nói đúng. Đâu có gì quá khó tin, sự chấn động của Giáo chủ Thị thần đã đặt não bộ của ngài vào một trạng thái dẫn đến khả năng nhận ra địa điểm giấu hộp phản vật chất.
Phật tại tâm, Phật đã dạy như thế. Tất cả chúng ta đều có toàn giác. Chỉ cần giữ cho tâm được an tĩnh, chúng ta sẽ tiếp cận được với sự thông thái ẩn chứa trong chính bản thân mình.
Đúng vào giây phút đang theo mọi người chạy xuống dưới, Vittoria cảm thấy tâm trí mình vô cùng tỉnh táo và mẫn tiệp, dường như tâm cô gái cũng đang tĩnh lặng… và cô tiếp cận được với sự thông thái ẩn chứa trong chính bản thân mình. Cô gái cảm nhận được ý định của Giáo chủ Thị thần, và cảm thấy sợ hãi.
- Giáo chủ Thị thần, xin đừng! - Vittoria hét thật to. - Cha không biết đâu! - Nghĩ đến đám đông đang tập trung trên quảng trường, máu như đông cứng lại trong huyết quản cô gái. - Nếu cha mang hộp phản vật chất lên thì… tất cả mọi người sẽ chết !
Nhảy ba bậc một, Langdon cũng đã xuống đến nền đất. Dù lối đi rất chật, nhưng anh không hề có cảm giác sợ hãi trong không gian tù túng này. Lúc này họ đang đối mặt với một hiểm hoạ khác đáng sợ hơn thế nhiều.
- Giáo chủ Thị thần! - Langdon đã gần đuổi kịp ngọn đèn dầu phía trước. - Cha phải để hộp phản vật chất ở nguyên đó! Không còn cách nào khác đâu!
Dù đó là những lời do chính anh nói ra, Langdon vẫn thấy thật khó tin. Anh đã chấp nhận rằng lời mách bảo của Chúa trời về nơi đặt hộp phản vật chất là thật, đã thế lại còn đang vận động Giáo chủ Thị thần chấp nhận để Đại thánh đường St. Peter bị phá huỷ - một trong những kỳ quan về kiến trúc của thế giới, với biết bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật bên trong.
Nhưng còn những người đang tập trung trên quảng trường… đây là cách duy nhất .
Mỉa mai thay, cách duy nhất để bảo vệ mọi người lúc này là chấp nhận để thánh đường bị phá huỷ. Chắc hẳn hội Illuminati phải vô cùng sung sướng khi được chứng kiến tình huống đầy kịch tính này.
Trong hầm ngầm, không khí âm u và ẩm ướt. Đâu đó quanh đây là Thành phố của người chết… nơi an nghỉ của thánh Peter và những tín đồ Thiên Chúa đầu tiên. Langdon thấy rợn người, hi vọng đây không phải là một hành động tự sát.
Bất chợt, cây đèn của Giáo chủ Thị thần không tiếp tục tiến lên nữa. Langdon ngay lập tức đến sát bên vị thầy tu trẻ tuổi.
Điểm cuối cùng của cầu thang hiện ra trước mắt - một cái cổng bằng sắt có ba hình đầu lâu chạm nổi chắn ngang bậc dưới cùng. Giáo chủ Thị thần đang kéo cánh cổng. Langdon lao ngay lên, giữ chặt lấy cánh cổng, chặn đường Giáo chủ Thị thần.
Những người khác rầm rập chạy xuống, tất cả đều trắng toát nhú ma trong khung hình của Macri… đặc biệt là Glick, càng chạy càng thấy mặt anh ta trắng bệch thêm ra.
Chartrand túm lấy vai Langdon:
- Để cho đức cha đi qua đi!
- Không! - Từ trên cao, Vittoria thét xuống, giọng hổn hển.- Chúng ta phải sơ tán ngay lập tức! Không thể đưa hộp phản vật chất ra ngoài được! Nếu cha mang cái hộp lên, tất cả mọi người sẽ chết!
Giọng nói của Giáo chủ Thị thần vang lên điềm tĩnh kỳ lạ:
- Này các con… chúng ta phải giữ đức tin. Vẫn còn chút thời gian mà.
- Cha không hiểu đâu. - Vittoria nói - Một vụ nổ trên mặt đất sẽ có sức công phá lớn hơn nhiều so với ở đây!
Giáo chủ Thị thần nhìn Vittoria, đôi mắt xanh ngời sáng, tinh anh:
- Có ai nói gì đến một vụ nổ trên mặt đất chưa nào?
Vittoria trợn tròn mắt:
- Cha định để nguyên cái hộp ở dưới này sao?
Giáo chủ Thị thần tỏ ra đầy tự tin:
- Đêm nay không một ai phải chết cả.
- Thưa cha, nhưng mà…
- Thôi mà… các con hãy giữ lấy đức tin. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần khiến tất cả mọi người im lặng. - Ta không yêu cầu bất kỳ ai phải đi theo. Ta chỉ yêu cầu các con đừng can thiệp vào. Hãy để cho ta hoàn thành sứ mạng mà Người đã giao phó. - Hai mắt ngài ánh lên một niềm tin mãnh liệt - Ta phải cứu lấy thánh đường này. Và ta sẽ làm được. Ta xin lấy mạng sống của chính mình để đảm bảo điều đó.
Sau đó là yên lặng, sự yên lặng chất chứa đầy bão tố.
 
11 giờ 51 phút.
Thành phố của người chết thực sự là mảnh đất của người chết.
Dù đã đọc rất nhiều tài liệu về nơi này, Langdon vẫn sững sờ trước những gì anh được tận mắt chứng kiến. Nằm dưới chân Đại thánh đường, cái hang khổng lồ này đầy những lăng mộ đổ nát, trông hệt như những ngôi nhà nhỏ trên nến hang lớn. Không khí nặng mùi chết chóc. Phần lớn những lối nhỏ chạy ngoằn ngoèo giữa các mộ phần, được lát bằng đá cẩm thạch rạn. Vô số những cột bụi nằm dựng đứng lên nền đất chưa được khai quật, đỡ lấy không khí bẩn thỉu đang lơ lửng trong vùng tối.
Thành phố của người chết , sự thoả mãn về mặt học thuật trong tâm trí anh hoà lẫn với cảm giác kinh hãi, khiếp sợ. Cùng mọi người, Langdon lao sâu vào lòng hang tối om. Mình làm thế này liệu có đúng không nhỉ?
Là người đầu tiên bị thuyết phục bởi niềm tin của Giáo chủ Thị thần, Chartrand mở toang cánh cổng bằng sắt, đầy tin tưởng.
Glick và Macri đã long trọng chấp thuận lời đề nghị của vị thầy tu trẻ tuổi là sẽ dùng đèn chiếu sáng cho đoàn người tìm kiếm, mặc dù xét đến những cơ hội thăng tiến mà hai phóng viên này sẽ được hường sau sự kiện này thì hẳn phải có lý do chính đáng để nghi ngờ động cơ thực sự của họ. Vittoria là người tỏ ra ít hào hứng nhất, và sâu trong ánh mắt cô gái có trực cảm mạnh mẽ này, Langdon cảm nhận được sự lo lắng và bất an.
Muộn quá rồi , Langdon thầm nghĩ. Anh và Vittoria đang chạy theo cả nhóm. Thật điên rồ.
Vittoria không nói gì, nhưng anh biết, cả hai người đang có chung một suy nghĩ. Nếu Giáo chủ Thị thần phán đoán không chính xác thì không thể chạy thoát khỏi thánh đường này trong vòng vẻn vẹn 9 phút .
Chạy qua hết mộ phần này đến mộ phần khác, Langdon thấy hai cẳng chân mỏi nhừ. Thật đáng ngạc nhiên, cả nhóm đang chạy lên dốc. Lúc lời giải thích hiện lên trong trí não cũng là lúc anh thấy lạnh xương sống. Địa hình dưới chân anh lúc này vẫn được giữ nguyên trạng từ thời chúa Giê-su còn sống. Anh đang chạy lên đỉnh ngọn đồi Vatican nguyên thuỷ! Các học giả của giáo hội nhiều lần khẳng định rằng lăng mộ của thánh Peter nằm gần đỉnh đồi, và anh vẫn thường thắc mắc, không hiểu bằng cách nào mà họ có được thông tin đó. Giờ thì Langdon đã hiểu. Ngọn đồi ấy vẫn còn nguyên vẹn!
Langdon cảm tưởng như đang chạy ngược dòng lịch sử. Đâu đó phía trước chính là mộ phần của thánh Peter - một chứng tích lịch sử của Thiên Chúa giáo. Thật khó tin, nhưng quả đúng là thuở ban đầu, mộ phần của ngài chỉ được đánh dấu bằng một miếu thờ nhỏ nhoi khiêm tốn. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Theo thời gian, danh tiếng của thánh Peter ngày một lan rộng, và những đền thờ tiếp theo lần lượt được dựng lên trên nền miếu thờ đầu tiên ấy. Để giờ đây Đại thánh đường St. Peter do đích thân Michelangelo thiết kế có mái vòm nhọn vươn cao tới hơn 130 mét, đỉnh mái vòm nằm trúng vào vị trí của miếu thờ đầu tiên, độ chênh lệch chỉ là vài ly.
Cả nhóm tiếp tục vượt qua những chặng đường quanh co khúc khuỷu Langdon xem đồng hồ. 8 phút nữa. Không chừng chính bản thân anh và Vittoria sẽ nhanh chóng gia nhập đội quân những người được chôn vùi vĩnh viễn ở nơi này cũng nên.
- Cẩn thận! - Glick kêu to. - Coi chừng hang rắn đấy!
Langdon cũng đã kịp trông thấy. Hàng loạt những hố nhỏ nằm cắt ngang lối đi dưới chân họ. Anh nhảy qua.
Vittoria cũng nhảy và cố gắng tránh những cái hố nhỏ. Vẻ mặt cô có vẻ không thoải mái chút nào.
- Hang rắn là cái gì?
- Đúng ra phải gọi là hố cúng đồ ăn . - Langdon cải chính. - Em không cần phải biết đến những cái hố này làm gì. - Bản thân Langdon cũng vừa kịp nhận ra, chúng còn được gọi là ống dẫn đồ uống. Những tín đồ Thiên Chúa thuở xưa tin rằng xác thịt có thể tái sinh được, nên đã đào những cái hố kiểu này để tiếp tế đồ ăn cho người chết bằng cách đổ sữa và mật ong xuống mộ phần nằm dưới điện thờ.
Giáo chủ Thị thần thấy sức lực bắt đầu giảm sút.
Ngài vẫn nhạy cảm thấy được tiếp sức bởi ý thức về sứ mệnh của mình trước nhân loại và trước Chúa. Gần đến nơi rồi . Cơn đau thật khủng khiếp. Tâm trí cũng có thể khiến người ta đau đớn không kém gì thể xác . Thế nhưng vị thầy tu trẻ tuổi vẫn thấy mệt rã rời.
Thời gian còn lại rất ít.
- Con sẽ cứu nhà thờ, thưa Cha, con xin thề sẽ làm bằng được điều đó.
Dù may mắn có được luồng sáng cực mạnh từ chiếc đèn quay phim ở phía sau chiếu lên, Giáo chủ Thị thần vẫn giương cao cây đèn dầu. Ta là người dẫn đường trong đêm tối. Ta chính là ánh sáng.
Những bước chân của ngài khiến cây đèn lắc lư đầu trong bình kêu òng ọc. Trong thoáng chốc, Giáo chủ Thị thần bỗng thấy sợ, nhỡ dầu sóng rà ngoái và bắt lửa thì thật nguy hiểm. Bị bỏng một lần thế là đã đủ lắm rồi.
Chạy gần đến đỉnh đồi, Giáo chủ Thị thần ướt sũng mồ hôi, mệt đến đứt hơi. Nhưng khi lên tới đỉnh, cảm thấy như vừa được tái sinh, ngài loạng choạng bước tới vùng đất bằng phẳng mà ngài đã từng nhiều lần tới thăm. Đây là điểm tận cùng của con đường. Một mảng tường đất bỗng nhiên hiện ra, đánh dấu điểm tận cùng của Thành phố của người chết. Một tấm biển nhỏ có ghi dòng chữ: Lăng mộ Thánh Peter.
Trước mắt Giáo chủ Thị thần là một hốc trổ trên tường, cao ngang thắt lưng. Không có bảng chữ dát vàng. Không trang trí cầu kỳ. Chỉ có một cái hốc giản dị trên tường, dẫn vào một hang nhỏ, bên trong đặt cỗ quan tài đá giản dị, xoàng xĩnh. Miệng mỉm cười kiệt quệ, Giáo chủ Thị thần nhìn cái hốc nhỏ. Những người khác cũng sắp đến nơi rồi. Ngài đặt cây đèn dầu xuống, quỳ gối và bắt đầu cầu nguyện.
Xin tạ ơn Người. Tất cả sắp kết thúc rồi.
***
Bên ngoài quảng trường, đứng giữa những vị Hồng y Giáo chủ khác Hồng y Mortati chăm chú nhìn màn hình lớn, dõi theo tấn kịch đang diễn ra dưới tầng hầm. Đức cha không biết phải tin vào cái gì nữa. Phải chăng cả thế giới cũng trông thấy những gì ngài vừa trông thấy? Phải chăng Chúa đã báo tin cho Giáo chủ Thị thần? Phải chăng hộp phản vật chất sắp phát nổ trong Đại thánh đường St. Peter?
Nhìn kìa! - Đám đông ồ lên - Kia kìa! - Bất giác tất cả mọi người đều giơ tay chỉ lên màn hình. - Phép nhiệm màu đấy!
Hồng y Mortati ngước nhìn lên. Góc quay không được ổn định, nhưng hình ảnh thì rất rõ ràng. Một cảnh tượng không thể nào quên.
Máy quay sau lưng Giáo chủ Thị thần truyền về cảnh ngài đang quỳ trên nền đất để cầu nguyện. Trước mặt vị thầy tu trẻ tuổi này là một cái hốc giản dị trên bức tường đất. Trong hốc, nằm giữa những mảnh đá vụn từ thời cổ là một quan tài đá cũ kỹ. Dù mới chỉ được tận mắt nhìn thấy cỗ quan tài ấy một lần, nhưng Hồng y Mortati biết rõ nó đựng cái gì.
Thánh Peter .
Hồng y Mortati không ngờ nghệch đến nỗi tin rằng tiếng hò reo hớn hở cửa đám đông bắt nguồn từ niềm vui sướng được trông thấy một trong những thành tích quan trọng bậc nhất của Thiên Chúa giáo. Lăng mộ của thánh Peter không phải là cái khiến cho tất cả những ai đang tập trung ở quảng trường này đều phải quỳ xuống để tạ ơn, mà chính là vật nằm bên trên lăng mộ của Người.
Hộp đựng giọt phản vật chất. Nó nằm đó… suốt cả ngày hôm nay… ẩn trong bóng đêm vinh cửu của Thành phố của người chết. Đẹp đẽ. Tàn bạo.. Đầy chết chóc. Những gì Giáo chủ Thị thần được mách bảo không hề sai.
Hồng y Mortati chăm chú nhìn cái hộp trong suốt. Giọt chất lỏng nhỏ xíu vẫn đang nằm lơ lửng ở chính giữa hộp. Cái hốc nhỏ quanh chiếc hộp ánh lên một thứ ánh sáng màu đỏ khi màn hình điện tử đang đếm ngược 5 phút cuối cùng trong quá trình tồn tại của chính nó.
Cũng ở trên lăng mộ, cách cái hộp vài phân, là chiếc camera không dây của đội lính gác Thuỵ Sĩ đang truyền đi hình ảnh về chiếc hộp.
Hồng y Mortati làm dấu thánh. Đây là cảnh lượng đáng sợ nhất trong đời ông. Nhưng chỉ trong giây lát, ông nhận ra rằng những gì vừa trông thấy chưa phải là điều tồi tệ nhất.
Bất ngờ, Giáo chủ Thị thần đứng phắt dậy, cầm hộp phản vật chất và quay lại, vẻ mặt căng thẳng. Vị thầy tu trẻ tuổi này gạt mọi người sang một bên, rồi bắt đầu chạy ngược trở lại con đường ngoằn ngoèo trong Thành phố của người chết, để trở lại điểm xuất phát.
Chiếc camera quay lướt qua Vittoria Vetra, mặt đang tái xanh đầy sợ hãi:
- Giáo chủ Thị thần, cha đi đâu? Con tưởng cha nói rằng…
- Hãy tin ở ta! - Giáo chủ Thị thần trả lời, chân vẫn chạy.
Vittoria quay ngay sang Langdon:
- Phải làm gì bây giờ?
Robert Langdon ra sức cản Giáo chủ Thị thần, nhưng Chartrand can thiệp ngay, rõ ràng là người lính gác này đã đặt trọn niềm tin vào Giáo chủ Thị thần.
Những hình ảnh từ chiếc camera của đài BBC giống y như góc nhìn của một người đang ngồi trên toa xe lửa tròng trành, lắc lư - lột tả đầy đủ sự náo loạn, kinh hãi của đoàn người đang chạy theo Giáo chủ Thị thần, quay trở lại lối dẫn xuống Thành phố của người chết.
Trên quảng trường, Hồng y Mortati tròn mắt kinh hãi:
- Không lẽ Giáo chủ Thị thần định mang hộp phản vật chất lên đây?
Màn hình ti-vi trên khắp thế giới hiện lên cảnh Giáo chủ Thị thần đang ra sức chạy ra khỏi Thành phố của người chết, tay cầm hộp phản vật chất. Đêm nay sẽ không có thêm người nào phải chết!
Nhưng Giáo chủ Thị thần đã nhầm.
Giáo chủ Thị thần chạy vụt ra ngoài cửa chính của Đại thánh đường St. Peter vào lúc 11 giờ 56 phút. Tay bưng hộp phản vật chất như thể đang mang một món đồ tế, ngài loạng choạng hiện ra giữa vùng ánh sáng chói loà được tạo ra bởi rất nhiều ánh đèn máy quay chụm lại. Với đôi mắt rực lửa, ngài thấy hình ảnh của mình trên các màn hình lớn - mình trần, đầy vết thương, hệt như một người khổng lồ vừa hiện lên trên các màn hình. Chưa bao giờ Giáo chủ Thị thần thấy một đám đông nào huyên náo đến mức này trên quãng trường St. Perter - tiếng khóc, tiếng la hét, tiếng tụng kinh, tiếng hát… sự sùng kính và sự kinh hoàng hoà lẫn vào nhau.
"Xin người hãy giải thoát cho chúng con khỏi bàn tay của quỷ " - Giáo chủ Thị thần thầm cầu nguyện.
Sau một hồi chạy thục mạng để thoát ra khỏi Thành phố của người chết, ngài thấy mệt lử. Suýt nữa thì đã xảy ra chuyện.
Robert Langdon và Vittoria đã ra sức khuyên ngài để cái hộp lại chỗ cũ rồi chạy ra ngoài tìm chỗ ẩn nấp. Khờ khạo quá !
Rõ ràng là nếu ở vào một thời điểm khác thì Giáo chủ Thị thần đã không thể làm được như thế. Tuy nhiên, trong đêm nay, một lần nữa Chúa trời đã phù hộ cho ngài. Lúc Robert Langdon sắp sửa chặn được ngài thì Chartrand, chàng thiếu uý vốn rất giàu đức tin, đã kịp thời hành động. Còn hai người phóng viên kia thì quá bận bịu với mớ dụng cụ cồng kềnh nên chẳng kịp can thiệp.
Hành động của Chúa trời lúc nào mà không kỳ bí .
Giáo chủ Thị thần đã nghe thấy tiếng những người kia chạy ngay sau lưng… hình ảnh của họ đồng thời xuất hiện trên các màn hình lớn. Gạn nốt chút sức lực cuối cùng còn lại trong cơ thể, Giáo chủ Thị thần giương cao hộp phản vật chất. Rồi ngài vươn ngực lên như thể muốn chế giễu vết thương mang biểu tượng của Illuminati trên cơ thể, và chạy xuống cầu thang.
Cần phải hoàn tất khâu cuối cùng này.
Nhanh lên nào , Giáo chủ Thị thần tự động viên mình, cố lên .
***
Bốn phút nữa …
Ra đến cửa Đại thánh đường, Langdon loá mắt. Lại một lần nữa, biết bao luồng sáng từ các ánh đèn máy quay chiếu thẳng vào mặt anh. Hình ảnh duy nhất lọt được vào võng mạc Langdon là bóng dáng lờ mờ của Giáo chủ Thị thần đang chạy xuống cầu thang. Trong giây lát, do hiệu ứng của những luồng sáng chói loà Giáo chủ Thị thần bỗng khoác lên mình dáng vẻ siêu phàm của một thiên thần. Chiếc áo thầy tu tụt xuống đến ngang thắt lưng trông như một tấm vải liệm. th.ân thể còn hằn rõ vết thương, nhưng vị thầy tu trẻ tuổi vẫn không chùn bước. Dáng hiên ngang, Giáo chủ Thị thần vẫn xốc tới, vẫn kêu gọi cả thế giới hãy giữ đức tin. Cầm hộp vũ khí chết người trên tay, ngài chạy thẳng về phía đám đông.
Langdon chạy theo xuống cầu thang. Cha định làm gì thế này? Thế thì tất cả mọi người sẽ chết!
Giáo chủ Thị thần thét lớn:
- Trong ngôi nhà của Chúa, không có chỗ cho những việc làm của quỷ Sa-tăng! - Ngài chạy thẳng vào đám đông lúc này đã bắt đầu tỏ ra khiếp sợ.
- Thưa cha! - Langdon hét to - Làm gì có lối nào mà đi!
- Hãy nhìn lên thiên đàng! Chúng ta đã quên mất là còn có thiên đàng ở đó!
Đột nhiên Langdon hiểu ra, sự thật vĩ đại bỗng lóe sáng lên trong trí não anh. Dù không thể nhìn thấy nó, vì bị quá nhiều luồng sáng chiếu vào mắt, nhưng anh biết rằng lối thoát của họ ở ngay trên đầu…
Bầu trời nước Ý, với muôn vàn ngôi sao lấp lánh. Lối thoát hiểm.
Chiếc trực thăng dự định dùng để đưa Giáo chủ Thị thần đến bệnh viện vẫn đang đậu trước mặt, người phi công đã đợi sẵn trong ca-bin, động cơ đang nổ, sẵn sàng cất cánh. Thấy Giáo chủ Thị thần chạy đến chỗ chiếc phi cơ, Langdon chợt thấy lòng rộn lên mừng rỡ.
Những suy tính vụt lóe lên trong tâm trí anh, như một dòng thác lớn Lúc đầu anh nghĩ đến biển Địa Trung Hải mênh mông. Cách đây bao xa nhỉ? 5 dặm? Hay 10 dặm? Anh biết rằng bãi biển Fiumocino chỉ cách dây 7 phút đi tàu. Máy bay trực thăng, tốc độ 200 dặm một giờ, bay liên tục… nếu kịp bay ra tận ngoài khơi xa và thả hộp phản vật chất xuống đó thì… Hai chân vẫn chạy như bay, Langdon nhận ra rằng thực ra còn rất nhiều cách khác nữa. La Cava Romana(1) Mỏ đá này nằm ở phía Bắc thành phố, và khoảng cách chưa đầy 3 dặm. Mỏ này có rộng không nhỉ? Hai dặm vuông thì phải. Dĩ nhiên là giờ này thì chẳng có ai ở đó! Thả cái hộp xuống đó…
- Tất cả lùi lại mau! - Giáo chủ Thị thần thét vang. Dù vết thương ở ngực đau buốt, ngài vẫn dồn hết sức xuống đôi chân đang guồng thật lực. - Tránh xa ra! Mau!
Thấy Giáo chủ Thị thần chạy về phía mình, mấy người lính gác Thuỵ Sĩ đang đứng gác bên chiếc máy bay há hốc mồm kinh ngạc.
- Lui ra! - vị thầy tu trẻ tuổi thét lên.
Những người lính dạt hết ra sau.
Trước sự ngỡ ngàng của toàn thế giới, Giáo chủ Thị thần chạy đến bên ca-bin máy bay, mở toang cửa.
- Ra ngoài ngay, con của ta! Mau!
Viên phi công nhảy ngay xuống đất.
Nhìn chiếc ghế lái tít trên cao, Giáo chủ Thị thần tự biết trong lúc kiệt sức thế này thì ngài phải đu bằng cả hai cánh tay mới lên được.
Quay sang đặt cái hộp vào tay viên phi công đang run lên bần bật:
- Này con, cầm hộ ta, khi nào ta lên đến nơi thì đưa lên nhé.
Dùng hai cánh tay để đu lên, Giáo chủ Thị thần nghe tiếng Robert Langdon vừa chạy lại vừa reo lên phấn khởi. Giờ thì anh đã hiểu ra rồi đây! Ngài thầm nghĩ, giờ thì anh đã tin rồi đây !
Lên đến khoang lái, vị thầy tu trẻ tuổi gạt cần điều khiển, rồi nhoài ra cửa sổ để lấy hộp phản vật chất.
Không thấy cái hộp trên tay người phi công đâu cả.
- Anh kia lấy cái hộp rồi ạ. - Anh ta thét to.
Tim Giáo chủ Thị thần bỗng chùng hẳn xuống:
- Ai?
Người phi công đưa tay chỉ:
- Anh kia ạ.
Robert Langdon ngạc nhiên, không ngờ cái hộp nặng đến thế.
Anh chạy vòng sang phía bên kia, và trèo lên ca-bin, ngồi lên đúng chiếc ghế mà trước đó có mấy giờ anh và Vittoria đã ngồi trong chuyến bay từ CERN đến toà thánh. Thắt đai an toàn xong, anh hét to bảo Giáo chủ Thị thần:.
- Cất cánh đi, thưa cha!
Mặt tái mét, Giáo chủ Thị thần ngoái lại nhìn Langdon:
- Con làm cái gì thế?
- Cha lái đi, con sẽ ném cái hộp! Langdon hét lớn. - Không còn thời gian đâu! Phải bay ngay! _
Giáo chủ Thị thần sững người ra trong giây lát, những ánh đèn máy quay chiếu vào trong ca-bin, làm nổi rõ những vết nhăn trên mặt ngài.
- Ta tự làm được mà. Đáng ra ta phải làm việc này một mình thôi. - Ngài thì thào. Langdon chẳng nghe thấy gì.
- Cất cánh đi! - Anh hét to. - Con lên để giúp cha mà!
Tim Langdon dường như ngừng đập khi đọc dãy chữ số đang nhấp nháy trên chiếc hộp.
- Ba phút thôi, thưa cha! Còn có 3 phút!
Dường như con số ấy đã lập tức khiến cho Giáo chủ Thị thần lấy lại được bình tĩnh. Không chút do dự, ngài quay lại bảng điều khiển. Động cơ rú lên inh ỏi, chiếc phi cơ bắt đầu cất cánh.
Nhìn xuyên qua đám bụi mù mịt bên dưới, Langdon thấy Vittoria đang chạy tới. Ánh mắt hai người giao nhau, và Vittoria sụp xuống như một tảng đá đang chìm dần xuống biển.

Chú thích:
(1) La Cava Romana: Mỏ đá La Mã.
 
Ngồi trong khoang máy bay, Langdon bị tra tấn bởi tiếng động cơ rền rĩ đồng thời với những luồng gió cực mạnh lùa thốc vào từ cửa sổ. Anh tìm một thế ngồi chắc chắn để chống lại sức kéo của trọng lực trong khi Giáo chủ Thị thần cho máy bay lao thẳng lên trời. Vùng sáng quanh quảng trường St. Peter lui dần cho đến khi chỉ còn là một quầng sáng hình e-líp giữa cả một rừng đèn của thành phố.
Hộp phản vật chất trong tay anh nặng trịch: Langdon càng siết chặt hơn nữa, hai bàn tay anh lúc này trơn nhẫy những máu trộn lẫn với mồ hôi. Bên trong chiếc hộp, giọt phản vật chất bé xíu vẫn nằm lơ lửng, vẫn dao động một cách khoan thai trong luồng ánh sáng mờ màu đỏ phát ra từ chiếc đồng hồ đếm ngược.
- Hai phút nữa! - Langdon thét lên. Không hiểu Giáo chủ Thị thần định thả cái hộp xuống địa điểm nào.
Những ngọn đèn thành Rome bên dưới toả đều ra khắp mọi hướng. Xa xa, về phía Tây, bờ biền Địa Trung Hải lung linh ánh điện hiện ra - bên kia dải đèn sáng ấy là cả một khoảng tối bao la. Hoá ra bờ biển ở cách xa hơn anh tưởng. Hơn thế nữa, dải bờ biển sáng trưng ánh đèn còn nhắc anh nhớ tới tác hại khủng khiếp của vụ nổ, dù tít tận ngoài khơi. Anh đã quên không tính đến sức mạnh chết người của một đợt sóng thần 10 kiloton.
Quay lại, nhìn xuyên qua cửa sổ khoang lái, Langdon thấy khả quan hơn chút xíu. Ngay trước mắt họ là dải đồi Roman nhấp nhô trùng điệp lờ mờ hiện ra trong bóng đêm. Loáng thoáng có những điểm sáng - khu biệt thự của giới thượng lưu - nhưng cách họ chừng một dặm về hướng Bắc thì chỉ có một màu tối sẫm. Khu vực đó không có bất kỳ ánh đèn nào - chỉ là một vùng tối đen kịt.
- Không có gì ở đó.
Mỏ đá ! Langdon thầm nghĩ. La Cava Romana!
Nhìn kỹ dải đất hoang cằn cỗi này, Langdon nhận thấy nó khá rộng, lại còn rất gần nữa. Gần hơn biển Địa Trung Hải nhiều. Cảm giác phấn khởi tràn ngập trong lòng anh. Hoá ra đây chính là nơi mà Giáo chủ Thị thần đang nhắm tới! Chiếc phi cơ đang quay thẳng về hướng ấy! Về mỏ đá! Nhưng quả là kỳ lạ, động cơ nổ mỗi tức một giòn hơn, chiếc trực thăng cũng đang tăng tốc rất mạnh, thế mà chẳng thấy mỏ đá gần lại chút nào. Ngạc nhiên, anh nhìn qua cửa sổ để xác định lại phương hướng, và cảm giác phấn khởi lập tức chuyển thành kinh hãi.
Ngay bên dưới, thẳng chiếc phi cơ xuống, là vùng sáng của quảng trường St. Peter.
Vẫn chưa ra khỏi địa phận Vatican !
- Thưa cha! - Langdon hổn hển. - Bay đi thôi, lên cao thế là đủ rồi! Tiến về phía trước ngay thôi! Không thể thả cái hộp này xuống toà thánh được!
Giáo chủ Thị thần không đáp. Hình như ngài đang tập trung điều khiển máy bay.
- Còn chưa đến 2 phút nữa! - Langdon thét to, tay giơ chiếc hộp lên. - Con nhìn thấy rồi! Mỏ đá! Cách 2 dặm về hướng Bắc! Ta không còn…
- Không đâu. Giáo chủ Thị thần trả lời. - Như thế quá nguy hiểm. Xin lỗi con. Trong khi chiếc phi cơ vẫn tiếp tục lao thẳng lên tận trời cao, vị thầy tu quay lại nhìn Langdon, miệng cười rầu rĩ: Giá như con đừng lên máy bay, con của ta. Con đã chọn con đường tử vì đạo rồi đó.
Nhìn vào đôi mắt mệt mỏi của Giáo chủ Thị thần, Langdon đột nhiên hiểu ra tất cả. Máu trong huyết quản anh đông đặc lại.
- Nhưng mà… phải tìm chỗ để vứt cái hộp chứ!
- Trên không trung con ạ. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Đó là địa điểm an toàn duy nhất.
Langdon chẳng hiểu gì. Hoá ra anh đã hiểu sai hẳn ý đồ của Giáo chủ Thị thần. Hãy hướng lên trời cao!
Trời cao, giờ thì Langdon đã hiểu, chính là nơi mà họ đang hướng tới. Ngài không hề có ý định thả hộp phản vật chất xuống bất kỳ đâu, mà chỉ nghĩ đến chuyện đưa nó ra càng xa Vatican càng tốt.
Đây là chuyến bay một đi không trở lại.
Từ quảng trường St. Peter, Vittoria Vetra ngước nhìn lên trời.
Chiếc máy bay trực thăng lúc này chỉ còn là một cái đốm nhỏ, và đã vượt ra ngoài tầm sáng của những ánh đèn máy quay. Cả tiếng cánh quạt và động cơ inh ỏi lúc này cũng đã trở thành một thứ tiếng ù ù xa xăm. Lúc này dường như cả thế giới đều đang dõi mắt lên cao, lặng đi trong chờ đợi, cả biển người cùng ngửa cổ nhìn trời… tất cả mọi người, bất kể thuộc tôn giáo nào… tất thảy mọi trái tim đều đang cùng một nhịp đập.
Tâm trí Vittoria rối bời, lòng đau thắt. Nhìn chiếc phi cơ bay lên cao, dần biến mất khỏi tầm nhìn cô nhớ lại khuôn mặt của Langdon. Anh ấy nghĩ gì mà lại làm thế? Không lẽ anh ấy không hiểu ý đồ của Giáo chủ Thị thần hay sao?
Trên quảng trường, tất cả các camera đều hướng lên trời, chờ đợi. Cả biển người cùng ngước mắt lên cao, cùng đếm những giây cuối cùng. Trên tất cả các màn hình lớn đều hiện lên một khung cảnh yên ả… cảnh trời đêm ở Rome lấp lánh sao. Vittoria ứa nước mắt.
Sau lưng Vittoria, trên nền đá cẩm thạch, 161 vị Hồng y Giáo chủ im lặng ngước nhìn lên cao. Một số vị đang chắp tay cầu nguyện, nhiều vị đứng im phăng phắc, như thể đã hoá đá. Có mấy vị đang khóc. Những giây cuối cùng nhanh chóng trôi qua.
Trong các tư gia, ở các quầy bay, tại các văn phòng, sân bay, bệnh viện trên toàn thế giới, - tất thảy mọi người đều chung một tâm trạng đợi chờ. Người ta nắm tay nhau, hoặc ôm lũ trẻ vào lòng. Thời gian tưởng như đã nhất thời ngưng đọng lại, và toàn thể nhân loại đều chung một tâm trạng khắc khoải hồi hộp.
Cuối cùng thì tiếng chuông cũng vang lên từ Đại thánh đường St. Peter, những âm thanh nghe thật não nề.
Vittoria giàn giụa nước mắt.
Để rồi… trước sự chứng kiến của toàn thế giới… những giây cuối cùng chấm dứt.
Im lặng đến rợn người.
Tít trên trời cao, một điểm sáng nhỏ xíu hiện ra. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, một thực thể mới xuất hiện… một đốm sáng màu trắng, trắng đến ngỡ ngàng.
Và điều đó đã đến.
Một luồng sáng cực mạnh. Luồng sáng ấy nở bung ra thành muôn vàn tia sáng trắng chói loà chiếu sáng khắp bầu trời, như thể được tiếp sức bằng một nguồn năng lượng từ chính trong. lòng nó. Luồng sáng toả ra mọi hướng, và gần như tức thì, nghiền vụn bóng tối. Hình cầu lửa ấy nở to mãi ra, sáng rực mãi lên, y như một con quỷ dữ đang chuẩn bị nuốt chửng toàn bộ bầu trời. Rồi nó lao thẳng xuống đầu họ với tốc độ kinh hoàng.
Bị loá mắt, tất thảy những khuôn mặt hiện ra dưới luồng sáng ấy đều chung một phản ứng: miệng há hốc, họ đưa tay lên che mắt, kêu rú khiếp đảm.
Những luồng sáng vẫn tiếp tục lan toả ra mọi hướng, những gì biển người từng thấy hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng của họ. Đà lan toả của những luồng sáng dường như bị chặn đứng bởi một bức tường vô hình, như thể đó là do ý nguyện của Chúa.
Tường như vụ nổ này vốn bị nhốt chặt trong một hình cầu khổng lồ bằng pha lê. Những tia sáng bật trở lại điểm xuất phát, tạo ra những đợt sóng ánh sáng dội ngược vào tâm cầu. Rồi đến lượt những đợt sóng sáng ấy như lại vấp phải muôn vàn tấm chắn vô hình mà ai đó đã đặt trước ở đó, chúng lơ lửng giữa không trung.
Trong giây lát, một hình cầu tròn vành vạnh lặng lẽ soi sáng bầu trời thành Rome. Đêm biến thành ngày.
Tiếp đến là tiếng nổ.
Tiếng nổ trầm và mạnh kinh khủng - những đợt sóng chấn động cực mạnh quất xuống mặt đất. Luồng sức mạnh kinh thiên động địa ấy ụp xuống đầu đám đông, như thể chúng chính là những xung động của nộ khí bốc lên từ địa ngục, làm rung chuyển toàn bộ thành Vatican, khiến cho tất cả những ai có mặt đều bị ngạt thở, và hất mạnh đến nỗi nhiều người bị ngã bật ra sau. Chúng dội vào hàng cột đá đồ sộ quanh Đại thánh đường St. Peter, và bất ngờ phả xuống một luồng khí bỏng rát. Cuồng phong thốc mạnh khắp quảng trường, khiến cho những tiếng kêu kinh hãi của đám đông vang lên khắp nơi, vang dội vào mọi cây cột đá, mọi bức tường của toà thánh. Bụi bốc lên mù mịt, và người ta đứng tụm vào nhau… cùng nhau chứng kiến trận thư hùng sau chót giữa Thiện và ác.
Rồi cũng với tốc độ chóng mặt như khi nó xuất hiện, quả cầu lửa nổ ngược vào chính tâm của nó, thu nhỏ lại đúng bằng điểm sáng hiện ra lúc ban đầu.
Chưa bao giờ cả một biển người có thể im lặng đến nhường này.
Lần lượt, từng người một, họ quay mặt nhìn sang hướng khác, rồi tất cả đều cúi xuống, như thể đang trầm tư mặc tưởng. Những ánh đèn máy quay cũng vậy, lần lượt chiếu xuống mặt đất như thể muốn bày tỏ sự tôn kính trước màu đen của bóng đêm lúc này đã trở lại bao kín bầu trời. Dường như đã có một khoảnh khắc mà cả thế giới cùng nhất loạt cúi đầu.
Hồng y Mortati quỳ xuống cầu nguyện, và những vị Hồng y khác cũng làm theo ngài. Những người lính gác Thuỵ Sĩ buông chùng tay kiếm, đứng lặng im. Không ai nói lời nào. Không ai nhúc nhích. Ở khắp mọi nơi, mọi trái tim đều dâng đầy xúc cảm.
Cảm giác mất mát. Sự khiếp hãi. Sự kinh ngạc. Niềm tin mãnh liệt Một cảm giác vừa sợ sệt, vừa sùng kính đối với một sức mạnh phi thường và hoàn toàn mới mẻ vừa hiện điện trước mắt.
Vittoria Vetra đứng run rẩy bên những bậc thang bằng đá dẫn lên Đại thánh đường. Hai mắt cô nhắm nghiền. Trong dòng thác lũ, những cảm xúc mãnh liệt đang cuộn lên trong trái tim trẻ trung của cô gái, một âm thanh vang lên, nghe văng vẳng như tiếng chuông nhà thờ từ một nơi nào đó xa xăm. Ban sơ. Tàn khốc. Cô cố gạt âm thanh ấy ra khỏi trí não.
Nhưng nó vẫn cứ vang vọng mãi, để rồi cô gái lại phải cố đẩy nó ra bên ngoài tâm trí. Nỗi đau này là quá lớn. Vittoria cố ép não bộ tập trung vào những gì đang chiếm trọn sự chú ý của tất cả mọi người… sức mạnh kinh thiên, động địa của phản vật chất… cơn nguy khốn vừa chấm dứt của Vatican… Giáo chủ Thị thần… những hành động quả cảm… những phép nhiệm màu… sự xả thân. Thế nhưng âm thanh ấy vẫn cứ vang lên… vang lên chói lói… vang vọng giữa những xúc cảm trào dâng, với cảm giác cô đơn đến tê người.
Robert .
Anh đã đến tìm cô ở lâu đài St. Angelo.
Và đã cứu mạng cô.
Để rồi bị huỷ diệt bởi phát minh của chính cô .
Vừa cầu nguyện, Hồng y Mortati vừa băn khoăn không hiểu ngài có thể nghe được lời của Chúa giống như Giáo chủ Thị thần hay không. Phải chăng phải thật sự tin vào phép màu thì người ta mới thấy được sự linh ứng của nó? Dù vẫn giữ trọn trong lòng đức tin cổ sơ vào Chúa, Hồng y Mortati là con người của thời hiện đại. Ngài không bao giờ tin vào những phép màu nhiệm. Dĩ nhiên là trong tôn giáo của ngài, người ta vẫn nhắc đến sự nhiệm màu… những bàn tay rớm máu, sự phục sinh những: vết tay trên tấm vải liệm… tuy vậy, với lối suy nghĩ rất thực tế, ngài vẫn lý giải rằng đó chính là một phần của huyền thoại. Chúng chính là minh chứng cho điểm yếu nhất của con người - nỗi khát khao được tận mắt nhìn thấy bằng chứng . Bản thân phép màu sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không đi kèm với những câu chuyện mà chúng ta đều muốn tin rằng chúng có thật.
Ấy thế mà…
Không lẽ mình hiện đại đến nỗi không tin nổi vào những gì vừa tận mặt chứng kiến? Đó có phải là một phép nhiệm màu hay không?
Đúng thế mà! Bằng cách thì thầm mấy lời vào tai Giáo chủ Thị thần, Chúa đã can thiệp đúng lúc, và bảo vệ được nhà thờ. Nhưng sao lại khó tin đến thế. Giả sử không có phép nhiệm màu này thì sẽ phải nghĩ thế nào về Chúa? Rằng Đấng Toàn Năng chẳng hề để tâm đến mọi sự hay sao? Rằng chính ngài cũng bất lực hay sao? Phép nhiệm màu là lời giải hợp lý duy nhất!
Trong tư thế quỳ, Hồng y Mortati cầu nguyện cho linh hồn của Giáo chủ Thị thần. Ngài cảm tạ người hầu cận trẻ tuổi của cố Giáo hoàng. Dù còn trẻ tuổi, con người ấy đã cho ngài thấy sự nhiệm màu của đức tin tuyệt đối.
Nhưng vẫn thật khó tin, suốt cả đời, Hồng y Mortati chưa bao giờ thấy đức tin của mình bị thử thách đến mức này…
Sự im lặng trên quảng trường St. Peter bắt đầu chuyển thành những tiếng xì xầm bàn tán. Rồi tiếng rì rầm chuyền thành tiếng lao xao, để rồi sau đó, nó biến thành tiếng rầm rầm đinh tai nhức óc Cả biển người bỗng chốc đồng thanh hô lớn:
- Nhìn kìa! Nhìn kìa!
Hồng y Mortati mở mắt, quay sang nhìn đám đông. Tất cả mọi người đều đang đưa tay chỉ về phía sau ngài, về phía mặt tiền của Đại thánh đường St. Peter. Ai nấy mặt mày tái xanh. Một số quỳ sụp xuống. Một số thì ngất lịm đi. Nhiều người khác bật lên những tiếng thổn thức không thể kìm nén nổi.
- Nhìn kìa! Nhìn kia kìa?
Hồng y Mortati quay lại, ngỡ ngàng, đưa mắt nhìn theo hướng tay họ đang chỉ. Đám đông đang chỉ tay lên tầng tháp cao nhất của Đại thánh đường, - nơi có những pho tượng khổng lồ mô phỏng chúa Giê-su và những tông đồ của Người.
Trên đó, trên cánh tay phải của chúa Giê-su, một người đang đang rộng hai tay đón chào cả thế giới… chính là Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca.
 
Robert Langdon không còn rơi tiếp nữa.
Không còn cảm giác kinh hoàng. Không còn đau đớn. Thậm chí cả tiếng gió ù ù bên tai cũng không còn. Chỉ có tiếng nước đang vỗ nhè nhẹ, như thể anh đang ngủ một giấc say sưa trên bờ biển.
Trái ngược với nhận thức của mình, Langdon cảm giác rằng đây chính là cái chết. Anh thấy mừng, và cứ để mặc cho tình trạng tê liệt đầy dễ chịu ấy thấm khắp cơ thể, mặc cho nó đưa anh đến bất kỳ nơi nào. Cả nỗi đau đớn lẫn sự sợ hãi đều đã biến mất và anh không muốn để chúng quay trở lại chút nào.
Những hình ảnh cuối cùng còn lưu lại trong trí não anh quả là hãi hùng đến tột độ.
Xin hãy đón nhận tôi. Xin hãy làm ơn …
Nhưng những tiếng vỗ nhè nhẹ nãy giờ mang lại ảo giác dịu dàng về sự yên bình đã kéo anh về với thực tại, đưa anh ra khỏi những giấc mơ. Đừng! Xin hãy để mặc tôi! Anh không hề muốn thức dậy. Cảm tưởng như vô vàn ác quỷ đang chực sẵn, đợi cơn mơ chấm dứt để xâu vào cấu xé anh. Những hình ảnh quay cuồng. Những tiếng la hét. Gió giật. Không! Xin đừng ! Nhưng càng cố tình trốn tránh thì cảm giác phẫn nộ càng tăng lên nhanh chóng.
Thế rồi, một cách sống động, anh hồi tưởng lại tất cả…
***
Chiếc máy bay trực thăng đang tiếp tục lên cao với tốc độ chóng mặt. Anh bị kẹt bên trong. Bên ngoài cửa kính, những ánh đèn đêm của thành Rome lùi xa mãi, từng giây từng khắc. Bản năng sinh tồn ra lệnh cho anh phải vứt bỏ cái hộp ngay tức thì. Langdon biết rằng trong vòng chưa đầy 20 giây, cái hộp sẽ rơi được hơn nửa dặm. Nhưng bên dưới là một thành phố đông đặc những người.
Phải lên cao nữa! Cao hơn nữa !
Langdon băn khoăn, không hiểu họ đã lên đến độ cao bao nhiêu. Anh biết rằng loại trực thăng nhỏ này có thể bay lên đến độ cao 4 dặm. Chiếc máy bay này chắc đã bay gần đến độ cao đó rồi. Hai dặm rồi? Hay là ba? Vẫn còn cơ hội. Nếu thả xuống đúng thời điểm, cái hộp sẽ chỉ rơi hết một nửa độ cao đó, rồi nổ tung ở một khoảng cách an toàn, cho cả mặt đất lẫn máy bay. Anh nhòm xuống nhìn thành phố trải rộng dưới tầm mắt.
- Thế nhỡ anh tính toán nhầm thì sao? - Giáo chủ Thị thần lên tiếng.
Langdon giật mình quay lại. Giáo chủ Thị thần không hề nhìn mặt anh, Đức cha rõ ràng là đã đọc được suy nghĩ của anh qua hình ảnh phản chiếu trên tấm gương gắn ở cửa sổ. Thật kỳ quặc, lúc này vị thầy tu trẻ tuổi không còn tập trung vào bảng điều khiển nữa. Hai tay ngài thậm chí còn không chạm vào cần gạt.
Hình như chiếc phi cơ đang ở chế độ bay tự động, và vẫn tiếp tục tăng độ cao. Giáo chủ Thị thần với tay lên trần ca-bin, mò mẫm trong một cái hộc, rồi rút ra một chìa khoá được giấu kín trong đó.
Langdon kinh ngạc nhìn Giáo chủ Thị thần nhanh nhẹn mở hộp để đồ giữa hai chiếc ghế, lấy ra một cái túi ni-lông lớn màu đen. Ngài đặt cái túi trên ghế, sát bên người. Langdon thấy đầu óc quay cuồng. Những cử động của Giáo chủ Thị thần trông có vẻ rất dứt khoát, như thể Đức cha đã tìm ra một giải pháp.
- Đưa cái hộp cho ta. - Giáo chủ Thị thần ra lệnh, giọng quyết đoán.
Langdon chẳng biết làm gì khác. Anh giúi cái hộp vào tay vị thầy tu trẻ.
- 90 giây nữa!
Hành động tiếp sau đó của Giáo chủ Thị thần khiến Langdon hoàn toàn kinh ngạc. Thận trọng dùng cả hai tay, Giáo chủ Thị thần đặt cái hộp vào khoang chứa hành lý, kéo nắp khoang xuống, rồi khoá lại.
- Cha làm gì thế? - Langdon hỏi.
- Để loại bỏ khả năng hành động theo cảm tính. - Giáo chủ Thị thần ném chìa khoá ra ngoài cửa sổ.
Nhìn chiếc chìa khoá bé nhỏ rơi tõm vào bóng đêm, Langdon tưởng như linh hồn mình cũng rơi theo vào bóng đêm vĩnh cửu.
Lúc này, Giáo chủ Thị thần bắt đầu lùa hai cánh tay vào đai kẹp, ngài vòng một đai qua bụng, cài khoá thật chặt, rồi siết chặt cái bọc trên lưng. Sau đó Đức cha quay lại, nhìn vào vẻ mặt sững sờ đến tột cùng của Langdon.
- Ta rất tiếc. - Giáo chủ Thị thần nói - Ta không hề muốn thế này. - Sau đó ngài mở cửa, nhảy vào đêm đen.
Hình ảnh ấy thiêu đốt tâm trí Langdon, và khiến anh đau đớn. Đau thật sự. Đau quặt thắt. Anh chỉ muốn được chết đi, để thấy tất cả mọi sự chấm dứt, nhưng nước vẫn tiếp tục vỗ vào màng nhĩ, những hình ảnh mới lại hiện về trong trí não. Những khổ ải của anh chỉ vừa mới bắt đầu. Anh thấy đầu óc quay cuồng. Sợ hãi đến tột độ. Trong trạng thái nửa như chết, nữa như trong cơn ác mộng, anh khẩn cầu được giải thoát, nhưng những hình ảnh trong tâm trí càng trở nên sáng rõ thêm lên.
Hộp đựng phản vật chất đã bị khoá kỹ trong hộc để đồ. Chiếc đồng hồ đang lạnh lùng đếm những giây khắc cuối cùng trong khi máy bay vẫn đang tăng độ cao. 50 giây. Cao nữa. Cao thêm nữa . Langdon quay như chong chóng trong ca-bin, cố hiểu những gì vừa chứng kiến. 45 giây . Anh chui xuống gầm ghế để tìm một chiếc dù khác. 40 giây . Chẳng có bất kỳ thứ gì! Phải có cách chứ! 35 giây . Anh lao phắt đến bên cánh cửa mở sẵn bên hông máy bay, gió thốc mạnh vào người. Langdon trân trối nhìn xuống thành Rome. 32 giây .
Và anh đã quyết định.
Một giải pháp không ái tin nổi…
Không có dù, nhưng Robert Langdon vẫn nhảy xuống. Lúc trời đêm ôm anh vào lòng cũng là lúc chiếc máy bay phát nổ, tiếng động cơ tắt ngấm, thay vào đó là tiếng gió rít vù vù bên tai, Langdon rơi tự do.
Rơi thẳng từ trên cao xuống, Langdon trải qua thứ cảm giác anh chưa một lần biết đến sau bao năm chơi môn nhảy nước - sức hút chết người của trọng lực. Tốc độ mỗi lúc một lớn, và lực hút của trái đất cũng mỗi lúc một mạnh thêm. Tuy nhiên, lần này anh sẽ không rơi xuống một hồ nước từ độ cao 45 mét như mọi khi. Lần này anh rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống thành Rome một vùng rộng lớn toàn đường nhựa và bê tông cốt thép.
Trong tiếng ù ù của gió, trong cơn tuyệt vọng, Langdon như nghe thấy giọng nói của Kohler từ dưới mồ vang lên… những lời mà ông ta đã nói sáng nay, khi họ đang đứng trong thang máy ở CERN. Một mét vuông lực kéo sẽ làm giảm 20% tốc độ của một người đang rơi tự do. Giờ thì Langdon đã nhận ra rằng 20% còn xa mới đủ để cứu sống anh trong cú rơi tự do khủng khiếp này. Thế nhưng anh vẫn gắng sức siết chặt vật duy nhất tìm được lúc chạy ra cửa máy bay. Chỉ là một vật lưu niệm đã cũ, nhưng cũng đủ để mang lại cho anh một tia hi vọng trong giây phút này.
Tấm vải tráng dầu này được dùng làm rèm che cửa sổ máy bay. Hình vuông - mỗi cạnh khoảng gần 4 mét, trông giống… tấm dù… nếu so sánh một cách thô thiển. Không có đai cài, chỉ có mấy cái móc để gài vào những cạnh hình khum của khung cửa sổ Langdon đã chộp lấy mảnh vải, luồn tay qua những cái móc gài, giữ chặt lấy tấm vải, rồi nhảy ra khỏi máy bay.
Hành động tự vệ cuối cùng, đầy dũng mãnh.
Nhưng lúc này thì chẳng còn lại chút ảo tường nào về sự sống nữa.
Langdon rơi xuống y như một tảng đá. Chân xuống trước. Hai cánh tay đang rộng, hai bàn tay túm chặt những cái móc gài. Tấm vải căng phồng lên trên đầu anh, trông như một cây nấm. Gió thổi mạnh kinh khủng.
Vẫn trong trạng thái rơi tự do, Langdon nghe thấy tiếng nổ. Có vẻ xa hơn anh tưởng. Gần như ngay tức thì, sóng chấn động đập mạnh vào cơ thể Langdon. Tưởng như toàn bộ không khí trong hai buồng phổi bị ép hết ra ngoài. Langdon vẫn cố giữ chặt những cái móc. Luồng khí nóng ùa xuống. Mép tấm vải dầu bắt đầu cháy âm ỉ… nhưng anh vẫn kiên gan.
Langdon lao từ trên cao xuống mặt đất với tốc độ của một quả tên lửa, ngay bên dưới vầng lửa của vụ nổ, y như một vận động viên lướt ván đang ra sức chạy trốn một đợt sóng thuỷ triều cao hàng trăm mét. Rồi bất ngờ luồng khí bớt nóng dần.
Anh lại tiếp tục rơi tự do trong bóng tối mát lạnh.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, Langdon thấy hi vọng lóe lên, nhưng ngay sau đó, lại vụt tắt, giống như luồng khí nóng đang nguội đi nhanh chóng. Hai cánh tay anh mỏi rã rời chứng tỏ tấm vải dầu trên đầu có sức cản đáng kể, gió vẫn rít quanh anh với tốc độ cực lớn. Rõ ràng là rơi nhanh đến mức này thì không cách gì thoát chết được. Anh sẽ bị nghiền nát khi đập mạnh xuống mặt đất…
Những con số và phép tính vụt hiện lên trong trí não, nhưng đầu óc Langdon lúc này đã trở nên mụ mẫm, không còn khả năng tính toán nữa… một mét vuông lực cản… ttốc độ rơi tự do giảm 20%. Chỉ biết là tấm vải dầu trong tay anh đủ lớn để tốc độ giảm đi hơn 20%. Nhưng than ôi, với tốc độ gió thế này thì tấm vải có tốt đến mấy cũng chẳng mang lại kết quả gì đáng kể. Anh vẫn đang rơi rất nhanh với đường nhựa và bê tông chờ sẵn dưới kia thì chắc chắn không còn cơ hội sống sót.
Dưới mặt đất, những ngọn đèn đêm của thành Rome toả ra khắp mọi hướng. Thành phố hiện ra chẳng khác gì một bầu trời đêm đầy sao sáng lung linh. Có một dải màu đen chạy vắt qua vòm trời sao tuyệt diệu ấy - một. dải tối khá rộng, chạy ngoằn ngoèo giữa rừng đèn, y như một con rắn mập ú. Langdon chăm chú quan sát dải màu đen ấy…
Bất chợt hi vọng lại bùng lên, y như bọt sóng bất thần tung lên khi một con sóng xô mạnh vào bờ.
Với sức mạnh không ngờ, Langdon giật mạnh cánh tay phải.
Tấm vải dầu lập tức kêu phần phật, rồi căng phồng lên, trước khi định hình ở một vị trí tạo nên ít sức cản nhất. Langdon cứ để mặc cho th.ân thể mình rơi xuống trong tư thế nằm ngang. Anh lại giật mạnh cánh tay một lần nữa, dù mỗi cử động đều khiến bàn tay đau rát. Tấm vải xòe rộng hẳn ra, và Langdon bắt đầu rơi trong tư thế nằm nghiêng. Không nghiêng hẳn. Nhưng thế đã là đáng kể lắm rồi! Một lần nữa anh lại cúi xuống nhìn dải tối đen sẫm uốn lượn bên dưới. Nó nằm chếch về bên phải, nhưng anh vẫn còn ở tít trên cao. Hay tại anh đã nán lại trên máy bay quá lâu? Lại một lần nữa Langdon giật mạnh cánh tay phải, lòng thầm nghĩ đành phải phó thác cho số mệnh. Anh cố nhằm vào chỗ uốn rộng nhất và… lần đầu tiên trong đời, Langdon nguyện cầu một phép nhiệm màu.
Sau đó là mờ mịt.
Dường như bóng tối từ dưới mặt đất lao thẳng lên chụp lấy anh… Anh vụt nhớ lại kỹ năng nhảy cầu… động tác uốn cong sống lưng, các ngón chân duỗi ra thật thẳng… hai lá phổi căng lên để che đỡ cho các cơ quan nội tạng… cẳng chân gấp lại để tránh cú đâm như trời giáng… và cuối cùng là… ơn Chúa, dòng sông Tiber đang cuồn cuộn chảy… nước ngầu bọt, chứa lượng khí khá lớn… khiến cho sức cản chỉ còn bằng một phần ba so với nước ở trạng thái tĩnh.
Sau đó là cú va đập… và đêm tối mịt mùng.
Tiếng mảnh vải dầu kêu phần phật cực mạnh khiến cho mọi người quay lại, tạm thời không chú ý đến quả cầu lửa trên trời nữa. Đêm nay, bầu trời thành Rome quả là quá nhiều những cảnh tượng khác thường… đầu tiên là chiếc trực thăng lao thẳng lên bầu trời, rồi đến vụ nổ… và giờ đây là một vật thể kỳ dị rơi thẳng từ trên cao xuống dòng sông Tiber đang chảy cuồn cuộn, ngay sát hòn đảo nhỏ nhô lên giữa sông - đảo Tiberina.
Kể từ khi hòn đảo nhỏ này được trưng dụng làm nơi điều trị cho các bệnh nhân của trận đại dịch năm 1656 ở thành Rome, người ta đã bắt đầu tin vào khả năng chữa trị kỳ bí của hòn đảo này. Chính vì lý do này mà sau đó người ta đã đặt tại đây một bệnh viện. - Bệnh viện Tiberina.
Khi được kéo từ dưới sông lên, cơ thể người này bị bầm dập khắp nơi. Nhưng thật kỳ diệu, mạch của anh ta vẫn còn đập, dù rất yếu. Hẳn phải nhờ có sự huyền diệu của hòn đảo Tiberina nên trái tim của anh ta mới có thể tiếp tục đập như vậy. Sau đó mấy phút, người đàn ông ấy bắt đầu ho mạnh, rồi hồi tỉnh lại, tất cả mọi người đều quả quyết rằng đó là nhờ phép lạ của hòn đảo nhỏ diệu kỳ này.
Hồng y Mortati biết rằng không một từ ngữ nào có thể diễn tả nổi sự kỳ bí của giây phút hiện tại. Sự im lặng bao trùm quảng trường St. Peter giờ đây âm vang hơn bất kỳ dàn đồng ca nào của các thiên thần.
Mắt trân trân ngước lên nhìn Giáo chủ Thị thần, Hồng y bị giằng xé dữ dội, một bên là trái tim, một bên là lý trí. Những gì trông thấy quả là quá chân thực, quá hiển nhiên. Nhưng mà… làm sao lại thế được? Tất cả mọi người đều đã thấy Giáo chủ Thị thần leo lên máy bay trực thăng. Họ cũng đã chứng kiến quả cầu lửa nổ tung trên trời. Ấy thế mà lúc này, họ lại thấy vị thầy tu trẻ này đứng trên nóc thánh đường. Phải chăng con người này đã được thiên thần chắp cánh? Hay được Chúa ban cho phép màu tái sinh?
Không thể nào …
Hồng y Mortati thực sự muốn tin vào mắt mình, nhưng trí não của ngài phản đối quyết liệt, nó đòi một lời giải thích. Tất cả các vị Hồng y khác đều đang ngước nhìn chăm chú, kinh ngạc đến sững sờ.
Đó là Giáo chủ Thị thần. - Không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng vị thầy tu trẻ tuổi ấy trông khác hẳn lúc trước, đầy vẻ thánh thiện. Như thể đã được gột rửa đến tận tâm hồn. Phải chăng là người thật? Hay chỉ là một linh hồn? Dưới tác động của ánh đèn máy quay, nước da trắng của Giáo chủ Thị thần toả sáng, trông hệt như một thiên thần, không trọng lượng.
Trong đám đông trên quảng trường, người thì khóc, người thì reo hò vui sướng, người thì vỗ tay hoan hô. Một nhóm các nữ tu sĩ bắt đầu quỳ xuống đọc kinh Saetas. Quảng trường bắt đầu vang lên những giọng nói. Rồi bất ngờ, cả biển người cùng đồng thanh hô vang tên của Giáo chủ Thị thần. Các thành viên của Hội đồng hồng y, một số xúc động đến chảy nước mắt, cũng hoà giọng với đám đông. Hồng y Mortati đưa mắt nhìn khắp xung quanh. Là thật hay là mơ đây?
Đứng trên tầng cao nhất của tháp chuông trên nóc Đại thánh đường St. Peter, Giáo chủ Thị thần quan sát biển người bên dưới đang ngước lên nhìn mình. Đây là sự thật hiện hữu hay chỉ là chiêm bao? Thật kỳ lạ, Giáo chủ Thị thần cảm thấy chính bản thân mình không còn giống như trước nữa; ngài không hiểu chỉ có mỗi linh hồn, hay cả thể xác của mình vừa từ thiên đàng hạ cánh xuống khoảng đất trống sau khu vườn của toà thánh… hạ cánh một cách nhẹ nhàng, y như một thiên thần vừa đáp xuống giữa thảm cỏ. Chiếc dù màu đen đã giúp Giáo chủ Thị thần hoà lẫn vào vùng bóng tối đằng sau Đại thánh đường St. Peter. Không hiểu chỉ đơn thuần là thể xác, hay cả linh hồn đã truyền cho ngài sức lực để leo hết vô số bậc trên cầu thang Medallion, để lên tận đỉnh cao nhất này.
Giáo chủ Thị thần thấy mình nhẹ bỗng, như một linh hồn đang bay lượn.
Đám đông bên dưới đang hô vang tên mình, nhưng Giáo chủ Thị thần biết rằng họ không tôn sùng cá nhân ngài . Họ đang vô cùng hoan hỉ, niềm hoan hỉ mà ngài vẫn thường cảm nhận khi nghĩ về Đấng Toàn Năng. Họ đang cảm nhận những gì mà họ vốn khao khát từ lâu… khao khát được thấy một bằng chứng về sự tồn tại của Chúa trời… bằng chứng về sức mạnh của Tạo hoá.
Suốt cuộc đời mình, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã cầu nguyện cho giây phút này, ấy thế mà ngài vẫn không thể tin rằng chính Chúa đã tự tin cách để chứng minh sự tồn tại của Người. Giáo chủ Thị thần muốn thét lên thật to để cả biển người đều nghe thấy. Chúa của chúng ta đây, Người đấy! Hãy nhìn cho rõ những phép nhiệm màu vừa hiện hữu quanh các người!
Giáo chủ Thị thần đứng trên tháp chuông một hồi lâu, các giác quan đều đã mụ mị nhưng trái tim thì rộn ràng xúc cảm.
Mãi rồi những cảm xúc ấy cũng lắng xuống, ngài cúi đầu chào đám đông, rồi lui khỏi lan can. Còn lại một mình, Giáo chủ Thị thần quỳ xuống và cầu nguyện.
Mọi thứ xung quanh Langdon đang bồng bềnh chao đảo và mờ mịt. Nhưng rồi thị lực của anh cũng dần phục hồi trở lại. Hai cẳng chân đau nhừ, toàn thân nhức nhối như vừa bị xe tải hạng nặng cán lên. Anh đang nằm nghiêng trên nến đất, miệng đắng ngắt. Tiếng nước vỗ ì oạp vẫn tiếp tục vang lên, nhưng không còn mang lại cảm giác bình yên nữa. Có cả những âm thanh khác tiếng người nói ngay bên cạnh. Những bóng áo trắng lờ mờ hiện ra. Không lẽ tất cả mọi người đều mặc đồ trắng? Vậy thì đây chỉ có thể là thiên đường, hoặc địa ngục. Và vì cổ họng anh đau rát, nên đây không thể là thiên đường. "Anh ấy nôn xong rồi đấy" Một người đàn ông nói bằng tiếng Ý. "Lật anh ấy lại đi!" Giọng nói có vẻ rất chắc chắn, và rất chuyên nghiệp. Langdon được đỡ nằm ngửa ra. Đầu óc quay cuồng, anh gượng ngồi đậy, nhưng những bàn tay dịu dàng đẩy anh nằm xuống. Anh phục tùng. Rồi một người lần tay vào khắp các túi quần túi áo Langdon, lôi hết các thứ ra.
Rồi anh ngất đi.
Bác sĩ Jacobus vốn không phải là người mộ đạo. Đã từ lâu, y học khiến ông không còn nghĩ đến tôn giáo nữa. Thế nhưng những sự kiện dồn dập trong buổi tối hôm nay quả là một sự thách thức đối với lối suy nghĩ lôgíc và khoa học của ông. Giờ lại còn có người rơi từ trên trời xuống nữa!
Sau khi xem mạch cho người đàn ông mà họ vừa lôi lên từ bờ sông Tiber, bác sĩ Jacobus kết luận rằng nếu không được đích thân Chúa trời che chở thì anh ta không thể thoát chết.
Sức ép của nước đã khiến cho người này ngất lịm đi. Nếu bác sĩ Jacobus và các đồng nghiệp của ông không ra tận bờ sông để quan sát sự kiện hy hữu trên bầu trời thì sẽ chẳng có ai phát hiện ra con người này, và anh ta sẽ chết chìm trong nước.
- E. Americano(1) - Một cô y tá kêu to sau khi đã lôi được người đàn ông này lên chỗ đất khô, và kiểm tra ví của anh ta.
Người Mỹ sao? Những người dân thành Rome vẫn thường nói đùa rằng người Mỹ đổ đến thành phố này đông đến nỗi bánh mỳ kẹp sắp chính thức trở thành món ăn Ý. Giờ lại có cả người Mỹ từ trên trời rơi xuống nữa hay sao? Bác sĩ Jacobus bật đèn pin kiểm tra đồng tử của nạn nhân. Này anh? Anh có nghe tôi nói không? Anh có biết mình đang ở đâu không?
Anh ta lại ngất lịm đi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Người này đã nôn ra rất nhiều nước, và vừa được sơ cứu xong.
- Si chiama Robert Langdon(2)- xem xong bằng lái xe của nạn nhân, một cô y tá thốt lên.
Tất cả những người đang có mặt trên cầu cảng đều quay phắt lại:
- Không thể nào ! - Bác sĩ Jacobus phản bác. Robert Langdon vừa mới xuất hiện trên ti-vi - vị giáo sư đại học người Mỹ này đã cứu nguy cho Vatican. Cách đây mấy phút, Robert Langdon vừa mới leo lên chiếc trực thăng ở quảng trường St. Peter và bay lên trời.
Cùng những người khác, bác sĩ Jacobus ra đây để xem vụ nổ phản vật chất - một quả cầu lửa độc nhất vô nhị. Làm sao người này có thể là Robert Langdon được?
- Chính là anh ấy đấy! - Cô y tá vừa chải mái tóc đen ướt sũng của nạn nhân vừa quả quyết. - Tôi nhận ra áo khoác của anh ấy mà!
Đột nhiên có người ở cổng bệnh viện hét ầm lên. Đó là một bệnh nhân. Bà ta đang la hét ầm ĩ, như thể sắp phát điên đến nơi, tay giương cao chiếc đài bán dẫn loại nhỏ, miệng không ngừng ca tụng Chúa. Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca vừa xuất hiện trên nóc Đại thánh đường St. Peter, như một phép màu.
Bác sĩ Jacobus quyết định sẽ đến nhà thờ ngay sau khi ca trực của ông kết thúc lúc 8 giờ sáng.
Luồng sáng chiếu thẳng vào mặt Langdon lúc này mạnh hơn hẳn. Anh đang nằm trên bàn khám bệnh. Mùi thuốc sát trùng và các loại hoá chất xông lên nồng nặc. Người ta vừa tiêm cho anh một mũi, và đã thay quần áo cho anh.
Chắc chắn họ không phải là người Gíp-xi(3), trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Langdon phán đoán. ` ?
Anh đã từng nghe nói đến những sự kiện đại loại như thế. May mắn là những người này không làm gì hại anh cả. Họ chỉ muốn…
- Không đời nào! - Langdon ngồi phắt dậy, hai mắt mở to.
- Attento!(4) - Một trong những người ngoài hành tinh ấy giữ chặt lấy anh. Tấm biển trên ngực người này ghi dòng chữ Bác sĩ Jacobus. Trông ông ta rất giống người trên trái đất.
Langdon lắp bắp:
- Tôi… tưởng là…
- Bình tĩnh đã, anh Langdon. Đây là bệnh viện.
Sương mù bắt đầu tan. Langdon cảm thấy nhẹ cả người. Anh vốn dĩ ghét bệnh viện vô cùng, nhưng chắc chắn đây không phải là những người ngoài hành tinh với rắp tâm cắt bỏ t.inh hoàn của anh.
- Tôi là bác sĩ Jacobus. - Người đàn ông tự giới thiệu, rồi kể lại cho Langdon nghe những gì vừa xảy ra. - Anh còn sống được thế này là may mắn lắm đấy.
Langdon chẳng thấy có gì là may mắn. Trí nhớ của anh gần như tê liệt… chiếc trực thăng… Giáo chủ Thị thần . Khắp người anh đau ê ẩm. Họ mang cho anh một cốc nước để súc miệng, rồi đặt một miếng gạc lên bàn tay tứa máu của anh:
- Quần áo của tôi đâu? - Langdon hỏi. Trên người anh lúc này là một cái áo choàng bằng giấy.
Một cô y tá chỉ chiếc quần ka-ki và cái áo khoác ướt rượt ở góc phòng:
- Ướt quá, nên chúng tôi đã cởi nó ra rồi.
Langdon cau mày nhìn chiếc áo khoác ướt nhoẹt của mình.
- Tôi tìm thấy một cái máy hiệu Kleenex trong túi áo của anh.
Cô y tá nói tiếp.
Đúng lúc ấy, Langdon trông thấy những mảnh giấy da tả tơi dính vào mép chỉ trên áo khoác. Trang sách lấy từ quyển Diagramma . Bản cuối cùng còn lại trên trái đất thế là đã tiêu tan.
Quá choáng váng, chẳng biết phải làm gì, Langdon trân trối nhìn.
- Chúng tôi đã tìm được một số vật tuỳ thân của anh. - Cô y tá giơ cao một cái hộp bằng nhựa. - Ví, máy ghi hình và bút. Tôi đã sấy khô cái máy ghi hình này cho anh rồi.
- Tôi có máy ghi hình nào đâu.
Cô y tá nhíu mày, giương cao cái hộp một lần nữa. Langdon nhìn vào trong. Cạnh ví tiền và cây bút của anh là chiếc máy ghi hình nhỏ xíu hiệu Song RUVI. Giờ thì anh đã nhớ ra. Kohler đã đưa cho anh, nhờ chuyển cho giới báo chí.
Chúng tôi tìm thấy trong túi áo khoác của anh. Nhưng chắc anh sẽ phải mua cái khác mà dùng thôi. - Cô y tá mở màn hình nhỏ phía sau chiếc máy. - Màn hình bị nứt mất rồi! - Nhưng ngay sau đó cô gái tỏ ra mừng rỡ - Nhưng mà vẫn nghe được tiếng, dù không rõ lắm. - Cô y tá đưa chiếc máy sát vào tai - Nó đang liên tục tua đi tua lại thì phải. - Cô gái nghe một lúc rồi đưa cho Langdon, vẻ không mấy hứng thú - Nếu tôi không nhầm thì có hai người đang cãi nhau.
Ngạc nhiên, Langdon đưa chiếc máy sát vào tai. Tiếng không được êm và sắc nét lắm, nhưng không thể nhầm lẫn được. Một người ở gần, người kia ở xa. Và anh nhận ra cả hai giọng nói.
Ngồi trên gi.ường, mình mặc chiếc áo choàng giấy, Langdon sửng sốt lắng nghe câu chuyện. Không nhìn được hình ảnh, nhưng khi nghe tiếng rú ở cuối cuộc nói chuyện, anh vẫn thầm cảm ơn chúa vì mình không phải tận mắt nhìn cảnh ấy.
Chúa ơi !
Trong khi chiếc máy vẫn tiếp tục tự động phát lại cuộc nói ch.uyện ấy, Langdon hạ thấp chiếc máy xuống, ngạc nhiên đến sững sờ. Phản vật chất… chiếc máy bay trực thăng… tâm trí anh lại quay cuồng với bao nhiêu suy nghĩ.
Những điều này có nghĩa là …
Langdon lại cảm thấy buồn nôn. Phẫn nộ đến mức không thể kiềm chế nổi, anh nhảy phắt xuống sàn, dù hai chân vẫn còn đang run rẩy.
- Anh Langdon! - Bác sĩ ra sức cản anh lại.
- Tôi cần quần áo để mặc. - Cảm nhận được lớp vải trải gi.ường ngay dưới lưng, Langdon biết rằng chiếc áo giấy anh đang mặc chỉ che kín phía trước, còn phía sau thì không.
- Nhưng anh cần phải nghỉ ngơi.
- Tôi sẽ ra khỏi đây. Ngay lập tức. Cho tôi mượn bộ quần áo.
- Nhưng mà, anh…
- Ngay lập tức!
Mọi người bối rối đưa mắt nhìn nhau:
- Chúng tôi chẳng có quần áo nào cả. - Bác sĩ nói - Có lẽ sáng mai một người bạn nào đó sẽ mang vào cho anh…
Hít một hơi thật sâu để giữ bình tĩnh, rồi nhìn thẳng vào mắt ông bác sĩ, Langdon nói dõng dạc:
- Thưa bác sĩ Jacobus, tôi sẽ ra khỏi bệnh viện này ngay bây giờ. Và tôi cần quần áo để mặc. Tôi phải vào toà thánh ngay. Không ai vào Vatican trong bộ dạng này cả. Tôi nói như thế đã rõ ràng chưa?
Bác sĩ Jacobus nuốt khan một cách khó nhọc:
- Hãy tìm cho anh ấy cái gì để mặc tạm vậy.
Tập tễnh bước ra khỏi bệnh viện Tiberina, Langdon thấy bộ dạng của mình khá kỳ quặc. Trên người anh là bộ áo liền quần màu xanh của y tá, phía trước có một cái khoá kéo rất dài, trên ngực là một tấm biển bằng vải ghi đủ các loại bằng cấp.
Người phụ nữ to béo đi cùng anh cũng mặc một bộ đồ y như thế Bác sĩ Jacobus đã đảm bảo rằng người y tá này sẽ đưa anh vào toà thánh một cách vô cùng nhanh chóng.
- Molto traffico(5) ! - Langdon nhắc nhở chị ta rằng khu vực quanh toà thánh lúc này đặc những người và xe.
Người y tá không hề tỏ ra lo lắng. Chị ta tự hào đưa tay chỉ tấm biển trên ngực mình:
- Sono conducente di ambulanza(6)
- Xe cứu thương à? - Hoá ra là thế. Xe cứu thương thì anh không ngại.
Người y tá dẫn Langdon đi vòng ra sau toà nhà. Trên một khoảng đất trống lát xi măng ngay sát bờ sông, phương tiện dành cho họ đã đợi sẵn. Vừa thoáng trông thấy, Langdon đã dừng phắt lại. Đó là một chiếc trực thăng dành cho cánh nhà báo, cũ rích. Trên thân máy bay có in dòng chứ Aero-ambulanza(7) .
Langdon quay sang nhìn người y tá, ánh mắt dò hỏi.
Chị ta mỉm cười: Bay vào toà thánh. Cách nhanh nhất đấy.

Chú thích:
(1) E Americano: Một người Mỹ.
(2) Si chiama Robert Langdon: Tên anh ta là Robert Langdon
(3) Gip-xi (hoặc Digan) Một tộc người gốc Ấn sống lưu vong ở châu Âu, thường kiếm sống bằng cách xem bói, múa hát, làm xiếc, v.v… thường không được dân địa phương coi trọng.
(4) Attento: Cẩn thận.
(5) Molto traffico: Xe cộ đông đúc lấm.
(6) Sono conducente di ambulanza. Đi bằng xe cứu thương.
(7) Aero-Ambulanza: Máy bay cứu thương.
 
Quay trở lại nhà nguyện Sistine, hầu hết các thành viên của Hồng y đoàn đều chung một cảm giác phấn khích. Còn Hồng y Mortati thì chỉ thấy sự ngờ vực trong lòng mỗi lúc một thêm rõ rệt. Những phép màu nhiệm được tả trong kinh thánh thì ngài tin là có thật, nhưng những gì vừa xảy ra tối nay quả là không thể hiểu nổi. Sau một thời gian dài hiến mình cho Chúa, 79 năm cả thảy, đức cha Mortati biết rằng lẽ ra trái tim ngài ngay lúc này phải chan chứa cảm giác phấn khích và sùng tín… một đức tin mạnh mẽ. Ấy thế mà Đức cha cứ cảm thấy mỗi lúc một thêm bứt rứt. Có cái gì đó không ổn.
- Thưa đức cha Mortati! - Một người lính gác Thuỵ Sĩ vừa chạy vào trong sảnh vừa gọi to. - Chúng con đã lên trên nóc theo lệnh của Đức cha. Giáo chủ Thị thần đúng là người bằng xương bằng thịt ! Là người thật ạ!
- Không phải là hồn ma!
- Chính xác là thế ạ!
- Ông ấy có nói gì với các người không?
- Ngài đang quỳ, và đang cầu nguyện ạ. Chúng con không dám lên tiếng!
Hồng y Mortati thấy bối rối:
- Bảo ông ấy là… Hồng y đoàn đang đợi.-
- Thưa Đức cha, vì Giáo chủ Thị thần là người… - Người lính ngập ngừng.
- Sao?
- Ngực của Giáo chủ Thị thần… bị bỏng ạ. Có phải băng vết thương không ạ? Trông có vẻ đau lắm.
Hồng y Mortati phân vân. Suốt một đời phụng sự giáo hội, Đức cha chưa bao giờ lường trước được tình huống kỳ quặc này:
- Vì Giáo chủ Thị thần là người nên phải đối xử với ngài như với một con người. Hãy tắm cho ngài. Băng vết thương cho ngài. Rồi mặc cho ngài một chiếc áo lành lặn. Hồng y đoàn đang đợi ngài trong nhà nguyện Sistine.
Người lính gác chạy vụt đi.
Hồng y Mortati tiếp tục tiến về phía nhà nguyện Sistine. Toàn thề Hồng y đoàn lúc này đã tề tựu bên trong nhà nguyện. Bước lên cầu thang, Đức cha thấy Vittoria Vetra vừa ngồi sụp xuống bên cầu thang Hoàng gia. Cô gái trông thật đau khố và cô đơn, và Đức cha muốn dừng lại một lát để vỗ về cô gái tội nghiệp, nhưng giờ chưa phải lúc làm việc đó. Còn rất nhiều việc phải làm… dù chính Đức cha cũng chưa biết chính xác đó là những việc nào.
Hồng y Mortati vào bên trong nhà nguyện. Bầu không khí huyên náo đầy phấn khích bao trùm. Đức cha khép cửa lại. Xin Chúa hãy giúp con .
***
Chiếc trực thăng động cơ kép Aero-ambulanza lượn vòng bên trên toà thánh. Langdon nghiến chặt răng, bụng nhủ thầm đây sẽ là chuyến bay bằng trực thăng cuối cùng trong đời anh.
Sau khi đã thuyết phục được người y tá đang lái máy bay rằng lúc này chẳng một ai trong toà thánh còn bụng dạ nào mà để ý đến các luật lệ và quy định về không phận, Langdon chỉ đường cho máy bay vào từ bức tường bao phía sau, rồi kín đáo hạ cánh xuống sân bay nhỏ của Vatican.
- Grazie(1) - Anh vừa nói vừa đau đớn lết xuống mặt đất. Người y tá gửi anh một cái hôn gió, rồi cất cánh, và chiếc trực thăng nhanh chóng biến mất sau bức tường cao, hoà vào bóng đêm.
Hít thở thật sâu, Langdon cố suy nghĩ một cách mạch lạc, hi vọng những việc làm sắp tới của anh sẽ mang lại kết quả. Tay cầm chiếc máy quay nhỏ, anh trông thấy đúng chiếc xe nhặt bóng mà anh đã dùng lúc trước. Chưa ai sạc lại điện cho chiếc xe, và đồng hồ nhiên liệu đã chỉ gần đến số không. Để tiết kiệm điện, anh cho xe chạy mà không bật đèn.
Vả lại Langdon cũng không muốn bất kỳ ai trông thấy mình.
Đứng ở cuối đại sảnh trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Mortati sững sờ trước sự huyên náo đang diễn ra trước mắt.
- Đúng là phép màu nhiệm! - Một vị Hồng y nói lớn. - Đúng là phép màu của Chúa!
- Đúng thế. Một vị khác tán đồng. - Chúa đã tỏ rõ ý nguyện của Người!
- Giáo chủ Thị thần sẽ là Giáo hoàng mới! - Một vị Hồng y khác hô lớn. - Giáo chủ Thị thần chưa phải là Hồng y, nhưng ý nguyện của Chúa thì đã quá rõ ràng rồi!
- Đúng thế đấy! - Một vị khác nữa tán thường. - Các luật lệ về Mật nghị Hồng y chẳng qua cũng do con người lập ra. Ý Chúa đã quá rõ ràng rồi. Tôi đề nghị bỏ phiếu ngay lập tức!
- Bỏ phiếu à? - Hồng y Mortati chất vấn, đức cha tiến lên phía trước. - Đấy là việc của tôi chứ.
Toàn bộ Hồng y đoàn quay lại nhìn.
Hồng y Mortati biết tất cả mọi người đang nhìn mình với ánh mắt dò xét. Cảm thấy bị xúc phạm bởi thái độ điềm tĩnh của đức cha, họ tỏ ra xa cách và ngờ vực. Thực ra chính Hồng y Mortati cũng rất muốn được cảm thấy hoàn hỉ như họ. Nhưng điều đó là không thể. Đức cha cảm nhận một nỗi đau trong tim, một nỗi đau không ngôn từ nào có thể diễn tả nổi. Đã thề sẽ điều hành cuộc bỏ phiếu này với một tâm hồn thuần khiết, nên ngài không thể bỏ qua cảm giác băn khoăn lúc này đang hiện diện trong tâm trí mình.
- Thưa các vị. - Hồng y Mortati vừa bước lên bục vừa nói, giọng nói của ngài bỗng trở nên khác lạ - Tôi e rằng những gì xảy ra đêm nay sẽ khiến tôi băn khoăn cho đến tận lúc nhắm mắt xuôi tay. Tuy nhiên, những gì các ngài đề xuất về Giáo chủ Thị thần thì… sợ rằng đó chưa hẳn đã là ý Chúa đâu.
Nhà nguyện bỗng dưng lặng phắc.
- Làm sao ngài lại có thể nói thế được cơ chứ? - Cuối cùng, một vị Hồng y cũng lên tiếng. - Giáo chủ Thị thần đã cứu nguy cho giáo hội. Chúa đã trực tiếp truyền thánh ý cho ngài! Ngài lại còn thoát chết trong tình huống vô cùng đặc biệt nữa chứ! Phải thế nào thì thông điệp ấy mới được coi là rõ ràng?
- Giáo chủ Thị thần sẽ tới đây để gặp chúng ta ngay bây giờ. - Hồng y Mortati đáp. - Đề nghị các vị hãy kiên nhẫn. Chúng ta hãy nghe Giáo chủ Thị thần giải thích trước khi tiến hành bỏ phiếu.
- Rất có thể còn những điều mà chúng ta chưa biết hết.
- Có gì cần phải giải thích nữa đây?
- Với tư cách là người điều hành Mật nghị Hồng y , tôi đã thề sẽ tuân theo luật bầu cử của giáo hội. Tất cả các vị đều biết rằng theo luật thánh thì Giáo chủ Thị thần không đủ điều kiện để trở thành Giáo hoàng. Ngài chưa phải là Hồng y, mà mới chỉ là một thầy tu một viên Thị thần. Tuổi tác của ngài cũng là một vấn đề cần phải tính đến.
Những ánh mắt hướng lên bục bắt đầu tỏ vẻ không tán đồng.
- Nếu vẫn quyết định tiến hành bỏ phiếu thì tôi xin nói rằng các vị đang chọn người không đáp ứng đủ những điều kiện của luật thánh. Cho nên tôi sẽ phải yêu cầu từng người trong các vị phá vỡ lời nguyện thiêng trước Chúa.
Một vị Hồng y ngập ngừng lên tiếng:
- Nhưng những gì vừa xảy ra tối nay rõ ràng là đã vượt quá tất cả những tình huống được tiên lượng trong luật thánh!
- Thật thế sao? - Hồng y Mortati chất vấn một cách gay gắt, tự ngài cũng không thể hiểu nổi tại sao những lời ấy lại được phát ra từ đôi môi của chính mình. - Liệu bỏ qua luật thánh có phải là hành động theo ý Chúa hay không? Từ bỏ lý trí để hành động theo cảm tính có phải là ý Chúa hay không?
- Nhưng chẳng lẽ ngài không trông thấy những gì mà tất cả chúng tôi vừa chứng kiến hay sao? - Một vị Hồng y khác lên tiếng, đầy vẻ bực bội. - Làm sao ngài có thể nghi ngờ quyền năng của Chúa?
Giọng nói của Hồng y Mortati trầm hẳn xuống, nhưng từng lời nói của ngài âm vang một cách khác thường:
- Tôi không nghi ngờ quyền năng của Chúa! Chính nhờ có Chúa nên chúng ta mới có lý trí và sự cẩn trọng! Và chỉ bằng cách duy trì sự cẩn trọng ấy thì chúng ta mới có thể phụng sự Người!

Chú thích:
(1) Grazie: Cảm ơn.
Vittoria Vetra đang ngồi trên một cái ghế băng ngoài hành lang của nhà nguyện Sistine, dưới chân cầu thang Hoàng gia. Đầu óc cô gái lúc này đã trở nên mụ mị. Thấy bóng người hiện ra ở phía cửa sau, Vittoria tưởng đó là một hồn ma vừa hiện hình.
Đầu quấn băng, chân bước khập khiễng, và khoác trên người một bộ quần áo của bệnh viện.
Cô gái đứng bật dậy… không dám tin vào mắt mình.
- Anh Ro… bert?
Nhưng Langdon không trả lời, chỉ vội bước đến bên, rồi ôm ghì lấy Vittoria trong vòng tay của mình. Rồi đôi môi anh áp chặt vào môi cô gái, đầy thôi thúc, đầy khát khao và biết ơn.
Nước mắt Vittoria chảy giàn giụa.
- Ôi, lạy Chúa, xin tạ ơn Người…
Anh lại ghì chặt lấy Vittoria rồi hôn cô, đắm đuối, khát khao. Hai cơ thể quyện chặt vào nhau, như thể đã thuộc về nhau từ lâu lắm rồi.
Cô gái quên hết những đau buồn, lo lắng chất chứa trong tim. Nhắm mắt lại, Vittoria thấy mình bồng bềnh trong hạnh phúc.
***
- Đó chính là ý Chúa! - Một vị Hồng y lớn giọng, tiếng thét ấy vang vọng khắp nhà nguyện Sistine. - Ngoài người được chọn lựa thì ai có thể nghe được thánh ý và sống sót được sau một vụ nổ kinh hoàng như thế?
- Người đó chính là tôi dây. - Một giọng nói khác vang lên từ phía sau.
Cũng như tất cả các vị Hồng y khác, Hồng y Mortati ngạc nhiên quay lại nhìn người đàn ông trong bộ dạng nhếch nhác đang bước đi giữa hai hàng ghế.
- Ông… Langdon đấy ư?
Không nói thêm một lời, Langdon tiến lên phía trước. Cả Vittoria Vetra cũng bước theo. Rồi hai người lính gác hối hả mang một chiếc ti-vi vào trong phòng. Đợi cho họ kê chiếc máy vào đúng vị trí, cắm phích điện xong xuôi, Langdon ra hiệu bảo họ ra ngoài. Hai người lính làm theo, rồi đóng cửa lại.
Trong nhà nguyện chỉ còn lại Langdon, Vittoria và Hồng y đoàn. Langdon kết nối chiếc máy ghi hình nhỏ xíu với màn hình ti-vi và nhấn nút.
Màn hình bật sáng.
Trên màn hình ti-vi hiện lên quang cảnh bên trong phòng làm việc của Giáo hoàng. Những thước phim được quay một cách vụng về, có lẽ bằng máy quay tự động bí mật. Ở một góc màn hình, Giáo chủ Thị thần đang đứng bên lò sưởi, trong ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn lửa. Thoạt đầu tưởng như vị thầy tu trẻ tuổi này đang hướng vào máy quay mà nói, rồi mọi người nhanh chóng nhận ra rằng còn có một người nữa trong phòng, người đang bí mật ghi lại đoạn băng này. Langdon giải thích với Hồng y đoàn rằng đây là những thước phim của Maximilian Kohler, giám đốc của CERN. Trước đó một giờ đồng hồ, Kohler đã ghi lại đoạn băng này bằng chiếc máy quay nhỏ xíu gắn dưới tay vịn xe lăn của ông tà.
Hồng y Mortati và toàn bộ Hồng y đoàn ngỡ ngàng. Đã qua mất phần đầu tiên của cuộc hội thoại, nhưng Langdon thấy không cần phải tua lại làm gì. Những gì anh muốn thông báo với Hồng y đoàn nằm ở đoạn sau…
***
- Leonardo Vetra viết nhật ký à? - Giáo chủ Thị thần hỏi. - Đây là tin tốt lành đối với CERN rồi. Nếu trong nhật ký có thông tin về cách tạo ra phản vật chất thì…
- Không hề có. - Kohler đáp. - Chắc cha sẽ rất hài lòng khi biết rằng công thức tạo ra phản vật chất đã bị huỷ diệt cùng với Leonardo. Nhưng trong nhật ký lại có những thông tin khác. Thông tin về cha.
Giáo chủ Thị thần có vẻ lo lắng:
- Ta không hiểu.
- Trong cuốn nhật ký có đoạn nói về cuộc gặp mặt giữa cha và Leonardo tháng trước.
Giáo chủ Thị thần do dự, rồi nhìn ra phía cửa. Đáng ra Rocher không nên tự ý cho ông vào đây mà không xin phép ta. Làm sao ông vào được tận đây ?
- Rocher đã biết sự thật. Hôm nay tôi đã điện cho ông ta và nói hết những gì cha đã làm.
- Ta đã làm gì nào? Dù ông có nói gì đi nữa thì Rocher cũng vẫn là một lính gác Thuỵ Sĩ, và người mà ông ta anh tưởng sẽ là một người của toà thánh chứ không phải là một nhà khoa học vốn cay độc chua chát như ông.
- Thực ra thì lòng tin của Rocher vững chắc đến nỗi ông ta nhất định không chịu nghi ngờ. Ông ta tin những người lính gác Thuỵ Sĩ của mình, cho nên bất chấp những bằng chứng hiển nhiên, Rocher vẫn không chịu tin là có người phản bội. Và anh ta đã dành trọn ngày hôm nay để tin một lời giải thích khác.
- Và ông đã cho ông ta lời giải thích đó?
- Sự thật. Dù đó là một sự thật phũ phàng.
- Nếu Rocher tin ông thì ông ta đã bắt giam tôi rồi.
- Không. Tôi không cho phép ông ta làm thế. Để có cuộc gặp này, tôi đã hứa với ông ta là sẽ giữ im lặng.
Giáo chủ Thị thần cười gằn:
- Ông định dùng một câu chuyện hoang đường để tống tiền toà thánh hay sao?
- Tôi không cần phải tống tiền. Tôi chỉ muốn nghe sự thật từ chính miệng của cha: "Tôi quan tâm đến Leonardo, một người bạn".
Giáo chủ Thị thần không nói gì, chỉ chằm chằm nhìn Kohler.
- Cha nghe đây. - Kohler lên tiếng - Cách đây khoảng một tháng, Leonardo Vetra đã liên hệ với cha để xin gặp Giáo hoàng, cha đã chấp thuận lời thỉnh cầu ấy vì Giáo hoàng vốn rất ngưỡng mộ các công trình nghiên cứu của Leonardo, và vì Leonardo nói rằng việc này vô cùng cấp bách.
Giáo chủ Thị thần quay sang nhìn ngọn lửa, không nói gì.
- Leonardo đã bí mật đến Vatican. Ông ta đã phản bội lời thế với cô con gái nuôi của mình. và điều này khiến Leonardo vô cùng áy náy, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác. Quá băn khoăn về công trình của bản thân mình, ông ta muốn tìm sự trợ giúp về mặt tâm linh từ phía giáo hội. Trong một cuộc gặp bí mật, Leonardo đã nói cho cha và Giáo hoàng nghe về phát kiến khoa học mang đậm chất tôn giáo của mình. Leonardo đã chứng minh được rằng từ góc độ vật lý, Genesis(1) hoàn toàn có cơ sở, rằng với một nguồn năng lượng cực lớn - cái mà Vetra gọi là Chúa trời - người ta có thể mô phỏng phút ban đầu của Tạo hoá.
Im lặng.
- Giáo hoàng rất kinh ngạc, - Kohler nói tiếp - Người muốn Leonardo công bố phát kiến đó. Giáo hoàng cho rằng phát kiến này sẽ là nhịp cầu đầu tiên gắn kết khoa học với tôn giáo - điều mà Người hằng mơ ước. Sau đó Leonardo giải thích mặt trái của phát kiến này - cũng là lý do khiến ông ta muốn tham vấn giáo hội. Dường như những thử nghiệm của Leonardo đã khẳng định những gì được tiên đoán trong kinh thánh - Chúa tạo ra mọi thứ theo cặp đôi, đối nghịch nhau. Ánh sáng và bóng tối. Đồng thời với việc tạo ra vật chất, Leonardo đã tạo ra được phản vật chất . Tôi có nên nói tiếp không đây?
Giáo chủ Thị thần lặng thinh không nói gì, chỉ cúi xuống cời than trong lò sưởi.
Sau khi Leonardo đến toà thánh, chính cha đã đích thân đến CERN để tận mắt chứng kiến phát kiến đó. Trong nhật ký của mình, Leonardo ghi rằng cha đã thân chinh vào tận trong phòng thí nghiệm.
Giáo chủ Thị thần ngẩng lên nhìn.
Kohler nói tiếp:
- Nếu Giáo hoàng đích thân đến đó thì sẽ khiến cho báo giới chú ý, nên cha đã đi thay. Leonardo đã bí mật đưa cha vào trong phòng thí nghiệm, rồi cho cha xem thứ một vụ nổ mẫu "Big Bang"(2) sức mạnh của tạo hoá. Ông ta cũng cho cha xem một mẫu phản vật chất được lưu giữ trong hộp, để chứng minh rằng phản vật chất có thể được tạo ra với khối lượng lớn.
- Cha đã tỏ ra đầy kinh sợ. Sau đó cha quay về Vatican để báo cáo lại với Giáo hoàng.
Giáo chủ Thị thần thở dài:
- Đó chính là điều khiến ông phải băn khoăn đấy à? Rằng ta đã biết hết về phản vật chất, vậy mà để bảo vệ bí mật của Leonardo, ta vẫn làm bộ làm tịch trước toàn thế giới rằng chưa hề biết gì, có đúng thế không?
- Không hề! Tôi băn khoăn là vì Leonardo đã chứng minh được sự tồn tại của đức Chúa, thế mà cha lại sát hại ông ta!
Lúc này Giáo chủ Thị thần quay lại nhìn Kohler, vẻ mặt lạnh lùng.
Âm thanh duy nhất trong căn phòng chỉ là tiếng lửa lép bép trong lò.
Bất thần chiếc máy quay bị giật mạnh, cánh tay của Kohler hiện lên trong khung hình. Ông ta nhoài người về phía trước, hình như đang cố lôi ra một vật được giấu dưới gầm ghế. Khi ông ta ngồi thẳng dậy, một khẩu súng hiện ra. Cảnh tượng nhìn từ góc đặt máy quay thật ghê rợn… nhìn từ phía sau… dọc theo chiều dài của nòng súng… đang chĩa thẳng vào ngực Giáo chủ Thị thần.
Kohler nói:
- Cha hãy thú tội đi, ngay lúc này!
Giáo chủ Thị thần giật mình:
- Ông sẽ không thể toàn mạng ra khỏi nơi này.
- Cái chết là sự giải thoát khỏi những thống khổ mà đức tin của cha đã mang lại cho tôi từ khi còn thơ bé. - Lúc này Kohler dùng cả hai tay để nâng súng lên. - Tôi cho cha được chọn. Hoặc là thú tội ngay lập tức… hoặc là chết.
Giáo chủ Thị thần liếc ra cửa.
- Rocher đang ở ngay ngoài kia kìa. - Kohler thách thức. - Ông ta cũng muốn vào giết cha lắm đấy.
- Rocher đã thề sẽ bảo vệ…
- Rocher đã cho phép tôi vào đây. Mang theo vũ khí. Ông ta đến phát ốm vì những trò dối trá của cha. Cha chỉ có một lựa chọn duy nhất mà thôi. Thú tội đi. Tôi muốn nghe những lời đó từ chính miệng của cha.
Giáo chủ Thị thần lưỡng lự.
Kohler lên cò súng:
- Cha không tin à? Tôi làm thật đấy.
Giáo chủ Thị thần cất lời:
- Dù ta có nói gì đi nữa thì những người như ông sẽ không bao giờ hiểu nổi.
- Cứ thử xem đã.
Giáo chủ Thị thần đứng yên lặng giây lát, bóng vị thầy tu trẻ đồ dài trên nền nhà. Khi ngài nói, những lời thú tội được phát ngôn với vẻ oai nghi, hào sảng như thể một vị thánh đang kể lại những kỳ tích của mình.
- Kể từ thuở ban đầu của lịch sử, giáo hội đã phải dấu tranh chống lại biết bao thế lực thù địch. Đôi khi bằng lời lẽ, đôi khi bằng gươm giáo. Và chưa một lần thất bại.
Giáo chủ Thị thần tỏ ra đầy tự tin.
- Nhưng những bóng ma của quá khứ, - ngài nói tiếp, - những thế lực đáng ghê tởm và tàn ác… là những kẻ thù mà giáo hội có thể chống lại - vì chúng khiến cho nhân loại ghê sợ. Nhưng quỷ Sa-tăng thật là nham hiểm. Theo thời gian, hắn đã vứt bỏ bộ dạng đáng ghê tởm xa xưa để khoác lên mình một diện mạo mới… diện mạo của lý trí thuần khiết. Một thứ lý trí thuần khiết, không vẩn đục, nhưng cũng đầy quỷ quyệt. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần bỗng chốc trở nên đầy phẫn nộ - Hãy nói ta nghe xem nào, ông Kohler! Làm sao nhà thờ có thể lên tiếng chỉ trích thứ đã mang lại ánh sáng trí tuệ cho chúng ta? Làm sao nhà thờ có thể bài xích cái đã trở thành nền tảng của văn minh nhân loại? Mỗi lần chúng ta cất lời cảnh báo thì các người phản bác ngay lập tức và buộc tội chúng ta là ngu dốt, là hoang tường, là áp đặt? Và thế là quỷ Sa-tăng cứ tiếp tục lộng hành. Và cái xấu cứ tiếp tục lan tràn, dưới lớp vỏ lý trí. Nó lan nhanh chẳng khác nào khối u ác tính, và được tôn vinh bởi những thành tựu khoa học kỹ thuật mới. Tự tôn sùng đối với chính bản thân nó! Cho đến khi tất thảy mọi người đã hết hẳn nghi ngờ, đã tin rằng nó chính là cái tốt. Khoa học đã giải thoát loài người khỏi bệnh tật, đói kém, và đau đớn! Hãy nhìn xem, khoa học chính là vị Chúa mới với vô vàn những phép màu, với quyền năng vô hạn, và đầy thiện tâm! Người ta quên đi những loại vũ khí huỷ diệt và những hỗn loạn. Quên cả những nỗi cô đơn, và những hiểm hoạ khôn lường. Khoa học là thế đấy! - Giáo chủ Thị thần bước đến bên họng súng - Nhưng ta đã nhận ra chân tướng của quỷ Sa-iăng… và ta đã thấy những hiểm hoạ đang rình rập…
- Cha nói lảm nhảm cái gì thế? Công trình khoa học của Vetra đã chứng minh được sự tồn tại của vị Chúa mà vốn dĩ cha vẫn tôn thờ đấy thôi! Ông ta là đồng minh của cha đấy chứ!
- Đống minh cái gì! Khoa học và tôn giáo làm sao có thể là đồng minh được! Các người đâu có đi tìm cùng một đức Chúa như chúng ta! Chúa của các người là ai? Một proton , khối lượng hay một hạt mang điện tích? Chúa của các ông có khả năng khơi dậy thứ tình cảm nào? Làm sao Chúa của các ông có thể đánh thức trái tim con người, để nhắc cho họ nhớ rằng họ phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình trước đấng quyền năng tối thượng? Rằng họ phải chịu trách nhiệm về đồng loại của họ? Vetra nhầm to! Công trình của ông ta chẳng hề tôn vinh Chúa, đó chính là hành động báng bổ thánh thần ! Không một ai được phép đem sự sáng tạo của Chúa vào làm thí nghiệm trong một cái ống rồi sau đó mang ra phô trương trước cả thế giới! Thế mà gọi là tôn vinh Chúa được sao? Thế là báng bổ Chúa ! - Toàn thân Giáo chủ Thị thần lúc này co quắp lại, những lời nói của ngài trở nên vô cùng điên dại.
- Và đó là lý do khiến cha cho người sát hại Leonardo!
- Vị lợi ích của giáo hội, vì lợi ích của toàn nhân loại! Công trình ấy quá điên loạn! Nhân loại chưa sẵn sàng sở hữu sức mạnh của Chúa. Chúa trong ống nghiệm ư? Một giọt chất lỏng có khả năng san phẳng cả một thành phố ư? Phải chặn ngay ông ta lại! - Giáo chủ Thị thần đột nhiên im lặng, rồi quay sang nhìn lò sưởi, như thể đang đắn đo điều gì.
Hai tay Kohler giương cao khẩu súng:
- Thế là cha đã nhận hết mọi tội lỗi. Cha không có đường thoát nữa rồi.
Giáo chủ Thị thần cười buồn:
- Ông không nhận thấy sao Kohler? Thú nhận tội lỗi chính là được giải thoát. - Vị thầy tu trẻ nhìn ra phía cửa - Một khi đã được Chúa chấp thuận, người ta được quyền làm những điều mà một người bình thường không bao giờ hiểu được.
Vừa dứt lời, Giáo chủ Thị thần bất thình lình xé toang chiếc áo thầy tu đang mặc trên người, để lộ ra bộ ngực trần.
Kohler giật nảy mình:
- Cha làm cái gì thế?
Giáo chủ Thị thần không đáp lời, chỉ lẳng lặng bước tới bên lò sưởi rồi lôi ra từ trong lò lửa một vật gì đó.
- Dừng lại ngay! - Kohler ra lệnh, tay giương cao khẩu súng.
- Cha định làm gì thế?
Giáo chủ Thị thần quay mặt lại phía máy quay, trên tay cầm một con dấu đỏ rực. Viên kim cương Illuminati . Đôi mắt vị thầy tu bỗng ánh lên hoang dại, còn giọng nói thì rít lên man dã:
- Lúc đầu ta định làm việc này một mình. Nhưng bây giờ thì… rõ ràng sự có mặt của ông ở đây cũng là ý Chúa. Ông chính là sự giải thoát của ta.
Kohler chưa kịp phản ứng thì Giáo chủ Thị thần đã nhắm nghiền mắt lại, lưng ưỡn ra, rồi giáng thẳng con dấu nóng đỏ vào chính giữa ngực. d.a thịt cháy xèo xèo.
- Lạy đức mẹ đồng trinh Mary! Xin người hãy chứng giám cho con! - Giáo chủ Thị thần kêu thét lên đầy đau đớn.
Lúc này Kohler xuất hiện trong khung hình… lóng ngóng đứng trên đôi chân tật nguyền của mình, đôi tay đang cầm súng run lên bần bật.
Giáo chủ Thị thần tiếp tục thét lớn, tay liệng con dấu về phía Kohler. Hai chân loạng choạng, vị thầy tu ngã vật xuống sàn, quằn quại trong đau đớn.
Sau đó là sự hỗn loạn.
Khung cảnh trở nên vô cùng hỗn loạn khi những người lính gác Thuỵ Sĩ chạy vào phòng. Tiếng súng vang lên. Kohler ôm lấy ngực, ngã vật xuống xe lăn, máu me đầm đìa.
- Không! - Rocher thét lên, tay giơ ra định ngăn không cho người lính tiếp tục bắn thêm vào Kohler.
Đang quằn quại trong đau đớn, Giáo chủ Thị thần quay lại, cuống cuồng chỉ tay vào mặt Rocher:
- Illuminati!
- Đồ khốn kiếp! - Rocher gầm lên, chạy lại phía Giáo chủ Thị thần. - Chính ông mới là đồ giả dối…
Chartrand hạ gục Rocher ngay lập tức bằng ba phát đạn. Viên chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ ngã vật xuống, chết ngay lập tức.
Rồi những người lính chạy lại, xúm quanh Giáo chủ Thị thần đang bị thương. Trong lúc đó, trên khung hình hiện lên khuôn mặt của Robert Langdon, đầy vẻ ngỡ ngàng, đang quỳ xuống bên chiếc xe lăn, chăm chú nhìn con dấu bằng sắt. Sau đó toàn bộ khung hình chao đảo dữ dội. Kohler đã hồi tỉnh lại, và đang ra sức giằng chiếc máy ghi hình ra khỏi tay vịn xe lăn, rồi đưa cho Langdon.
- Đ... đưa… - Ông ta hổn hển - đ... đưa cho báo giới.
Rồi màn hình chỉ còn một màu trắng xoá.

Chú thích:
(1) Genesis: Một thuyết của người Do Thái cho rằng Chúa đã sáng tạo ra vũ trụ trong vòng 7 ngày. Ngày đầu Ngài tạo ra mặt đất và thiên đàng, ngày thứ hai Ngài tạo ra ngày và đêm, sau đó lần lượt là nước và đất các loài sinh vật biển, các loài thú trên mặt đất, rồi vào ngày thứ sáu Ngài tạo ra loài Người.
(2) Big Bang: Một giả thuyết cho rằng vũ trụ ngày nay hình thành từ một vụ nổ lớn. Nhiều nhà thiên văn học cho rằng các thiên hà, các vì sao, và tất cả các hãnh tinh ngây nay đều là những mảnh vụn văng ra từ một khối vật chất ban đầu có mật độ cực lớn.
 
×
Quay lại
Top